Ma thuật truyền sinh là một nghi thức ma thuật truyền năng lượng, năng lực sinh sôi nảy nở của chủ thể tới đối tượng thụ hưởng nhằm kích động, nhắc nhở, mời gọi, dạy bảo đối tượng về chính điều này. Kết quả của ma thuật truyền sinh là làm biến đổi sự vật hiện tượng, nhưng theo hướng tích cực, và nhằm vào mục đích chính là sự nảy sinh (tạo ra cái mới) và sự hồi sinh, tái sinh (làm mới lại cái cũ hoặc đã chết). Chủ thể truyền sinh có thể là con người (trong chiều tác động tới tự nhiên), hoặc có thể là tự nhiên, vật linh (trong chiều tác động trở lại đến con người, cây trồng, vật nuôi - thế giới tự nhiên thứ hai).
1. Nguyên lý của ma thuật truyền sinh
Theo quan điểm của J.G.Frazer, có hai nguyên lý cơ bản làm cơ sở của ma thuật: nguyên lý mọi vật giống nhau sẽ mời gọi vật đồng loại, hay một hiệu quả sẽ tương tự như nguyên nhân của nó (quy luật của sự tương đồng); và nguyên lý những sự vật đã từng tiếp xúc với nhau sẽ tiếp tục tác động lẫn nhau, kể cả khi cuộc tiếp xúc đó đã kết thúc[1]. Nói ngắn gọn là hai nguyên lý: mô phỏng, bắt chước và tiếp xúc, lây truyền.
Nguyên lý mô phỏng, bắt chước thể hiện qua nghi thức cầu mưa dân gian bằng ma thuật giả làm mưa: Người Thái ở Quỳ Hợp (Nghệ An) tập trung nam nữ thanh niên tại bãi cỏ rộng rồi tìm đến gia đình có bà già cao tuổi nhất trong bản. Đến sân, người lĩnh xướng hát vọng lên nhà, mời bà cụ ra cầu thang trong bộ váy áo đẹp nhất. Bà nhúng hai tay vào chậu nước để sẵn và té vào những người đứng ở cầu thang, đến người cuối cùng, bà hắt cả chậu nước vào người đó[2]. Hành động này của bà mô phỏng cảnh trời mưa và có tính lây lan. Cách cầu mưa của người Khơ mú thì không chỉ là những hình thức ma thuật bắt chước diễn lại hiện tượng mưa rơi mà còn làm những điều xúi quẩy để chọc tức trời hay ma hạn hán, vì bực mình mà phải đổ mưa xuống[3]. Người Việt ở Đức Bác (Vĩnh Phúc) cầu mưa qua lễ hội đua thuyền nổi tiếng, được gọi là tiệc bơi. Người bơi xưa có lệ tay chèo đều bỏ xõa tóc và có hai, ba người cầm chèo gõ vào nhau theo nhịp phách (xưa nam giới để tóc dài, sau cắt tóc ngắn thì người ta bỏ khăn, bới tóc bù đầu và cứ thế để suốt cuộc bơi)[4].
Nguyên lý ma thuật lây lan, tiếp xúc được thể hiện rõ trong một số ví dụ như trong lễ hội mọi người thường giành nhau tranh cướp vật hèm, vật linh lúc hành lễ, với niềm tin ai bắt, lấy được sẽ gặp nhiều may mắn. Hoặc thể hiện rõ trong tục lệ chạm, xoa vào các hốc đá, trụ đá thiêng, có hình sinh thực khí hoặc hình bầu sữa, để được truyền năng lượng sinh sản và tìm kiếm sự bảo trợ, may mắn.
2. Các thành tố cấu trúc của ma thuật truyền sinh
Xét về cấu trúc, một nghi thức ma thuật truyền sinh bao gồm các thành tố: không - thời gian thực hiện nghi thức, người thực hành nghi thức, các hiện vật thiêng của nghi thức, quy tắc trình diễn nghi thức... Có thể phân loại thành ba nhóm vấn đề: quyền lực người được chọn, quyền lực các yếu tố tạo sinh, quyền lực các yếu tố đảm bảo hiệu quả của ma thuật.
Quyền lực người được chọn
Không phải ai cũng có thể làm được ma thuật, ngay cả khi đó là những người hành nghề tôn giáo. Chỉ một số ít những người được chọn, có lý do nhất định mới thực hiện được ma thuật. Quyền lực của họ trong việc tạo ra hiệu quả ma thuật đã được cả cộng đồng chấp nhận, và mạnh mẽ đến mức, không một ai “dại dột mà làm những việc trái với quyền lực đó”[5]. Người thực hiện nghi thức thường tập trung vào hai nhóm sau: người phụ nữ và cặp đôi nam nữ.
Quyền lực tính nữ - người đàn bà hữu sinh và cô gái đồng trinh
Trong ma thuật truyền sinh dân gian, đặc biệt là ở nghi thức truyền sinh cho trồng trọt, người phụ nữ đóng vai trò quan trọng. Người phụ nữ, hay người đàn bà hữu sinh, thường được đồng nhất với mẹ lúa, có khả năng ma thuật thu hút, mời gọi hồn lúa về nhà. Có thể vì phụ nữ là người đã sáng tạo ra nghề trồng trọt - nghề được ra đời từ hái lượm, nên việc hóa thân hồn lúa vào họ trở nên hết sức hiển nhiên. Cũng có thể, phụ nữ, cái đẹp là đối tượng mà hồn lúa dễ bị thu hút[6]. Ngoài ra, thiên chức đặc biệt của người phụ nữ: sinh sản và duy trì nòi giống cũng làm cho họ có quyền lực lớn trong việc tạo ra hiệu quả truyền sinh cho cây lúa, ruộng đồng.
Người đàn bà hữu sinh, và thường là chủ nhà, đáp ứng một số điều kiện nhất định mới có thể làm được mẹ lúa. Chẳng hạn, người Mạng Ư có những tiêu chuẩn chọn mẹ lúa như sau: phải là bà chủ nương, có nhiều con cái, người đàn bà đến tuổi nào đó mà không có con, đang bẩn mình thì không được phép làm mẹ lúa. Trong trường hợp bà chủ không làm được, người thay thế là một phụ nữ bên nhà chồng, tốt nhất là chị em ruột của ông chủ nương. Nếu không có chị em ruột hoặc chị em không đến được thì chị em họ của ông chủ nương, thậm chí con gái của ông cũng có thể thay thế mẹ, nhưng và tốt nhất phải là người đông con cái[7]. Sở dĩ phải lựa chọn gắt gao như vậy bởi trên nương, mẹ lúa là người thực hiện những nghi thức thiêng nhằm mời hồn lúa về, và hấp thụ năng lượng mặt trời vào hồn lúa.
