Miền Trung – hình ảnh được ví von như nước Việt thu nhỏ, có cả núi đồi, trung du, đồng bằng, cát nội đồng, đầm phá, sông ngòi, biển đảo...Tuy nhiên, không gian nơi đây, ấn tượng nhất vẫn là sự hiện hữu của bức trường thành núi non như một kiến tạo bất phân ly dọc biển và cạnh biển.
Tính phong phú của địa hình Việt đã khiến Pierre Gourou từ những thập niên đầu của thế kỷ XX đã nhận định: Trong khi chiếm cứ vùng đất Trung kỳ (Annam) và Nam kỳ ( Cochinchina), người Việt đã tạo ra một dân tộc rất thống nhất về mặt ngôn ngữ và đặc tính văn minh của mình, nhưng đồng thời cũng đã thiết lập một lãnh thổ ít cấu kết nhất trên thế giới”[1] . Thiên nhiên, địa mạo, địa hình, bỗng dưng trở thành những “kẻ thiết kế đầy quyền năng”, khiến nước Việt từ thời sơ sử đã hiện hữu khá điển hình dấu ấn vùng miền, mang chất đặc thù cao trên nhiều mặt của đời sống xã hội.
Những đặc hữu của miền Trung Việt Nam, khác với hai vùng châu thổ màu mỡ Bắc Nam. Nếu Hồng Hà, Mekong ví như chiếc xương sống được nối kết bởi các chi lưu, phát họa nên bức tranh sinh động của văn minh nội đồng với tính liên kết cao, thì miền Trung lại là nơi “ sự phân cách thành từng khúc của núi đồi và sự vắng bóng của bất kỳ sợi dây nối kết trực tiếp bằng đường thủy đã ngăn trở các khuynh hướng thuần nhất hóa, mà lại còn tăng cường cho sự xa cách về địa lý, chính trị và văn hóa, duy trì sự biểu lộ cấp miền một cách riêng biệt”[2]
Nếu trong xã hội đương đại, chúng ta gọi đó là sự thống nhất trong đa dạng, thì những gì đã làm nên trên thực tế về chất vùng miền, vẫn mang những nét đặc trưng dễ nhận diện.
Vùng trũng của châu thổ Hồng Hà đất Bắc gói trong mình hương vị của mắm tôm tép đồng, tương bần, đậu phụ. Người phụ nữ nơi này, cách đây không lâu vẫn còn xúng xính với chiếc váy và tấm áo tứ thân, mớ ba mớ bảy. Vượt khỏi vùng ảnh hưởng của châu thổ sông Mã , thì không gian đã mặn lên và nặng mùi ruốt khuyết tép biển, nước mắm cơm than. Quần ống, áo dài đã trở thành điểm nhấn trong cuộc sống thường nhật của con người đất phương Nam.
Ngôi nhà ở truyền thống với vì kèo giả thủ, cánh ác, đầu đao cong vút, cấu kiện kiến trúc chắc khỏe, điêu khắc, trang trí với những mảng chạm sâu, mạnh mẽ, dứt khoát, khoẻ khoắn..., chính là những gì đã làm nên ấn tượng đặc thù trong không gian cư trú đất Bắc. Trong lúc đó, khác với Đàng Ngoài, kiến trúc gỗ ở miền Trung chủ yếu sử dụng nguyên tắc kèo chồng, mái võ cua/trần thừa lưu, theo mô thức trùng thiềm điệp ốc, cấu kiện mãnh dẽ, nét chạm nông nhưng trau chuốt, tinh tế.
Trong nghệ thuật diễn xướng, phần lớn dòng ca Bắc đượm chất trong sáng, tươi vui, âm hưởng tươi tắn, thì dòng ca Nam vẫn đâu đó lan tỏa tiết điệu u trầm, man mát, xa vắng..
