Ở một số quốc gia đa văn hóa như Mỹ, Australia v.v., cộng đồng châu Á (trong đó có người Việt) thường có xu hướng giữ gìn bản sắc riêng của mình (điều này khá phù hợp với thuyết hóa thạch ngoại biên). Nó được coi là một nhiệm vụ, một quyền lợi và là một sứ mệnh cộng đồng của họ ở nơi ở mới. Trên thực tế, chính quyền sở tại mong muốn các cộng đồng châu Á hòa nhập tốt với xã hội bản xứ song vẫn muốn họ giữ lại bản sắc riêng của mình. Nước Mỹ là một thí dụ điển hình. Thanh thiếu niên kiều bào tại nơi đang sống luôn nhận thức rằng họ là con cháu người Việt, và rằng cộng đồng của họ vẫn mang đậm sắc thái văn hóa Việt trong một xã hội đa văn hóa. Việc bỏ mất văn hóa truyền thống của chính mình đồng nghĩa với việc tự chấp nhận cách nhìn thiếu tôn trọng của các cộng đồng tương cận và của giới chức bản xứ. Việt Nam sau đổi mới đã phát triển mạnh mẽ trên con đường hội nhập thế giới. Nền kinh tế phát triển, đời sống vật chất được nâng cao. Mỗi năm, chúng ta đón một lượng lớn kiều bào về thăm quê hương, hợp tác đầu tư và học tập. Đối với không ít thanh thiếu niên kiều bào, việc trở lại Việt Nam học tập, tìm hiểu ngôn ngữ và văn hóa truyền thống là điều không dễ dàng.
So với đối tượng người nước ngoài đến sinh sống và học tập tại Việt Nam, thanh thiếu niên kiều bào ta chủ động hơn trong việc tìm kiếm và nâng cao ý thức nguồn cội, cùng với nó là nhu cầu học tập để giữ gìn bản sắc cộng đồng tại đất nước cư trú. Với hai mục tiêu, và là cũng hai động lực này, thanh thiếu niên kiều bào quay về học tập với thái độ tích cực hơn.
2. Những khoảng cách vô hình văn hóa và văn minh
Bàn về sự khác biệt trong loại hình văn hóa Đông – Tây, cụ thể là giữa Việt Nam với thế giới Âu-Mỹ, nhiều tác giả đứng ở nhiều phương diện khác nhau để lý giải. Dưới đây là một trong những cách lý giải như thế:
Còn tác giả người Ấn K. Ramanujan [2006] trong công trình nghiên cứu so sánh phức hợp “Oedipus” Ấn Độ và Hy Lạp cổ (mô típ loạn luân trong thần thoại) đã chỉ ra sự khác biệt (gần như đối lập nhau) giữa triết lý nhân sinh của người phương Đông nói chung, người Ấn Độ nói riêng, với thế giới phương Tây. Theo tác giả, cây đời phương Tây đứng thẳng, ngọn (tượng trưng cho con cái, thế hệ sau) vươn thẳng lên không trung trên nền tảng của thân, rễ (tượng trưng cho ông bà, bố mẹ, thế hệ trước), trong khi cây đời phương Đông hoàn toàn trái lại, ngọn cây mọc ngược xuống dưới, sẽ mãi mãi không bao giờ vượt được thân và rễ. Chúng tôi gọi kiểu tư duy Âu Mỹ là tư duy trục hoành (khoảng cách các thế hệ là không lớn), trong khi kiểu phương Đông là tư duy trục trung (trọng tôn ti). Cho dù trong quá trình phát triển và hội nhập với thế giới (đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục), phương Đông đã ít nhiều thay đổi quan niệm sống, song những yếu tố mang tính bản sắc trong triết lý nhân sinh không thể dễ dàng thay đổi, và vì thế quan niệm cũ vẫn còn tồn tại.
Do vậy, giữa xã hội Việt Nam và các nước phương Tây tồn tại một khoảng cách lớn về tính chất của văn hóa. Hai lối giáo dục của hai xã hội cũng không tương đồng. Phương thức nhận thức của hai cộng đồng dân cư dĩ nhiên cũng khác nhau. Thế hệ thanh niên kiều bào sinh ra, lớn lên và hưởng thụ nền giáo dục kiểu Âu – Mỹ (nhất là thế hệ thứ ba trở đi) chắc chắn cũng sẽ có tư duy phương Tây (trọng vai trò cá nhân, trọng động, trọng khai phóng, dễ biến đổi, thích nghi).