Tín ngưỡng trong gieo trồng và thu hoạch mùa vụ của người Thái cũng dành sự quan tâm đặc biệt cho vai trò của mẹ lúa. Khi gieo trồng, người ta tiến hành những lễ cúng, sau đó mè kè châu hươn (bà chủ nhà) bước xuống ruộng và cấy những cây mạ đầu tiên. Đến khi lúa chín thì chính bà phải ra ruộng để xin đem hồn lúa về. Khi đó bà dùng lạt buộc ba gốc lúa lại và cắm một ta leo bên cạnh, trên kẹp ba lá bờ nạt (lá tàu bi) dùng để xua đuổi tà ma. Như vậy, mẹ lúa ở đây có quyền lực lớn trong việc: truyền sinh cho cây lúa sinh trưởng tốt (cấy những cây mạ đầu tiên); thu hút được năng lượng hồn lúa (xin hồn lúa về), và xua đuổi tà ma, bảo vệ sự sống của ruộng đồng (cắm taleo).
Ở người Việt, cũng có thể nêu ra một vài ví dụ. Chẳng hạn, trong lễ thức xuống đồng, người nông dân ở Vĩnh Phúc đã để hồn lúa hóa thân trong những nữ nông dân bình dị[8]. Hay trong một vài ví dụ khác, hình ảnh mẹ lúa hay người được lựa chọn thực hiện nghi thức ma thuật truyền sinh được hóa thân thành cô gái đồng trinh. Có vẻ như sự tinh khiết và giàu sức sống của các cô gái đồng trinh tạo ra ý niệm về cái đẹp và sự phát triển đang tiếp diễn trong các ma thuật truyền sinh. Chẳng hạn, ở Thanh Sơn - Phú Thọ, hồn lúa được hiện thân trong hình hài một cô gái chưa chồng. Người ta đặt cô lên võng cùng một bó lúa rồi rước cô về làng, ra đồng. Ở đồng, cô gái này sẽ cấy vài nhánh lúa rồi phân phát các nhánh lúa cho mọi người để lấy may[9].
Quyền lực cặp đôi nam nữ - đôi vợ chồng hoặc đôi nam thanh nữ tú
Khi tiến hành các nghi thức ma thuật truyền sinh, quyền lực tối quan trọng nhiều khi thuộc về cặp đôi nam nữ. Cặp đôi ấy, vừa mang tính biểu tượng, lại vừa như một thứ công cụ để truyền cảm hứng cho tự nhiên về sự sinh sôi nảy nở. Dẫn chứng cho điều này có thể tìm thấy nhiều ở dòng lễ hội ma thuật vật hèm. Chẳng hạn như ở làng La Cả (xã Dương Nội, Hoài Đức, Hà Nội) xưa có tục khi rã hội (tan đám, hội tổ chức vào mồng 7 tháng giêng), vị bô lão chủ trì chậm rãi đánh 3 hồi trống, rồi đến 3 hồi chiêng, và trong khoảng thời gian đó, đèn đuốc được tắt hết, mọi điều cấm kỵ được lâm thời hủy bỏ, thanh niên nam nữ được tự do tiếp xúc với nhau… Ý nghĩa của tục này là ở chỗ sự hợp thân tự nhiên của nam nữ trên đất cỏ được xem như một hành động mang tính cách ma thuật truyền sinh, có tác dụng kích động, nhắc nhở thiên nhiên, đất trời sinh sôi, nảy nở[10]. Ở lễ hội miếu Trò, xóm Trám, xã Tứ Xã, Lâm Thao, Phú Thọ thì khi lễ mật tắt đèn, sẽ xướng diễn trò linh tinh tình phộc: trước linh vị thần nõ nường, đôi trò (nam, nữ) sẽ cầm vật hèm - nam cầm nõ, nữ cầm nường… Theo lệnh tuần tự của mỗi lần hô: “linh tình tình phộc” của ông chủ tế, đôi trò vừa múa (đứng tại chỗ, hai tay cầm vật hèm đưa sang đưa về) vừa hát. Nữ cầm cái nường đưa lên, nam cầm nõ phộc vào. Phải làm ba lần như thế (trong đêm tối chủ tế nghe cạch đủ ba tiếng), đèn sáng lại. Phút ấy gọi là phút thiêng, dập chiêng trống để mừng và kính cáo với thần linh thiên địa biết lễ mật tắt đèn đã thành công. Sau đó chủ tế dẫn đầu đám trò chạy quanh miếu ba vòng, ngược chiều kim đồng hồ, theo sau là dân làng vừa chạy vừa la hét và gõ dùi vào mẹt để đuổi ma quỷ trừ hiểm họa cả năm cho dân làng, cùng mùa màng cây trái và gia súc...[11]. Như vậy, ở lễ hội này rất nhiều cặp đôi nam nữ, cặp vợ chồng cùng tham gia thực hiện nghi thức ma thuật, sức mạnh lưỡng hợp nõ nường, âm dương được nhân lên nhiều lần, đảm bảo cho tính hiệu lực của ma thuật trở nên tuyệt đối.
Trong hội cũng chứa đựng nhiều hành vi, nghi thức mang ý nghĩa ma thuật truyền sinh. Chẳng hạn như tục chơi đu trong ngày hội xuân của người Việt mang ý nghĩa giao cảm phồn thực rõ rệt. Điệu nhảy phồn thực của trai gái bên cây hoa thiêng sang bók trong lễ hội xăng khan của người Thái cũng có ý nghĩa như vậy[12]. Nếu đặt điệu nhảy này trong một hệ thống các biểu tượng sinh sản trên cây hoa (hoa, các loài chim, muông thú, bông lúa, nhánh khoai sọ…), cùng nghi thức truyền sinh sau điệu nhảy: nghi thức chia hoa (một nửa số hoa vãi ra ruộng, một nửa chia cho mọi người lấy may) thì có thể thấy rõ tính ma thuật của lễ hội này.
Vì hướng tới sự lây lan, truyền sinh trên diện rộng nên quyền lực người được chọn được khai thác tối đa: sử dụng nhiều cặp đôi nam, nữ thay vì chỉ có một, hai cặp. Những hiệu ứng về hành động tính giao của số đông sẽ mang lại những trải nghiệm cuộc sống và tiệm cận tới trạng thái ngưỡng[13], là điểm nhấn để con người ta trải nghiệm về tình cảm và tâm sinh lý”[14]. Trong trường hợp này, khi tham gia vào những nghi lễ, trò diễn mang tính ma thuật truyền sinh, với những tập thể cặp đôi được lựa chọn, những cảm xúc mạnh mẽ sẽ lan tỏa tới những người tham dự, để cuối cùng, tất cả sẽ đều đạt tới trạng thái ngưỡng cộng cảm về sự hưng phấn, sinh sôi.