Còn biết bao điều để nhìn nhận tính đa dạng trong cấu trúc, thiết chế làng xã, con người với tính cách ứng xử; phong tục, tín ngưỡng...minh họa cho những yếu tố đặc trưng của văn hóa vùng miền, mà tọa độ làm nên dấu ấn ấy không thể không kể đến nơi gặp gỡ của hai nền văn minh Hoa- Ấn.
Ngày tết luôn nằm ở thời điểm khởi đầu cho một chu kỳ mới trong lẽ biến dịch của đất trời. Sự đón chờ những điều tốt đẹp cho tương lai, cũng như mong ước được xua tan tai ương, xui xẻo, luôn hiện hữu một cách mãnh liệt ở mỗi con người trong thời khắc này. Đây chính là lúc người ta đổ dồn ước vọng vào sự thắng thế của những điều may mắn tốt đẹp, sự khuất phục của phúc thần trước ác thần, giữa ánh sáng của uy linh và bóng đêm ma quái.
Ngày tết, điểm hội tụ của những nét văn hóa đặc trưng lễ hội, và cũng là lúc, những biểu hiện mang tính đặc thù vùng miền dễ dàng được nhận diện. Có thể nêu lên ở đây hình ảnh hai biểu tượng trong không gian lễ nghi sinh họat ngày tết người Việt: chiếc bánh chưng Đàng Ngoài và chiếc bánh tét Đàng Trong từ khái niệm văn hóa vật thể; và, trong lĩnh vực tinh thần chính là hoa đào đất Bắc và hoa mai ở miền Trung và Nam.
Hai loài hoa tiêu biểu cho sắc xuân nêu trên, trong truyền thuyết dân gian của cả ba miền đất nước đều cùng phản ánh niềm mong ước của con người, tẩy trừ thế lực của tà ma, cùng những điều bất hạnh. Sự chiến thắng của cái thiện trong chu kỳ mới của đất trời, người ta tin rằng sẽ mang lại niềm hạnh phúc cho từng cá nhân và cả cộng đồng trong suốt cả năm.
Nhân ngày xuân, chúng ta thử cùng đến với hai loài hoa tết tiêu biểu: mai - đào, như một nét điển hình về tính đa dạng của văn hóa Việt trên góc độ vùng miền.
Xuân là mùa của muôn hoa khoe sắc với nhiều giống loài. Thú chơi của người xưa liên quan đến hoa xuân là một sinh hoạt văn hóa mang tính nghệ thuật cao, như kỹ thuật tỉa hoa thủy tiên, chăm sóc những chồi mặc lan, những giò nghinh xuân, những chậu trà my, cúc, thược dược...Nhưng, quan trọng hơn hết vẫn là việc chọn một chậu/ cành/ đào, hay mai cho việc trang trí không gian ngày tết.
Hoa đào: Đào là tên gọi chung cho những giống cây thuộc họ Rosaceae. Đào là một trong những loài cây trái có vị trí quan trọng trong phong tục, tập quán cũng như trong cảm thức nghệ thuật của con người ở một số nước phương Đông. Biểu tượng phổ biến nhất của nó là mùa xuân (hoa đào nở vào tiết này được so sánh như như mai trong bộ tứ thời mai lan cúc trúc. Thứ hai là nét đẹp của người phụ nữ : Sắc mặt như màu hoa đào {Nhân diện đào hoa, tương ánh hồng}). Trong văn hóa Trung Hoa, người ta phân đào thành nhiều loại khác nhau như: Phì đào, Biển đào, Kim đào, Du đào...với nhiều công dụng, nhất là trong lĩnh vực làm dược liệu trị bịnh.. Cây đào, hoa đào và trái đào được nhắc đến trong truyền thuyết Trung Hoa cũng như được thể hiện trong nghệ thuật trang trí của họ, đều là sự cường điệu về kích cở và tính chất của giống đào Amygdalus Persica. Đặc điểm được nhấn mạnh nhất ở đây về mặt biểu tượng của đào đó là sự trường thọ bất tử.
