Việt Nam là quốc gia có lịch sử, văn hóa lâu đời, nằm ở trung tâm của Đông Nam Á, ngã ba đường giao thương quốc tế. Trong quá trình tồn tại của mình cũng như tất cả các quốc gia khác, việc trao đổi, buôn bán hàng hóa luôn là yếu tố sống còn của một quốc gia. Chính vì vậy mà tiền tệ đã sớm hình thành, tồn tại và phát triển cùng với sự phát triển của lịch sử dân tộc. Và có thể nói, lịch sử phát triển tiền tệ của Việt Nam đã trải qua nhiều bước thăng trầm.
1. Sơ lược về tiền tệ Việt Nam
Ở buổi bình minh của lịch sử dân tộc, trong nền kinh tế tự cấp tự túc thì vật ngang giá như tiền chưa xuất hiện. Nhưng ở giai đoạn cuối khi mà đã có sự phân hóa giàu nghèo thì đã có sự xuất hiện một số vật có sự trao đổi tương đối cố định và trở thành vật trung gian trao đổi hàng hóa thay cho việc trao đổi trực tiếp đồ vật. Những vật này tuy chưa phải là tiền tệ nhưng cũng đảm đương vai trò của tiền tệ.
Thời kỳ Bắc thuộc, việc trao đổi mua bán hàng hóa được thực hiện bằng việc lưu hành những đồng tiền kim loại của các triều đại phong kiến Trung Quốc. Bước vào thời kỳ phong kiến độc lập tự chủ, các triều đại phong kiến Đại Việt cho đúc ra những loại tiền kim loại để lưu hành thì lịch sử tiền tệ của Việt Nam thực sự bước sang một trang mới. Cho đến nay, lịch sử ghi nhận đồng tiền đầu tiên của người Việt là đồng “Thái Bình Hưng Bảo” do vua Đinh Tiên Hoàng đúc năm 970. Cũng từ đây, trải qua các triều đại lịch sử tuy có những lúc thăng trầm khác nhau, nhưng việc đúc tiền để đánh dấu sự trị vì và uy quyền của từng triều đại không hề gián đoạn. Trong các triều đại phong kiến, mỗi vị vua lên ngôi đều cho đúc ra những loại tiền mang niên hiệu của triều đại đó để tiêu dùng. Mỗi vị vua đều có một niên hiệu hoặc nhiều niên hiệu khác nhau. Chính vì vậy mà mỗi đồng tiền đều biết được niên đại tuyệt đối trong khoảng thời gian mà đồng tiền đó được lưu hành.
Đồng tiền từ khi ra đời đã có nhiều ma lực. Nó có ảnh hưởng tới đời sống của mọi người, len lỏi vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Tiền tệ nhằm phục vụ nhu cầu trao đổi hàng hóa, nhưng bản thân nó cũng còn mang nhiều mục đích, phát huy nhiều công năng sử dụng khác nhau. Từ thời Lê tiền không chỉ là phương tiện trao đổi mà còn là vật ban thưởng của vua cho người có công, người có thành tích đóng góp cho vương triều và xã hội. Tuy cũng là tiền nhưng không được dùng để mua bán mà trở thành một loại huy chương dùng để ban thưởng. Sang thời Nguyễn, bên cạnh tiền đồng còn lưu hành các loại đĩnh bạc.
