Trong bối cảnh toàn cầu hóa, đã xuất hiện nhiều vấn đề mà trước đây rất ít khi chúng ta bắt gặp, chẳng hạn, có những loại hình văn hóa rất ít chịu ảnh hưởng của chính trị (nghệ thuật giải trí, du lịch thương mại…), nhiều loại hình ngôn ngữ khác nhau đại diện cho quan điểm của các nhóm lợi ích khác nhau. Sự đa dạng về các loại hình văn hóa và ngôn ngữ cho thấy sự đa dạng về quan điểm và phương thức tư duy văn hóa trong thời kỳ chuyển đổi loại hình xã hội hiện nay.
1. Nền tảng văn hóa tinh thần của kinh tế thị trường
Bàn luận về những nguy cơ mà nền văn hóa nhân loại đang phải đối mặt, các nhà khoa học chú ý đến hiện tượng phai nhạt niềm tin trong giao dịch thương mại và trao đổi văn hóa. Sự suy giảm, thậm chí biến mất của niềm tin gắn liền với thái độ coi nhẹ các giá trị nhân văn trong tư cách là khế ước tinh thần xã hội. Nói theo cách diễn đạt của Max Weber thì trong xã hội hiện đại, ở tầng lý tính giá trị của nó, người ta đã mất đi mối quan tâm với những vấn đề chung mà chỉ lo nghĩ đến quyền lợi và dục vọng cá nhân. Weber đã luận chứng một cách sâu sắc sự phát triển của chủ nghĩa tư bản gắn liền với nền tảng đạo đức Tin lành (1). Tất nhiên không phải mọi quan điểm của nhà xã hội học này đều thuyết phục, nhưng những kiến giải của Weber giúp chúng ta nhận thức rõ hơn một thực tế: kinh tế thị trường nếu không được xây dựng trên một nền tảng nhân văn sâu sắc sẽ bị méo mó và lâm nguy. Gắn bó mật thiết giữa kinh tế và văn hóa, các yếu tố văn hóa thẩm thấu ngày càng sâu vào kinh tế là đặc trưng cơ bản của nền kinh tế tri thức. Điều này khiến chúng ta nhận thức một cách đầy đủ hơn rằng, mặc dù xây dựng kinh tế thị trường là nhiệm vụ cấp thiết của chúng ta, nhưng đó không phải là thứ thị trường phi nhân tính, nhân văn. Thuật ngữ nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta chủ trương thực chất là muốn gắn kết hai yếu tố tưởng như đối lập nhau: thị trường và nhân văn trong một thể thống nhất. Nó toát lên tính tích cực trong văn hóa chính trị của Đảng: mọi thành quả phát triển kinh tế phải hướng tới mục tiêu phát triển toàn diện con người. Đây cũng chính là con đường quan trọng để bảo đảm sự phát triển bền vững của đất nước.
Ai cũng biết hiện đại hóa có tính hai mặt: một là thế tục hóa, ở đó nhất thiết phải phát huy sức mạnh của lý tính; hai là, phải thấm nhuần tính văn hóa và thể hiện tinh thần nhân văn của thời đại. Trong thực tế, người Việt xưa nay thường nặng về cái sau mà coi nhẹ cái trước. Sự thiên lệch này cho thấy chúng ta chưa chú ý đầy đủ đến nhu cầu thực tế của hiện đại hóa. Đó là chưa nói đến việc, ngay cả truyền thống trọng tình của người Việt cũng khá tùy tiện, không xuất phát từ một hệ tiêu chí nào, thậm chí nhiều khi người ta giải quyết công việc cho nhau chỉ vì lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau. Cho nên, nhiều khi chẳng hề tốn kém khó nhọc mà người ta lại có thể có được rất nhiều tiền. Đây là điều sẽ không bao giờ xảy ra ở phương Tây, nơi lý tính và luật pháp được coi là tối thượng.
