1- Lời mở đầu
Hàn Quốc và Việt Nam không phải là những nước láng giềng của nhau nhưng cả hai nước cùng là quốc gia nằm kề với Trung Quốc, Việt Nam tiếp giáp phía Nam còn Hàn Quốc tiếp giáp phía Đông. Do vậy cả hai nước đều có những ảnh hưởng của văn hóa chữ Hán từ rất sớm.
Cuối thời đại Tam Quốc của Hàn Quốc, thế kỷ thứ X đã có dấu hiệu giao lưu với Giao Chỉ của Việt Nam, mặc dù đây mới chỉ là giả thuyết. Chúng ta biết là vào thế kỷ 12-13, thời nhà Lý, vua Lý đã di cư sang đất Cao Ly. Trong cuốn Thực Lục Ký của nhà Lý về Việt Nam, người ta phát hiện ra sự giao lưu giữa hai nước Việt - Hàn vào nhà Lý của Hàn Quốc (1392-1910). Bước vào thế kỷ XX, trong thời gian Hàn Quốc là thuộc địa của Nhật Bản, Việt Nam là thuộc địa của Pháp, cũng đã có một tác phẩm văn học của Việt Nam được giới thiệu ở Hàn Quốc. Đó là cuốn "Việt Nam vong quốc sử" và "Truyện Kiều".
Vào năm 1945, Việt Nam và Hàn Quốc đều giành được độc lập từ ách thực dân nhưng do cuộc nội chiến Nam - Bắc Hàn (1950-1953) và cuộc chiến Đông Dương (1946-1954) mà nhân dân hai nước cũng không có cơ hội để giao lưu trực tiếp với nhau. Tháng 7-1954, theo hiệp định Giơnevơ, Việt Nam bị chia cắt thành miền Nam và miền Bắc còn bán đảo Hàn sau hiệp định đình chiến tháng 7-1953, hai chính phủ khác nhau về thể chế, tư tưởng đã được thiết lập.
Không thể nắm được việc giao lưu văn học giữa hai miền Bắc Việt Nam và Bắc Hàn trong thời gian đó, cũng chưa có một sự giao lưu văn học giữa miền Nam Việt Nam và Hàn Quốc cùng thể chế chính trị lúc bấy giờ.
Năm 1967, Khoa tiếng Việt được thành lập tại trường Đại Học ngoại ngữ Hàn Quốc và việc nghiên cứu văn học Việt Nam đã được khởi sự sơ bộ. Với mục đích giáo dục các quân nhân Hàn Quốc tham chiến ở Việt Nam vào những năm cuối thập niên 60 (1964~1973), đã có tác phẩm văn học Việt Nam được giới thiệu và nhiều tác giả Hàn Quốc đã xuất bản tác phẩm truyện ngắn về chiến tranh Việt Nam.
Năm 1975, sau khi Việt Nam thống nhất, quan hệ ngoại giao với Hàn Quốc bị gián đoạn, vấn đề nghiên cứu Việt Nam hầu như không được thực hiện và tất nhiêu là việc nghiên cứu văn học Việt nam cũng nằm trong tình trạng đó. Chỉ có một số tác giả Hàn Quốc xuất bản các tiểu thuyết có liên quan tới đề tài chiến tranh Việt Nam nhưng số lượng không đáng kể.
Trong bài viết này, tác giả sẽ điểm lại một cách tổng quan quá trình nghiên cứu văn học Việt Nam tại Hàn Quốc trong quá trình từ những ngày đầu tiếp cận (thế kỷ 16) cho tới nay dựa trên những tài liệu do chính tác giả tổng hợp.
Hiện nay, phần lớn các tác phẩm văn học chữ Hán hay chữ Nôm đều được biên dịch ra chữ quốc ngữ và việc tiếp cận các tác phẩm này của các học giả Hàn Quốc thường là thông qua các văn bản được dịch ra tiếng Quốc ngữ. Trong bài viết này, người viết sẽ không phân tích việc biểu đạt các văn bản gốc thông qua các phương tiện như chữ Hán, chữ Nôm hay chữ Quốc ngữ (bao gồm cả phần văn học cổ) mà trong khả năng cho phép sẽ nhận xét thông qua các tác phẩm văn học của Việt Nam được giới thiệu hoặc nghiên cứu tại Hàn Quốc.
