Thành thử tùy theo căn cơ và trình độ của mỗi hạng người, đức Phật đã thuyết giảng những giáo lý trình độ khác nhau. Phải tùy cơ để thâm nhập. Chẳng hạn dùng giáo lý cao siêu để giảng dạy cho những người có trí thức bình thường hay thấp, chẳng mang lợi ích gì vì họ không am hiểu; từ đó sinh chán nản trong tu tập. Với những người coí trình độ thấp, Ngài giảng giáo lý Tiểu Thừa. Với người có trình độ trung bình, Ngài giảng giáo lý Đại Thừa. Duy có những người có trình độ rất cao, Ngài mới giảng Kim Cương Thừa.
Tu chứng Kim Cang Thừa
Pháp môn tu chứng rất nhiều, tùy thời để học, tùy nơi để hành, nhưng mục đích vẫn là một: Làm thế nào để người tu hành đi vào cõi viên mãn, cho nên chỗ "trở về" chỉ là nhất thừa (Phật Thừa).
Hiển Giáo Mật Tông gồm thâu cả tánh và tướng. Nghĩa lý Mật Tông chia ra làm 5 thời, gọi chung là Tô Đạt Lãm (Kinh). Mật bộ bao gồm ba tạng, gọi chung là Đà Ra Ni (tức Thần Chú). Người học Mật Tông cho rằng: Những vấn đề Không, Hữu, Thiền, Luật trái nghịch với nhau, cho nên một số người đã không xem xét tận đến viên lý,đến cứu cánh.
Thông thường, những tu sĩ Mật Tông thuờng lấy 4 loại: Đàn, Ấn, Chư, Tiếng làm phép tắc tu trì, nhưng rồi vẫn chưa đạt đến chỗ bí ảo của Mật Giáo. Lạt Ma Choegyam Trungpa khi đề cập đến vấn đề nầy đã cho rằng: "Nhiều người đã không thông hiểu thấu đáo Mật Tông cho rằng trong giáo lý có nhiều điều mâu thuẫn lẫn nhau, "Tánh Tông" và "Tướng Tông" không ăn khớp nhau. Do đó, đã gây ngộ nhận, thường lên tiếng bài xích. Nguyên nhân là họ chỉ nhìn một vài khía cạnh của Mật Tông, mờ mịt về tánh Viên Thông.
Con đường đi đến với Mật Tông phải qua từng giai đoạn, không tắt ngang, nếu không phải là bậc Chánh Trí, hiểu biết về Tiểu Thừa và Đại Thừa, thì khó đi vào Kim Cang Thừa (Mật Tông)". Những điểm chính về con đường tu học đó như sau:
- Về Tiểu Thừa: Phải thấu đáo lý thuyết: vạn pháp do nhân duyên sanh, thấu đáo chân lý chân không, tu hành tự lợi, chứng quả Tiểu thừa.
- Về Đại Thừa: Phải hiểu những điều căn bản về Pháp Tướng Tôn, Vô Tướng Tôn và Nhất Thừa Chung Giáo. Hiểu được những khó khăn nầy, cho nên, từ nhiều thế kỷ trước KimCang Thừa chỉ được truyền bằng miệng trong một số tu sĩ hạn chế.
Tuy hiểu được "sức cứng" của Kim Cang Thừa vượt lên trên hết, nhưng không vì thế mà bỏ qua phần căn bản, đi ngay vào chánh lý, để gánh lấy nguy hại. Nhìn chung giáo lý Đại Thừa và Kim Cang Thừa rất vi diệu và rộng rãi, trong đó, điều cơ bản là lòng nguyện độ khắp chúng sanh như nhận định của Lạt Ma Choegyam Trungpa (Rinpoche) - giáo sư Tạng Học đại học Nalanda.
Giải lý ngộ nhận Kim Cang Thừa
Tính uyên ảo của Kim Cang Thừa khi truyền bá sang Tây Phương đã bị xuyên tạc; họ thường hiểu giáo lý nầy là con đường đưa đến giác ngộ một cách đột ngột, nhanh chóng; có học giả khác ở đây thì nhấn mạnh đến "sự tự do của hành động", "hành động phóng túng" hay thế hơn thế nữa là "phương thức thăng hoa của xác thịt".