Đặt trong bối cảnh khu vực, cũng như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore…, Việt Nam ít nhiều chịu ảnh hưởng Nho giáo. Bản chất của Nho giáo là trọng nông ức thương, trọng nghĩa khinh lợi, đề cao chữ tín… Vì thế, đã có thời kỳ nhiều nhà khoa học cho rằng, tư tưởng Nho giáo là một trong những nguyên nhân cản trở sự phát triển kinh tế thị trường. Nhưng trên tinh thần đổi mới, người ta lại tìm thấy nét tích cực của Nho giáo thể hiện ở thái độ coi trọng chữ tín. Với họ, tín không chỉ cần thiết trong đời sống xã hội nói chung mà còn là một nhân tố quan trọng của đời sống kinh tế, vì tín tạo nên sự tin tưởng trong giao dịch thương mại.
Hiện nay, trong đời sống kinh tế thị trường Việt Nam và một số nền kinh tế thị trường mới nổi, hiện tượng chụp giật, lừa đảo, hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng tràn lan là một minh chứng cho sự suy đồi về đạo đức. Nó gắn liền với thái độ coi nhẹ chữ tín trong giao dịch mà chỉ tập trung giành bằng được cái lợi. Thực tế này cho thấy việc trở lại với quan niệm về chữ tín của Nho giáo và áp dụng nó vào các hoạt động kinh tế, coi tín như một yếu tố cốt lõi trong nền tảng văn hóa tinh thần của nền kinh tế thị trường là hoàn toàn có cơ sở. Bản thân Weber trong quá trình truy tìm ngọn nguồn của chủ nghĩa tư bản cũng đặc biệt nhấn mạnh hai yếu tố quan trọng của đạo đức Tin lành mà chủ nghĩa tư bản lấy làm cơ sở tinh thần là hứng thú gom góp của cải và khổ hạnh. Đây là hai yếu tố đã giúp kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa phát triển mạnh mẽ. Bởi vậy, một khi những cơ sở tinh thần ấy bị biến mất hoặc bị xem nhẹ, lập tức thị trường sẽ lâm vào khủng hoảng. Có thể nói không quá rằng, vấn đề chiếc xe Lexus và cây ô liu là vấn đề mà bất cứ dân tộc nào cũng phải đối mặt trong quá trình phát triển (2).
Việt Nam không phải là quốc gia đầu tiên tiến hành xây dựng kinh tế thị trường mà thực chất là đang đi lại con đường mà nhiều quốc gia đã đi qua. Đây chính là cơ hội để chúng ta có điều kiện nghiên cứu và rút ra những kinh nghiệm quý báu về quy luật phát triển của thị trường, chú ý hình thành nền tảng tinh thần của kinh tế thị trường, bảo đảm cho nền kinh tế thị trường XHCN ở nước ta phát triển lành mạnh. Xuất phát từ chủ trương tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa trong chiến lược phát triển đất nước, chúng ta hiểu rằng “tăng trưởng kinh tế mà văn hóa suy đồi là điều vô nghĩa và trái lại với bản chất của chế độ XHCN lấy phát triển toàn diện con người làm mục tiêu trung tâm. Chỉ có một nền văn hóa tiên tiến thấm nhuần sâu sắc tính nhân văn và với bản sắc dân tộc đậm đà thì mới đủ sức kìm chế những mặt tiêu cực của kinh tế thị trường” (3). Điều chúng tôi muốn nói thêm ở đây là, không phải đợi đến lúc kinh tế thị trường bộc lộ những khía cạnh tiêu cực, chúng ta mới đưa ra các biện pháp hóa giải nó mà ngay trong khi xây dựng kinh tế thị trường, chúng ta phải đồng thời xây dựng cơ sở văn hóa mà nền tảng của văn hóa ấy chính là tinh thần nhân văn hiện đại. Điều đó buộc chúng ta phải gấp rút xây dựng văn hóa doanh nghiệp, xây dựng đạo đức kinh doanh phù hợp với những chuẩn mực giá trị của thời đại mới. Cơ sở văn hóa của kinh tế thị trường ở nước ta là vấn đề cần phải tiếp tục được nghiên cứu, nhưng theo chúng tôi, nguyên tắc quan trọng nhất là phải đặt chữ tín lên hàng đầu, phải xây dựng thái độ trọng thị con người, làm sao để hoạt động kinh doanh vừa có lợi cho mình, vừa có lợi cho người, hài hòa giữa lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng, giữa lợi ích dân tộc và lợi ích nhân loại.