2- Tổng quan việc nghiên cứu văn học
Việc nghiên cứu và tổng hợp về văn học Việt Nam một cách có hệ thống được giới thiệu trong công trình nghiên cứu của giáo sư Cho Dong Il (조동일) chuyên ngành văn học Hàn Quốc trường đại học Seoul, Hàn Quốc. Giáo sư Cho Dong Il có cơ hội nghiên cứu văn học Việt Nam từ khi học tại Pháp, ở đây tác giả đã gặp nhiều học giả Việt Nam như: Tạ Trọng Hiệp, Đặng Tiến, Phan Dân Bình, Nguyễn Phú Phong và cơ hội tiếp cận cũng như nghiên cứu về văn học Việt Nam.
Trong cuốn sách "Nhập môn văn học các nước thế giới thứ ba" có các bài nghiên cứu phân tích văn học các nước như Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện, Lào, Campuchia, Malaixia, Inđônêxia, Philipin. Các thông tin về nhà xuất bản, năm xuất bản, sách, cùng giới thiệu nội dung tác phẩm văn học cụ thể cũng được giới thiệu nguyên văn trong cuốn sách này. Văn học Việt Nam được giới thiệu 21 cuốn. Trong đó, ngoài một số cuốn luận văn thì số còn lại đều được xuất bản ở dạng sách (Cho Dong Il, 1991, p.38~69). Sách và luận văn được giới thiệu bằng tiếng Pháp nên các học giả không biết tiếng Pháp gặp nhiều khó khăn trong việc nghiên cứu.
Tuy nhiên, trong nghiên cứu của mình, Cho Dong Il đã giới thiệu tác phẩm và các dòng văn học bằng sự phân chia văn học Việt Nam ra nhiều thời kỳ khác nhau đối chiếu với nền văn học Hàn Quốc và thế giới. Tuy cách phân chia này có khác so với các cách chia của các nhà văn học Sử Việt Nam nhưng có thể nói đây là tài liệu tham khảo có giá trị về văn học Việt Nam từ thời Trung cổ tới khi hình thành nền văn học hiện đại. Cho Dong Il trong cuốn sách "Sự xuất hiện và biến đổi của sử thi dân gian Đông Á" - xuất bản tại NXB Văn Học &Trí Thức đã đề cập tới sử thi Việt Nam.
Cũng trong bài viết "Đặc thù của giao lưu văn học giữa Việt Nam và Hàn Quốc" cũng đã cho rằng Việt Nam và Hàn Quốc về phương diện văn học cũng như lịch sử có tính đồng nhất cao. Hai nước không những giống nhau trong việc tiếp thu Hán văn để từ đó hình thành nền Hán văn của riêng mình. Đó là một trong những biểu hiện cho sự cố gắng của hai nước trong việc biến Hán văn thành văn học dân tộc mình. Văn học chữ Hán của Việt Nam và Hàn Quốc so với văn học chữ Hán của Nhật Bản về lượng và chất đều trội hơn và có đặc tính dân tộc rõ ràng hơn so với Nhật Bản. (Cho Dong Il, 1992, p11).
Giáo sư Cho Dong Il đã có những cố gắng để mở đầu cho việc giới thiệu Nguyễn Trãi tới Hàn Quốc trong dòng giao lưu văn học Việt Nam ở Hàn Quốc.
Mới đây, luận văn " Khuynh hướng nghiên cứu văn học Việt Nam tại Hàn Quốc" của giáo sư Bae Yang Soo trường Pusan cũng đã được thông qua. Theo tác giả, kết quả tìm kiếm trên thư viện điện tử thì trong 1.600 luận văn có liên quan đến Việt Nam tại Hàn Quốc, có 31 luận văn nghiên cứu về văn học Việt Nam, tương đương với 2%. Thêm nữa, trong tổng số 605 luận văn thạc sĩ, tiến sĩ được bảo vệ có liên quan đến Việt Nam thì chỉ có 9 luận văn liên quan đến văn học Việt Nam, chiếm 2%.
Xét theo từng lĩnh vực, tài liệu này tổng hợp lại như sau: có 14 công trình nghiên cứu về Văn học chữ quốc ngữ (trong đó có 9 luận văn thạc sĩ), 9 công trình nghiên cứu về Hán văn, 3 công trình nghiên cứu về chữ Nôm, 8 công trình về văn học truyền miệng, về lịch sử văn học có 6 công trình. Trong 9 luận văn thạc sĩ thì có 2 học giả là người Hàn Quốc, số còn lại là các học giả người Việt Nam. Trong đó có 7 giáo sư nghiên cứu về Việt Nam trong nước (tại Hàn Quốc), 3 giáo sư trong lĩnh vực khác, có 9 người có học vị thạc sĩ.