Nhiều nhà Tạng Học đã lên tiếng về sự nhầm lẫn này cho nên hạn chế trong việc "Điểm Đạo" (Abhisheka) tức là Lễ kết nạp đệ tử và truyền thụ giáo lý. Trong những bài giảng đầu tiên về Kim Cang Thừa, họ thường nhấn mạnh "Kim Cang Thừa không thể tồn tại độc lập ngoài các tông phái Phật Giáo".
Tại Tây Phương hiện nay, những tư tưởng đặc dị về Kim Cang Tông (còn gọi là Mật Tông) phát triển với những ứng dụng, không những sai lầm đến mức độ trầm trọng, mà còn mang tính phá hoại, xuyên tạc Phật Giáo, đồng thời cũng gây tai hại đến các hành giả Kim Cang.
Những hành giả Kim Cang Thừa nếu không thông suốt căn bản Giáo lý Phật Giáo là một việc làm đầy nguy hiểm. Những tư tưởng chính của Kim Cang Thừa là tư tưởng kiên cố bất hoại, là sự trở về với chính mình, với sự tỉnh thức của bản thể và nhận biết Tự Tánh Kim Cang của bản thân. Vì những ý nghĩa vô cùng sâu sắc về đàn pháp (Mandala = Mạn đà la) cho nên không ít người nghĩ đến bùa phép, phù thủy.
Thông thường, họ đã quên một điều tiên quyết là: Kim Cang Thừa vốn là con đường nối tiếp của Tiểu Thừa và Đại Thừa. Hành giả không bắt đầu từ 2 Thừa kể trên, đi tắt vào Kim Cang Thừa, sẽ thường vấp ngã, sai lệch, thậm chí gây nhiều nhiễu loạn, khủng hoảng tâm thần nữa. Tantra (Mật Giáo), nếu đem dịch cho sát nghĩa là "sự nối kết". Tiểu Thừa, Đại Thừa và Kim Cang Thừa vốn là một chuỗi nối kết với nhau. Không có nền tảng Phật Học của hai Thừa trên, dù đọc thiên kinh vạn quyển của Mật Học chẳng khác nào xây toà lâu đài trên cát. Kim Cang Thừa chính là sự phát triển sâu xa hơn và rộng rãi hơn của hai Thừa trước. Đây là sự phát triển của những thiện cảm và ý thức lành mạnh qua công phu thực hành các pháp trong Tiểu Thừa và Đại Thừa.
Sự sai lầm căn bản của những học giả Tây Phương khi tìm hiểu Kim Cang Thừa là không được giảng dạy theo trình tự và đúng đắn. Do sự uyên ảo của Thừa nầy cho nên ở những trường đại học Tây Tạng đều có phân khoa Huyền Học (Gyud). Có lẽ chỉ có nền giáo dục Tây Tạng mới có ngành học này.
Chương trình học nầy đều được tổ chức rất quy cũ. Những sinh viên theo học phải qua những kỳ thi về Phật Học Tiểu Thừa và Đại Thừa, đồng thời cũng được trắc nghiệm về năng khiếu. Có trường hợp phải có sự hướng dẫn của những vị chân sư thấu đáo trước khi muốn bước chân vào con đường tu học nầy. Những lớp học nầy tổ chức học theo phương pháp khẩu truyền, học riêng từng người và thường diễn ra trong vòng bí mật.
Trên nguyên tắc giảng dạy, sinh viên theo học không bao giờ được tiết lộ những điều học hiểu của mình cho người khác. Không bao giờ có những tranh luận công khai về giáo lý Kim Cang Thừa tại các khuôn viên Đại học Tây Tạng. Những sinh viên theo học có thể tin hay không tin những giáo lý. Họ cũng có thể xin thôi học, vì trình độ chưa thấu đạt.
