1. Giới thiệu chung về sưu tập hiện vật tùy táng ở Đồng Nai
Đồng Nai giáp ranh với các tỉnh Bình Thuận, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Dương, Bình Phước và Thành phố Hồ Chí Minh, xưa kia vốn là nơi cư trú của nhiều tộc người bản địa như: Chơro, Mạ, Stiêng, Cơho, Chăm, Khơmer,… Từ năm 2004- 2009, những người dân đi rà phế liệu tình cờ phát hiện ra hàng trăm đồ vật tùy táng, đa số là cổ vật, bao gồm: 440 hiện vật phát hiện ở tỉnh Đồng Nai (với 11 địa điểm thuộc các xã Xuân Hưng và xã Xuân Hòa, huyện Xuân Lộc; xã Hàng Gòn, thị xã Long Khánh; xã Phú Túc và xã La Ngà, huyện Định Quán). 161 hiện vật phát hiện ở tỉnh Bình Thuận (với 03 địa điểm thuộc xã Gia Huynh và xã Đức Phú, huyện Tánh Linh; xã Tân Đức, huyện Hàm Tân; giáp ranh với xã Xuân Hòa, huyện Xuân Lộc). 06 hiện vật phát hiện ở tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (với 01 địa điểm thuộc xã Láng Lớn, huyện Châu Đức) [Nguyễn Thị Nguyệt 2010: 114].
Những sưu tập hiện vật tùy táng được phát hiện ở các tỉnh miền Đông Nam Bộ chứa đựng nhiều giá trị văn hóa, lịch sử, khoa học và cả mỹ thuật. Các bộ sưu tập hiện vật thể hiện trình độ tư duy và phong tục tập quán trong sinh hoạt vật chất và tinh thần của các dân tộc bản địa ở miền Đông Nam Bộ vào những thế kỷ trước đây.
2. Phương pháp khai thác và sưu tầm hiện vật tùy táng về dân tộc học ở Đồng Nai
Bộ sưu tập hiện vật tùy táng dân tộc học ở Bảo tàng Đồng Nai được sưu tầm một cách tình cờ thông qua phát hiện của những người dân chuyên đi rà phế liệu ở các địa bàn trong tỉnh và các tỉnh lân cận giáp với tỉnh Đồng Nai (Bình Thuận, Bà Rịa - Vũng Tàu). Các hiện vật được làm từ nhiều chất liệu như: đồng, sắt, nhôm, gang, gốm, đá thủy tinh,…
Từ những phát hiện của người dân và được họ thông báo, liên hệ, Bảo tàng Đồng Nai đã cử cán bộ sưu tầm kết nối[1]2, cùng phối hợp điền dã khảo sát thực địa tại những địa điểm đã phát hiện được các sưu tập hiện vật tùy táng dân tộc học ở các địa bàn thuộc các huyện Xuân Lộc, Long Khánh, Định Quán (Đồng Nai), Tánh Linh và Hàm Tân (Bình Thuận) và Châu Đức (Bà Rịa - Vũng Tàu).
Qua những lần khảo sát địa điểm, thậm chí cả việc chứng kiến những tình huống phát hiện ra những hiện vật kim loại qua phương pháp rà phế liệu, cán bộ sưu tầm của Bảo tàng Đồng Nai đã được tận mắt tiếp cận với vị trí, tư thế của hiện vật được chôn dưới đất tùy theo từng loại hình, trên cơ sở đó có những nhận định, đánh giá về giá trị, ý nghĩa của hiện vật tùy táng được các dân tộc chôn theo trong phong tục tập quán về tang ma của đồng bào ở Đồng Nai và vùng Đông Nam Bộ trước kia.
Phương pháp sử dụng chủ yếu là rà phế liệu bằng các dụng cụ rà kim loại tự chế của những người dân địa phương, đồng thời phối hợp phương pháp thông qua mua bán, tiếp nhận hiện vật. Những khu vực có thể tìm ra hiện vật tùy táng chôn dưới đất là những khu vực trước kia từng là nơi cư trú hoặc nơi chôn cất người chết của các dân tộc bản địa.
