1. Mở đầu
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là vùng đất có bốn dân tộc cùng cộng cư từ lâu đời: Kinh, Hoa, Khmer và Chăm. Trong đó, người Khmer có lịch sử định cư từ rất sớm, có nhiều ảnh hưởng về mặt văn hóa, xã hội và ngôn ngữ trong vùng. Đây là tộc người có dân số đông nhất trong các tộc người thiểu số ở ĐBSCL.
Trải qua quá trình cộng cư lâu dài và ổn định cùng các dân tộc anh em ở vùng đất ĐBSCL, người Khmer đã tạo dựng được một nền văn hóa - nghệ thuật độc đáo và đa dạng với nhiều loại hình, loại thể khác nhau, có nội dung tư tưởng nhân văn sâu sắc và giữ vai trò quan trọng trong đời sống xã hội. Nghệ thuật của người Khmer Nam Bộ gồm nhiều loại hình khác nhau, mang những giá trị độc đáo riêng biệt như: sân khấu (kịch múa Rô băm, kịch hát Dù kê, hát A day, Chầm riêng Chà pây), âm nhạc (dàn nhạc Ngũ âm), múa (dân gian, cung đình, tôn giáo, tín ngưỡng), văn học, kiến trúc (chùa Phật giáo Nam tông), điêu khắc, thư pháp… Trong đó, một số loại hình nghệ thuật sân khấu như kịch hát Dù kê, Chầm riêng Chà pây đã được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể cấp Quốc gia; một số công trình nghệ thuật kiến trúc chùa Khmer tại ĐBSCL được công nhận là di sản kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia. Đồng thời, một số loại hình nghệ thuật của người Khmer đang có nguy cơ mai một, cần bảo tồn khẩn cấp như: kịch múa Yeak Rom – Rô băm, nghệ thuật viết chữ trên lá Buông,... Các tác phẩm nghệ thuật của người Khmer Nam Bộ thể hiện một tinh thần nhân văn sâu sắc và đạt đến trình độ thẩm mĩ cao; cho thấy khả năng sáng tạo cũng như thế giới quan, nhân sinh quan của con người nơi đây. Có thể nói, nghệ thuật của người Khmer Nam Bộ đã đóng một vai trò quan trọng trong việc thể hiện và khẳng định bản sắc văn hóa dân tộc, đồng thời đảm bảo sự thống nhất trong đa dạng của nền văn hóa - nghệ thuật Việt Nam. Chính vì vậy, các loại hình nghệ thuật này đã trở thành những món ăn tinh thần không thể thiếu của người Khmer Nam Bộ cũng như của các dân tộc Việt Nam. Nó có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng, bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất, tâm hồn của người Khmer nói riêng, mỗi con người Việt Nam nói chung, đặc biệt là trong thời đại mới, góp phần phục vụ đắc lực cho các nhiệm vụ chính trị của đất nước, đảm bảo sự phát triển bền vững của toàn xã hội. Mặt khác, trong thời kì hội nhập quốc tế, nghệ thuật Khmer Nam Bộ đang hướng tới mục tiêu bảo tồn, phát huy và tôn vinh giá trị di sản dân tộc ở tầm quốc tế, góp phần quảng bá hình ảnh đất nước và thu hút khách du lịch, đáp ứng nguyện vọng của đồng bào dân tộc và các địa phương. Tuy nhiên, hiện nay, nguồn nhân lực có trình độ, được đào tạo bài bản trong lĩnh vực nghệ thuật Khmer Nam Bộ hầu như không có, như lời phát biểu của nhà nghiên cứu nghệ thuật Khmer Nam Bộ Sang Sết: “Cái khó nhất là nhân lực. Không có nghệ nhân nào tốt nghiệp trường Đại học, nên việc giảng dạy mang tính truyền nghề, theo kinh nghiệm, thiếu tính khoa học”[1].
Là đơn vị tiên phong trong cả nước thực hiện công tác đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực văn hóa – nghệ thuật Khmer ở trình độ Cao đẳng, Đại học và Sau đại học, chúng tôi tham gia tham luận với mục đích trình bày thực trạng đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực trong lĩnh vực nghệ thuật Khmer Nam Bộ, cụ thể ngành Biểu diễn Nhạc cụ Truyền thống Khmer Nam Bộ tại vùng ĐBSCL, trong đó nhấn mạnh những nét đặc thù của ngành học này cũng như những thuận lợi, khó khăn, thử thách trong công tác tuyển sinh và đào tạo. Bài viết cũng hướng tới đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm góp phần đẩy mạnh công tác đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực trong các ngành nghệ thuật Khmer Nam Bộ, xem đây là một trong những liệu pháp cơ bản, góp phần phát triển bền vững vùng ĐBSCL.