Những danh sư cũng đồng ý với họ, vì thiếu căn bản Phật Học, sẽ gây ra những nguy hại trong khi hành trì Mật Tông mà thôi. Phải qua những thử thách, họ mới có thể trở thành những "Gyud Pas” (đắc giới) và được mọi người kính trọng.
Khi bước qua được ngưỡng cửa nầy rồi, họ được xem như là đã có khả năng tiếp cận với cõi vô hình, sử dụng được những huyền thuật. Họ có thể thiết lập những đàn pháp cầu mưa gió, cầu nắng ráo hay cầu khẩn những đấng thần linh giúp cho một vài điều gì đó và được ứng nghiệm ngay.
Họ được đưa về các làng mạc để giúp đỡ cho dân chúng để trừ yêu, phục ma. Ngày trước, khi Trung Cộng chưa chiếm cứ Tây Tạng, những thức giả muốn nghiên cứu Kim Cang Thừa đều sang đây để tìm thầy học đạo.
Tại đây, từ ngàn xưa vẫn nổi tiếng về những truyền thống tâm linh huyền bí khác hẳn nhiều quốc gia khác. Có người lại lý giải rằng đất Tây Tạng ở vùng cao, quanh năm giá lạnh, nhiều rừng núi thâm u, cho nên những năng lực siêu hình thường tập trung ở đây. Các tu sĩ Tây Tạng có thể phát triển trong môi trường nầy. Những danh tăng Ấn Độ hay Trung Hoa đều dành một thời gian để sang đây học hỏi.
Các giai đoạn hành trì
Những nhà nghiên cứu về Kim Cang Thừa trong thời gian gần đây, đã có một số ngộ nhận về nền tảng Giáo Lý nầy. Có người cho rằng: Kim Cang Thừa do những vị Lạt Ma tổng hợp các Giáo Lý trên đất nước Tây Tạng để dựng nên. Có người nói đến sự chuyển hoá của Cổ thư do đạo Bon Pa trong truyền thống Tây Tạng. Từ những sai lầm nầy đã đưa đen nhận thức sai lầm khi đi vào những nguyên tắc căn bản của Kim Cang Thừa.
Giáo lý của Kim Cang Thừa là do chính đức Bổn Sư Thích Ca giảng dạy cho hàng đại đệ tử của mình. Trong số những giáo lý căn bản do đức Phật thuyết giảng khi còn tại thế, thì Kim Cang Thừa (Mật Giáo) là giáo lý cao siêu và thù thắng nhất. Nhận định chung thì chính Kim Cang Thừa mới là sự kết tinh về quyết định tối hậu của đức Thế Tôn. Giáo lý của đức Phật bao gồm những kinh điển Tiểu Thừa và Đại Thừa. Chính những Giáo lý nầy đã là nền tảng để xây dựng nên Kim Cang Thừa.
Những nguyên tắc của Mật Điển phải được xây dựng và hành trì trên cơ sở chính yếu của Kinh Giáo. Không thể nói đến Kim Cang Thừa mà không nói đến Phật Giáo. Những tín đồ của đức Phật do những xuất xứ khác nhau, trình độ khác nhau và bắt nguồn từ nhiều hệ tư tưởng khác nhau trước khi thọ nhận yếu lý của đức Phật. Thành thử những lời dạy của Ngài cũng theo các yêu cầu khác nhau, tùy theo căn cơ và trình độ hiểu biết, thọ nhận khác nhau. Phương tiện tuy khác, cứu cánh vẫn là một.
Chỉ có những đệ tử nào có trí tuệ phát triển cao, hiểu biết quảng bá, đức Phật mới giảng dạy Kim Cang Thừa, sau khi họ đã quán triệt Tiểu Thừa và Đại Thừa. Nếu đi vào Kim Cang Thừa mà không có căn bản về hai Thừa kia, thật khó tiếp thu và thường ngộ nhận. Phép tu theo Mật Tông cũng phải trải qua những giai đoạn như thế.Việc thực hành Kim Cang Thừa sau khi qua phần lý thuyết cũng có những cấp bậc khác nhau, đi từ thấp đến cao, qua nhiều giai đoạn tu chứng, thì lãnh ngộ vững vàng hơn.