Quyền lực của những yếu tố tạo sinh
Bên cạnh đó, yếu tố năng lượng truyền sinh cũng có vai trò quan trọng, thậm chí tối quan trọng trong nghi thức ma thuật truyền sinh. Có thể kể đến ở đây, từ góc độ linh nhiên là mặt trời và nước, từ góc độ con người là cặp đôi sinh thực khí và hành vi tính giao…
Quyền lực của linh nhiên
Tục thờ mặt trời và tục thờ nước, những hiện tượng tự nhiên có vai trò hết sức to lớn trong cuộc sống của cư dân nông nghiệp lúa nước, được phổ biến rộng rãi ở Việt Nam rất cần cho sự sinh trưởng của vạn vật. Nếu như mặt trời (tượng trưng cho tính dương, nắng, sức nóng, ánh sáng…) có sức mạnh sản sinh thì nước (tượng trưng cho tính âm, lạnh, tươi mát…) lại có khả năng tái sinh. Cả hai đều đem lại sự sinh sôi, nảy nở. Chính vì vậy, trong các nghi thức ma thuật truyền sinh dân gian, không thể thiếu vắng quyền lực của hai yếu tố trên.
Trở lại với dẫn chứng nghi lễ trên nương của người Mạng Ư, có thể thấy rất rõ tục thờ mặt trời và các ma thuật nhằm hấp thu năng lượng mặt trời cho nương rẫy. Bắt đầu từ khâu chọc lỗ, tra hạt cho đến khi thu hoạch, các nghi thức ma thuật truyền sinh năng lượng mặt trời được tiến hành rộng khắp, thấm vào từng quy cách, tư thế, động tác lao động. Từng cặp đàn ông, đàn bà đứng đối diện nhau, xếp hàng từ bên trái lân dần sang bên phải (theo hướng ngược chiều kim đồng hồ). Người đàn ông đứng xây lưng phía núi như nhìn xuống thấp, người đàn bà nhìn lên; người đàn ông lùi để chọc lỗ, người đàn bà tiến để tra hạt, người đàn ông lùi một bước, người đàn bà tiến lên, cứ thế, lặp đi lặp lại, biểu tượng cho sự giao phối, nhằm vào sự sinh sôi nảy nở. Đến khi nghỉ, những người tham gia chọc lỗ tra hạt muốn đùa giỡn cái gì cũng được, không cần kiêng cữ, chỉ trừ một điều, gậy đặt lỗ phải đặt xuôi theo bóng mặt trời ở phía trên rẫy, không được cắm. Hành động ấy ngụ ý gậy chọc lỗ là một vật thiêng, có thể truyền năng lực mặt trời, nên bao giờ cũng thế, phải để gậy chọc lỗ xuôi theo tia sáng mặt trời, đầu tày hấp thu năng lực truyền về đầu nhọn, vì khi cắm gậy chọc lỗ xuống đất để tra hạt là đã truyền đi một chút năng lượng, nên cần phải tích thêm… Cũng vì vậy mà đến khi kết thúc thao tác chọc lỗ, tra hạt, ở góc nương bên phải, đồng bào còn tiến hành thêm một nghi lễ nữa. Mọi người xếp gậy chọc lỗ theo một thứ tự đã được quy ước ở bên ngoài nương, riêng gậy của ông chủ nương được cắm tại điểm cuối cùng của góc nương, mọi người tham gia trong buổi chọc lỗ tra hạt ngồi vòng tròn quanh cây gậy đó. Trước đó ông chủ nương lấy một số cỏ, dây buộc lên đầu tù của gậy. Mọi người nhìn lên cây gậy và thầm cầu khấn trong lòng “mong cho cây lúa phát triển cao tốt như cây gậy chọc lỗ”.
Ngày thu hoạch lúa, việc hấp thụ và truyền năng lượng mặt trời cho vựa lúa càng được tiến hành cẩn trọng hơn. Ngay khi mặt trời mới hé là bắt đầu nghi lễ thu hoạch. Cạnh dấu cấm, bà mẹ lúa dùng hai tay kéo xuống chín bó lúa khác nhau ở xung quanh. Bà đặt một cái nia con mang sẵn lên trên, tay trái giữ nia, tay phải vít chín ngọn của chín bó lúa lên nia sao cho ngọn của cả chín bông lúa ấy đều hướng về phía mặt trời mọc. Rồi bà lấy viên đá thiêng chặn lên trên. Trong khi tiến hành nghi thức ấy, bà khấn một câu đại ý mời hồn lúa về. Sau khi làm xong nghi lễ này mặt trời đã ló lên, người ta bắt đầu gặt lúa. Bà mẹ lúa đi đầu đoàn, gặt từ chỗ đặt bàn thờ (chiếc nia) theo vòng tròn ngược chiều kim đồng hồ, cứ thế đi theo hình xoáy ốc ra. Đoàn người đi sau dàn hàng ngang theo hướng đi của bà mẹ lúa. Mọi người cắt lúa thành lượm rồi đặt xuống đất, bao giờ bông cũng ở phía trước hướng về mặt trời. Cắt hết lúa thì người ta đưa lúa vào vựa (lều thóc), vào lúc giữa trưa, khoảng mười ba giờ. Những lượm lúa nào nằm gần bàn thờ trung tâm và đá thiêng thì nằm dưới, càng xa thì nằm trên, lớp xa nhất thì nằm trên cùng[15].