Từ kết quả thu lượm được của những người đi rà phế liệu, cán bộ bảo tàng chọn lựa, lập danh sách, thống kê và phối hợp bộ phận tài vụ thống nhất trao đổi về giá cả mua bán với họ. Trên cơ sở đó báo cáo lãnh đạo bảo tàng duyệt chủ trương chỉ đạo thu thập hiện vật qua hình thức mua bán và lập các thủ tục tiếp nhận hiện vật sưu tầm.
3. Phương pháp xử lý giám định giá trị của sưu tập hiện vật
Để xử lý giám định, xác định niên đại nhằm phát huy giá trị của sưu tập hiện vật (có những hiện vật là cổ vật) sưu tầm về, sau khi thu thập, phân loại, bảo tàng tiến hành vệ sinh và chỉnh lý hiện vật tùy táng.
Do số lượng thu thập hiện vật khá lớn, tổng số 607 hiện vật [Bảo tàng Đồng Nai 2009], nên bảo tàng đã mời các chuyên gia hợp đồng tiến hành giám định, chỉnh lý hiện vật theo kế hoạch nhằm đảm bảo hiệu quả và kịp thời để phát huy giá trị của bộ hiện vật. Việc chỉnh lý được tổ chức thành hội đồng và các chuyên gia được mời về làm việc theo hợp đồng cuốn chiếu và chỉnh lý theo từng địa điểm phát hiện, tên gọi, chất liệu, loại hình,…
Các hiện vật được chỉnh lý đảm bảo các yếu tố về nghiệp vụ sưu tầm di sản văn hóa vật thể với đầy đủ các thông tin có liên quan như:
- Địa điểm phát hiện, người phát hiện, thời gian phát hiện.
- Xác định tên gọi, số lượng, chất liệu, tình trạng, loại hình, trang trí, giá trị lịch sử - văn hóa, xuất xứ, niên đại.
- Đo kích thước, miêu tả hiện vật.
- Chụp ảnh hiện vật.
- Lập bảng thống kê tổng hợp số lượng hiện vật.
- Hồ sơ hiện vật đóng thành từng tập theo sưu tập có xác nhận của bảo tàng và chữ ký của các thành viên hội đồng chỉnh lý, giám định.
- Báo cáo tổng hợp của chuyên gia giám định, chỉnh lý.
4. Phân loại sưu tập cổ vật
Bộ sưu tập hiện vật dân tộc học tùy táng thu được rất phong phú, phản ánh nhiều mặt đời sống văn hóa vật thể và phi vật thể của các dân tộc, bao gồm:
a. Nhóm hiện vật công cụ sản xuất:
Đó là rìu, phảng, xà bách, lao. Đa số bằng kim loại như sắt. Hiện vật rất ít, đơn lẻ.
b. Nhóm hiện vật sinh hoạt gia đình:
Có thể kể đến hũ, mâm, nồi, chảo, chậu, tô, chén, dĩa, muỗng,… Chất liệu rất đa dạng như: đồng, nhôm, gốm, sứ, đồ đất nung. Loại hình hiện vật này chiếm số lượng rất lớn, khoảng 30%. Nhóm hiện vật hũ, tô, chén, dĩa, muỗng hầu hết là đồ gốm (gốm sứ và đất nung). Loại hình hiện vật này có tính mỹ thuật cao với những đề tài trang trí khác nhau. Phần lớn những chiếc nồi vẫn còn dính màu đen của khói bếp bám bên ngoài hiện vật, dấu vết của quá trình sử dụng lâu dài. Duy nhất có 01 ly chân cao bằng thủy tinh cho thấy đây không phải là xuất xứ từ trong nước mà có lẽ được du nhập từ các nước phương Tây, thể hiện sự giao lưu với bên ngoài.
c. Nhóm hiện vật sinh hoạt phong tục tập quán:
Ví dụ như ô trầu, ống nhổ, bình vôi, hộp trầu, hộp đựng trầu cau, hộp đựng vôi, nắp bình vôi,… Loại hình hiện vật này chủ yếu bằng đồng, một số hiện vật vẫn còn thấy dấu vết của vôi trắng đóng bên. Hiện vật chiếm này chiếm khoảng 8%.