Có 4 loại thực hành KimCang Thừa là: Mật điển hành động, Mật điển Tư duy, Mật điển Du Già (Yoga) và Mật điển Tối Thượng Du Già. Phải trải qua từng giai đoạn một để bước vững vàng, tránh sai lầm. Căn cứ theo khả năng riêng biệt của từng hành giả trong khi tu chứng, để có thể chuyển hoá phúc lạc của mình thành con đường tu tập cần thiết trong từng giai đoạn.
a) Những hành giả nào theo Mật điển Hành Động (Action Tantra): trước hết là phải cố phát huy cao độ phúc lạc (bliss) của mình bằng phương pháp quán tưởng đến một vị Phật, Bồ Tát hay vị Thần nào đó. Phúc lạc chỉ phát sinh trong khi tập trung việc quán tưởng đến đối tượng đó mà thôi. Nhờ vậy, tâm hoan lạc tập trung thiền quán về chân không.
b) Những hành giả nào theo Mật điển Tư Duy (Performance Tantra): Tập trung để gây phát sinh phúc lạc, nhờ quán tưởng đến vị Phật, Bồ Tát hay vị Thần với những nét hoan lạc, thoát tục, hiền hoà. Sử dụng phúc lạc nầy để thiền quán chân không, để có thể chuyển hoá phúc lạc thành pháp môn tu tập của mình.
c) Những hành giả nào theo Mật điển Du Già (Yoga Tantra): Tập trung để phát sinh phúc lạc, bằng cách lại gần và sờ tay vào vị Phật, Bồ tát hay vị thần mà mình đã quán tưởng. Khi niềm phúc lạc do việc cảm xúc khởi động lên, hành giả dùng thứ lạc nầy để thiền quán chân không. Do đó chuyển phúc lạc thành phép tu.
d) Những hành giả nào theo mật điển Tối Thượng Du Già (Highest Yoga Tantra): Hành giả ôm vào một người thật hay quán tưởng là mình đã ôm như vậy, rồi phác lạc. Nhờ đến thiền quán chân không, phúc lạc nầy sẽ chuyển thành con đường tâm linh vi diệu. Nhìn chung lại, tất cả những pháp hành nầy đều được đặt cơ sở trên hạnh Bồ Đề Tâm. Nhờ đến Mật Chú, có thể đưa tất cả hữu tình đến giác ngộ Vô Thượng Bồ Đề.
Ẩn dụ của huyền thoại Mật Tông
Câu chuyện sau đây nói về tình trạng vọng động trên đường tu học và ứng xử, thường được nêu ra để làm gương, được nhắc đến nhiều trong những tu viện. Nội dung do bà Alexandra David Neel kể lại trong cuốn "Mystiques et Magiciens du Tibet": Câu chuyện xảy ra tại vùng Tachienlu, trung tâm của những người tu hành theo Phù Chú Giáo. Có một vị Lạt Ma nổi tiếng là người tu luyện thành công nhất trong vùng nầy về Huyền thuật tên là ChogsTsang (Ông thầy cao). Theo truyền tụng, thì vị nầy có tài tiên đoán được mọi sự việc trong tương lai. Quan sở tại trong vùng nghe tiếng, cho nên thường hậu đãi.
Một lần, nhân có việc hệ trọng, vị quan đến nơi tu luyện của vị Lạt Ma nầy. Hai bên trò chuyện và giải lý tâm đắc. Nhưng ngay sau đó, thì Lạt Ma Chogs Tsang lại đòi cưới đứa em gái duy nhất của viên tùy tướng. Vấn đề xảy ra quá đột ngột cho nên viên quan tùy tướng không thể nào chấp nhận, vì danh tiếng của Lạt Ma bao trùm cả vùng từ xưa đến nay.
Vì không được thoả mãn yêu cầu, vị Lạt Ma nổi giận, đập vỡ hết đồ đạc trong bữa tiệc, lên tiếng mắng nhiếc thậm tệ và dọa sẽ dùng những bùa phép để viên quan sẽ chết trong vài ngày tới. Dĩ nhiên, mọi người chỉ cho rằng lời dọa của một người trong cơn say, nên không ai quan tâm, dù đó là lời của một vị Lạt Ma nhiều quyền năng siêu đẳng. Nhưng rồi chuyện xảy ra.