Sự khác biệt cơ bản trong lối giáo dục Việt Nam và phương Tây chính là cung cách tư duy. Giáo dục Âu Mỹ - thiên về kiểu tư duy phân tích, gắn lý thuyết với hành động, trong khi giáo dục Việt Nam và nhiều nước Á Đông vẫn chưa thoát ra được kiểu tư duy tổng hợp, nặng nề yếu tố giáo điều. Do vậy, cùng một vấn đề có thể có hai cách hiểu khác nhau, từ đó dẫn tới hai thái độ khác nhau. Ví dụ, thanh thiếu niên Việt Nam học và hiểu sâu sắc về sự tích Chú Cuội, và nếu như được giải thích kỹ càng một chút về chi tiết chú Cuội dặn vợ “Có đái thì đái bên tây, đừng đái bên đông cây dông lên trời”, học sinh – sinh viên sẽ nắm vững quy tắc đông trọng tây khinh của triết lý Ngũ hành. Tuy nhiên, với kiểu tư duy phân tích gãy đoạn của mình, thanh thiếu niên phương Tây (kể cả kiều bào) sẽ nhận ra rằng người Việt Nam truyền thống không coi trọng chuyện vệ sinh, đến mức chú Cuội phải dặn dò vợ nên vệ sinh chỗ nào, vả lại nơi vệ sinh lại là quanh gốc cây đa chứ không phải một phòng vệ sinh tử tế! Các trường hợp tương tự có thể kể ra như chi tiết cô Tấm trả thù Cám bằng chậu nước sôi, Yết Kiêu đâm thủng thuyền giặc, hình ảnh Kim Đồng “ca lô đội lệch, mồm huýt sáo vang” v.v..
Hơn nữa, sự khác biệt giữa xã hội Việt Nam và nơi thanh thiếu niên kiều bào sinh sống (chỉ thế giới Âu-Mỹ) còn là sự khác biệt về trình độ văn minh, chứ không đơn thuần chỉ là văn hóa.
Như đã bàn ở phần trên, hai truyền thống văn hóa Đông – Tây phát triển theo hai hướng khác nhau: phương Đông có xu hướng giữ gìn văn hóa truyền thống; còn phương Tây phát triển lấy nguyên tắc tiện nghi, quy củ làm trọng nên chóng đạt đến văn minh. Tính đa dạng của trang phục truyền thống Á Đông (áo dài Việt Nam, hanbok Hàn Quốc, kimono Nhật Bản, đường phục Trung Quốc v.v.) và tính đồng nhất của Âu phục là minh chứng điển hình.
Từ sự khác biệt này của hai mô hình xã hội Đông – Tây, thanh thiếu niên kiều bào phải đứng trước một khoảng cách vô hình về trình độ văn minh. Khi thanh thiếu niên kiều bào quay về Việt Nam học tập ngôn ngữ và văn hóa luôn mang theo mình khát khao học hỏi và tư duy chấp nhận cái mới (=tư duy khai phóng). Họ đã sống ở một đất nước khác với một xã hội khác và phong cách văn hóa khác, sự quay về của họ đồng nghĩa với việc mưu cầu tìm hiểu bản chất thật của nguồn cội. Và do vậy, việc học tập, nghiên cứu của họ tại Việt Nam là có mục đích và động lực.
Dù vậy, trước khi bắt đầu những bài học giáo khoa ở trường lớp, họ đã “học” ở ngoài xã hội trước, mà bài học ở xã hội trong xã hội Việt Nam đương đại đa phần là phức tạp và bất quy tắc (do xã hội ta đang chuyển động trong giai đoạn quá độ). Chẳng hạn, đó là cảnh người người đổ xô ra đường tranh đua nhau, thiếu nhường nhịn trong giao thông gây ùn tắc; người tham gia giao thông bấm còi inh ỏi ngay cả trước cửa bệnh viện, trường học; đường phố nhếch nhác, bụi bẩn; nạn “tè bậy”, khạc nhổ ngoài đường phố; người người cư xử lạnh lùng; dân chúng chưa biết xếp hàng; cả một xã hội đang chuyển động ở trục chưa nề nếp…
Và rồi, khi bước vào trường lớp, họ lại tiếp cận với những bài học với bao điều tốt đẹp. Nào người Việt Nam luôn vị tha, luôn sống tình cảm, cần cù siêng năng; nào là người Việt Nam chân chất, hiền hòa, hướng thiện… Những bài học này là hoàn toàn chính xác nhưng nó đã bỏ qua thực tế. Trong khi đó người giáo dục phương Tây luôn coi trọng mặt thể hiện của lý thuyết trong xã hội thực tiễn. Và thế hệ trẻ ở phương Tây được giáo dục ý thức so sánh văn hóa rất tốt, cộng với một thế mạnh nữa là thanh thiếu niên kiều bào ít nhất kinh qua hai xã hội, gồm xã hội nơi họ sống và xã hội Việt Nam nên góc nhìn đối chiếu càng mạnh mẽ. Sự chênh lệch ấy dễ dàng dẫn tới tâm trạng bất an trong suy nghĩ người học khi điều được học quá lý tưởng so với thực tế. Và từ bất an dẫn đến bất phục và tâm lý học đối phó. Tâm lý này chính là rào cản to lớn trong quá trình cảm thụ văn hóa nguồn cội bằng chính trái tim và tâm hồn của họ. Trong những trường hợp như vậy, họ tự đặt mình thành “người ngoài cuộc”. Nhóm sinh viên người Hà Lan gốc Việt đang học tập tại Đại học Kinh tế Tp. Hồ Chí Minh từng chua chát nhận định rằng “khi ở Hà Lan tôi tự xem mình là người Việt Nam, còn khi về Việt Nam tôi bắt buộc phải xem mình là người Hà Lan”([1]). Nguyên do chính vẫn là tâm lý bất phục, bất an ấy (nếu không gọi là những “cú sốc văn hóa”).