Điểm đặc biệt trong sự phát triển của tiền tệ thời quân chủ đó là sự xuất hiện của loại hình tiền giấy. Cuối thế kỷ XIV, đời vua Trần Thuận Tông (1390-1398), Hồ Quý Ly nắm quyền thao túng triều chính, ông cho ban hành tiền giấy “Thông bảo hội sao” vào tháng 4 năm 1396. “Tháng 4 bắt đầu phát Thông bảo hội sao. In xong, ra lệnh cho người đổi, cứ 1 quan tiền đồng đổi lấy 1 quan 2 tiền giấy” [Viện Khoa học xã hội Việt Nam 1993: 189]. Về thể thức tiền giấy được quy định như sau: tờ 10 đồng vẽ rồng, tờ 30 đồng vẽ sóng, tờ 1 tiền vẽ mây, tờ 2 tiền vẽ rùa, tờ 3 tiền vẽ lân, tờ 5 tiền vẽ phượng, tờ 1 quan vẽ rồng [Viện khoa học xã hội Việt Nam 1993: 189]. Mục đích phát hành tiền giấy lúc này là để thu lại tiền đồng nhằm thu gom kim loại phục vụ cho việc đúc vũ khí của triều đình. Mặt khác, thông qua việc phát hành tiền giấy, Hồ Quý Ly còn thể hiện mong muốn cải cách tiền tệ, mở đường cho việc cải cách đất nước về mọi mặt. Chính vì vậy “Cấm tuyệt tiền đồng, không được chứa lén, tiêu vụng, tất cả thu hết về kho Ngao Trì ở kinh thành và trị sở các xứ. Kẻ nào vi phạm cũng bị trị tột như làm tiền giả” [Viện Khoa học Xã hội Việt Nam 1993: 189], kẻ nào phạm tội sẽ bị xử tội chết, tài sản, ruộng đất bị tịch thu. Sang thời Hồ, chính sách tiền tệ này vẫn tiếp tục được Hồ Quý Ly và Hồ Hán Thương thực hiện.
Năm 1858, sự kiện thực dân Pháp xâm lược Việt Nam đã tạo ra một bước ngoặt trong lịch sử tiền tệ Việt Nam. Đồng tiền kẽm dần được thay thế bằng đồng bạc, tiền giấy cũng ra đời sử dụng song hành với tiền đồng của nhà Nguyễn. Năm 1875, Ngân hàng Đông Dương của tư bản Pháp xuất hiện và chi phối nền kinh tế của xứ Đông Dương. Họ độc quyền phát hành giấy bạc và quản lý tiền tệ.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời đánh dấu một kỷ nguyên mới trong tiến trình lịch sử dân tộc. Ngay từ những ngày đầu, Chính phủ đã lập ra Cơ quan Ấn loát thuộc Bộ Tài chính với nhiệm vụ sản xuất tiền Việt Nam để lưu hành. Ngày 01/12/1945 tại Viễn Đông Bác cổ, đồng tiền xu hai hào đầu tiên của nước Việt Nam độc lập đã ra đời. Hình ảnh chủ tịch Hồ Chí Minh được thể hiện ở mặt phải của các loại đồng bạc. Trong thời gian kháng chiến, tiền tệ lưu hành ở Việt Nam cũng có những biến động phức tạp nhưng vẫn luôn nối tiếp không ngừng. Đặc biệt trong khoảng thời gian chống Mỹ, tiền không chỉ là công cụ phát triển kinh tế mà còn là bức tranh tuyên truyền giáo dục, cổ động cho lao động sản xuất chống giặc ngoại xâm.
Sau khi đất nước thồng nhất, ngày 25/4/1978, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chính thức phát hành hệ thống tiền tệmang quốc hiệu nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam để thống nhất tiền tệ chung cho cả nước. Đây là đồng tiền đầu tiên sau bao chiến tranh chia cắt được phát hành thống nhất trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Việc thống nhất tiền tệ trong cả nước không chỉ nhằm củng cố sự thống nhất toàn vẹn của đất nước mà còn để tạo đà cho sự phát triển kinh tế xã hội cũng như cân bằng sự phát triển trên toàn lãnh thổ… Trong xu thế hội nhập thế giới, tiền và lưu thông tiền tệ ngày càng trở nên quan trọng để phát triển nền kinh tế quốc gia ngày càng trở nên giàu mạnh.
2. Quản lý và phát huy sưu tập tiền tại Thành phố Hồ Chí Minh
Thành phố Hồ Chí Minh là một đô thị lớn và hiện đại, trong dòng chảy hối hả của mình tiền tệ vẫn luôn chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống văn hóa tinh thần của người dân ở mảnh đất này.