d. Nhóm hiện vật trang sức:
Như trâm cài đầu, vòng xoắn lò xo, vòng cổ, vòng tay, vòng chân, hột chuỗi, hạt lục lạc, chóp nón, đồng tiền, gương,… Nhóm hiện vật này rất đa dạng với các chất liệu như: đồng, đá, thủy tinh, nhựa, và chiếm số lượng nhiều nhất, khoảng hơn 50%. Hiện vật bao gồm nhiều kiểu dáng khá đặc trưng tiêu biểu cho loại hình trang sức của các dân tộc bản địa. Đặc biệt có hai chiếc gương tròn bằng đồng có hoa văn trang trí đắp nổi, hiện vật của Nhật Bản; đây có thể là một trong những hiện vật giao lưu văn hóa của các dân tộc bản địa với các nước trong vùng.
e. Nhóm hiện vật nhạc cụ:
Có thể kể đến cồng, chiêng, chập chõa, lục lạc,… Chất liệu chủ yếu bằng đồng. Hiện vật với kích thước khá lớn, tiêu biểu cho nhạc cụ truyền thống cũng như tín ngưỡng của các dân tộc bản địa vùng Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. Nhóm nhạc cụ chiếm khoảng 10%. Trong số các nhạc cụ truyền thống, còn thấy các loại hình nhạc cụ mà người Hoa thường sử dụng như chập chõa, cho thấy khả năng giao lưu tiếp thu văn hóa đối với các dân tộc khác trong đồng bào các dân tộc bản địa ở vùng Đông Nam Bộ.
f. Nhóm hiện vật tín ngưỡng:
Có thể kể đến hạc, rùa, lư trầm. Có 03 hiện vật. Chất liệu bằng đồng. Đây có khả năng là hiện vật của người Việt và người Hoa nhưng được các tộc người bản địa tiếp thu qua tín ngưỡng dân gian.
g. Nhóm hiện vật trao đổi:
Có đồng tiền Pháp, tiền Đông Dương, tiền thời Nguyễn,… Hiện vật vừa là giá trị trao đổi hàng hóa và sinh hoạt nhưng đồng thời cũng có thể được các dân tộc bản địa sử dụng làm đồ trang sức, xỏ đeo xen lẫn với các loại chuỗi hột đá và hột lục lạc.
5. Giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học của bộ sưu tập cổ vật tùy táng
Bộ sưu tập hiện vật tùy táng được phát hiện có giá trị lịch sử, văn hóa rất đặc sắc. Qua chỉnh lý và giám định cho thấy, đây là một trong những bộ sưu tập hiện vật không những có số lượng rất lớn mà còn chứa đựng những giá trị vật chất và tinh thần rất tiêu biểu trong kho tàng văn hóa của các dân tộc bản địa vùng Đông Nam Bộ. Có thể thấy giá trị của bộ sưu tập qua các yếu tố cơ bản có liên quan cụ thể như:
a. Niên đại:
Niên đại khá cao.
+ Từ khoảng 300-500 năm trước đây. Những hiện vật này đa số là nhạc cụ như: cồng, chiêng, ồ trầu, hộp trầu, bình vôi, hạt chuỗi trang sức, hột lục lạc,… bằng chất liệu đồng, đá và thủy tinh.
+ Khoảng 200-300 năm: đa số là đồ gốm Trung Quốc, đồ đồng trang sức,…
+ Khoảng từ 100-200 năm là những hiện vật như: nồi đồng, chảo đồng, mâm đồng, ô trầu, ống nhổ, hũ gốm đất nung; đồ gốm sứ Lái Thiêu, Trung Quốc,…
b. Chất liệu:
Chất liệu là khá đa dạng: từ đồ đồng, bạc, kẽm, nhôm, đến đồ gốm có men, gốm đất nung, đá, thủy tinh, nhựa… Nhưng nhiều nhất vẫn là đồ đồng và đồ gốm.
c. Xuất xứ:
Sản phẩm đồ đồng Nhật Bản, gốm Trung Quốc, gốm Nhật Bản; sản phẩm của các lò gốm địa phương như Lái Thiêu, Sài Gòn, Lâm Đồng, Trung Bộ; đồ đồng do người Mạ, Chơro, Cơho, Việt, Hoa, Chăm, Khơmer sản xuất,…
d. Chủ thể sử dụng:
Những hiện vật được các tộc người bản địa ở miền Đông Nam Bộ và Nam Tây Nguyên (người Mạ, Chơro, Cơho, Khơmer, Chăm) sử dụng lúc còn sống và được chôn cất cùng với người chết theo phong tục tùy táng.
e. Giá trị mỹ thuật:
Sản phẩm trên đồ đồng và đồ gốm có nhiều yếu tố mỹ thuật tiêu biểu, không chỉ biểu hiện mỹ thuật bản địa mà còn thể hiện sự giao lưu về mỹ thuật của các nước trong khu vực.