Rõ ràng có một sự khác biệt giữa văn hóa nơi họ đang sống và văn hóa Việt Nam. Dù có được giáo viên chăm sóc, giảng dạy tận tình đến mấy thì những thứ họ chiêm nghiệm ngoài xã hội cũng không dễ dàng phôi phai. Sự khác biệt ấy trong ý thức cộng đồng được nhìn nhận là sự khác biệt ở các nấc thang văn minh, đặc biệt là văn minh đô thị, chứ không phải đơn thuần chỉ là phong cách văn hóa.
Trong thời gian dài, người Việt Nam chúng ta sống bằng ý thức nguồn cội văn hóa canh nông (tiểu nông) và bắt đầu chuyển đổi sang hướng công nghiệp hóa, đô thị hóa chỉ mới hai thập niên. Cho đến thời điểm hiện tại, chúng ta vẫn đang lay hoay cho bài toán giáo dục ý thức cộng đồng và cung cách sống văn minh đô thị. Chúng ta sớm xác định cái đích hướng tới của xã hội Việt Nam là văn minh, cụ thể là văn minh đô thị. Dù rằng văn minh, hay văn minh đô thị đều có mối quan hệ mật thiết đến văn hóa, song nó chỉ gắn với trục đồng đại, trong khi bài học văn hóa dành cho thanh thiếu niên kiều bào phải song hành với trục lịch đại. Văn hóa và văn minh vẫn là hai khái niệm khác nhau, hai phong cách khác nhau, song có một thực tế là người học ít khi có thể phân biệt được. Người giảng dạy phải nắm bắt rõ điều này để làm rõ các vấn đề bất tương thích giữa thực tế và truyền thống, giúp trấn an tâm lý cho người học, chủ động thu hẹp khoảng cách khác biệt và nhẹ nhàng giúp người học vượt qua nó.
3. Vai trò giảng viên – người đạo diễn thu hẹp các khoảng cách
Xuất phát từ những khoảng cách ý thức trên đây, việc dạy và học ngôn ngữ và văn hóa cho đối tượng kiều bào không đơn thuần là việc cung cấp, đào tạo kiến thức của một nền văn hóa ngoài quốc gia họ đang sống (= văn hóa của người, “tha văn hóa”), mà còn là quá trình thu hẹp khoảng cách văn hóa, đưa văn hóa Việt Nam trở thành bản sắc trong tâm thức thanh thiếu niên kiều bào (= văn hóa của mình, “ngã văn hóa”). Muốn thực hiện công tác giảng dạy thành công, người dạy phải chủ động trong suốt cả quá trình, vừa giảng dạy tri thức, vừa giải quyết vấn đề tâm lý.
Thứ nhất, người giảng dạy phải chủ động nghiên cứu, cập nhật thông tin về các xã hội tiên tiến qua các kênh thông tin khác nhau, nhận thức khoảng cách văn hóa giữa xã hội ta và các xã hội tiên tiến trên thế giới, cũng như sự khác biệt của kiểu tư duy người Việt Nam và tư duy của những người bên ngoài xã hội Việt Nam. Người giảng dạy cần trang bị phương pháp nghiên cứu văn hóa so sánh để có được góc nhìn khách quan, khoa học trong việc nhận định khoảng cách văn hóa và văn minh.