Cũng như nhiều loại hình đồ cổ khác, tiền tệ cũng là một thú chơi có dòng chảy liên tục ở Thành phố Hồ Chí Minh. Khác với thú chơi đồ cổ bằng các chất liệu gốm, gỗ, kim loại, đá,… những người chơi chủ yếu sưu tầm những loại hình là đồ cổ, hoặc sản phẩm của những làng nghề truyền thống ngày xưa, những người đam mê sưu tập tiền tùy vào sở thích của mình mà có những mảng miếng riêng trong thú chơi tiền. Có người đam mê sưu tập những loại hình tiền kim loại cổ (hay còn gọi là tiền đồng, tiền xu). Họ quan niệm những đồng tiền được đúc bằng kim loại, hình tròn, có chữ và niên đại của tiền phải được đúc trước khi vua Bảo Đại thoái vị (đối với tiền Việt Nam). Hay nói chung là những loại hình tiền kim loại thời quân chủ ở Việt Nam và các nước. Và cũng có người lại rất đam mê với loại hình tiền giấy. Xét về lịch sử thì tiền giấy xuất hiện sớm ở Việt Nam như ở trên đã nói. Nhưng tờ tiền ấy chỉ còn được ghi chép trong sử liệu, hiện vật thật đến giờ không còn nữa. Loại tiền giấy được các nhà sưu tập quan tâm nhiều là loại hình tiền được phát hành sau khi thực dân Pháp cai trị 3 nước Đông Dương. Tờ tiền giấy đầu tiên được lưu thông ở Việt Nam là đồng Đông Dương mệnh giá 100 đồng bạc, được người Pháp phát hành và lưu thông trong thời gian từ năm 1885 đến năm 1954. Trên đó có in hình 3 thiếu nữ với trang phục truyền thống của 3 nước Lào, Campuchia và Việt Nam.
Trong nhóm sưu tập tiền giấy cũng có sự phân biệt, có người chuyên về tiền Pháp thuộc, có người chuyên về loại hình tiền do Chính phủ Việt Nam phát hành từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, cũng có người chuyên mảng tiền tiêu dùng ở Nam Bộ thời kỳ kháng chiến, ngay cả những loại tiền đang được lưu hành cũng được giới sưu tầm quan tâm. Thậm chí những đồng tiền làm giả cũng được sưu tầm như một sự đối chứng giữa tiền thật - giả, đây cũng là điểm thú vị và khác biệt so với những thú sưu tầm khác. Như vậy có thể thấy, thú chơi tiền không bó hẹp người chơi trong một giai đoạn lịch sử nhất định, mà cho phép người chơi tùy vào sở thích, khả năng tài chính và sự am hiểu của mình mà tạo lập những bộ sưu tập độc đáo.
Hệ thống bảo tàng công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh hiện gồm 7 bảo tàng trong đó có 3 bảo tàng hiện nay có bộ sưu tập tiền tệ Việt Nam từ thời quân chủ đến nay.
2.1. Bộ sưu tập tiền tại Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ
Tại bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ với nội dung trưng bày giới thiệu về lịch sử đấu tranh cách mạng và truyền thống văn hóa của phụ nữ miền Nam, cũng xây dựng một bộ sưu tập tiền tệ liên quan đến đời sống sinh hoạt của người dân khu vực Nam Bộ trong thời kỳ kháng chiến kiến quốc. Cụ thể bộ sưu tập tiền của bảo tàng bao gồm hơn 650 tờ tiền Bác Hồ Nam Bộ và tiền Đông Dương (Pháp) với các con dấu Ủy ban hành chính kháng chiến Nam Bộ của 23 tỉnh như Bến Tre, Vĩnh Long, Biên Hòa, Hà Tiên, Mỹ Tho… Có tờ bạc chỉ lưu hành trong một khu vực hạn chế của các tỉnh Long Châu Sa (Long Xuyên, Châu Đốc, Sa Đéc - địa danh ngày nay không còn trên bản đồ hành chính VN). Điểm độc đáo của bộ sưu tập này là những con dấu Ủy ban hành chính kháng