2. Thực trạng đào tạo ngành Biểu diễn Nhạc cụ Truyền thống Khmer Nam Bộ
2.1. Một số nét đặc thù trong công tác đào tạo và tuyển sinh
So với nhiều khối ngành khác, nghệ thuật Khmer Nam Bộ nói chung, Biểu diễn Nhạc cụ Truyền thống Khmer Nam Bộ nói riêng là những ngành đào tạo đặc thù. Đặc thù đối với cả người học, người dạy cũng như cơ sở đào tạo. Với người học và người dạy, những bộ môn nghệ thuật này đòi hỏi mỗi người phải am hiểu ngôn ngữ Khmer; phải có những tố chất, năng khiếu thiên bẩm. So với các ngành nghề khác, ngành nghệ thuật thường đòi hỏi thời gian đào tạo lâu hơn, gian khổ hơn, không thể trong một thời gian ngắn là có thể lĩnh hội và thể hiện được tinh hoa của nghệ thuật Khmer Nam Bộ; đòi hỏi người học phải tâm huyết cũng như có niềm đam mê mãnh liệt đối với ngành nghề mới có thể kiên trì bám trụ và sáng tạo. Đối với các cơ sở đào tạo, đây là những ngành học đòi hỏi sự đầu tư lớn và công phu, từ các trang thiết bị, phương tiện dạy và học đến hệ thống phòng học, phòng thực hành chuyên biệt,... Vì vậy, hiện nay, rất ít học sinh Khmer sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông chọn học các ngành nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật Khmer Nam Bộ. Các cơ sở giáo dục đại học, cao đẳng cũng không mặn mà với việc đào tạo lĩnh vực nghệ thuật Khmer Nam Bộ.
Một nét đặc thù khác khá quan trọng là công tác đào tạo, bồi dưỡng về nghệ thuật Khmer Nam Bộ trước đây và hiện nay chủ yếu được tiến hành ở các đoàn nghệ thuật, các gia đình. Trong khi đó, các đoàn nghệ thuật Khmer thường có quy mô nhỏ, kinh phí hoạt động ít, phục vụ chủ yếu cho bà con ở trong các phum, sóc, hay ở trong chùa Khmer vào những ngày lễ, tết, những lúc nông nhàn… Do đó, họ cũng ít chú trọng đến công tác đào tạo “diễn viên” một cách chính quy, chuyên nghiệp. Các đoàn nghệ thuật Khmer thường tự tuyển chọn những người có năng khiếu, đam mê về nghệ thuật và tự đào tạo thông qua phương thức truyền nghề theo kiểu “cha truyền con nối” giữa các thế hệ ở các gia đình, địa phương, đoàn nghệ thuật. Đây là một trở ngại lớn cho công tác đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao về nghệ thuật Khmer Nam Bộ ở khu vực ĐBCL.
(Một tiết múa của người Khmer Nam Bộ. Nguồn: www.baobaclieu.vn)
Bên cạnh đó, đa số người Khmer có tinh thần đam mê, yêu thích và có năng khiếu về nghệ thuật truyền thống của dân tộc. Ngay từ nhỏ, mỗi đứa trẻ Khmer đã được dung dưỡng trong môi trường diễn xướng, tham gia các đội văn nghệ của phum, sóc hay chùa Khmer, biểu diễn trong các dịp lễ hội truyền thống tại địa phương hay thi thố tài năng trong các hội thi, hội diễn. Yêu thích, đam mê các loại hình nghệ thuật dân tộc, rất có tâm huyết thực hiện các hoạt động bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa – nghệ thuật độc đáo nhưng hầu hết đồng bào Khmer Nam Bộ lại mong muốn cho con em mình theo học các ngành nghề mang tính kinh tế thay vì các ngành học phát huy sở trường, năng khiếu nghệ thuật. Hay nói cách khác, những em học sinh có đủ điều kiện đăng kí tuyển sinh, cử tuyển các ngành nghệ thuật Khmer Nam Bộ thì thường sẽ không chọn học những ngành này. Ngược lại, số học sinh có nguyện vọng muốn được đào tạo bài bản các lĩnh vực biểu diễn nghệ thuật, hoặc số em đã được truyền dạy tại nhà hay tại đoàn các kĩ năng diễn xướng muốn bổ túc bằng cấp chính quy thì lại không đáp ứng điều kiện tuyển sinh theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Từ đó dẫn đến kết quả là Trường Đại học thường tuyển sinh được rất ít sinh viên cho các ngành học liên quan nghệ thuật biều diễn của người Khmer Nam Bộ.