Thứ hai, như đã bàn trên, thanh thiếu niên kiều bào về nước học tập là có mục tiêu và động lực (biến kiến thức văn hóa Việt Nam thành cái của mình), họ luôn thể hiện thái độ chủ động trong quá trình vượt qua khoảng cách. Nắm được điểm này, người giảng dạy nên mạnh dạn nhắm thẳng vào những sự khác biệt về trình độ văn minh và nhẹ nhàng vượt qua nó chứ không nên đánh lờ nó để rồi biến tri thức tốt đẹp của văn hóa truyền thống thành một thứ “di sản lịch sử”. Chẳng hạn, người giảng dạy nên chủ động đặt vấn đề về tình hình giao thông lộn xộn, coi nó là hệ quả tất yếu của quá trình chuyển đổi từ xã hội văn hóa canh nông sang xã hội đô thị văn minh, tức “cái cũ chưa qua hết trong khi cái mới chưa định hình trọn vẹn”, và chú trọng đến tính nhất thời của nó, chủ động lôi kéo sinh viên cùng thảo luận các giải pháp tình thế và lâu dài. Tương tự, người giảng dạy có thể lý giải nguồn gốc của mọi sự bất quy tắc (ăn to – nói lớn, thói tùy tiện vứt rác, khạc nhổ làm bẩn đường phố, thói quen quan sát, tò mò, tính hiếu kỳ v.v.) ở người Việt Nam đương đại bằng các đặc trưng lối sống trọng cộng đồng, lối sống nông thôn chưa kịp đô thị hóa, tư duy tổng hợp, trọng tình cảm v.v. chưa được cân bằng trong môi trường đô thị hiện đại. Điều quan trọng cần nhấn mạnh rằng hiện tại Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi để đi đến văn minh đô thị, mọi sự bất quy tắc trước mắt rồi sẽ đi qua; và rằng người phương Tây thời kỳ chuyển đổi sống sống thời trung cổ sang lối sống đô thị cũng từng trải nghiệm qua các vấn nạn tương tự. Người giảng dạy có thể mời người học tham gia thảo luận phần này để phát huy vai trò chủ động của họ. Mọi xu hướng đánh lờ nó hoặc bỏ qua luôn làm cho người học có tâm lý bất phục hoặc cảm thấy văn hóa Việt Nam không đáng để học và gìn giữ.
Thứ ba, người giảng dạy chủ động làm chủ tâm lý người học bằng cách nắm bắt được cách tư duy của người học (tư duy phân tích, cộng gộp), khuyến khích người học dùng tư duy tổng hợp để học hỏi và tìm hiểu văn hóa Việt Nam, do văn hóa Việt Nam được sáng tạo và gìn giữ bởi những bộ óc mang tư duy tổng hợp qua mấy ngàn năm lịch sử. Có như vậy thì việc dạy và học mới chính xác và đạt hiểu quả cao. Chẳng hạn, nên lý giải chuyện chú Cuội dặn vợ “có đái thì đái bên tây, đừng đái bên đông cây dông lên trời” bằng nguyên lý Ngũ hành, và rằng các dữ liệu được sử dụng chỉ mang tính biểu tượng, ước lệ. Ý nghĩa biểu trưng của sự vật, hiện tượng luôn nằm ở khung tổng hợp cao nhất của toàn bộ câu chuyện; và rằng người Việt Nam đánh giá bài học qua nội dung của toàn bộ chỉnh thể hệ thống, chứ không phải ở các chi tiết vụn vặt v.v..
Tóm lại, thanh thiếu kiều bào ta ở nước ngoài về nước học tập ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam đứng trước khoảng cách khác biệt về văn hóa và cách tư duy, song với mục tiêu, động lực rõ ràng, nhu cầu vượt qua khoảng cách ấy là mạnh mẽ. Người giảng dạy tự bồi dưỡng, cập nhật thông tin về văn hóa, văn minh, tự nhận biết khoảng cách văn hóa, văn minh giữa xã hội ta và các xã hội tiên tiến, chủ động dìu dắt người học vượt qua các rào cản nói trên, đồng thời góp phần giáo dục cả tư duy tổng hợp ở người học (tư duy phân tích đã có sẵn), biến cái xa lạ thành cái gần gũi, biến cái của người thành cái của ta. Làm được như vậy, người giảng dạy đã xử lý được các khoảng cách của tư duy, của lối sống, và rộng hơn cả là giữa văn hóa và văn minh. Nói cách khác, đối với đối tượng là thanh thiếu niên kiều bào, việc giáo dục ngôn ngữ và văn hóa phải so sánh, đối chiếu giữa hai cực cung – cầu, chủ động kéo cung và cầu cùng song hành trên cùng một trục.
Tài liệu tham khảo
1. Đào Duy Anh 1955: Việt Nam văn hóa sử cương. Hà Nội: NXB Văn hóa Thông tin, tái bản 2003.
2. K. Ramanujan 2006: “Oedipus” Ấn Độ (Phan Thu Hiền dịch), Huyền thoại và Văn học, Khoa Ngữ văn và Báo chí, ĐHKHXHVNV Tp. HCM.
3. Nguyễn Ngọc Thơ 2010: “Nho giáo và tính cách văn hóa Việt Nam”, Kỷ yếu Hội thảo Hán học quốc tế, Đại học Malaya, Malaysia.
4. Trần Ngọc Thêm 2001: Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB Tp. Hồ Chí Minh.
5. Phạm Đức Dương 2002: Từ văn hóa đến văn hóa học, NXB Văn hóa – Thông tin.