Tuy đã gặt xong, nhưng mẹ lúa còn phải thực hiện một nghi thức được gọi là đưa lúa xuống, sau đó mọi người mới có thể được ăn thóc mới. Người Mạng Ư quan niệm cho đến lúc này sức tỏa năng lượng của chín bó lúa đã đến mức điều hòa toàn bộ vựa lúa, nên theo nghi thức bà mẹ lúa phải ăn hết số cơm nấu từ gạo của chín bó lúa đó. Sau khi mẹ lúa ăn hết cơm nấu từ chín bó lúa, kể như là lúa đã xuống, từ lúc ấy mới được phép ăn gạo trong vựa. Từ rất sớm con người đã nhận ra sức nóng của mặt trời là nguyên nhân cho cây cối sinh trưởng, xanh tốt; sự vận động và vòng quay của mặt trời làm nên các mùa vụ gieo trồng, cấy gặt. Chính vì vậy mà con người có nhu cầu lớn trong việc “kích nóng”, “tiếp thêm lửa”, “làm giả sự vận động của mặt trời theo ý muốn của những người nông dân trồng lúa, để mặt trời thật nhìn thấy bắt chước”[16]. Bên cạnh những lễ thức nhằm hấp thụ tối đa năng lượng mặt trời, truyền sinh cho cây lúa, còn rất nhiều phong tục khác thể hiện ý nghĩa ma thuật truyền sinh, truyền năng mặt trời. Có thể kể đến tục thả cầu lửa - đèn trời, hội rước đèn trung thu, lễ rước đuốc, điệu múa đèn thờ, trò chơi cướp quả cầu đỏ, trò thả diều sáo… Ngoài ra, có khi tín ngưỡng thờ mặt trời lại được thể hiện qua những hành vi ở các lễ hội: ở hội Gióng thì hành vi rước ông Gióng về phương Đông rồi lại rước về phương Tây; hành vi múa ba ván cờ thuận, ba ván cờ nghịch, mô phỏng sự vận động của mặt trời từ Đông sang Tây (chu kỳ của ngày) và từ Tây sang Đông (chu kỳ của đêm)[17].
Cùng với ánh sáng, nước cũng có vai trò quyết định trong trồng trọt, chăn nuôi. Nước truyền cho vạn vật một nguồn dinh dưỡng đặc biệt, giúp cho mọi thứ được tiếp sức, tái sinh lúc khô hạn. Khi được tưới tắm trong thứ nước mát lành, đúng lúc, đúng thời điểm và vừa đủ mọi vật sẽ sinh trưởng tốt. Ngược lại khi không có nước hoặc khi nước đến không đúng thời điểm, nó sẽ trở thành tác dụng tiêu cực. Nước quá nhiều cũng gây ra lũ lụt, dẫn đến cảnh chết chóc, tàn phá. Do đó, con người luôn phải lo nghĩ đến việc điều tiết nguồn nước, ứng phó kịp thời với sự “đỏng đảnh” của những cơn mưa; từ đó dẫn đến tâm lý sùng bái, tôn thờ thứ nước thiêng, có khả năng mang lại sự sinh trưởng (chứ không phải thứ nước đen, thứ nước hủy diệt, tàn phá). Người ta tiến hành nhiều nghi thức ma thuật để biến thứ nước thường thành nước thiêng, có tác dụng như một dẫn chất truyền năng sự sinh sôi đến vạn vật. Ví dụ, trong nhiều dòng lễ hội ma thuật vật hèm, thường có một nghi thức đặc biệt, đó là ngâm, vứt vật hèm sinh thực khí xuống ao, hồ ở làng, rồi sau đó lấy nước từ ao, hồ này tưới cho đồng ruộng, cây cối (lễ hội thờ thần Nõ Nường ở làng Dị Nậu; lễ hội thờ bà Đụ Đị ở miếu Trò, xóm Trám, Tứ Xã; lễ hội cầu đinh ở làng Quang Húc, xã Quang Húc, Tam Nông, Phú Thọ; lễ hội ông Đùng bà Đà ở Đậu An, Hưng Yên…).
Ý nghĩa tiếp sức, truyền sinh của nước còn được thể hiện qua những hành vi chứa đựng nhiều yếu tố ma thuật, phù chú trong sinh hoạt đời thường. Chẳng hạn người Tày, Mường ở Nghệ An có tập quán cho nhau thai vào ống cây mét rồi chôn phía sau nhà, đúng chỗ nước mưa từ mái gianh chảy xuống (hó hươn) để làm mát và đem lại sức khỏe cho đứa trẻ, truyền cho đứa trẻ sự sống tốt tươi, một dạng ma thuật lây lan, tiếp xúc, đã được thực hiện thường xuyên, đối với tất cả những đứa trẻ, không phân biệt trai gái[18]. Nhiều dân tộc khác có tục lệ hứng nước mát từ các hốc đá thiêng để uống, xoa lên mặt, lên người với mong ước có thể được truyền thêm sức sống, chữa khỏi bệnh tật và đặc biệt là có thể khai hoa kết nụ, đâm chồi nảy lộc con cái. Chẳng hạn, người Việt khi đến thăm động Hương Tích đều cố hứng lấy một vài giọt sữa thiêng từ khối đá hình bầu sữa mẹ để uống, để xoa lên mặt, chân, tay… cho người thêm khỏe mạnh, xua đuổi những tai ách cũng như bệnh tật. Hầu như ai cũng tin rằng những giọt sữa ấy sẽ mang lại nhiều điều tốt đẹp cho cuộc sống của họ, mang lại con cái cho những người đàn bà hiếm muộn. Người Chăm ở miền Nam cũng thờ một khối đá hình cối xay lúa giống như linga và yoni. Không những trong lễ hội mà hàng ngày người thập phương đến lễ bái đều lấy nước chảy từ cột linga xuống ở máng yoni để làm phước lành, may mắn cho bản thân và gia đình.
Quyền lực của vật linh nõ nường
Sự phồn thực và sinh sôi nảy nở bắt nguồn từ quan hệ tính giao của cặp đôi sinh thực khí. Lẽ dĩ nhiên, người ta sẽ tôn sùng và thiêng hóa sức mạnh của cặp đôi này trong các nghi thức truyền sinh. Dương Đình Minh Sơn đã khẳng định: “Vật linh nõ nường là cơ sở của phép biến hóa ma thuật vật hèm, lời thần chú, bùa hộ mệnh, thần dược, cây âm dương”[19]. Tác giả cũng cho rằng vật linh nõ nường có thể chia thành ba nhóm: nhóm thứ nhất là nguyên gốc (sinh thực gắn liền với thân người); nhóm thứ hai là vật linh tách khỏi thân người (cặp linga và yoni) và thứ ba là nhóm biểu tượng âm - dương (chày cối, kén - mo nang…). Cũng có thể tìm thấy nhiều dẫn chứng về ma thuật truyền sinh liên quan đến ba nhóm này.
Ở nhóm thứ nhất, có thể kể đến các dạng tượng đôi nam nữ ôm nhau trong tư thế giao hoan, để lộ rõ sinh thực của nam trên thạp đồng Đào Thịnh, trên nóc cây kơlao trong lễ hội bỏ mả của vùng Tây Nguyên; tượng bà Đanh (Banh) đứng banh nường và tượng người đàn ông đứng hai tay cầm nõ nâng lên ở nhà mồ Tây Nguyên… Các tượng này chính là “vật linh trừ đuổi tà ma, bảo vệ hài cốt trong thạp hay trong nhà mồ”[20]. Đây là dạng hiện vật dùng vật hèm có ý nghĩa ma thuật, thể hiện ước vọng trừ tà và tái sinh, không đơn thuần chỉ là ngợi ca sinh thực khí và việc giao phối nam nữ.