2.2. Một số thuận lợi và khó khăn
2.2.1. Thuận lợi
Trước hết, Đảng, Nhà nước và Chính phủ đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho công tác đào tạo nguồn nhân lực lĩnh vực biểu diễn nghệ thuật. Trên cơ sở Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo đội ngũ trí thức hoạt động trong lĩnh vực bảo tồn, phát huy văn hóa – nghệ thuật dân tộc thiểu số ở các cấp địa phương trên cả nước. Quyết định 1270/QĐ-TTg ngày 27/7/2011 phê duyệt Đề án “Bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam đến năm 2020”; Quyết định số 1243/QĐ-TTg ngày 25/7/2011 phê duyệt Đề án “Đổi mới và nâng cao chất lượng đào tạo của các trường văn hóa nghệ thuật giai đoạn 2011 – 2020”, gần đây nhất là Quyết định số 41/2014/QĐ-TTg ngày 21/7/2014 của Thủ tướng Chính phủ ban hành “Về chế độ ưu đãi đối với học sinh, sinh viên các ngành nghệ thuật truyền thống và đặc thù trong các trường văn hóa - nghệ thuật”, theo đó ngành Biểu diễn Nhạc cụ Truyền thống Khmer Nam Bộ tại Trường Đại học Trà Vinh (Trường ĐH Trà Vinh) nằm trong nhóm đối tượng được hưởng chế độ ưu đãi bao gồm miễn giảm 70% học phí hằng năm và “hưởng chế độ bồi dưỡng nghề với mức bằng 40% suất học bổng khuyến khích toàn phần/tháng”[2]. Những chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và Chính phủ đã tạo nền tảng và các điều kiện thuận lợi đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực nghệ thuật Khmer Nam Bộ tại các trường cao đẳng, đại học trên cả nước.
Song song đó, hoạt động đào tạo ngành Biểu diễn Nhạc cụ Truyền thống Khmer Nam Bộ của Trường ĐH Trà Vinh đã nhận được sự ủng hộ và hỗ trợ của rất nhiều nghệ sĩ ưu tú, nghệ nhân và chuyên gia am hiểu sâu sắc nghệ thuật biểu diễn của đồng bào Khmer vùng Nam Bộ. Đặc biệt, Nhà trường đã nhận được sự hỗ trợ nhiệt tình của lực lượng nghệ sĩ, nghệ nhân Đoàn Nghệ thuật Khmer Ánh Bình Minh, tỉnh Trà Vinh – một trong những cái nôi bảo tồn và phát triển nghệ thuật Khmer trong cả nước. Sự chung tay, góp sức của các thế hệ đi trước đã tạo động lực to lớn cho Nhà trường mạnh dạn hơn trong việc thực hiện nhiệm vụ đào tạo đội ngũ trí thức chất lượng cao cho cộng đồng.
Có thể nói, sự ra đời của Trường ĐH Trà Vinh cùng các ngành học liên quan lĩnh vực văn hóa – nghệ thuật Khmer Nam Bộ là một thuận lợi quan trọng góp phần đẩy mạnh công tác đào tạo đội ngũ trí thức lĩnh vực nghệ thuật Khmer Nam Bộ trình độ cao. Trường được thành lập vào năm 2001 trên cơ sở nâng cấp Trường Cao đẳng Cộng đồng Trà Vinh. Với phương châm “Mang đến cơ hội học tập chất lượng cho cộng đồng”, Trường thiết kế, xây dựng và thực hiện các chương trình đào tạo, kể cả các chương trình liên thông và các khóa học phù hợp với nhu cầu phát triển cộng đồng được Bộ Giáo dục & Đào tạo phê duyệt. Trên cơ sở xác định nhu cầu thực tiễn của địa phương – vùng đất có đông đồng bào Khmer sinh sống, Trường đã mạnh dạn đề nghị và được Bộ Giáo dục & Đào tạo cấp phép tuyển sinh trong cả nước các ngành đào tạo từ bậc Cao đẳng, Đại học và Sau đại học các lĩnh vực văn hóa – nghệ thuật Khmer Nam Bộ. Tháng 10/2013 vừa qua, tại Công văn số 8425/VPCP-KGVX của Văn phòng Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý chủ trương đầu tư xây dựng Khoa Ngôn ngữ - Văn hóa - Nghệ thuật Khmer Nam Bộ thuộc Trường ĐH Trà Vinh thực hiện nhiệm vụ trọng điểm quốc gia đào