Hai hôm sau, viên tùy tướng đang mạnh khoẻ bỗng lăn đùng ra chết. Mọi ngườicho rằng lời dọa dẫm của vị Lạt Ma đã thành sự thật và đây là cảnh cáo đầu tiên. Những điều trọng vọng vị Lạt Ma trước đây của dân chúng cũng tiêu tan. Gia đình của viên tùy tướng liền đến nhờ vị quan đứng ra điều đình, bằng lòng gả người em gái cho vị Lạt Ma. Nhưng ông ta từ chối, cho rằng đáp ứng nầy đã quá muộn màng. Về phần vị Lạt Ma, từ đó đã có những thái độ khác thường, mà chính các đệ tử cũng lo ngại. Một đêm khuya, bỗng nhiên chợt nhớ ra điều gì, vị Lạt Ma nầy trở dậy, sai đệ tử mình chuẩn bị mọi thứ để lên đường theo ông. Dù nghi hoặc nhưng người nầy cũng vâng theo. Khi ra đến bờ sông thì ông bảo dừng lại, nhìn ra giữa dòng. Chẳng bao lâu, có vật gì lấp lánh giữa dòng sông, rồi tấp vào bờ cạnh đó. Đó là một xác chết chưa kịp rửa nát đang trôi ngược dòng. Lạt Ma Chogs Tsang sai đệ tử vớt xác đó, lấy dao cắt cho ông một miếng thịt rồi bảo: Nhà ngươi cũng cắt cho mình một miếng để ăn. Đây là món quà hy hữu của người bạn ta từ xa gửi đến. Người đệ tử hoảng sợ, cắt một miếng cho thầy và miếng cho mình thì nhét vào trong bị và giả vờ ăn.
Khi trở về lại tu viện, Lạt Ma nói: "Ta tưởng là ngươi có được đạo hạnh khá cho nên ban cho ngươi món quà nầy; nhưng không ngờ lại nhát sợ đến như vậy, thật không đáng thưởng". Vì hỗ thẹn bị khiển trách, anh ta thò tay vào túi. Nhưng kỳ lạ thay không tìm thấy miếng thịt đâu cả...
Thực ra, dưới mắt người thường câu chuyện không mang ý nghĩa đơn thuần như vậy. Về chuyện đòi lấy vợ của vị Lạt Ma chỉ là để thu lấy một khả năng ngoại đạo tà ma quấy nhiễu hiện nguyên hình thành cô gái của viên tùy tướng. Dưới mắt của người Tây Phương, vị Lạt Ma nầy đã làm bại hoại danh giá của mình; nhưng với người Tây Tạng, thì đây là hành động siêu việt của một con người có Pháp Nhãn thì mới có thể nhìn sâu vào bản chất của loài ma quỷ để trấn áp. Có hàng ngàn giai thoại kỳ lạ về các Lạt Ma, nhưng khi chiêm nghiệm, người Tây Tạng không chỉ nhìn bề ngoài để suy đoán một cách dung dị. Thế giới vô hình bao trùm hầu hết vùng đất nầy, đã khiến cho các hành giả phải tìm đủ cách đến tận nơi để chứng kiến.
Hành trì Mật Tông
Phật Giáo Tây Tạng bắt nguồn từ Phật Giáo Ấn Độ, được hội nhập trong nhiều yếu lý khác nhau trong đó có Tịnh Độ Tông. Có nhiều trường hợp dùng đến pháp môn tọa Thiền, nhưng có lúc lại dùng đến pháp môn Tịnh Độ; chẳng hạn khi con người lìa cõi đời. Theo Tử Thư (Bardo Thodol) của Lạt Ma Giáo thì: khi con người đã chết, sẽ đi vào cảnh giới có nhiều màu sắc khác nhau; tùy theo tâm thức và mức độ giác ngộ của những người nầy, mà những màu sắc, thanh âm, cảnh quan nầy sẽ được thể hiện với màu sáng chói hay màu ảm đạm. Trong khi đó, tùy theo căn cơ, có người trông thấy những hình thù quái dị, gớm ghiếc, những thú hoang, vật dữ; nhưng lại có người chứng kiến được cảnh giới siêu thoát, có Thiên Thần, Tiên Thánh. Thiên đàng hay Địa ngục hiện ra cũng tùy theo sự giác ngộ, tu tỉnh của con người khi còn sống.