chiến được sưu tầm rất công phu đến tận làng, xã. Chẳng hạn chỉ riêng tỉnh Bến Tre, có những tờ tiền được sắp xếp thống kê đến 50 con dấu Ủy ban hành chính kháng chiến quận, thị xã, công an làng, xã hoặc cùng một tờ tiền có đến 3 con dấu Ủy ban hành chính kháng chiến của 3 địa phương cùng những khẩu hiệu chống Pháp, ủng hộ Hồ Chí Minh. Điều đó chứng minh cho tấm lòng của nhân dân đối với cách mạng và Bác Hồ, đồng thời còn làm sáng tỏ nhiều vấn đề về một nền tiền tệ độc lập và tự chủ của Việt Nam giai đoạn 1947-1954 (Nguồn tư liệuBảo tàng Phụ nữ Nam Bộ). Trong đó có một đồng tiền rất độc đáo đó là đồng vàng được chủ tịch Hồ Chí Minh tặng cho bà Nguyễn Thị Thập khi bà đi công tác nước ngoài. Đây là một trong 200 đồng tiền vàng phát hành vào năm 1948, mệnh giá 20 đồng, mỗi đồng nặng 8,325gr dùng để trao tặng cho các bộ trưởng, một số cán bộ chủ chốt và là tặng phẩm ngoại giao của Nhà nước. Có thể nói đây là đồng tiền rất quý hiếm mà chỉ bảo tàng mới có.Nhưng do hạn chế về không gian trưng bày nên sưu tập tiền tại Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ được lưu giữ và bảo quản tại kho hiện vật của bảo tàng.
2.2. Bộ sưu tập tiền tại Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh
Tại Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh hiện cũng có bộ sưu tập tiền với những sưu tập rất quý hiếm như sưu tập tiền kim loại Việt Nam thời quân chủ, tiền kim loại Đông Dương, khuôn in và tiền giấy Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tiền giấy bạc của ngân hàng Đông Dương, tiền giấy của chế độ Sài Gòn cũ, tiền giấy của Ngân hàng quốc gia Việt Nam, tiền giấy của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Nguồn tư liệu Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh). Trong đó phải kể đến một số sưu tập quý như:
- Bộ sưu tập tiền thưởng, thoi bạc, tiền có mệnh giá lớn:
Với hơn 200 hiện vật là những hiện vật gốc, chất lượng rất tốt được phát hành dưới chế độ quân chủ chuyên chế trải dài hơn 3 thế kỷ, từ triều Lê Cảnh Hưng (1740 - 1786); Tây Sơn (Cảnh Thịnh 1793 - 1802); cho đến triều Nguyễn (1802 - 1819), Minh Mạng (1820 - 1840), Thiệu Trị (1841 - 1847), Tự Đức (1848 - 1884), Thành Thái (1889 - 1907), Khải Định (1916 - 1925), Bảo Đại (1926 - 1945).
Chất liệu dùng để đúc tiền ngoài hợp kim đồng còn có bạc và vàng. Bên cạnh đó để thuận lợi hơn trong việc trao đổi mua bán, Nhà nước cũng cho đúc những loại tiền có mệnh giá lớn. Nhâm Thân, Gia Long năm thứ 11 (1812) “Bắt đầu đúc bạc đĩnh 1 lạng”. Vua bảo bộ Hộ rằng: “Chế định tiền bạc là để giàu nguồn của và cho dân đủ dùng. Trước kia nhà nước đúc bạc trung bình, đĩnh 10 lạng ngang tiền 18 quan, gần đây đều đã thông dụng; nhưng đem bạc đổi tiền, hay đem tiền đổi bạc, thì đều dùng đĩnh 10 lạng làm hạn, nên khi số xuất nhập lẻ loi thì dùng không tiện. Vậy sai đúc thêm bạc đĩnh để ban hành”(Dùng bạc đủ tuổi hạng 1 lạng, sáu mặt đều có in dấu và chữ, mặt trên vân tròn, mặt dưới vân vuông, một mặt in bốn chữ “Gia Long niên tạo, một mặt in bốn chữ “Tinh ngân nhất lạng”, một mặt in ba chữ “Trung bình hiệu”, một mặt in sáu chữ “Trị tiền nhị quán bát mạch”” [Viện Khoa học Xã hội Việt Nam 2006: 849].