Hoa đào trong văn hóa Việt Nam ngoài nét đẹp rực rỡ trong không gian đón Tết, chúng còn mang nét uy vũ của thần linh trong ý nghĩa tiêu trừ những điều hôn ám. Cây hoa đào là chốn cư ngụ của 2 vị phúc thần Trà và Uất Lũy ở vùng Sóc Sơn, Bắc Việt, để trấn áp tà ma và che chở cho dân. Lâu dần, hoa đào đã trở thành nỗi ám ảnh làm cho ma quỷ phải khiếp sợ. Chính vì thế, khi các vị thần vào ngày 23 tết phải về chầu thiên đình, mọi người lại mang hoa đào về nhà như một thứ bùa hộ thân để các thế lực tà ma phải xa lánh.
Những truyền thuyết cũ về hoa đào theo ngày tháng nhạt phai dần trong ký ức con người để nhường chỗ cho nhu cầu thưởng ngoạn nghệ thuật: thú chơi hoa đào.
Để chọn được cây đào thế, người ta thường tìm đến những làng hoa đào nổi tiếng trước đó nhiều ngày để ngắm nghía, tuyển chọn từ gốc, cành, thế nhánh, mật độ nụ hoa, màu cánh hoa. Trong dân gian người ta cũng phân ra các loại hoa đào như đào bích, đào thắm, đào phai, đào ta..căn cứ trên sắc màu và cấu trúc của cánh hoa.
Cho dù có phóng khoáng, phá cách tới mức nào, khi chọn một cành đào người ta cũng phải nhận ra cành chủ và cành phối chủ. Tiền, hậu, tả, hữu luôn là những tiêu chí quan trọng trong việc chọn lựa. Trên những nét tạo dáng căn bản ấy, người chọn cành đào tha hồ thả trí tưởng tượng của mình để nhìn ra những đề tài bình dị trong cuộc sống như mẫu tử, phụ tử, huynh đệ, hay đắm mình trong điển tích như bát tiên quá hải, sư tử hý cầu, lý khiêu long môn, ngũ phúc, thất hiền...
Hoa Mai: Mai (Prunnus) có rất nhiều loại, và có lẽ mỗi vùng lại thường nhìn thấy và khái quát hóa nét đẹp của nó theo cảm nhận của mình. Chính vì vậy, hình ảnh của mai trong nghệ thuật tạo hình Trung Hoa chưa hẳn là giống mai vàng ( hoàng mai) hay mai trắng ( bạch mai) như chúng ta thường thấy ở miền Trung và miền Nam Việt Nam.
Đứng về mặt biểu tượng, bộ tứ thời trong văn hóa Trung Hoa bao gồm: mẫu đơn, sen, cúc, mai, tượng trưng cho bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Trong nhóm này, hoa mai với người Hán mang biểu tượng của mùa đông. Hay trong nhóm tam hữu: những người bạn gắn bó bên nhau trong tuyết giá chính là mai, tùng, trúc. Các dạng biểu hiện trên không có trong bộ tứ thời ở nghệ thuật tạo hình Việt Nam.
Một danh họa trong truyền thuyết Trung Hoa, có lần đi qua một sa mạc cháy bỏng. Nhiều ngày thiếu nước, cơn khát hành hạ ông đến suy kiệt. Trong tình cảnh ấy, ông đã xuất thần vẽ một cành mai. Sự ức chế về một không gian mát mẻ, đã làm tác phẩm của ông đẹp đến mức, khi ông nhìn lại nó, cơn khát đã qua đi nhanh chóng, vì cả bầu trời dưới mắt ông dịu lại và mát lạnh trong những bông mưa tuyết.