Giáo sư Chon Hye Kyong Trường Đại học Ngoại ngữ Hàn Quốc đã phát biểu rất nhiều bài với những chủ đề đa dạng về so sánh văn học Hàn Quốc và Việt Nam. (Jeon Hye Kyong, Nghiên cứu so sánh truyện cổ Hàn Quốc và Việt Nam, 2004)
Choi Guy Mok, trường đại học Pusan cũng là người có nhiều công trình nghiên cứu về Việt Nam với những chủ đề nghiên cứu kịch truyền thống Việt Nam (1999), so sánh văn học Hàn Quốc và Việt Nam.
3- Văn học chữ Hán
Cho Dong Il trong bài viết "Đặc thù giao lưu văn học Việt Nam và Hàn Quốc" đã giới thiệu cụ thể về Nguyễn Trãi (1380-1422) với tiêu đề "Nguyễn Trãi, nhà thơ lớn nhất Việt Nam". Đặc biệt ông đã viết tỷ mỷ về hoàn cảnh thời Nguyễn Trãi. Nguyễn Trãi là một văn nhân ái quốc, đã hiến trọn đời mình cho dân tộc, là một nhà chiến lược lỗi lạc, một nhà ngoại giao đại tài và là một nhà Hán học nổi tiếng với tập "Quốc Âm thi tập". Cho Dong Il còn cho rằng, so với nhà văn Lê Quý Đôn thế kỷ 18, nhà văn chữ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) và Hồ Xuân Hương thế kỷ 18, Nguyễn Du (1765-1820), thì Nguyễn Trãi nổi bật hơn tất cả.
Các tác phẩm của Nguyễn Trãi được tuyển thành tập "Ức trai thi tập". Tất cả 7 cuốn "Ức Trai Thi tập" này gồm 105 bài thơ chữ Hán và 1 bài phú, đã được nhà Hán Học Ji Jun Mo biên dịch ra tiếng Hàn Quốc cùng nguyên tác chữ Hán.
Cho Dong Il cũng đã dịch 2 bài thơ của Trần Nguyễn Than (1320-1390) là ông ngoại của Nguyễn Trãi và hai bài thơ của Nguyễn Phi Khanh (1355?-1428) là thân sinh của Nguyễn Trãi trong cuốn sách trên. Ngoài ra, Nguyễn Trãi còn giúp Lê Lợi trở thành Thái Tổ của nhà Lê, ông cũng viết và dâng vua bài "Bình Ngô Đại Cáo" bằng chữ Hán với nội dụng ca ngợi công lao đánh đuổi quân nhà Minh và giành quyền tự chủ của Việt Nam. Ji Jun Mo đã dịch bài này ra tiếng Hàn Quốc cùng với nguyên bản. Vào thời vua Công Dân Cao Ly (1352-1372), nhà nho học Lee Sung In đã đến nước Nguyên làm sứ thần cũng đã gặp sứ thần Việt Nam, nghe kể sự tình ở Việt Nam và viết một bàì thơ thể hiện cảm xúc của mình. Việc này cũng được ghi trong cuốn "Đạo Ân Văn Tập".
Choi Sang Soo, trong cuốn "Quan hệ Việt Nam Hàn Quốc" xuất bản năm1966 đã cho rằng: vào thời Lý, học giả nổi tiếng Lee Soo Kwang (1563-1628) đã cùng với sứ thần Việt Nam là Phùng Khắc Khoan lưu trú suốt 50 ngày tại Ngọc Hoa Quán - Bắc Kinh, làm thơ và trao đổi với nhau. Bài "Trúc Thọ" vẫn được in trong tập "Tri Phùng" của Lee Soo Kwang, Bài thơ này đã được biên dịch và giới thiệu bằng tiếng Hàn Quốc. Ngoài ra có nhà thơ nổi tiếng Lê Quý Đôn với tư cách sứ thần tới Trung Quốc đã gặp sứ thần Choson - Hong Khai Hee, hai bên cùng làm thơ trao đổi với nhau - điều này đã được Lê Quý Đôn ghi lại trong "Bắc sứ thông lục".
Tại Hàn Quốc, tác phẩm của học giả Việt Nam được giới thiệu là "An Nam Vong Quốc Sử" của Phan Bội Châu (1887-1940) vào thời điểm Nhật Bản là thực dân đô hộ bán đảo Hàn. Tác phẩm này đã được học giả Trung Quốc Yang Kye Cho (梁啓超) nổi tiếng biên tập lại sang chữ Hán. Bởi đây là thời điểm Nhật Bản thống trị bán đảo Hàn nên cuốn sách của một nhà cách mạng yêu nước đã được nhiều trí thức Hàn tìm đọc.