Ở nhóm thứ hai, có thể kể đến ví dụ: các thày mo của người Kháng, Tây Bắc thường dùng vật linh dài đến 1m, cầm tay như thanh kiếm, hoặc đeo trước ngực, khi thì kẹp vào đùi thể hiện vật linh sinh thực, để làm vật hèm mang ý nghĩa ma thuật trừ đuổi tà ma, triệt tiêu hiểm họa và truyền sinh lực cho người bệnh. Người Thái khi đốt nương xong thường cắm vài cái taleo cao vút ở những gò đất cao nhất. Còn ở chính giữa - nơi dựng chòi nương, người ta trồng cả một cây taleo gồm nhiều loại như: taleo hò (taleo đơn) có một hình mắt cáo, taleo nhiều hình mắt cáo (taleo kép) và đặc biệt nhất là taleo me mải (taleo bà góa), trên dắt vào một khúc gỗ đẽo thành hình dương vật, thể hiện ước vọng phồn thực, sinh sôi mãnh liệt. Nơi mà khuyết thiếu một cuộc giao phối thật (bà góa), người ta thực hiện nghi thức ma thuật để gán ghép một sự giao phối bù lấp nhằm tạo ra hiệu quả trừ tà và sinh sôi.
Ở nhóm thứ ba có thể đề cập đến biểu tượng chày - cối (trong màn rước kiệu của lễ hội nõ nường ở làng La Khê, kiệu bà đi trước dựng cái cối, kiệu ông đi sau treo cái chày, chủ tế đi giữa, thỉnh thoảng cầm chày giã vào cối ba cái, mỗi cái lại nhay mấy nhay)[21]; biểu tượng kén - mo nang (hội Lơ làng Cọi, Vũ Thư, Thái Bình, khi xưa có trò tung kén, làm bằng những đoạn hom sắn tàu, hom dâu hoặc xoan, dài chừng 10 - 15 cm. Dân trong làng, trong vùng đi xem hội tranh nhau cướp kén đem về cắm ra ruộng, cài lên mái nhà để trấn trạch, dắt vào né kén, nong tằm với hy vọng và tin tưởng rằng mùa lúa, mùa tằm năm đó sẽ thuận lợi)[22]; biểu tượng gậy vông - mo măng (hội làng Sơn Đồng, Hoài Đức, Hà Nội có tục múa mo: dùng gậy bằng gỗ vông phộc vào mo nang (cây măng). Một ả đào tay phải cầm mo nang, tay trái cầm gậy vông, hát rồi dùng nõ phộc vào nường. Hát và múa như thế ba lần. Đám người đứng dự hội xung quanh cũng hát và hai tay làm theo biểu tượng chiếu đực - chiếu cái trải giường cho đôi vợ chồng mới cưới thường trải một chiếc sấp, một chiếc ngửa; có thể coi đây là một nghi thức ma thuật lây lan, tiếp xúc; mang tính chất như một giáo cụ trực quan dạy dỗ đôi vợ chồng về lẽ giao hợp âm - dương, thể hiện ước vọng hai người sẽ chung lưng đấu cật với nhau để xây dựng gia đình ấm êm, hạnh phúc, đông con nhiều cháu)...
3. Quyền lực của các yếu tố đảm bảo hiệu quả ma thuật
Để đảm bảo hơn về tính thiêng, kỳ bí, phép màu và tính hiệu quả khi các hành vi ma thuật diễn ra, con người còn sử dụng quyền lực mềm của sự cấm kỵ và cái đẹp.
Quyền lực cấm kỵ
Trong các nghi thức ma thuật truyền sinh, để đạt được hiệu quả tối đa và phòng tránh các rủi ro có thể xảy đến, người thực hiện phải tuyệt đối tuân thủ những cấm kỵ. Cấm kỵ, một mặt là nghiêm cấm, không được vi phạm; mặt khác, lại là buộc phải làm điều gì. Quyền lực của cấm kỵ là linh thiêng và tuyệt đối, mọi người đều phải tuân theo. Các nhân vật hành nghề tôn giáo hay những người trực tiếp thực hiện nghi thức thì càng cẩn trọng với những điều cấm kỵ, nếu không rủi ro sẽ đến với chính họ.
Khi đóng vai bà mẹ lúa, bà chủ nhà người Mạng Ư ngoài việc phải đáp ứng một số điều kiện của việc chọn lựa, còn phải tuân thủ chặt chẽ những cấm kỵ, trong suốt thời gian đóng thế. Bà phải kiêng kỵ một số món ăn trước ba ngày, không được nằm chung với chồng con, hạn chế nói to. Vào hôm gặt lúa, bà phải đi trước mọi người, và phải là người thực hiện trước tiên các nghi thức để mời hồn lúa về, sau đó những người khác mới được thu hoạch. Chính bà cũng là người đầu tiên và duy nhất ăn hết số cơm nấu từ chín bó lúa thiêng. Những người khác trong gia đình chưa được ăn gạo mới nếu như bà chưa thực hiện xong nghi thức này[23].
Có thể nói, những thao tác hành vi ma thuật mà bà chủ nương thực hiện trong suốt thời gian thu hoạch là hàng chuỗi những sự cấm kỵ. Những kiêng kỵ mà bà phải tuân thủ, sự tách biệt trong hành động thiêng mà bà phải tiến hành đều nhằm hướng đến một vai diễn quan trọng: mẹ lúa. Vì là mẹ lúa - bà phải có năng lực sinh sôi. Vì là mẹ lúa - bà phải luôn thanh khiết. Vì là mẹ lúa - bà phải luôn im lặng. Vì là mẹ lúa - bà phải là người đầu tiên ăn cơm mới, hấp thu hồn lúa, truyền sinh lực lúa xuống đất. Nếu không tuân thủ những kiêng kỵ và làm theo đúng quy trình, bà sẽ không thể trở thành mẹ lúa.