tạo nguồn nhân lực về Ngôn ngữ - Văn hóa - Nghệ thuật Khmer Nam Bộ. Sự đầu tư mạnh mẽ của Nhà nước về các nguồn lực: nhân sự, cơ sở vật chất, tài liệu giảng dạy,… sẽ thúc đẩy Trường ĐH Trà Vinh phát triển thành một địa chỉ đào tạo nguồn nhân lực chất lượng, phục vụ cho công cuộc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, đặc biệt văn hóa dân tộc Khmer Nam Bộ, góp phần thực hiện thành công các đề án Thủ tướng Chính phủ đã ban hành. Riêng mảng đào tạo ngành Biểu diễn Nhạc cụ Truyền thống Khmer Nam Bộ, với mong muốn khuyến khích các thí sinh dự tuyển/cử tuyển và tham gia học tập, ngay từ khóa tuyển sinh đầu tiên, Nhà trường đã chủ động xây dựng và thực hiện các chính sách ưu tiên cho các thí sinh trúng tuyển và nhập học bao gồm cấp học bổng trọn gói học phí cho toàn khóa học, miễn 100% tiền ở Ký túc xá của Trường (không tính điện, nước, …), hỗ trợ sinh hoạt phí mỗi tháng 450.000đ/1 tháng/01 sinh viên (10 tháng/năm học) và hưởng các chế độ ưu đãi, học bổng khuyến khích học tập và các chế độ khác theo quy định hiện hành. Trước khi Quyết định số 41/2014/QĐ-TTg ngày 21/7/2014 của Thủ tướng Chính phủ ban hành, nguồn kinh phí thực hiện các chính sách trên chủ yếu được trích từ nguồn thu của Nhà trường, đến nay Trường đã thực hiện đều đặn cam kết này qua ba khóa tuyển sinh. Sự hỗ trợ rất thiết thực và hiệu quả dành cho đối tượng sinh viên ngành Biểu diễn Nhạc cụ Truyền thống Khmer Nam Bộ của Nhà trường đã tạo động lực cho các bạn sinh viên yên tâm học tập và gắn bó với nghệ thuật hơn.
Từ tháng 10/2014, với mục đích tạo môi trường để sinh viên phát triển các kĩ năng chuyên môn gắn với chuyên ngành đào tạo, Khoa Ngôn ngữ - Văn hóa – Nghệ thuật Khmer Nam Bộ đã tổ chức nhóm Biểu diễn Nhạc cụ Dân tộc, hằng tuần biểu diễn dàn nhạc Ngũ âm tại Trường vào sáng thứ Bảy. Hoạt động biểu diễn của nhóm nhạc vừa tạo cơ hội thực tế để sinh viên luyện tập kĩ năng biểu diễn, phát huy năng lực, sở trường biểu diễn nhạc cụ; vừa góp phần duy trì và phát triển loại hình biểu diễn nghệ thuật truyền thống đậm chất dân gian – dân tộc, mang tính đặc trưng của Nam Bộ, góp phần quảng bá giá trị văn hóa truyền thống dân tộc đến bạn bè quốc tế.
Sự tham gia của sinh viên trong ngành nghệ thuật Khmer Nam Bộ hiện nay tại Trường cũng là một lợi thế, đa số các bạn đang theo học ngành Biểu diễn Nhạc cụ Truyền thống Khmer Nam Bộ là người Khmer, xuất thân từ các đoàn nghệ thuật của các địa phương ở khu vực ĐBSCL nên có vốn ngôn ngữ mẹ đẻ, ít nhiều có năng khiếu và niềm đam mê nghệ thuật, đồng thời đã trải qua quá trình được truyền nghề từ các nghệ sĩ, nghệ nhân trong dân gian.
2.2.2. Khó khăn
Nhìn chung, mặt bằng dân trí của người Khmer Nam Bộ hiện nay còn thấp so với mặt bằng chung của các dân tộc khác ở khu vực cũng như của cả nước. Theo số liệu điều tra dân số và nhà ở năm 2009 của Tổng cục Thống kê, tỉ lệ người Khmer trên 15 tuổi không có trình độ chuyên môn kĩ thuật là 97,6%, tỉ lệ người Khmer có trình độ cao đẳng, đại học là khoảng 1%, trong đó đa số là giáo viên, còn các lĩnh vực ngành nghề khác rất ít người có trình độ Đại học, Cao đẳng. Đối với lĩnh vực nghệ thuật Khmer Nam Bộ nói chung, Biểu diễn Nhạc cụ Truyền thống Khmer Nam Bộ nói riêng, hiện nay hầu như chưa có nguồn lao động được đào tạo chính quy, chuyên nghiệp từ bậc Cao đẳng trở lên.