Jeon Hye Kyung trong luận án tiến sỹ của mình tại Viện Đại học Trường Đại học Sung Sil đã nghiên cứu so sánh tiểu thuyết truyền kỳ của Hàn Quốc, Trung Quốc và Việt Nam. Tác giả có để cập tới thần thoại Truyền Đăng của Trung Quốc, thần thoại Kim Ngọ của Hàn Quốc và Truyền Kỳ Mạn Lục cua Việt Nam. Các tác phẩm được phân tích và so sánh trong loại truyện tình yêu, quỷ thần. Ngòai ra, Jeon Hye Kyung cũng đã phát biểu các luận văn so sánh về thần thoại Kim Ngọ của Hàn Quốc với Truyền Kỳ mạn lục của Việt Nam.
Park Huy Byung trong tập "Truyền Kỳ mạn lục" của Việt Nam đã dịch một cách hoàn hảo ra tiếng Hàn Quốc tiểu thuyết Truyền Kỳ mạn lục băng tiếng Hán của Nguyễn Du. Ông chia làm 4 phần, mỗi phần gồm 5 truyện, và đã biên dịch được cả 25 bản. Năm 1547, ông dịch văn của Ha Son Han cùng giới thiệu tác giả Nguyễn Du. Park Huy trong phần phụ lục của cuốn "So sánh thực chất thẩm mỹ của tiểu thuyết truyền kỳ Hàn Quốc, Trung Quốc, Việt Nam" đã so sánh tương hỗ 4 phương diện về tình cảm thân thiện, cấu tạo, kết cục, địa điểm thời gian và nhân vật trong truyện.
Park Huy Byung trong cuốn "Thần Thoại Việt Nam" đã dịch ra tiếng Hàn Quốc cùng nguyên bản cuốn "Lĩnh Nam chính quái liệt truyện" - bao gồm các truyền thuyết và thần thoại viễn tưởng Việt Nam do các tác giả viết vào thế kỷ 14. Cuốn sách này tuy là viễn tưởng nhưng được Vũ Quỳnh (1452-1516) cùng cho in vào năm 1492. Trong phần cuối bài mở đầu của cuốn sách, Park Hyu Byung đã giải thích một cách cụ thể truyện "Lĩnh Nam Chính Quái" trong "Sách truyện ly kỳ của nước Nam".
Choi Kwang Bak vào năm 1990, đã nghiên cứu so sánh tiểu thuyết truyền kỳ của Hàn Quốc, Trung Quốc và Việt Nam trong luận án tiến sỹ tại Trường Đại học Seung kyung Kwan. Ông cũng đã so sánh sự tương đồng và khác nhau giữa truyện Kim Ngọ của Hàn Quốc và Truyền Đăng của Trung Quốc và Truyền kỳ mạn lục của Việt Nam. Luận văn này phụ thuộc hoàn toàn vào trích dẫn bằng Hán văn.
Gang Je Cheon trong tập 1 "Văn học cổ đại Đông Á" - xuất bản tại ‘Học hội Đông Á cổ đại' đã cho ra mắt "Nghiên cứu truyện thần thoại No dal Chi' của Việt nam và Hàn Quốc. Thần thoại này là thần thoại về thái tổ nước Thanh - NuruHaChi, được viết bằng chữ Hán. Năm 1933, câu chuyện thần thoại này lần đầu tiên được in trong tập "Sự di chuyển về An Nam của truyền thuyết No dal Chi" do Yamoto viết vào 12-1933, tại Nhật Bản.
Ngoài ra trong tập 17 của "Luận Quốc văn học" được phát hành ở khoa "Quốc ngữ - quốc văn học" của đại học Dan Kook đã biên dịch ra tiếng Hàn Quốc và cùng xuất bản cùng nguyên văn "Sự di chuyển về An Nam của truyền thuyết Nodal Chi do Yatomo viết năm 1933 cùng với 3 tập du hành ký An Nam đã giúp cho việc tìm hiểu gốc gác của thần thoại No Dal Chi ở Việt Nam.
Trong hội nghị học thuật quốc tế được mở với chủ đề "Tiểu thuyết Hán văn Hàn Quốc trong long Đông Á" do viện nghiên cứu văn hóa dân tộc, đại học Korea mở vào tháng 10 năm 2001, Yu Ju Fil đã phát biểu luận văn "Về tính chất văn hóa ngụ ngôn của ‘Thánh Tông di Thảo'". Cuốn này nượn tên của Thánh Tông (1460-1497), vua thứ 4 Nhà Lê để viết ra. Bản số 1 của thư văn và bản thứ 19 của tác phẩm được phân loại theo phương thức sang tác ngụ ngôn và nó đánh giá rất cao về giá trị văn học tường thuật.