2. Tinh thần nhân văn truyền thống như một yếu tố hình thành giá trị nhân văn hiện đại
Đến nay, hầu như tất cả mọi quốc gia đều nhận thức được tầm quan trọng của phát triển bền vững. Nhưng nói như thế không có nghĩa là mọi vấn đề đã được giải quyết xong xuôi. Do ảnh hưởng của tư tưởng Âu dĩ vi trung, không ít người cho rằng, hiện đại hóa đồng nghĩa với phương Tây hóa. Đó là một ngộ nhận khiến nhiều người vội vàng chạy theo phương Tây một cách mù quáng. Với họ, chỉ có phương Tây mới quan trọng, còn giá trị tinh thần truyền thống đồng nghĩa với lạc hậu và kém phát triển. Đúng là kinh tế thị trường xuất phát và thịnh vượng trước hết ở phương Tây, và những nước giàu có nhờ sớm phát triển kinh tế thị trường cũng chủ yếu nằm ở phương Tây (G7 trước đây và G20 sau này). Nhưng thực ra, kinh tế thị trường là kết tinh trí tuệ của loài người. Đến nay, bên cạnh những quốc gia giàu có ở phương Tây đã xuất hiện nhiều cường quốc kinh tế ngoài phương Tây như Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ ở châu Á, Brazil, Achentina ở Mỹ La tinh… Việc học tập các nước phương Tây là hết sức cần thiết, nhưng cũng phải chú ý một hiện tượng ngược lại: nhiều quốc gia phương Tây đang tìm đến phương Đông để chữa lành những vết thương tinh thần của văn minh kỹ trị. Như vậy, bản thân phương Tây cũng có những khủng hoảng, và họ muốn tìm cách thoát khỏi khủng hoảng bằng cách tham bác những giá trị khác ngoài phương Tây. Đến đây, chúng ta có thể thấy rằng, nếu đánh mất những giá trị tinh thần nhân văn thì rất dễ tạo nên những chấn thương tinh thần trong xã hội hiện đại, và những chấn thương ấy không loại trừ bất cứ một quốc gia nào.
Là một quốc gia bắt đầu xây dựng nền kinh tế thị trường, bên cạnh những thành tựu đáng tự hào về nhiều mặt, Việt Nam cũng phải đối mặt với nhiều thách thức: hiện tượng vô cảm ngày càng phổ biến, lối sống thực dụng cọi trọng đồng tiền lan rộng, thậm chí vì lợi ích kinh tế người ta sẵn sàng bất chấp tất cả, sẵn sàng phá hoại môi trường sinh thái… Thực tế đau lòng ấy buộc chúng ta phải có những điều chỉnh về nhận thức: phải phát triển một cách hài hòa, bền vững, và xây dựng kinh tế thị trường không hề đồng nghĩa với việc chỉ lo phát triển kinh tế mà gạt bỏ hay sao nhãng các giá trị nhân văn. Tất nhiên, điều khiến chúng ta lao tâm khổ tứ nhất là làm sao để xây dựng được tinh thần nhân văn mới phù hợp với sự phát triển của đất nước trong điều kiện kinh tế thị trường. Muốn thế, việc phát huy những giá trị nhân văn truyền thống, bổ sung và thay đổi nội hàm của nó để những giá trị ấy mang tinh thần hiện đại là vấn đề hết sức cần thiết. Chẳng hạn đức tính “thương người như thể thương thân” trong văn hóa Việt Nam, nếu chúng ta biết hạn chế yếu tố cảm tính và bổ sung bằng những tiêu chí lý tính thì đó sẽ là một triết lý sống có khả năng tạo nên sự hài hòa giữa con người với con người trong đời sống hiện đại. Hoặc đức tính cần cù, sáng tạo của cha ông ta cũng cần được phát huy cao độ để tất cả các thành viên xã hội có khả năng phát huy cao nhất năng lực của mình. Theo một kết quả điều tra xã hội học mới đây, lối sống hưởng thụ của người Việt, đặc biệt là giới trẻ đang lan rộng, ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của đất nước (4). Đây là một hiện tượng xa lạ với truyền thống văn hóa của dân tộc. Những hiện tượng đáng buồn này đòi hỏi chúng ta phải chú ý hơn nữa đến giáo dục cho thế hệ trẻ tính cần kiệm, sống có ích cho xã hội. Bên cạnh đó, nạn tiêu cực và tham nhũng không những không hề thuyên giảm mà trái lại, ngày càng tinh vi hơn đã thực sự trở thành một quốc nạn làm đất nước tụt hậu, làm mất lòng tin của nhân dân vào chế độ.