+ Gương đồng Nhật Bản có đề tài mỹ thuật trang trí truyền thống với hạc, trĩ, tùng… vốn có xuất xứ từ Trung Quốc.
+ Đồ gốm sứ (tô, chén, dĩa,…) mang tính kỹ thuật cao. Các đề tài trang trí có ảnh hưởng của mỹ thuật Trung Quốc, Nhật Bản,… như đề tài: cúc - lan, liễu - mã, liên - áp, đào - thọ, phụng - nấm linh chi, long triều ngọc, long ẩn vân, chữ Hán (song hỉ, phúc lộc thọ,…).
+ Đặc biệt, những đồ gốm do các lò gốm Lái Thiêu sản xuất lại có những đề tài mang tính bản địa như: gà trống, con công, hàng rào, hoa dây lá cách điệu, ô trám, dây nơ, hoa văn hình học,…
f. Giao lưu văn hóa:
Những cổ vật tùy táng có nguồn gốc xuất xứ khác nhau, cho thấy các dân tộc bản địa Đồng Nai và miền Đông Nam Bộ trước kia đã có sự giao lưu, tiếp xúc văn hóa giữa các cộng đồng tộc người sống trên địa bàn cũng như đã có sự giao lưu với các sản phẩm vốn có xuất xứ từ các quốc gia khác (Trung Quốc, Nhật Bản, châu Âu,…).
g. Chức năng sử dụng:
Chức năng sử dụng rất đa dạng. Ví dụ, hột lục lạc có thể là nhạc cụ nhưng cũng đồng thời là đồ trang sức được các dân tộc xỏ đeo vòng cổ, tay, chân…; hay đồng tiền không chỉ dùng để trao đổi mà được đục lỗ xỏ đeo làm đồ trang sức hay làm bùa để kỵ gió, trị bệnh.
h. Phong tục tập quán:
Phong tục tập quán thể hiện tục tùy táng của các dân tộc bản địa qua dấu vết chôn theo những vật dụng không nguyên vẹn mà được đập bể, chặt bể,… Những đồ đồng như cồng, chiêng, mâm, nồi đồng thường bị đập dập, bể hoặc có những vết chặt ở đáy (nồi, ô trầu, hộp trầu, ống nhổ), bề mặt (chiêng, mâm) làm cho hiện vật ít còn nguyên vẹn. Những đồ gốm sứ tuy không bị đập bể nhưng quá trình phát hiện và đào bới phần nào cũng làm chúng bị sứt mẻ và bể sau này.
i. Địa bàn định cư:
Các địa điểm phát hiện đa số là ở vùng triền đồi, gần suối… thuộc địa bàn của các huyện Xuân Lộc, huyện Định Quán, thị xã Long Khánh thuộc tỉnh Đồng Nai; huyện Tánh Linh và huyện Hàm Tân, tỉnh Bình Thuận hay vùng đồng bằng cận biển như huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu cho thấy cư dân bản địa Đồng Nai và Đông Nam Bộ đã định cư trên một vùng rộng lớn. Những nơi này hiện nay vẫn còn sự hiện diện của các cộng đồng tộc người Chơro, Mạ, Stiêng, Cơho sinh sống.