Giáo sư An Kyong Hwan của đại học Choson vào năm 2003, đã phiên dịch cuốn "Nhật Ký trong tù" của Hồ Chí Minh từ bản tiếng Hán và quốc ngữ ra tiếng Hàn và cũng đã xuất bản. (Cho Myong Mun Hoa Sa, 2003).
4- Văn học chữ Nôm
Nguyễn Trãi (1380-1442) không những là nhà văn lỗi lạc với những tác phẩm chữ Hán mà còn để lại những công lao to lớn trong các tác phẩm chữ Nôm. "Ức Trai Thi Tập" và "Quốc Âm Thi Tập" do ông viết bằng chữ Nôm còn được lưu lại trong tập 7 của 160 tập "Quốc Âm Thi Tập".
Vào đầu 1970, người lính Nam Hàn đã tham khảo bản tiếng Pháp, dịch Kim Vân Kiều truyện và in trên phụ lục tạp chí Phụ Nữ Đông A.
Kim Son A đã trình bày luận văn thạc sỹ ở khoa ngữ văn, ĐH KHXH&NV Hà Nội vào 1995 với đề tài "Nhân vật nữ trong thể truyền kỳ qua hai tác phẩm Truyền Kỳ Mạn Lục và Truyền Kỳ Tân Phả. Truyền Kỳ Mạn Lục như ta biết là tác phẩm của Nguyễn Du ở thế kỷ 16, còn Truyền Kỳ Tân Phả là tác phẩm đầu tiên bằng chữ Nôm của nhà thơ Đoàn Thị Điểm (1705-1748), chuyển thành sử thi loại thơ thể 7. 7, 6.8.
Hai tác phẩm Truyền kỳ mạn lục và Truyền kỳ tân phả cách nhau 2 thế kỷ. Kim Son A đã khảo sát nhân vật nữ chính trong 2 tác phẩm này. Đặc biệt luận văn thạc sỹ của tác giả được tiến hành theo phương pháp so sánh nên được giới học giả Việt Nam đánh giá cao.
Bae Yang Soo đã làm luận văn thạc sỹ tại Đại Học Sư Phạm Hà Nội năm 1994 về chủ đề "Bước đầu so sánh truyện Kiều và Truyện Xuân Hương". Truyện Kiều là một trường thi bằng chữ Nôm, loại thơ 6-8, gồm tất cả 3254 câu. Truyện Kiều được đánh giá là một tuyệt tác của văn học Việt Nam.
Truyện Kiều và Truyện Xuân Hương của Hàn Quốc, nếu nhìn ở phương diện phân loại các nội dung như gặp gỡ, ly biệt, đối địch thì không phát hiện được sự khác biệt nào lớn, còn về phương diện tình yêu nam nữ, sự liên kết của người tốt, nỗi thống khổ của phụ nữ thời phong kiến cũng cơ bản có nhiều nét tương đồng.
Bae Yang Soo nghiên cứu về chủ đề này khá sâu sắc, tới 2001, học giả đã bảo vệ thành công luận án tiến sỹ với chủ đề "So sánh truyện Kiều và Truyện Xuân Hương". Bae Yang Soo đã so sánh về cảm hứng sáng tác và cảm nghĩ về bối cảnh văn hóa thời đại của hai tác phẩm trong luận án của mình. Tác giả sử dụng phương pháp so sánh sự tương đồng về lịch sử làm căn cứ so sánh hai tác phẩm, sau đó thống kê các điểm tương đồng và dị biệt. Sự khác nhau giữa hai tác phẩm là "nếu truyện Kiều được xem là tác phẩm thơ, tiểu thuyết sang tác thì Truyện Xuân Hương là tác phẩm văn xuôi thuộc loại kịch hát kể - Fan sôri. Tuy niên đại 2 tác phẩm được sang tác cách nhau 1 thế kỷ nhưng có thể thấy được sự tương đồng về xã hội, chính trị của Việt Nam và Hàn Quốc.
Bae Yang Soo đã xuất bản các luận văn có liên quan tới Truyện Kiều ở tạp chí học thuật trong và ngoài nước. Học giả cũng đã dịch tác phẩm "Chinh Phụ Ngâm" của Đoàn Thị Điểm sang tiếng Hàn và xuất bản tại đại học ngoại ngữ Busan năm 2003.