Vấn đề đặt ra là việc tìm đến di sản tinh thần truyền thống không đồng nghĩa với việc phục cổ hay như một hình thức phản ứng lại hiện đại mà phải biết tạo ra tính hiện đại từ trong di sản tinh thần truyền thống. Nghĩa là bên cạnh việc gạt bỏ những yếu tố không phù hợp như thói tùy tiện, cảm tính, nói nhiều làm ít, thích làm thày hơn làm thợ, trọng tình hơn trọng lý…, chúng ta phải quy phạm các hành vi văn hóa để tất cả mọi người có sự bình đẳng về cơ hội, về trách nhiệm và quyền lợi. Muốn vậy, không được biến các giá trị nhân văn truyền thống thành những bài giảng luân lý khô cứng mà phải chuyển hóa nó một cách nghệ thuật vào cơ thể đời sống đương đại.
3. Để mất hay giữ bằng mọi giá?
Thị trường hóa dẫn tới thế tục hóa, thế tục hóa rất dễ dẫn tới việc dung tục hóa đời sống xã hội. Nhìn vào những gì đang diễn ra trong đời sống hiện nay, chúng ta không khỏi ngạc nhiên về sự phai nhạt hay sự thay thế của các giá trị. Nếu những năm 60 của TK XX, những phạm trù như lý tưởng, hy sinh, trách nhiệm… được đề cao thì ngày nay, những vấn đề như quyền lợi, lợi ích được đặt lên hàng đầu. Thậm chí, nhiều giá trị cao cả trước đây giờ trở thành đối tượng bị châm biếm, theo đó, lý tưởng bị chê bai, thiêng liêng bị khinh nhờn. Điều này dẫn tới những cuộc tranh luận không dứt về việc nên xây dựng hệ giá trị tinh thần nhân văn thế nào thì phù hợp với thực tiễn. Một số người chủ trương phải dứt khoát từ bỏ những giá trị tinh thần truyền thống để tiến hành hiện đại hóa một cách triệt để, số khác lại đề cao giá trị nhân văn truyền thống và nghi ngờ các giá trị nhân văn hiện đại, coi chúng chỉ là những giá trị nhất thời. Ngẫm ra, cả hai luồng ý kiến này đều cực đoan, và, cứ giả sử là định hướng giá trị của hai bên giống nhau thì nguyên nhân tạo nên sự khác biệt giữa họ chính là sự khác nhau trong quan niệm về vấn đề thế tục hóa của văn hóa tinh thần trong đời sống kinh tế thị trường. Thực ra, bất cứ sự đổi mới nào cũng hàm nghĩa phủ định cái cũ, nhưng đó là sự phủ định lịch sử chứ không phải là sự phá phách hay đạp đổ vô căn cứ. Trên quan điểm biện chứng, không có sự đổi mới nào bắt đầu từ hư vô. Sự đổi mới đúng đắn là sự đổi mới trên cơ sở kế thừa một cách hợp lý những tinh hoa của dân tộc và nhân loại đã từng có. Bởi thế, trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay, một mặt, chúng ta dứt khoát thanh toán những yếu tố cản trở sự đổi mới, đặc biệt là tâm lý tiểu nông, manh mún, tùy tiện và tư lợi, mặt khác, biết gạn đục khơi trong, làm cho những giá trị nhân văn truyền thống, ở khía cạnh tích cực nhất của nó, mang tính hiện đại. Đây cũng là nguyên lý phát triển đứng đắn để phát huy sức mạnh của văn hóa với tư cách vừa là mục tiêu vừa là động lực của phát triển. Nó cũng là vấn đề giải thích vì sao Đảng ta chủ trương “nâng cao tính văn hóa trong mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội và sinh hoạt của nhân dân” (5). Tất nhiên, trong quá trình chuyển đổi loại hình xã hội hiện nay, để bổ sung cho triết lý phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam, chúng ta còn phải biết học tập và rút kinh nghiệm từ các nước đang phát triển, có hoàn cảnh tương tự Việt Nam để tránh rủi ro cho phát triển, thực hiện chiến lược phát triển bền vững một cách hiệu quả.