Về số lượng và cơ cấu đào tạo, tính trên phạm vi cả nước cho đến thời điểm hiện nay, ở Việt Nam mới có duy nhất Trường ĐH Trà Vinh tuyển sinh và đào tạo ngành nghệ thuật Khmer Nam Bộ ở bậc Đại học. Tuy nhiên, Nhà trường cũng mới dừng lại ở việc đào tạo một chuyên ngành là Biểu diễn Nhạc cụ Truyền thống Khmer Nam Bộ, bậc Đại học. Qua ba khóa tuyển sinh (từ năm học 2012 – 2013), tổng số lượng sinh viên đang theo học ngành này tại Trường cũng rất khiêm tốn. Cụ thể như sau: Khóa học 2012 – 2017: thi tuyển 02, cử tuyển 08; Khóa học 2013 – 2018: thi tuyển 02, cử tuyển 05; Khóa học 2014 – 2019: thi tuyển 03, cử tuyển 00. Tổng số: 20, bao gồm: thi tuyển 07, cử tuyển 13. (Nguồn: Số liệu Phòng Đào tạo – Trường ĐH Trà Vinh cung cấp)
Trong khi đó, dự báo nhu cầu lao động về ngành nghệ thuật Khmer Nam Bộ được đào tạo trình độ Đại học, Cao đẳng ở khu vực ĐBSCL khá cao, cụ thể như sau: Trung tâm văn hóa các cấp: 415 người; Bảo tàng: 52 người; Các đoàn nghệ thuật Khmer: 60 người; Các đoàn nghệ thuật khác: 40 người; Đài Phát thanh - Truyền hình: 54. Tổng số: 621 người. (Nguồn: Ủy ban Nhân dân tỉnh Trà Vinh, 8/2013; tr14)
Như vậy, nếu đúng tiến độ thì đến năm 2017 Việt Nam mới có những cử nhân chuyên ngành Biểu diễn Nhạc cụ Truyền thống Khmer Nam Bộ đầu tiên tốt nghiệp. Tổng cộng ba khóa đào tạo đến năm 2019 (giả sử số sinh viên vào học và tốt nghiệp là bằng nhau), mới có được 20 lao động nghệ thuật Khmer Nam Bộ trình độ Đại học, đáp ứng chỉ khoảng hơn 3% nhu cầu xã hội. Qua đó cho thấy có một nghịch lí trong cơ cấu đào tạo ở Việt Nam hiện nay, trong khi nhiều ngành nghề khác đang có sự mất cân đối lớn giữa cung vượt quá cầu, thì riêng trong ngành nghệ thuật Khmer Nam Bộ lại diễn ra theo chiều hướng ngược lại, tồn tại sự thiếu cân bằng lớn giữa nhu cầu và thực tiễn đào tạo nghệ thuật Khmer Nam Bộ. Nói cách khác, giáo dục Việt Nam đang thiếu một nguồn cung cấp nhân lực về nghệ thuật Khmer Nam Bộ cho xã hội cả về chất lẫn về lượng.
Về chất lượng đào tạo, chất lượng đào tạo của ngành học phụ thuộc vào nhiều nhân tố như chương trình đào tạo, giáo trình, tài liệu giảng dạy, đội ngũ cán bộ giảng dạy, người học, cơ sở vật chất phục vụ công tác giảng dạy,… Trong đó, nhân tố con người - người dạy và người học - là hạt nhân quyết định chất lượng dạy và học. Hiện nay, đội ngũ giảng dạy nghệ thuật Khmer Nam Bộ cũng gặp rất nhiều khó khăn, vừa thiếu những người có cả trình độ lí luận và thực tiễn cao về nghệ thuật Khmer Nam Bộ; vừa thiếu các chuyên gia có am hiểu, có khả năng và đủ điều kiện theo quy định của Nhà nước để giảng dạy, hướng dẫn và viết các giáo trình chuyên ngành về nghệ thuật Khmer Nam Bộ. Về người học, như đã trình bày ở trên, đa số các em là người Khmer, do vậy rất có lợi thế cho việc truyền dạy kiến thức nghệ thuật Khmer, nhưng lại hạn chế trong việc tiếp thu phần lí thuyết được giảng dạy bằng tiếng phổ thông. Một giảng viên chuyên ngành Lí luận âm nhạc đang dạy thỉnh giảng các lớp Đại học Biểu diễn Nhạc cụ Truyền thống Khmer Nam Bộ tại Trường ĐH Trà Vinh cho biết, đối với các em Khmer có năng khiếu và kĩ năng biểu diễn nhạc cụ Khmer Nam Bộ thì việc tiếp thu kiến thức lí luận âm nhạc chậm hơn so với các em người Kinh không có kĩ năng biểu diễn hoặc chưa được truyền nghề từ dân gian.