Choi Kuy Mok đã xuất bản "Thế giới các tác phẩm thơ chữ Nôm của Hồ Xuân Hương" trong 2 tập nghiên cứu "Nghiên cứu văn học cổ điển Hàn Quốc". Người ta chưa biết được thời gian sinh và mất của nhà thơ nữ Hồ Xuân Hương nhưng có thể cho rằng bà sống vào khoảng thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19. Choi Kuy Mok đã biên dịch và giới thiệu bằng tiếng Hàn Quốc 15 bài thơ khó của tác giả. Thơ Hồ Xuân Hương phần lớn thông quan lối ẩn dụ để châm biếm, chê cười.
Choi Quy Mok cho rằng trong nghiên cứu ca kịch truyền thống Việt Nam thì chèo là loại được viết nhiều bằng chữ Nôm, tuồng Đồ là một nhánh của tuồng cũng được viết bằng chữ Nôm. Tuy nhiên, chúng lại được đặt trong lĩnh vực văn học chữ Hán, cần có sự điều chỉnh thích đáng. Choi Kuy Mok vào năm 2004 đã phiên dịch Truyện Kiều của Nguyễn Du, có tham khảo bản chữ Hán và xuất bản cùng năm với tên là Chui Kyo Chon (취교전). Các bản dịch của dịch giả này được đánh giá cao.
Bên cạnh đó An Kyong Hwan cũng xuất bản cuốn truyện Kiều sang tiếng Hàn tại NXB Tạp chí về văn hóa (문화저널).
5. Văn học chữ quốc ngữ
Hiện nay các tác phẩm văn học Việt Nam đều thể hiện bằng chữ quốc ngữ. Các tác phẩm văn học chữ Nôm, chữ Hán và văn học dân gian hầu hết cũng được chỉnh lý và biên soạn ra chữ Quốc Ngữ. Nhưng chỉ có thể tính từ khi người Việt làm chủ chữ quốc ngữ thì các văn tự ấy mới được dùng làm đối tượng nghiên cứu.
Ở Hàn Quốc, cuốn sách được dịch và giới thiệu đầu tiên là cuốn ‘Nửa Chừng Xuân" của tác giả Khải Hưng. Năm 1969, Uyn Sok Tu là lính Hàn Quốc đã biên dịch và xuất bản thành sách, tất nhiên là không mấy ai biết. Năm 1967, lần đầu tiên khoa tiếng Việt được thành lập tại Đại học Hàn Quốc, giáo sư Kim Ki Tae đã viết đề tài "Suy nghĩ về thơ mới Việt Nam" (luận văn 5, Đại học Ngoại ngữ Hàn Quốc, 1972). Kim Ki Tae trong tập "Truyền thuyết Việt Nam xuất bản năm 1984 tại NXB Phê bình và sáng tác(창비사) đã dịch tất cả 58 truyền thuyết sang tiếng Hàn Quốc. Trong cuối phần mở đầu, ông đã chỉ ra rằng, đối tượng và đặc trưng của truyền thuyết Việt Nam là: chủ thể của tính luân lý, giáo dục trong các câu chuyện thường được biến thành chủ thể quỷ thần trong thần thoại với việc thần thoại hóa chủ thể, ...nhân tình thế thái trở thành nội dung châm biếm hài hước, thần thoại dân tộc thiểu số... Ông đã lấy phần lớn truyện trong cuốn "Truyện cổ tích Việt Nam" và lựa chọn một số truyện trong tập truyện truyển thuyết Việt Nam bằng tiếng Anh để dịch ra tiếng Hàn Quốc. Kim Ki Tae đã giới thiệu và xuất bản nhiều tập truyện cổ tích Việt Nam và các nước khác với tên gọi "I Love Asia" (NXB Kyo Hak Sa) va "Bọc truyện cổ Asia"(NXB Jung In, 2007)
Jeon Hye Kyung vào năm 1986 đã dịch và xuất bản cuốn "Dế mèn phiêu lưu ký". Đây là tác phẩm giành cho thiếu nhi của nhà văn Tô Hoài trong đó các nhân vật chủ yếu là động vật. Trong tác phẩm này, ông đã lấy 3 loài động vật là dế mèn, bọ ngựa và mèo làm nhân vật chính. Jeon Hye Kyung ngoài ra còn bảo vệ luận văn so sánh các câu chuyện về sự hình thành các loài động vật của Hàn Quốc và Việt Nam.