4. Toàn cầu hóa hay Đông phương hóa ?
Định hướng phát triển kinh tế thị trường và nhu cầu hiện đại hóa đòi hỏi Việt Nam phải biết tự tin để bước ra biển lớn. Toàn cầu hóa biến thế giới thành thế giới phẳng (6) và không một quốc gia nào muốn phát triển mà lại tự giam mình trong ốc đảo. Nỗ lực hiện đại hóa của dân tộc Việt Nam hơn một trăm năm nay vốn đã rất quanh co khúc khuỷu, vì khi thì chúng ta bị ách thống trị của thực dân đế quốc, khi thì chúng ta rập khuôn theo mô hình phát triển nước ngoài mà không hề có sự sáng tạo gì mới. Hơn nữa, tâm lý nóng vội nhiều lúc khiến chúng ta phải trả giá đắt. Trong quá trình hiện đại hóa, xét về tâm lý, chúng ta đang có hai trạng thái đối nghịch: một là bị tâm lý hậu thực dân đeo đuổi và ám ảnh, sùng bái phương Tây và coi phương Tây là mẫu mực. Điều này không có gì khó hiểu vì tâm lý hậu thực dân bao giờ cũng gắn liền với mặc cảm tự ti, khi lộ liễu khi kín đáo. Một luồng tư tưởng khác là tìm cách khước từ các cơ hội hợp tác với phương Tây hoặc hợp tác một cách dè dặt vì lo sợ ảnh hưởng của tư tưởng tư sản độc hại. Loại ý kiến này đề cao chủ nghĩa phương Đông, nhấn mạnh sự khác biệt Đông – Tây là phá hủy bản sắc văn hóa dân tộc và tự thủ tiêu mình.
Thực tế trên đây đòi hỏi chúng ta phải có thái độ đúng đắn để vừa hoàn tất sự nghiệp hiện đại hóa đất nước, vừa giữ được bản sắc văn hóa dân tộc. Trước hết, cần thấy rằng, việc học tập phương Tây là hết sức cần thiết, nhất là học tập khoa học kỹ thuật và tác phong công nghiệp vì các nước phương Tây là những quốc gia có hệ thống kinh tế thị trường phát triển khá hoàn thiện. Vấn đề là chúng ta không thể và không nên biến quá trình hiện đại hóa thành quá trình rập khuôn phương Tây một cách máy móc. Điều này còn xuất phát từ một nguyên nhân nữa: bản thân sự hình thành và phát triển kinh tế thị trường không phải là đặc sản phương Tây mà là thành quả của toàn nhân loại. Bản thân phương Tây, ở giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa thời kỳ đầu đã học tập, tiếp thu rất nhiều quan niệm, biện pháp kinh doanh, hình thức tổ chức của phương Đông, nhất là kinh nghiệm buôn bán của người Islam. Mặt khác, nhiều dân tộc (thuộc địa) đã từng chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng tự do, bác ái, bình đẳng của cách mạng tư sản Pháp. Ngoài ra, trong kho từ vựng văn hóa nhân loại, những khái niệm như chủ quyền quốc gia, dân chủ, tự do, pháp quyền… đều có nguồn gốc từ nền dân chủ phương Tây. Nhiều lãnh tụ, chính khách của các quốc gia phương Đông đã đem khát vọng giải phóng dân tộc trên cơ sở tiếp thu một cách hệ thống và sâu sắc thành quả giáo dục của các nước phương Tây. Nói thế để thấy rằng, kỳ thị phương Tây một cách thái quá là không phù hợp đối với chiến lược phát triển đất nước vì ở khía cạnh nào đó mà nói, văn