Năm cánh hoa mai là hình ảnh của 5 vi thần may mắn, của ngũ phúc (phước, lộc, thọ, khang, ninh). Mai cũng như đào biểu tượng cho sự trường thọ. Người ta diễn tả đặc trưng này bằng những đóa hoa rực rỡ trên một thân cây trụi lá và gân guốc; vững chải như sức công phá của thời gian chẳng làm gì được nó.
Trong truyền thuyết dân gian, hoa mai liên quan đến hình ảnh của một cô gái xinh đẹp, hết lòng thương yêu cha mẹ, gia đình và làng xóm. Với tài trí của mình, cô gái nhỏ nhắn đã hy sinh sau khi giao đấu, diệt trừ yêu quái để cứu dân. Không ai biết cô đã chết, vì hàng năm vào chiều 29 tết, nàng quay lại với chiếc áo vàng mẹ nhuộm cho trước lúc ra đi, cùng ăn tết với gia đình, cho đến lúc cúng đưa ông bà, mới chịu ra đi. Mãi cho đến khi cha mẹ mất, người ta không thấy cô gái áo vàng trở lại nữa; vào những ngày cuối năm trong khu vườn quen thuộc nơi cô ở, xuất hiện một con chim lông vàng óng ả cất tiếng hót líu lo. Xóm làng thương nhớ và tri ân cô bằng cách lập một miếu thờ, hàng ngày hương khói. Từ lúc ấy, trước ngôi miếu mọc lên một loại cây lá xanh um, nhưng cứ vào những ngày giáp tết, lá lại rụng trơ cành và như một phép lạ, toàn thân xuất hiện những nụ bông vàng năm cánh rực rỡ.
Cây mai từ đó được người dân nhân giống và trồng trong nhà mình, như một cách tưởng nhớ đến cô gái, cũng như răn đe loài quỷ dữ sợ oai phong của cô mà không dám quấy động đời sống yên lành của mọi người.
Cũng như hoa đào, truyền thuyết về cô gái áo vàng cũng nhạt dần để thay vào đó hoa mai được đón chào trong ngày xuân như một cảm nhận mang tính nghệ thuật.
Cành mai được chọn trên những tiêu chí không khác mấy vơi hoa đào, nhưng tinh thần của một cành mai được ngưỡng mộ không chỉ đẹp ở hoa với sắc thắm, cánh phân bố đều , nhụy thắm, mà còn ở sự gân guốc của cành, với những khoảng gập khúc của dáng cành theo hình chữ nữ. Thần thái ấy mang hình ảnh của một ẩn sĩ nơi thâm sơn, kiêu hãnh nhưng thanh thoát, vững chải trước nắng gió và thời gian.
Trong tâm thức người dân Việt, biểu tượng hoa xuân như cành đào đất Bắc hay cành mai phương Nam, không chỉ tô thắm không gian ngày tết mà còn ẩn chứa ước vọng yên bình, xua tan những thế lực tà ma đen tối. Trên cái nền cảm nhận không có gì khác nhau ấy, mỗi miền lại có biểu tượng riêng của mình. Cho dù đó là sắc đỏ rực rỡ xua tan tiết lạnh đầu năm trời Bắc, hay ánh vàng óng ả dịu mát nắng trời Nam, tất cả đều hướng vọng đến những điều thái bình, tốt đẹp và đẩy lùi mọi đe dọa của thế giới ma quỷ và những điều bất an.
Văn hóa Việt Nam trong một cách hiểu nào đó, chính là một sự góp mặt trên cái nền chung những sắc thái vùng miền mang tính chất đặc trưng rất dễ nhận diện. Chúng có ranh giới tưởng như sờ mó được từ thiên nhiên, địa hình, khí hậu, cho đến văn hóa và tính cách con người. Phải chăng bản sắc của nền văn hóa ấy chính là sự dung hợp một cách nhuần nhị những sắc thái mạnh mẽ của vùng miền. Là bà mẹ ôm trong vòng tay những đứa con cùng dòng máu nhưng không dễ nhận diện ở ngoại hình.
Nguồn: Tác giả