Cho Je Hyun thì viết lý luận thơ hiện đại Việt Nam và giới thiệu thơ hiện đại Việt Nam. Gang HaNa là người nghiên cứu so sánh tác phẩm văn học hiện đại hai nước đầu tiên tại Việt Nam. Năm 2000, Ganghana đã viết ‘Những điểm chung giữa nhà văn hiện thực Hyun Jin Geon và 3 nhà văn hiện thực Việt nam là Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng, Nam Cao tại đại học sư phạm Hà Nội. Thông qua các tác phẩm tiêu biểu của ba tác giả này, Gang HaNa đã so sánh hình dáng con người và thời đại, chất liệu của các tác giả này. Gang HaNa đã xuất bản ở Việt Nam 7 tác phẩm của Hyun Jin Geon và dịch sang tiếng Việt, phục vụ cho luận văn của mình. Gang HaNa cũng là người đầu tiên giới thiệu truyện ngắn Hàn Quốc tới bạn đọc Việt Nam.
Park Yeon Kwan, với đề tài "Một số cấu trúc nghệ thuật truyền thống của truyện cổ tích thần kỳ người Việt" đã nhận được học vị Thạc sỹ tại đại học KHXH&NV Hà Nội. Ông đã khảo sát về các đặc trưng nghệ thuật và hình thức truyện thông qua nghiên cứu 51 câu chuyện cổ tích của Việt Nam. Sau đó, Park Yon Kwan cũng tiếp tục công trình nghiên cứu và nhận học vị Tiến Sỹ tại đây.
Choi Kuy Mok đã xuất bản "Sử thi đẻ đất đẻ nước" của dân tộc Mường. Dân tộc Mường là 1 trong 54 dân tộc Việt Nam, cùng xuất hiện với người Kinh thời cổ đại. Bản trường thi này đã được Đặng Văn Lung và những người khác nghiên cứu, điều tra việc lưu truyền dân gian và xuất bản ở NXB KHXH Hà Nội. Choi Kuy Mok đã kiểm tra nội dung của từng truyện trong 26 truyện được kể trong cuốn ‘nghiên cứu văn học dân gian' và cũng tìm hiểu sự liên quan giữa truyện thần thoại dựng nước và thần thoại Sáng Thế của dân tộc Việt Nam và ông đã đi tới nhận định trong kết luận rằng bản sử thi sáng thế của dân tộc Mường giống với sử thi sáng thế của Hàn Quốc. Không những thế, Choi Kuy Mok còn xuất bản "Chèo" và "Tuồng" trong "ca kịch truyền thống Việt Nam" - trong tập 16 nghiên cứu văn học cổ điển của Hội nhà văn cổ điển Hàn Quốc phát hành. "Chèo" là một trong nhiều loại trong dòng nghệ thuật ca kịch truyền thống.
Cho Dong Il trong cuốn "Sự xuất hiện và biến đổi của sử thi dân gian Đông Á' xuất bản tại NXB Văn Học & Tri Thức, cũng đã đề cập tới sử thi Việt Nam.
Hiện nay, tiếp tục các luận văn nghiên cứu có giá trị về văn học hiện đại của Việt Nam. Bae Yang Soo của Đại học Ngoại ngữ Busan đã và đang nghiên cứu về "Việt Nam ngày nay qua các tác phẩm văn học" (2002); "Sự thay đổi trong khái niệm về tiểu thuyết Việt Nam sau thời kỳ đổi mới" (1998); "Bĩ cực của kinh tế thị trường" - phê bình tiểu thuyết văn học (Nghiên cứu Đông Nam Á, cuốn thứ 15 số 2, 2005)...
Giáo sư Park Yon Kwan của Đại học Chong Won đang nghiên cứu về đề tài so sánh văn học truyền miệng Việt Nam - Hàn Quốc ví dụ như "thể loại và mô típ truyện", "Hình thức truyền thống của loại truyền kỳ Việt Nam: so sánh truyện Kongchuy Batchi (Hàn Quốc) với Tấm Cám (Việt Nam); Tiên nữ và tiều phu (Hàn Quốc) và ‘A Chuc Chang Ngưu'.
6- Kết luận
Chúng ta vừa có một cái nhìn tổng quan về tình hình giao lưu văn học và tình hình nghiên cứu văn học hai nước Việt Nam và Hàn Quốc. Trên thực tế, chúng ta cần có nghiên cứu sâu hơn về văn học truyền miệng, Hán văn, văn học chữ Nôm, văn học hiện đại của Việt Nam.