(Các nhạc công trẻ của đoàn nghệ thuật tổng hợp Khmer Bạc Liêu. Nguồn: www.baobaclieu.vn)
Về đội ngũ giảng dạy, đội ngũ các nghệ nhân, nghệ sĩ am hiểu sâu sắc và có khả năng biểu diễn thành thạo về một hoặc một số loại hình nghệ thuật của người Khmer Nam Bộ càng ngày càng ít. Số lượng Nghệ sĩ Ưu tú trong lĩnh vực này hiện nay còn chưa đến 10 người, đa số những người còn lại cũng đã lớn tuổi, sức yếu. Các nghệ nhân, nghệ sĩ chủ yếu hoạt động trong các đoàn nghệ thuật Khmer tiêu biểu ở khu vực ĐBSCL như Đoàn Nghệ thuật Khmer Ánh Bình Minh (Trà Vinh) và Đoàn Nghệ thuật Khmer tỉnh Sóc Trăng, Đoàn Nghệ thuật Tổng hợp Khmer Bạc Liêu, Đoàn Nghệ thuật Khmer Kiên Giang; hay lãnh đạo của một số Sở, Ban, Ngành. Vì vậy, họ ít có điều kiện tham gia vào công tác giảng dạy và đôi khi cũng khó đạt các yêu cầu về chuẩn trình độ bằng cấp theo quy định của Nhà nước để tham gia giảng dạy ở các trường đại học, cao đẳng.
Về chương trình đào tạo, chương trình đào tạo Biểu diễn Nhạc cụ Truyền thống Khmer Nam Bộ hiện nay của Trường ĐH Trà Vinh được thiết kế dựa trên chương trình khung của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Tuy nhiên, từng ngành nghề, mỗi địa phương lại có những đặc thù riêng, trong khi các chương trình khung của Bộ chưa đáp ứng được tính linh hoạt, tính mềm dẻo, tính đặc thù. Do vậy, khi áp dụng vào thực tiễn giảng dạy còn gặp nhiều khó khăn trở ngại cho cả người học lẫn người dạy, ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo.
Trên cơ sở phân tích các thực trạng trên, chúng tôi rút ra một số kết luận về thực trạng đào tạo nguồn nhân lực nghệ thuật Khmer Nam Bộ ở khu vực ĐBCL hiện nay như sau:
Thứ nhất, đào tạo nguồn nhân lực nghệ thuật Khmer Nam Bộ có trình độ chuyên môn cao, kĩ năng nghề nghiệp tương ứng là một đòi hỏi cấp bách hiện nay và trong thời gian tới. Thực tế cho thấy, khả năng của các cơ sở đào tạo hiện tại không đủ đáp ứng nhu cầu học tập, nghiên cứu, nhu cầu dự kiến về số nhân lực cần được đào tạo của các lĩnh vực sử dụng lao động ngành nghệ thuật.
Thứ hai, có một sự mất cân đối rõ rệt về mặt cơ cấu đào tạo các ngành nghệ thuật Khmer Nam Bộ. Hiện nay cả nước có rất nhiều trường đào tạo về nghệ thuật, nhưng chỉ có duy nhất Trường ĐH Trà Vinh đào tạo về nghệ thuật Khmer Nam Bộ. Trong đó, mới chỉ dừng lại ở việc đào tạo nghệ thuật biểu diễn nhạc cụ truyền thống Khmer Nam Bộ mà chưa thực hiện đào tạo các mảng khác như âm nhạc, mĩ thuật, múa Khmer Nam Bộ,…
Thứ ba, hoạt động đào tạo còn một số khó khăn như: thiếu đội ngũ giáo viên đáp ứng quy định giảng dạy của Bộ Giáo dục và Đào tạo; thiếu các giáo trình chuyên ngành; người học chưa mặn mà với các ngành nghệ thuật Khmer Nam Bộ.