Ngoài ra, còn nhờ những trợ lực khác nữa. Chẳng hạn: khi người vừa chết, những người thân, những đạo sĩ cùng nhau tụng niệm hồng danh của chư Phật, giữ cho linh hồn yên tĩnh để nghe những lời hướng dẫn của những vị Lạt Ma chủ tế, thì họ sẽ được chứng kiến cảnh giới tươi đẹp, hoát ngộ ngay. Điều nầy cho thấy ảnh hưởng của Tịnh Độ Tông với Mật Tông với mức độ cao. Pháp môn Tịnh Độ nầy cũng được Tây Tạng áp dụng trong nhiều trường hợp: khi trẻ sơ sinh, khi người mắc bệnh, khi gặp tai nạn, khi đứng trước nguy khổn, việc tụng hồng danh chư Phật sẽ chuyển hoá được hoàn cảnh.
Tại sao có sự cố thay đổi này?
Sách Tử Thư viết: "Giá trị của việc tụng hồng danh chư Phật là tạo nên cảnh quan tốt và tạo căn cơ tốt. Cảnh quan tốt là vạn vật chung quanh mà linh hồn bước vào;căn cơ tốt là sự giác ngộ bên kia cửa tử". Thành thử, Tịnh Độ Tông được bành trướng trong giới bình dân, trong giới tu sĩ. Tùy theo bản chất linh hồn để chuyển hoá, tùy theo sự giác ngộ để đổi thay.
Con đường tu tập Mật Tông
Từ trước đến nay, Phật Giáo Tây Tạng đã thành lập nên một hệ thống tổ chức rất chặt chẻ cho từng tầng lớp khác nhau: Những vị tu sĩ nào được thọ giới xuất gia đều được gọi chung là Lạt Ma(Lamas) theo các cấp bậc và ngôi thứ khác nhau như Gelong, Geshe, Rinpoche hay Tulku. Gelong là những vị vừa thọ giới, tương đương với Tỳ Kheo, Geshe là những vị đã tốt nghiệp kỳ thi Tiến sĩ Phật Học chính thức, qua những thời gian hành trì nhất định. Rinpoche hay Tulku là những vị Lạt Ma tái sanh.
Trong tổ chức Phật Giáo Tây Tạng, có những bậc cao tăng được xác định là đã từng tu tập trong nhiều kiếp trước, đồng thời cũng đã được tái sanh, trở lại trần thế, để tiếp tục hoằng dương Phật Pháp. Những vị nầy thường được lựa chọn tái sanh và đi vào vòng sinh tử nhiều kiếp, để thực hiện Hạnh Nguyện Bồ Tát. Trong truyền thống Phật Giáo Tây Tạng, có 2 phương pháp để hiểu được sự tái sanh nầy.
Cách thức thứ nhất giúp cho tin vào những đời trước hay chỉ một đời trong quá khứ. Còn phương pháp thứ nhì khiến ta tin vào những đời sau hay một đời sống trong tương lai. Trong hai phương pháp nầy, phương pháp thứ nhất mang giá trị truyền thừa và chuyển kiếp; còn phương pháp thứ hai nhắm vào mục đích tăng tiến trong tu trì, hầu đạt được sở nguyện trở lại trong tái sinh.
Khi đã nhận định rõ là có kiếp trước thì cũng dễ dàng nhận được là có kiếp sau. Mục đích duy nhất trong việc chấp nhận tái sanh để khuyến khích công năng tu hành để được đi vào thế giới của luân hồi, nhân quả có hiệu nghiệm hơn. Về kỹ thuật nhận biết được tái sanh hay không thì có rất nhiều nhưng tựu trung có 5 cách:
- Kỹ thuật thứ nhất: nhờ đến bản năng và dấu hiệu tâm linh mà chúng ta có thể biết được rằng có một đời trước.