Ở Hàn Quốc, có thể phân các nhà nghiên cứu văn học Việt Nam thành 2 nhóm chính. Những nghiên cứu hay giới thiệu về văn học cổ Việt Nam do các nhà nghiên cứu ngữ văn khi nghiên cứu về dân tộc học hay Hán học của Hàn Quốc đã nảy sinh thêm nhiều quan tâm tới văn học Việt Nam. Các nhà nghiên cứu điển hình có thể kể tên là giáo sư Cho Dong Il - đại học Seoul; giáo sư Park Hee Byong của đại học Seong KyunKwan, Choi Sang Soo của trường nữ sinh Y Hwa. Đặc biệt giáo sư Cho Dong Il đã thông qua cuốn "So sánh sự hình thành văn học cận đại Việt Nam" và "So sánh sự hình thành văn học cận đại của Hàn Quốc và Đông Nam Á".
Đệ tử của ông này là Choi Kyu Muk của đại học Busan đã không chỉ nghiên cứu về Hồ Xuân Hương, ca kịch Việt Nam và tộc người Mường mà ông còn phiên dịch tác phẩm nổi tiếng của Nguyễn Du là Truyện Kiều sang tiếng Hàn, cũng là người nghiên cứu nhiều về văn học Việt Nam. Giáo sư Park Hee Byong của đại học Seong Kyun Kwan đã dịch tác phẩm Truyền Kỳ mạn lục và Lĩnh Nam Chính Quái và đã xuất bản thành 1 cuốn sách, giúp ích rất nhiều cho việc nghiên cứu văn học Việt Nam. Các nhân vật còn lại vẫn chưa xúc tiến các nghiên cứu có tính liên tục về văn học Việt Nam. Việc các nhà nghiên cứu nhận học vị ngành văn học Việt Nam chưa ra thêm thành quả nào quả là việc đáng tiếc.
Bên cạnh đó, có thể coi việc thành lập Khoa tiếng Việt ở trường Đại Học vào năm 1967 là một phụ lưu trong các họat động nghiên cứu đầu tiên. Nhưng năm 1975, khi quan hệ ngoại giao hai nước Việt Hàn bị gián đoạn nên việc nghiên cứu về văn học Việt Nam cũng dường như không có kết quả nào. Tới 1992, khi quan hệ hai nước Việt Hàn được tái lập thì nhiều nhà nghiên cứu xuất thân từ khoa tiếng Việt đã bằng con đường du học tiến hành nghiên cứu văn học Việt Nam, và đây là dòng nghiên cứu chủ lưu. Người nghiên cứu về văn học truyền miệng, văn học Hán của Việt Nam một cách đều đặn có giáo sư Chon Hye Kyong của đại học ngoại ngữ Hàn Quốc. Phần lớn các học giả tốt nghiệp khoa tiếng Việt đều đang nghiên cứu về văn học truyền miệng hay văn học chữ Nôm. Người nhiệt tình nhất trong số này phải kể tới là Bae yang Soo của Đại học Ngoại ngữ Bu san và Park Youn Kwan của Trường Đại học ChongUn.
Tại Hàn Quốc, tác phẩm mà các nhà nghiên cứu văn học Việt Nam muốn giới thiệu là cuốn "Kim Vân Kiều". Việc dịch và xuất bản tác phẩm của Nguyễn Trãi (vào thế kỷ 14) là Ức Trai Thi Tập ra tiếng Hàn mang một ý nghĩa lớn. Phần lớn các tác phẩm về Việt Nam được giới thiệu và tìm hiểu ở Hàn Quốc đều được lựa chọn theo tiêu chí về mặt nội dung có liên quan tới Hàn Quốc hay có quan tâm tới Việt Nam. Phần lớn đi theo hướng so sánh đối chiếu văn học hai nước. Ví dụ như Chon Hye Kyong so sánh truyện Truyền Kỳ Mạn Lục của Việt Nam và Kim Ngọ của Hàn Quốc; Pae Yang Soo nghiên cứu Truyện Kiều với Truyện Xuân Hương; Gang Ha Na nghiên cứu về nhà văn Nguyễn Công Hoan và Hyon Jin Geon. Trong đó có nghiên cứu của Kim Seon A với đề tài so sánh hai tác phẩm chữ Nôm trong luận văn thạc sỹ của mình là khá đặc biệt. Gần đây, Bae Yang Soo cùng nghiên cứu về các tác phẩm văn học hiện đại cũng mang nhiều giá trị.
Ở Hàn Quốc, số lượng học giả nghiên cứu về văn học Việt Nam rất ít. Văn học hiện đại thì càng ít. Mong là trong tương lai sẽ có thêm nhiều nghiên cứu về văn học Việt Nam tai Hàn Quốc cùng hòa với việc nghiên cứu văn học Trung Quốc, Đông Bắc Á. Với ý nghĩa đó, rất mong bài báo cáo này sẽ giúp ích được cho các nhà nghiên cứu về sau này.
Nguồn: Tác giả