Qua ba năm thực hiện tuyển sinh và đào tạo ngành Biểu diễn Nhạc cụ Truyền thống Khmer Nam Bộ, chúng tôi cho rằng những khó khăn này bắt nguồn từ một số nguyên nhân chủ yếu sau:
Trước hết, đây là ngành học “kén” cả người dạy và người học, đòi hỏi sự đầu tư, hỗ trợ lớn của Nhà nước. Kinh phí Nhà nước dành cho đào tạo, bồi dưỡng nhân lực có trình độ lí luận nghệ thuật Khmer Nam Bộ hằng năm còn rất hạn chế.
Thứ hai, sự nhận thức và hiểu biết của xã hội về nghệ thuật Khmer Nam Bộ còn hạn chế, dẫn đến việc lựa chọn ngành nghề đào tạo chưa tương xứng với vai trò, vị trí của ngành nghề trong xã hội.
Thứ ba, các cơ quan quản lí nghệ thuật ở trung ương và các địa phương có đông người Khmer sinh sống chưa phát huy hết vai trò và năng lực của mình trong công tác tổ chức và quản lí đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho ngành như thiếu sự phân công, phân cấp, thiếu sự phối hợp nhằm huy động mọi nguồn lực xã hội cho hoạt động này.
2.3. Một số giải pháp đề xuất
Xuất phát từ thực trạng và những nguyên nhân trên, để công tác đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực nghệ thuật Khmer Nam Bộ đạt hiệu quả cao, chúng tôi cho rằng cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó đề xuất một số giải pháp sau:
Thứ nhất là nhóm giải pháp về cơ chế, chính sách hỗ trợ. Đây là ngành học đặc thù, phục vụ đời sống tinh thần, nhằm phát triển toàn diện những phẩm chất, nhân cách, tâm hồn con người Việt Nam nên Nhà nước cũng như các cơ sở giáo dục cần ưu tiên đầu tư và có những cơ chế chính sách hỗ trợ thích hợp.
Vừa qua, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành chính sách hỗ trợ tài chính nhằm khuyến khích đối với người học, thiết nghĩ cũng nên tiếp tục xây dựng và ban hành chính sách hỗ trợ cụ thể đối với người dạy các ngành nghệ thuật Khmer Nam Bộ nói riêng, của các dân tộc thiểu số nói chung. Hiện nay, chúng ta cũng đã có những chính sách hỗ trợ phụ cấp nhà giáo dành cho giáo viên giảng dạy ở các Bộ môn, Khoa, Trường sư phạm, hay giáo viên giảng dạy các môn chính trị. Vậy, nên chăng có thể có những ưu đãi tương tự đối với giáo viên thuộc khối ngành nghệ thuật Khmer? Bởi lẽ, những giảng viên đang giảng dạy các khối ngành nghệ thuật nói chung, đối với ngành Biểu diễn Nhạc cụ Truyền thống Khmer Nam Bộ tại Trường ĐH Trà Vinh nói riêng đang góp phần thiết thực cùng cộng đồng thực hiện nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ giáo dục, từ đó thúc đẩy xã hội phát triển bền vững.
Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần có quy định riêng về trình độ chuẩn của giảng viên khối ngành nghệ thuật Khmer Nam Bộ. Bởi, các nghệ nhân, nghệ sĩ thường không có bằng Thạc sĩ, Tiến sĩ theo quy định. Nhưng đây là lực lượng quan trọng đảm bảo chất lượng đào tạo các ngành nghệ thuật ở các cơ sở giáo dục nghệ thuật. Vì vậy, cần có chính sách, chủ trương phù hợp nhằm thu hút, khuyến khích các nghệ sĩ, nghệ nhân tham gia công tác đào tạo.
- Thứ hai là nhóm giải pháp về tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của mọi tầng lớp nhân dân. Như đã phân tích, học sinh cũng như phần đông phụ huynh, gia đình chưa quan tâm đến ngành nghệ thuật này phần lớn còn là do yếu tố tâm lí. Vì vậy, cần có các biện pháp hiệu quả tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức của mọi tầng lớp nhân dân, của toàn xã hội đối với ngành nghệ thuật Khmer Nam Bộ. Cụ thể, thành lập các câu lạc bộ nghệ thuật Khmer Nam Bộ ở các trường có đông người Khmer theo học, các trường dân tộc nội trú ở các tỉnh thuộc khu vực ĐBCL, ở các địa phương có đông người Khmer sinh sống; tổ chức các cuộc thi (sáng tác, biểu diễn), hội diễn nghệ thuật, các diễn đàn, hội nghị, hội thảo nghiên cứu về nghệ thuật Khmer Nam Bộ. Qua đó, vừa góp phần nâng cao nhận thức của nhân dân vừa góp phần gìn giữ và pháp huy các loại hình nghệ thuật này một cách hiệu quả.