k. Vị trí xã hội:
Cư dân bản địa có sự phân hóa giàu nghèo, có những gia đình đã khá đầy đủ trong sinh hoạt vật chất (trâm cài đầu, đồ sứ ngự dụng, quan dụng, ly thủy tinh,…), thậm chí có cả những người có thể đã tham gia trong bộ máy chính quyền địa phương qua các hiện vật rất đặc thù (chóp nón bằng đồng trong nón găn4 của các hương chức làng xã hoặc lính đội của thực dân Pháp; ly thủy tinh - sản phẩm của văn hóa phương Tây có mặt trong xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX, nhẫn đồng trang trí hình chim ó (hoặc đại bàng) có mặt đá đỏ giống như sản phẩm của quân đội Hoa Kỳ hoặc phương Tây)…
6. Quản lý và phát huy giá trị của sưu tập hiện vật
a. Quản lý bộ sưu tập hiện vật
- Cán bộ bảo tàng nhập hiện vật vào sổ kiểm kê bước đầu nhằm đưa bộ sưu tập hiện vật vào danh mục tài sản hiện vật văn hóa của địa phương, từ đó có kế hoạch bảo quản và khai thác phát huy giá trị của hiện vật bảo tàng.
- Tiếp theo, phân loại và đánh số cho từng hiện vật theo sưu tập nhằm quản lý và bảo quản hiện vật trong kho một cách khoa học, góp phần tạo điều kiện trong quản lý và phát huy giá trị của hiện vật bảo tàng.
- Sắp xếp đưa vào các bộ sưu tập hiện vật dân tộc học phân loại theo từng tộc danh: Việt, Hoa, Chơro, Mạ, Stiêng, Chăm, Khmer,... để bảo quản theo sưu tập hiện vật trong kho cơ sở của bảo tàng.
- Có kế hoạch bảo quản theo từng chất liệu đồng, sắt, nhôm, gốm, đá,... đối với các sưu tập cổ vật tùy táng trong kho bảo tàng.
- Nhập dữ liệu theo hồ sơ hiện vật, xây dựng thành bộ sưu tập trên phần mềm quản lý kho về chủ đề dân tộc học (kèm hình ảnh tư liệu của hiện vật) tạo thành hệ thống bảo tàng ảo trên mạng cùng với các sưu tập khác trong bảo tàng. Đồng bộ hóa phần mềm dữ liệu để tạo điều kiện khai thác, phát huy tác dụng của bộ sưu tập hiện vật đang quản lý phục vụ nghiên cứu và giáo dục khoa học ở bảo tàng.
b. Khai thác phát huy bộ sưu tập hiện vật
Từ bộ sưu tập cổ vật tùy táng dân tộc học phát hiện ở Đồng Nai và các tỉnh Đông Nam Bộ, Bảo tàng Đồng Nai đã tiến hành sưu tầm và bổ sung vào kho cơ sở một số lượng sưu tập hiện vật dân tộc học khá đồ sộ. Những hiện vật không những có giá trị về mặt vật chất, vì chủ yếu bằng kim loại như đồng (đa số), nhôm, sắt, gang, gốm; bên cạnh đó bộ sưu tập còn có giá trị về mặt niên đại (khoảng từ 200 đến 300 năm), nhất là đồ gốm, được xem như những cổ vật. Mặt khác, bộ sưu tập còn có ý nghĩa về giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học. Do vậy, có thể khai thác phát huy bộ sưu tập với các giá trị trên trong hoạt động nghiên cứu khoa học trong và ngoài bảo tàng.
- Phục vụ nghiên cứu khoa học: bổ sung các luận cứ về tổng quan dân tộc bản địa; địa điểm cư trú của các dân tộc là nơi có các bộ sưu tập tùy táng đã được phát hiện; giải mã những vấn đề liên quan đến văn hóa, phong tục quán, các tập tục trong sinh hoạt, tang ma của các dân tộc: Chơro, Mạ, Xtiêng, Cơho, Chăm, Hoa, Khmer,... ở khu vực Đông Nam Bộ trước đây. Phát hiện mối giao lưu văn hóa giữa các dân tộc thông qua hiện vật.