- Kỹ thuật thứ hai: bao hàm sự hiểu biết và nhận định rõ ràng về dòng tâm tương tục nối tiếp thường xuyên.
- Kỹ thuật thứ ba: sử dụng năng lực của mộng tưởng để có thể chứng minh được rằng có một đời trước, đã liên hệ đến việc tái sinh trong đời sau.
- Kỹ thuật thứ tư: Nhờ đến năng lực của những dấu ấn về tái sinh thể hiện rõ nét trên cử chỉ, vết tích, thị hiện.
- Kỹ thuật thứ năm: Nhờ đến năng lực của những vị cao tăng, thông qua kinh điển, để nhận biết có sự tái sinh.
Trong Kinh Hoa Nghiêm có dạy rằng: "Biết được những chuyển biến về kiếp vãn sanh, chính là do Tâm Tự Tánh. Còn khả năng thành tựu huệ thân, không do tha ngộ".
Những trở ngại
Trong những điểm căn bản của giáo phái Sakya Pa, người giới tử sau khi thọ lãnh Lễ Điểm Đạo, việc trước tiên là giải trừ những tham luyến. Có bốn tham luyến chính gây những suy thoái trong cuộc đời tu học và gây những chướng ngại về Thân Trung Ấm sau khi chết đi. Đó là:
- Những tham luyến trong cõi đời cần phải diệt trừ ngay từ đầu khi nhận chân ra được. Đừng để tham luyến có cơ hội phát triển.
- Đạo hạnh hay không là do phương thức dùng để diệt trù nầy.
- Những người tham luyến còn trở lại trong vòng luân hồi, chính họ đã không thể nào giải thoát được. Vì nghiệp chướng nặng nề dấy lên, làm nhiễu loạn tâm thanh tịnh. Điều đó gây thêm những ảnh hưởng khác trong vấn đề chuyển thức.
- Những người cứ bị lôi cuốn mạnh mẽ về những tham luyến, thì không thể giải thoát được. Lôi cuốn càng mạnh, sức giải toả càng khó, ảnh hưởng càng sâu.
- Khi còn người sống theo những tham luyến liên tục, thì không chứng được thực cảnh. Đây là những phần trong giáo lý Đại Thừa mà sau nầy Kim Cang Thừa vẫn còn nhấn mạnh nhiều lần trong bí phương giải thoát.
Ngài Sachen Kunga Nyinpo, vị tổ nổi tiếng nhất trong giáo phái SakyaPa nhấn mạnh: Những giới tử của Sakya Pa lấy việc cởi sạch hết những tham luyến để được giải thoát lên hàng đầu. Chỉ khi nào lột bỏ lớp cũ, mới nhận lớp mới. Con đường tu không hai.
Mật Tông và Cổ Mật
Tuy nhiên việc dùng Pháp Nhãn không thể nào tùy tiện được. Nhiều đạo sĩ của đạo Bon Pa đã khai mở quyền năng của Pháp Nhãn, nhưng không thận trọng nên gặp trở ngại. Họ đã không nhận thức rằng đây chỉ là phương tiện để có thể giúp cho việc khai thông và giúp việc tu hành, chứ không phải là cứu cánh. Những vị Chân sư thường cảnh giác sự lạm dụng nầy. Hơn thế nữa, xây dựng và phát huy Pháp Nhãn không đơn giản và hiệu ứng trong thời gian ngắn. Thông thường, sự khai mở Pháp Nhãn, dù trong mức độ thấp, cũng đòi hỏi những công phu tập luyện lâu dài, kiên trì, bền bỉ. Chỉ những vị Hoá thân, do công phu tu hành của những kiếp trước đã đạt được, mới thành tựu nhanh chóng hơn. Tuy nhiên, nếu không biết vận dụng trúng cách và sử dụng với thiện niệm, Pháp Nhãn cũng mất luôn.