Thứ ba là nhóm giải pháp đào tạo nguồn nhân lực giảng dạy. Cần tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên giảng dạy; hoàn thiện các giáo trình về nghệ thuật Khmer Nam Bộ; tiếp tục đầu tư xây dựng các chương trình đào tạo về nghệ thuật Khmer Nam Bộ.
Tóm lại, trong công tác đào tạo, thiết nghĩ cần có sự kết hợp hài hòa giữa phương thức đào tạo chính quy với phương thức truyền nghề của dân gian.
3. Kết luận
Tuy vẫn còn một số bất cập về cơ cấu, chất lượng đào tạo, nhưng chúng tôi cho rằng, với sự chỉ đạo sâu sát của các cấp, sự chung tay của cộng đồng và sự quyết tâm của các cơ sở đào tạo, vấn đề phát triển nguồn nhân lực lĩnh vực nghệ thuật Khmer Nam Bộ sẽ tiếp tục đạt được nhiều thành tựu trong thời gian tới, góp phần thực hiện hiệu quả công tác bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa cốt lõi trong cộng đồng người Khmer Nam Bộ, góp phần đưa ĐBSCL tiến tới phát triển ổn định và bền vững.
Chú thích:
[1] “Dù kê cần được UNESCO vinh danh”, http://laodong.com.vn/van-hoa/nha-nghien-cuu-sang-set-du-ke-can-duoc-unesco-vinh-danh-226811.bld. Truy cập ngày 22/10/2014.
[2] Quyết định số 41/2014/QĐ-TTg ngày 21/7/2014 của Thủ tướng Chính phủ, Về chế độ ưu đãi đối với học sinh, sinh viên các ngành nghệ thuật truyền thống và đặc thù trong các trường văn hóa - nghệ thuật, trang 3.
Tài liệu tham khảo
- Trần Văn Bính (2004), Văn hóa các dân tộc Tây Nam Bộ - Thực trạng và những vấn đề đặt ra, NXB Chính trị Quốc gia, HN.
- Thư Các, “Đào tạo nguồn nhân lực cho sân khấu truyền thống Khmer Nam Bộ: Cần sự đầu tư đúng mức”, nguồhttp://baobaclieu.vn/newsdetails/1D3FE182F19/Dao_tao_nguon_nhan_luc_cho_san_khau_truyen_thong_Khmer_Nam_bo_Can_su_dau_tu_dung_muc.aspx. Truy cập ngày 22/10/2014.
- Bùi Thế Cường (2010), Khoa học xã hội vùng Đồng bằng sông Cửu Long góp phần vào sự phát triển vùng giai đoạn 2010 – 2015, Hội thảo Khoa học xã hội và phát triển bền vững vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
- Phạm Thị Phương Hạnh (chủ biên) (2012), Văn hóa Khmer Nam Bộ - Nét đẹp trong bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, HN.
- Nhiều tác giả (2004), Xây dựng đời sống văn hóa vùng dân tộc Khmer Nam Bộ (Kỉ yếu hội thảo khoa học), Bộ VHTT và Vụ Văn hóa-Dân tộc, Hà Nội.
- Huỳnh Thanh Quang (2011), Giá trị văn hóa Khmer vùng Đồng bằng sông Cửu Long, NXB Chính trị Quốc gia.
- Võ Văn Sen (chủ biên) (2010), Một số vấn đề cấp bách trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa của người Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long, NXB ĐHQG TP.HCM.
- Sang Sết (2014), “Dù kê cần được UNESCO vinh danh”, http://laodong.com.vn/van-hoa/nha-nghien-cuu-sang-set-du-ke-can-duoc-unesco-vinh-danh-226811.bld. Truy cập ngày 22/10/2014.
- Đinh Lê Thư chủ biên (2005), Vấn đề giáo dục vùng đồng bào Khmer đồng bằng sông Cửu Long, NXB Đại học Quốc gia TP.HCM.
- Ủy ban Nhân dân tỉnh Trà Vinh (8/2013), Đề án xây dựng Khoa Ngôn ngữ - Văn hóa - Nghệ thuật Khmer Nam Bộ - Trường Đại học Trà Vinh thực hiện nhiệm vụ trọng điểm quốc gia phục vụ đào tạo nhân lực cho đồng bào Khmer Nam Bộ.
Nguồn: Nghệ thuật âm nhạc phương Đông, Bản sắc và giá trị, NXB. ĐHQG-TP. HCM, 2014.