- Hoàn chỉnh các bộ sưu tập trong nghiệp vụ kiểm kê của bảo tàng. Hiện vật trong kho về dân tộc học chưa thật đầy đủ về các loại hình được phân chia theo từng dân tộc. Do vậy, việc bổ sung bộ sưu tập đồ tùy táng trong kho bảo tàng là cần thiết. Những hiện vật được sưu tầm đã góp phần hoàn chỉnh cho kho cơ sở, đặc biệt đối với những loại hình được phát hiện với số lượng nhiều, phong phú như hiện vật về sinh hoạt đời sống (nồi đồng, mâm đồng, chén gốm, dĩa gốm, muỗng gốm, bình gốm, ché gốm, ô trầu, hộp trầu, bình vôi, đồng tiền, gương đồng), nhạc cụ (chiêng đồng, chập chõa đồng, lục lạc đồng), đồ trang sức (vòng tay đồng, vòng chân đồng, nhẫn đồng, chuỗi hạt cườm,...), hiện vật sinh hoạt sản xuất (rìu, phảng, xà bách, lao,...),... Việc bổ sung những hiện vật này làm hoàn chỉnh và phong phú, đa dạng hơn những bộ sưu tập hiện vật về dân tộc học đã có trong kho bảo tàng.
- Phục vụ trong trưng bày, triển lãm chuyên đề về dân tộc học: Bảo tàng Đồng Nai có thể sử dụng bộ sưu tập hiện vật tùy táng bổ sung trong nội dung trưng bày của bảo tàng như: tổ chức triển lãm chuyên đề tại bảo tàng hoặc lưu động tại cơ sở; thay đổi, chỉnh lý nội dung trưng bày cố định tại phòng trưng bày văn hóa các dân tộc ít người ở Đồng Nai; triển lãm giới thiệu các chuyên đề về đồ gốm, đồ đồng ở bảo tàng;...
- Tuyên truyền phổ biến giáo dục về kiến thức dân tộc học ở bảo tàng phục vụ công tác tuyên truyền giáo dục phổ biến kiến thức khoa học đến với quần chúng nhân dân thông qua các hình thức trưng bày, triển lãm chuyên đề hoặc các tờ rơi, sách chuyên khảo giới thiệu về sưu tập hiện vật,...
- Là cơ sở giúp cho các nhà quản lý và sưu tập cổ vật có những kiến thức thông qua hiện vật thật để có cơ sở xác định đối chiếu những hiện vật tương tự, cùng loại hình, cùng chất liệu, hoa văn trang trí mỹ thuật khi đoán định về niên đại, về tuổi của hiện vật qua các thời kỳ.
Có thể nói, bộ sưu tập hiện vật tùy táng phát hiện trên địa bàn các tỉnh Đồng Nai, Bình Thuận và Bà Rịa - Vũng Tàu là những bộ sưu tập hiện vật phong phú về số lượng, chất liệu cũng như nguồn gốc, chức năng sử dụng và cả niên đại. Các hiện vật này được các dân tộc bản địa ở miền Đông Nam Bộ sử dụng trong cuộc sống sinh hoạt, là đồ tùy táng khi chủ nhân mất đi và được chôn theo trong các ngôi mộ của họ. Bộ hiện vật tùy táng là bằng chứng sinh động về sự hiện diện của các dân tộc bản địa cư trú trên vùng đất Đồng Nai và các tỉnh miền Đông Nam Bộ trước đây. Bảo tàng Đồng Nai, đơn vị sở hữu bộ sưu tập hiện vật cần có kế hoạch nhằm khai thác, phát huy bộ sưu tập hiện vật trong giáo dục tuyên truyền phổ biến kiến thức khoa học về di sản văn hóa dân tộc phù hợp trong thời kỳ hội nhập.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Bảo tàng Đồng Nai, 2009, Hồ sơ chỉnh lý hiện vật tùy táng phát hiện từ năm 2004- 2009, Hồ sơ khoa học lưu tại Bảo tàng Đồng Nai.
- Nguyễn Thị Nguyệt, 2010, Văn hóa - văn vật Đồng Nai, NXB Đồng Nai.
Nguồn: Sách “Quản lý và khai thác di sản văn hóa trong thời kỳ hội nhập”
[1] Tác giả trực tiếp khảo sát thực địa, sưu tầm, tiếp nhận, xử lý hiện vật và tham gia Hội đồng chỉnh lý bộ sưu tập hiện vật tại bảo tàng.
4 Giống nón dấu của binh lính thời phong kiến, địa phương gọi là nón găn của hương cả, là nón lá bịt chóp đồng giữa đỉnh có chóp nhọn cao. Nón năn gọi theo giọng Nam Bộ có thể đồng âm với nón găng, tức nón Gò Găng của Bình Định, còn gọi là nón ngựa dành cho quan lại, bính lính thời phong kiến sử dụng.