Thêm một ví dụ sinh động nữa để có thể thấy rõ quyền lực của sự cấm kỵ trong các nghi thức ma thuật truyền sinh. Khi gieo mạ, chủ nhà người Thái ở Quỳ Hợp, Nghệ An, phải cắm một taleo đan bằng lạt hình mặt trời (tượng trưng mắt của một vị thần đang trông giữ) ở đầu ruộng nhằm thông báo cho trời biết đây là nơi gia đình đã gieo mạ. Taleo đánh dấu để trời đừng thả cỏ xuống ăn mảnh ruộng. Taleo còn ngăn không cho ma ăn thóc giống vừa gieo. Hành động này xuất phát từ quan niệm truyền thống của người Thái: cây lúa bị sâu bệnh là do các then ở trên trời thả sâu xuống cắn phá mùa màng. Việc cắm taleo trong trường hợp này là để báo cho thần linh, ma quỷ biết rằng, mảnh ruộng đó đã được đặt dưới sự bảo trợ của ma bản, ma ruộng. Taleo, với người Thái, là một tín hiệu của sự cấm kỵ, một dạng truyền thông bằng hiện vật, được dùng rất phổ biến trong đời sống văn hóa.
Có thể khẳng định, bất cứ nghi thức ma thuật truyền sinh nào cũng có những quy tắc cấm kỵ buộc phải tuân theo. Cấm kỵ trở thành một thứ quyền lực mềm, không chỉ làm thiêng hóa các nghi thức diễn ra trong nghi lễ, mà còn là một phương tiện hữu hiệu để củng cố niềm tin ma thuật. Những quy định chặt chẽ về thao tác hành vi, số lần lặp lại của hành động đôi nam nữ trong lễ thức linh tinh tình phộc[24]; sự bắt buộc phải đánh thủng mặt trống trong lễ hội để cầu mưa với hàm ý cuộc giao hợp âm dương đã thành[25]; hành động của “hàng trai cầm gậy (hay gươm gỗ), hàng gái cầm đệm, sau những tiếng hú, những lời tục, trai nhất loạt thọc gươm, gái nhất loạt giơ đệm ra đón”[26] của thanh niên nam nữ Thái trong lễ thức bên cạnh cây hoa thiêng… là những biểu hiện muôn mặt của thứ quyền lực mềm ấy.
Vậy, tại sao lại phải tuân thủ những quy trình này chặt chẽ đến vậy (thậm chí, trong nhiều trường hợp, người thực hiện cũng không hiểu/ không lý giải được). Một lý do vô cùng quan trọng ẩn dưới tầng lớp các quy định ngặt nghèo ấy chính là sự lo sợ về những rủi ro có thể xảy đến và tâm lý đề phòng sự bất trắc rất có thể sẽ diễn ra. Đúng như quan điểm mà Malinowski đã nói tới, rằng ma thuật được tiến hành khi một quá trình nào đó được coi là không chắc chắn hoặc mạo hiểm (ví dụ rõ nhất là những chuyến ra khơi đánh cá luôn kèm theo cầu khấn trong khi câu cá trong các vũng đảo lại không); và rằng trong môi trường càng bất trắc và kết quả càng bấp bênh thì con người càng có xu hướng cần đến lễ nghi, phù phép[27]. Tư tưởng này càng nổi rõ trong nền tảng lý thuyết an ninh con người của Oscar Salemink: xem nghi lễ và ma thuật như là một sự tìm kiếm chủ động bên trong xuất phát từ những mưu cầu về an ninh của con người[28]. Vũ Hồng Thuật cũng tiếp cận các phương thức kiểm soát sự bất an thông qua các nghi lễ ma thuật và bùa chú. Ông cho rằng hiệu quả của việc kiểm soát bất an này chỉ đạt được khi những chủ thể tuân theo đúng những quy trình và nguyên tắc của hiện vật thiêng[29].
Vậy khi đã tuân thủ chặt chẽ đến vậy nhưng nếu bất trắc vẫn xảy đến, con người sẽ rà soát lại toàn bộ quy trình thực hiện nghi thức, và thể nào, họ cũng tìm thấy một sơ hở trong khâu nào đó. Có thể là sai sót trong việc chế tác, bảo quản hiện vật thiêng, hay là việc thực hiện nghi thức không chuẩn chỉnh, hoặc đơn giản chỉ là khi đang tiến hành ma thuật thì đã có một điềm báo xấu xảy đến. Và do đó, tính cấm kỵ hay những yêu cầu bắt buộc phải tuân theo khi thực hiện nghi thức càng trở nên chặt chẽ, nghiêm ngặt hơn trong những lần tiếp theo. Tính linh nghiệm cũng như vai trò của ma thuật càng được củng cố thêm ngay trong chính những tình huống ma thuật bất thành.
Quyền lực cái đẹp
Alfred Gell cho rằng, những hiện vật đẹp cũng có ý nghĩa ma thuật. Ông nhấn mạnh: cái đẹp của nghệ thuật (hoặc nghệ thuật của những hành động ma thuật, của một vật ma thuật) như là chiếc chìa khóa mở vào tính công năng của ma thuật[30]. Từ quan điểm đó, soi chiếu trong ma thuật truyền sinh, có thể nhận thấy cái đẹp trở thành một thứ quyền lực xuyên suốt hầu khắp cấu trúc nghi lễ. Cái đẹp ở đây không đơn thuần chỉ ở phương diện thẩm mỹ mà còn hướng đến sự hoàn hảo. Đẹp, hoàn hảo mục đích không phải chỉ để trang trí. Đẹp, hoàn hảo là nhằm “thu hút các vị thánh và dụ dỗ thánh thần chiều theo ý nguyện của con người”[31]. Ở đây, có một tâm lý được con người áp dụng trong cách ứng xử với thần linh: nếu con người thấy đẹp và yêu thích cái đẹp ấy, hẳn thần linh cũng cảm thấy như vậy. Và khi đã nhận được sự chú ý, thiện cảm từ các vị thánh thần, việc cầu xin sẽ trở nên dễ dàng hơn, sự phù trợ cũng sẽ dễ thành hiện thực hơn.
Cái đẹp được khai thác triệt để từ việc lựa chọn hình ảnh thể hiện nhân vật trọng tâm của nghi lễ (lễ cầu mưa của người Thái với là bà già trong bộ trang phục đẹp nhất, đứng ở cầu thang và thực hiện nghi thức ma thuật bắt chước ông trời làm mưa; điệu múa đèn ở lễ hội làng Nhân với nghi thức dâng lửa cho mặt trời được thực hiện bởi các cô gái đồng trinh xinh đẹp, uyển chuyển, nhịp nhàng, huyền ảo như những ngôi sao lửa đầy mê hoặc; những cặp nam thanh nữ tú trong lễ hội xăng khan của người Thái…); đến sự chau chuốt để đạt độ hoàn hảo trong việc chế tác hiện vật nghi lễ (cây hoa thiêng sang bók của người Thái, tượng nhà mồ Tây Nguyên, tượng ông Đùng bà Đà trong lễ hội ở làng Đậu An, Hưng Yên…) và ở nghệ thuật diễn xướng trong suốt quá trình diễn ra nghi lễ (những hành động ước lệ tượng trưng cho hoạt động tính giao ở lễ hội nõ nường, hát, múa trong lễ cầu mưa, lễ xăng khan Thái…).