Từ thời Lê, Nhà nước đã cho đúc ra những đồng tiền dùng để ban thưởng cho những người có công với đất nước, với vương triều. Những đồng tiền thưởng này không dùng để giao thương, nhưng chúng được Nhà nước định giá cụ thể và nhất là nó mang tính biểu tượng rất cao, không phải ai cũng có thể có được đồng tiền thưởng này. Chúng là tiền nhưng không dùng để mua bán mà giá trị như một loại huân, huy chương. Loại tiền này rất phát triển dưới thời Nguyễn với nhiều mỹ hiệu khác nhau. Mặt tiền vẫn mang niên hiệu và loại tiền, nhưng lưng tiền có nhiều hoa văn khác nhau như linh vật hay những câu chúc chữ Hán 4 chữ hoặc 8 chữ. Có thể nói đây là sưu tập hiện vật rất quý, bởi vì nó cho thấy những công năng khác nhau của đồng tiền.
- Sưu tập tiền kẽm Đàng Trong niên đại từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX
Các bộ sưu tập tiền kẽm Đàng Trong từ thời Chúa Nguyễn có niên đại thế kỷ XVII, thời Tây Sơn (nửa cuối thế kỷ XVIII), đến triều Nguyễn thế kỷ XIX, và một số hiệu tiền Trung Quốc được đúc ở Đàng Trong. Đây là những bộ sưu tập tương đối đầy đủ, hiện vật gốc, đã qua sử dụng liên quan đến trao đổi giao thương kinh tế Sài Gòn – Gia Định – Nam Bộ xưa, đồng thời góp phần phản ánh kỹ thuật đúc tiền, sự phát triển kinh tế hàng hóa từ thế kỷ XVII cho đế nửa cuối thế kỷ XIX. Bộ sưu tập có giá trị về mặt văn hóa, lịch sử phát triển tiền tệ Việt Nam nói chung và tiền tệ Sài Gòn – Gia Định – Nam Bộ nói riêng.
Để khách tham quan có thể tiếp cận với sưu tập tiền, bảo tàng đã giành một không gian trưng bày cố định trong hệ thống trưng bày của Bảo tàng để giới thiệu bộ sưu tập. Không gian trưng bày tuy không thể khái quátđầy đủ quá trình phát triển của tiền tệ Việt Nam nhưng cũng cho thấy giai đoạn phát triển của tiền tệ, nhất là lịch sử phát triển của tiền tệ ở khu vực Nam Bộ.
2.3. Bộ sưu tập tiền tại Bảo tàng Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh
Ngoài bộ sưu tập của hai bảo tàng Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ và Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh đã kể trên, Bảo tàng Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh cũng có bộ sưu tập tiền khá phong phú. Với nội dung trưng bày về lịch sử văn hóa Việt Nam từ thời nguyên thủy đến hết chế độ quân chủ.Tiền tệ cũng là một trong những lĩnh vực mà bảo tàng chú trọng sưu tầm, trưng bày giới thiệu đến khách tham quan. Kể từ đồng tiền đầu tiên ra đời năm 970, trong mỗi giai đoạn lịch sử bảo tàng đều cố gắng trưng bày tiền của từng giai đoạn như một cách bổ sung tư liệu cho việc nghiên cứu và tìm hiểu về lịch sử văn hóa Việt Nam.
Trong những năm qua, bên cạnh trưng bày cố định bảo tàng còn sưu tầm thêm nhiều loại hình tiền tệ thời quân chủ bổ sung cho sưu tập tiền hiện có. Không chỉ những đồng tiền do Việt Nam đúc, mà cả những đồng tiền do Trung Quốc, Nhật Bản và các công ty Đông Ấn sử dụng tiêu dùng ở Đàng Trong cũng được bảo tàng quan tâm sưu tầm. Nguồn sưu tầm của bảo tàng chủ yếu từ việc mua lại của các nhà sưu tập và được hiến tặng.