Trí tuệ thượng thừa
Trong Mật Giáo, khả năng phi thường của trí tuệ thượng thừa được phát huy do huân tập lâu ngày mà nên. Khả năng nầy chiếu rạng cảnh giới siêu nhiên, nhìn thấy được tiền kiếp của mình và của chúng sanh. Nhiều vị giác ngộ đã thành tựu trong pháp môn nầy, sau nầy dựa trên căn bản đó để hướng dẫn và hoá độ chúng sanh. Milarepa là một trong những danh tăng nầy.
Trong những vị Thánh của Mật Tông Tây Tạng, thì Milarepa được ca ngợi là "giác ngộ phi phàm". Cuộc đời tu hành của ông trải qua nhiều khó khăn nhưng nhờ chí kiên quyết tột đỉnh cho nên đã chứng ngộ vô thượng. Có rất nhiều giai thoại chung quanh vị thánh "áo rách" nầy, do sự sùng bái của Phật tử và công năng vô thượng do chứng quả mà ra.
Người ta kể lại rằng: Trong giai đoạn Milarepa tu hành trong một hang sâu tại vùng bình nguyên Aksobhya, miền đồng bắc Tây Tạng, thì có nhiều vị đao sĩ của đạo Bon Pa thường đến quấy nhiễu. Ông vẫn quyết tâm thiền định và tu trì. Nhưng những đạo sĩ ấy không buông ta, tìm cách để hạ nhục. Một ngày kia đạo sĩ Tsemara đến và thách thức ông ta chạy đua lên đỉnh núi Kailas. Tsemara nổi tiếng về khinh công đến mức thường thừa và kiêu hãnh vô cùng. Milarepa khước từ nhưng không thoát khỏi. Sau cùng Milarepa đành chấp nhận để tránh những phiền toái về sau. Sau khi ước hẹn cuộc đua xong thì Tsemara đã phóng chân với tốc độ phi thường. Milarepa vẫn ngồi yên để thiền định. Chẳng bao lâu Tsemara đã gần đến đích nhưng Milarepa vẫn không dời chỗ. Khi đó mặt trời vừa lên. Những tia sáng ban mai chiếu khắp vùng. Tsemara tin chắc thắng lợi sẽ về tay mình. Nhưng ngay khi đó Milarepa đã tập trung tư tưởng đến cao độ, tan vào trong ánh sáng chói lọi. Tsemara chưa đến đích đã thấy Milarepa đứng trên đỉnh núi rồi. Tsemara ngạc nhiên, run sợ trượt chân gần té xuống hang sâu thì được Milarepa kéo lên. Suốt đời Milarepa luôn luôn cầu học, tinh thần nhanh chóng, nhưng thấy những pháp thuật thượng thừa của mình không thể tự giúp để giải thoát được , cho nên đã cầu học với ngài Marpa, qua những thử thách trăm ngàn gian khổ. Milarepa trở thành vị lãnh đạo lừng danh nhất trong việc xây dựng giáo phái Kargyu Pa.
Yoga Mật Tông
Khai mở năng khiếu thần thông
Các giáo phái
b) Giáo phái Sakya
d) Giáo phái Gelug Pa (mũ vàng):
Được sáng lập vào năm 1409, do Ngài Tsong Khapa. Đến nay những vị Đạt Lai Lạt Ma lãnh đạo TâyTạng đều xuất thân từ giáo phái nầy.Ngài Tsong Khapa nổi tiếng về thuyết pháp và đàm luận, đồng thờicũng có những tư tưởng canh tân Phật Giáo Tây Tạng để thích nghitùy theo hoàn cảnh xã hội.Cũng nhờ những biến đổi trong tổ chức và hoạt động văn hoá, xãhội, giáo dục cho nên giáo phái nầy trở nên hưng thịnh và ảnhhưởng lớn nhất. Những luật tắc của giáo phái nầy rất nghiêm minh,cho nên trong những Tu viện của giáo phái đã đào tạo nhiều caotăng nổi tiếng về nhiều phương diện.
lichsuvn.info 2008