Cái đẹp, sự hoàn mỹ, sự hoàn hảo là đích đến của mọi thành tố ma thuật truyền sinh. Quy trình chặt chẽ của nghi lễ, với những cấm kỵ vi phạm và bắt buộc tiến hành: về số lần thực hiện hành vi (luôn là số lẻ - số sinh 3, 5, 9…), về việc sắp đôi nam nữ vợ chồng theo chiều kim đồng hồ (đón nhận năng lượng sinh từ mặt trời), về việc trải chiếu trong lễ hợp cẩn (một sấp một ngửa - giao hòa âm dương)… Từ sự chặt chẽ đó, có thể thấy, cái đẹp của ma thuật nghi lễ khác với cái đẹp thẩm mỹ thông thường. Nó phải là sự kết hợp của các yếu tố: cái đẹp trong trang trí hình thức với cái đẹp của sự chuẩn xác linh thiêng thể hiện mục đích của nghi lễ: thu hút sự chú ý, gây thiện cảm, thậm chí dụ dỗ thần linh, nhằm hướng đến sự phù trợ tối đa của thánh thần. Nên khi chỉ một yếu tố không tuân theo quy luật của sự chuẩn xác cũng có thể dẫn tới phá vỡ sự hoàn hảo, đồng nghĩa với việc nghi lễ sẽ không có được hiệu quả tối đa.
Để chứng minh cho điều này, chúng tôi sẽ nói sâu hơn về hình ảnh cây hoa thiêng trong lễ xăng khan của người Thái. Thân cây là một cây tre, trên đục nhiều lỗ để cắm các cành là chuỗi những bông hoa gọt bằng gỗ hoặc đan bằng lạt tre và những vật khác nhau (cũng bằng lạt tre hoặc bằng gỗ), gồm: chim, ếch, cá, rắn, cày, bừa, bè, thuyền, giỏ củ gừng, nải chuối, bông lúa, bắp ngô, giỏ cá khô… Cạnh gốc cây đặt một vài ché rượu cần, cây chuối, mía, riềng, quýt, sổ và hoàng anh - những loại cây thường được nêu trong các bài cúng khi mô tả về khung cảnh của thiên giới, nơi ngự của các phi môn.
Có thể thấy, một cây hoa nghi lễ được hoàn thành phải cần tới tâm sức của nhiều người, đặt dưới sự giám sát, chỉ đạo của ông thày mo. Cây hoa là vật của phi môn, nên rất linh thiêng. Tính thiêng ấy không phải chỉ vì nó được sử dụng trong nghi lễ, mà còn bởi ở mỗi một giai đoạn liên quan đến cây hoa - từ việc kiếm nguyên liệu, chế tác, dựng cây, đến quá trình sử dụng trong nghi lễ và cả khi được tháo dỡ - đều có các nghi thức kèm theo. Tức là tất cả các khâu quan trọng liên quan đến cây hoa đều có yếu tố thiêng[32]. Đặc biệt, trước khi nghi lễ chính thức bắt đầu, thày cúng còn thực hiện nghi thức kiểm tra cây hoa. Nếu nghi thức kiểm tra này thành công, có nghĩa là thần linh hài lòng với lễ vật của những đệ tử. Nhưng “không phải phi nào cũng chấp nhận cây hoa ngay đâu. Đôi khi ngài cũng phát hiện thấy thiếu thứ này thứ nọ và chủ nhà phải bổ sung ngay”. Tuy nhiên, “nói chung, phi thường khen cây hoa đẹp, khen các đệ tử khéo tay đã cắt tỉa được nhiều bông hoa, làm được nhiều con vật, có nhiều vật dụng…”. Theo những người thày cúng, cây hoa là thành quả của thế giới trần tục dâng thế giới siêu nhiên. Cây hoa càng đẹp có nghĩa là trần gian của chúng ta rực rỡ muôn màu, cây cối tốt tươi. Cây hoa có nhiều chi tiết là để chứng tỏ với thần linh về sự phồn vinh của thế giới chúng ta[33]. Và cây hoa cũng là trung tâm của lễ xăng khan. Mọi nghi thức của lễ đều diễn ra xung quanh cây hoa (đóng vai trò như bàn thờ phi): cầu cúng phi, dâng lễ vật, trình diễn các màn múa nghi lễ đậm màu sắc ma thuật truyền sinh…
4. Kết luận
Từ tất cả những điều trên, chúng tôi đưa ra một số kết luận về nghi thức ma thuật truyền sinh trong đời sống văn hóa dân gian Việt Nam từ xưa tới nay:
Ma thuật truyền sinh là một loại hình văn hóa, phản ánh rõ nhu cầu, mục đích, khao khát tạo sinh nhằm đảm bảo sự sinh tồn cho cuộc sống của con người.
Ma thuật truyền sinh là một minh chứng thuyết phục cho niềm tin cảm tất thông, cầu tất ứng của con người trong nghi lễ. Nếu sự cầu xin thuần túy trong nghi lễ phản ánh một tâm thế thụ động, trông chờ, phần nào đó bé mọn, thậm chí bất lực của con người trước các lực lượng tự nhiên và siêu nhiên, thì việc thực hiện các hành vi ma thuật tích cực lại thể hiện thế chủ động trong việc tìm cách thức, tận dụng mọi phương tiện (mô phỏng, bắt chước, tiếp xúc, lây lan) để kích sinh cho thế giới ấy, buộc chúng phải sinh sôi, nảy nở. Điều thú vị nằm ở chỗ, từ tính thực tiễn (tính mục đích) của nghi lễ, từ lối tư duy tổng hợp của cư dân nông nghiệp luôn tâm niệm về mối quan hệ đa chiều, đa tầng của thế giới, con người chọn cách kích sinh để buộc tự nhiên phải thực hiện những mong muốn của mình. Không chỉ là chiêng, trống hay những cặp đôi sinh thực khí hoặc những nghi thức diễn ra trong phạm vi nhỏ hẹp…, có những nghi thức ma thuật truyền sinh kết hợp và tận dụng nhiều hơn các yếu tố đó. Bầu không khí đậm chất ma mị của ma thuật bao trùm sự linh thiêng của nghi lễ; trong sự hối thúc đầy hưng phấn của âm thanh, hành động diễn xướng; với sự khơi gợi của cặp vật linh sinh thực khí, hình hài những cặp đôi nam nữ; những cuộc giao hoan tự do… truyền một nguồn cảm hứng sinh sôi bất tận cho tự nhiên đất trời.