Để cung cấp một cái nhìn khái quát nhất về lịch sử phát triển tiền tệ ở Việt Nam thì ngoài phần trưng bày cố định, vừa qua bảo tàng đã mở cuộc trưng bày chuyên đề “Lịch sử tiền tệ Việt Nam – Đồng tiền muôn mặt” (từ tháng 4 đến tháng 10 năm 2017). Bộ sưu tập được trưng bày với hai mảng chính là tiền kim loại và tiền giấy. Ở mảng tiền kim loại đã trưng bày gần như đầy đủ những đồng tiền từng xuất hiện trong lịch sử tiền tệ thời quân chủ. Ở thời kỳ này, mỗi vị vua lên ngôi đều cho đúc ra tiền mang niên hiệu của mình để tiêu tiêu dùng. Cũng có trường hợp một vị vua nhưng có nhiều niên hiệu khác nhau. Đặc biệt trong nhóm tiền kim loại này ngoài nhóm tiền do Nhà nước ban hành còn có những đồng tiền được đúc bởi các thế lực địa phương trong khoảng thời gian diễn ra những cuộc nội chiến. Những đồng tiền thưởng, tiền mệnh giá lớn cũng góp mặt trong cuộc trưng bày này. Có cả những đồng tiền bị đúc lỗi cũng được giới thiệu cho thấy giá trị của bộ sưu tập và sự đang dạng, muôn màu muôn vẻ của tiền tệ thời quân chủ. Ở mảng tiền giấy, ngoài tiền giấy thời Hồ Quý Ly hiện đã không còn thì cuộc trưng bày cũng đã khái quát một cách đầy đủ nhất những loại tiền giấy từng sử dụng ở Việt Nam. Từ những đồng tiền do Pháp phát hành ở ba nước Đông Dương cho đến những đồng tiền của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, của chính phủ Việt Nam Cộng hòa, Chính phủ lâm thời miền Nam Việt Nam, Chính phủ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam phát hành.
Trong đó có tiền tài chính Bắc - Trung - Nam: Sau Cách mạng tháng Tám, năm 1946 chính phủ Trung ương cho lưu hành đồng tiền “tài chính” còn gọi “giấy bạc cụ Hồ” để khẳng định chủ quyền, tài chính của Quốc gia độc lập, chấm dứt giai đoạn bị lệ thuộc vào đồng tiền Đông Dương của Pháp. Vì chiến tranh làm cho hệ thống giao thông bị gián đoạn, nên Chính phủ Trung ương cho phép Ủy ban Hành chính Trung Bộ được in tín phiếu để sử dụng tại chỗ. Ở miền Nam, Ủy ban Kháng chiến Hành chính các tỉnh được phép in loại phiếu tiếp tế, phiếu đổi chác hoặc giấy bạc để lưu hành nội tỉnh hoặc một số tỉnh. Đồng thời Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ cũng được phép phát hành loại giấy bạc Nam Bộ. Các loại hình tiền tệ này đều có giá trị kinh tế ngang nhau và được sử dụng song song trong các vùng giải phóng, vùng tạm chiếm, trở thành công cụ đấu tranh hữu hiệu trên mặt trận kinh tế, tài chính, góp phần xây dựng nền tài chính độc lập, tự chủ của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Tiền đóng dấu, đắp nền, xé đôi ở Nam Bộ: Quá trình phát hành và lưu thông tiền tệ thời chiến rất linh hoạt và sáng tạo. Để khẳng định sự hiện diện của Chính phủ Kháng chiến, Ủy ban Kháng chiến Hành chính ở các tỉnh Nam Bộ cho đóng dấu lên tờ tiền Đông Dương do Pháp phát hành - “tiền đóng dấu”, nhằm “Việt Nam hóa giấy bạc Đông Dương” làm tiền tệ phục vụ kháng chiến. Ngoài ra, giấy bạc Đông Dương đồng thời cũng được xé đôi để làm tăng số lượng tiền lẻ lưu hành, chống lại việc thu đổi tiền của Pháp. Với âm mưu lũng đoạn và hạ giá tiền kháng chiến, Pháp làm giả giấy bạc một trăm đồng (in tại Sài Gòn – Chợ Lớn) rồi bí mật đưa vào vùng giải phóng. Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã kịp thời vô hiệu hóa bằng cách dán phiếu kiểm soát giấy bạc thật và đóng dấu của Ủy ban Kháng chiến Hành chính lên tờ giấy bạc để người dân an tâm sử dụng, loại giấy bạc này còn gọi là “tiền đắp nền”.