minh phương Tây là một phần không thể thiếu của văn minh nhân loại. Mặt khác, để phát triển đúng hướng, chúng ta phải chú ý đúng mức đến sức mạnh nội sinh và một trong những nhân tố tạo nên sức mạnh ấy chính là tinh thần dân tộc và những giá trị văn hóa mà cha ông ta đã tạo dựng. Hiển nhiên, điều này hoàn toàn khác với thái độ duy dân tộc, bản vị vì thái độ bản vị hay chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi sẽ trở thành yếu tố cản trở quá trình hiện đại hóa đất nước. Vì thế, con đường phát triển của Việt Nam là lấy chủ nghĩa Marx và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng, chủ động học tập và kế thừa tinh hoa của nhân loại, phát huy những giá trị tinh thần quý báu của dân tộc, nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp phát triển đất nước.
Ngày nay, khi bàn về sự đa dạng của các khuynh hướng tư tưởng, người ta nói nhiều đến chủ nghĩa hiện đại và hậu hiện đại. Về thực chất, cả chủ nghĩa hiện đại và hậu hiện đại là những trào lưu tư tưởng xuất hiện trong điều kiện xã hội phương Tây bị khủng hoảng sâu sắc. Đó là khi con người bị mất niềm tin, nghi ngờ các giá trị, đề cao tính nổi loạn cá nhân… Những làn sóng tư tưởng này ít nhiều đã ảnh hưởng đến Việt Nam. Tuy nhiên, điều kiện xã hội nước ta có nhiều điểm khác biệt với điều kiện xã hội phương Tây hiện đại, vì thế, ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện đại và hậu hiện đại ở nước ta chưa thực sự sâu sắc. Tuy nhiên, đây là một vấn đề mới mẻ đòi hỏi cần được tiếp tục nghiên cứu sâu hơn và kỹ lưỡng hơn.
Tóm lại, chúng tôi nghĩ rằng, để phát triển kinh tế thị trường thực sự lành mạnh, nhất thiết chúng ta phải xây dựng cơ sở văn hóa thích ứng và lõi cốt của nền tảng văn hóa ấy chính là tinh thần nhân văn lấy con người làm trung tâm của phát triển. Tinh thần nhân văn ấy vừa là sản phẩm của thời đại ngày nay, vừa là sự kế thừa và tiếp nối những giá trị tinh thần nhân văn truyền thống từ tầm nhìn hiện đại.
--------------------------------------
1. Max Weber, Nền đạo đức Tin lành và tinh thần chủ nghĩa tư bản, Nxb Tri thức, Hà Nội, 2010.
2. Thomas L. Friedman, Chiếc xe Luxus và cây ô liu, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2005.
3. Phạm Xuân Nam (chủ biên), Triết lý phát triển ở Việt Nam, mấy vấn đề cốt yếu, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2008.
4. Điều tra mới đây của Master Card cho biết, người Việt hiện nay đã vượt qua Hàn Quốc và Hongkong (Trung Quốc) để trở thành những người nhất ăn, nhì chơi trong khu vực (theo bài: Việt Nam nhất ăn, nhì chơi trong khu vực. Mừng hay lo? Nguồn: www.dđn.com.vn, ngày 27-2-2011).
5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.208.
6. Thomas L. Friedman, Thế giới phẳng, Nxb Trẻ, TP.HCM, 2006
Nguồn: Văn hóa Nghệ thuật, 325/2011