Ma thuật truyền sinh là cái đẹp, cũng là nghệ thuật. Tâm thế được con người lựa chọn trong ứng xử với thần linh, nguyên cớ thôi thúc và kết quả con người đặt ra khi tiến hành ma thuật truyền sinh đã quyết định mọi hành vi, thao tác, phương tiện và cách thức thực hiện ma thuật. Những gì chu toàn, cẩn trọng, hoàn mỹ nhất sẽ được dâng cúng lên thần linh để tranh thủ tối đa sự phù trợ của thánh thần. Ma thuật - ma lực - nghệ thuật, xét về một góc độ nào đó, là những mặt khác nhau của một vấn đề.
Ma thuật truyền sinh phản ánh tư duy lôgic, duy lý của con người qua những quy định chặt chẽ về hành vi ma thuật đặc biệt, qua việc trấn an trước rủi ro để con người thêm kiên định và lạc quan trong đời sống[34].
Ở đây, chúng ta đang chạm đến một vấn đề cũng là một trong những nguyên cớ gây tranh cãi giữa các nhà nhân học văn hóa, ma thuật có tính khoa học hay không? Chúng tôi đồng tình với quan điểm của Malinowski, rằng, ma thuật phản ánh tư duy duy lý của con người, ma thuật là cần thiết, vì dù lao động cần cù đến đâu, con người vẫn cần đến ma thuật như một chỗ dựa giúp họ trong những vấn đề không thể kiểm soát[35]. Nếu nhất định phải đặt ma thuật trong cái nhìn soi xét về tính khoa học, thì đó là việc làm vô nghĩa, vì thực chất, ma thuật không phải là khoa học, và ma thuật chỉ có thể được hiểu đúng khi được đặt trong môi trường nghi lễ[36]. Trong ma thuật truyền sinh, với mục đích tạo sinh, hồi sinh rõ ràng và mãnh liệt như vậy, không thể đặt ra vấn đề: liệu các hành vi đó có đáng tin hay không. Việc hành vi ma thuật truyền sinh được duy trì và tồn tại, việc con người có một niềm tin khi trực tiếp tham gia nghi lễ, việc những nghi thức ma thuật được tuân thủ một cách chặt chẽ… đã là câu trả lời thuyết phục nhất cho vấn đề này.
[1] Xem thêm Frazer, James G, The Golden Bough, London, 1922. Bản tiếng Việt Cành vàng, Nxb Văn hóa Thông tin và Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Hà Nội, 2007, tr.35.
[2] Bùi Thị Hoa, Tín ngưỡng nông nghiệp của người Thái ở Quỳ Hợp, quyhop.gov.vn.
[3] Phan Hữu Dật, Trở lại tín ngưỡng ma thuật và sự phân loại ma thuật, Tạp chí Dân tộc học, số 5-2010, tr.3-16.
[4][8][9][16][17]Lê Như Hoa (chủ biên), Tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2001, tr.69, 56, 57, 82, 85.
[5] Hoàng Thế Kiệt, Con sâu độc: Ảo giác của tiền bạc và quyền lực, Nxb Dân tộc Quảng Tây, Nam Ninh, Trung Quốc, 2004.
[6] Alfred Gell, Art and Agency: An Anthropological Theory (Nghệ thuật và ma lực: Một lý thuyết nhân học), Oxford: Clarendon Press, 1998.
[7][15]Nguyễn Từ Chi, Góp phần nghiên cứu văn hóa và tộc người, Nxb Văn hóa Dân tộc và Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Hà Nội, 2003, tr.461, 466.
[10] Trần Ngọc Thêm, Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb TP.HCM, 2001, tr.237-238.
[11] Dương Đình Minh Sơn, Văn hóa nõ nường, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.135.
[12] Vương Anh, Tiếp cận văn hóa bản Thái xứ Thanh, Sở VHTT Thanh Hóa xuất bản, 2001, tr.67.
[13][14]Laurel Kendall, Các phương pháp tiếp cận nhân học về tôn giáo, nghi lễ và ma thuật, Khóa bài giảng tổ chức tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, tháng 9-2007.
[18] Lê Hải Đăng, Nghi lễ gia đình của người Tày Mường ở Nghệ An, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014, tr.98.
[19][20][21][24]Dương Đình Minh Sơn, Văn hóa nõ nường, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2008, tr.44, 36, 285, 135.
[22] Nguyễn Thanh, Làng nghề Cọi Khê, baothaibinh.com.vn.
[23]Nguyễn Từ Chi, Góp phần nghiên cứu văn hóa và tộc người, Nxb Văn hóa Dân tộc, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Hà Nội, 2003, tr.461.
[25] Lê Như Hoa (cb), Tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2001, tr.75.
[26] Vương Anh, Tiếp cận văn hóa bản Thái xứ Thanh, Sở VHTT Thanh Hóa xb, 2001, tr.65.
[27][34] [35]Malinowski, Bronislaw, Magic, Science and Religion (Ma thuật, khoa học và tôn giáo), Illinois: Waveland Press, Inc, 1992.
[28] Oscar Salemink, Tìm kiếm sự an toàn trong xã hội Việt Nam đương đại, trong hội thảo quốc tế Hiện đại và động thái truyền thống ở Việt Nam, những cách tiếp cận nhân học, Bình Châu, Vũng Tàu, 12 - 2007.
[29] Vũ Hồng Thuật, Đời sống tâm linh của chiếc ván in bùa trấn trạch, trong Sự biến đổi của tôn giáo tín ngưỡng ở Việt Nam hiện nay, Nxb Thế giới, Hà Nội, 2008, tr.227-258.
[30][31]Gell, Alfred, Art and Agency: An Anthropological Theory (Nghệ thuật và ma lực: Một lý thuyết nhân học), Oxford: Clarendon Press, 1998.
[32][33] Võ Thị Thường, Cột sang bok của người Thái trưng bày tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam là một hiện vật thiêng?, trong dự án Đời sống tâm linh của hiện vật, tài liệu lưu hành nội bộ của Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, tr.9.
[36] Tambiah, Stanley J., Magic, Science, and the Scope of Rationality (Ma thuật, khoa học và phạm vi của duy lý), Cambridge University Press, 1990.
Nguồn: Tạp chí VHNT số 391+ 392, tháng 1+2-2017