Ngoài ra một số loại hình liên quan đến tiền cũng được giới thiệu như máy đếm tiền, thước đếm tiền,những văn bản mua bán, tem phiếu, sổ tiết kiệm,… Bên cạnh việc trưng bày hiện vật thì những câu chuyện liên quan đến hiện vật cũng được kể một cách khéo léo. Có thể nói đây là trưng bày khá toàn diện về lịch sử tiền tệ Việt Nam.
Điều đặc biệt là trưng bày chuyên đề này ngoài những hiện vật Bảo tàng hiện đang sở hữu, Bảo tàng cũng đã phối hợp với một số bảo tàng trong thành phố và các sưu tập tư nhân trong và ngoài thành phố. Đây là hình thức xã hội hóa hoạt động bảo tàng. Hiện vật bảo tàng dù có phong phú đến thế nào đi nữa cũng không thể khái quát hết được mọi mặt của dòng chảy lịch sử. Chính vì vậy, việc xã hội hóa hoạt động bảo tàng không chỉ giúp bảo tàng có được những cuộc trưng bày thêm đa dạng, phong phú mà thông qua đó thu hút, quảng bá những hoạt động bảo tàng đến với đông đảo nhân dân, nhằm nâng cao nhận thức của người dân về hoạt động bảo tàng nói riêng và hoạt động bảo tồn và phát huy di sản văn hóa nói chung. Trong cuộc trưng bày này, với sự chung tay của các sưu tập tư nhân đã có rất nhiều hiện vật quý hiếm được giới thiệu với khách tham quan. Đây là hướng đi mà bảo tàng cần phát huy hơn nữa để việc phát huy những di sản lịch sử văn hóa ngày càng hiệu quả hơn nữa.
Việc phát huy những sưu tập tiền không chỉ dừng lại ở các bảo tàng. Các nhà sưu tập tư nhân đã tận dụng sự phát triển của truyền thông, internet và các mạng xã hội để lập ra những hội nhóm những người có cùng chung sở thích sưu tập tiền. Rất nhiều đồng tiền quý hiếm đã được đưa ra giao lưu, trao đổi giúp người chơi thêm kiến thức về sở thích của mình.
Cũng từ đây một vấn đề cần được quan tâm đó là sự cần thiết xây dựng bảo tàng Tiền tệ Việt Nam làm nơi có thể trưng bày, giới thiệu đến khách tham quan cả trong và ngoài nước về lịch sử tiền tệ Việt Nam, những khía cạnh khác nhau của đồng tiền, nơi mà những người nghiên cứu có thể trau dồi thêm kiến thức cho mình, nơi những người đam mê sưu tầm học hỏi kiến thức, nơi có thể giám định được sự thật giả của đồng tiền. Bảo tàng này có thể trở thành đầu mối để quản lý các hội nhóm tự do hoạt động cho đúng với Luật Di sản Văn hóa cũng như luật pháp của Nhà nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, 2005, Tiền kim loại Việt Nam, Hà Nội.
- Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh, 2013, Sưu tập tiền Minh Mệnh trong Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh, NXB Hải Phòng.
- Eduard Kann, 1927, Tiền Việt Nam từ 1955 đến 1975. The Currencies of China –Shanghai.
- Lacroix Désiré, 1900, Tiền giấy có mệnh giá 1000 đồng do Pháp in năm 1951, nhưng chưa phát hành, Numismatique Annamite: Planches, Saigon: Imp.Ménard & Legros.
- Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, 1993, Đại Việt sử ký toàn thư, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
- Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Viện Sử học 2006, Đại Nam Thực Lục, NXB Giáo dục, Hà Nội.
Nguồn: Sách “Quản lý và khai thác di sản văn hóa trong thời kỳ hội nhập”