Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho chúng ta một di sản quý báu, đó là tư tưởng của Người, mà chiều sâu trong tư tưởng đó là triết lý nhân sinh, là tinh thần, là phương pháp luận để xây dựng con người và phát triển văn hoá. Tư tưởng của Người về mối quan hệ giữa con người và văn hoá, cũng như những ảnh hưởng của nó đối với công cuộc đổi mới, được soi sáng bởi thực tiễn cách mạng, trở thành kim chỉ nam cho sự nghiệp phát triển đất nước. Đảng ta đã xác định rõ trong Báo cáo Chính trị Đại hội IX: “Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta”[1].
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa con người và văn hoá là một triết lý xuất phát từ việc học hỏi, nghiên cứu, đúc kết thực tế của nhiều nước, nhiều nền văn minh trên thế giới. Bởi thuở hàn vi, bằng nhiều nghề của những người lao động bình thường nhất, Hồ Chí Minh đã từng đi nhiều nước trên khắp thế giới, học được nhiều thứ tiếng: Pháp, Anh, Nga, Trung v.v... nhờ đó Người cũng thấy được nhiều, nghe nhiều, đọc được nhiều và hiểu biết thực tế về con người và văn hoá của nhiều dân tộc. Người đã sống nhiều năm ở các trung tâm văn hoá lớn nhất như: Pari, London, Matxcova, Quảng Châu v.v.. nhiều “thủ đô ánh sáng” đối với Người đã thành quen thuộc. Mặt khác, Người cũng đã dừng chân lại ở những khu vực chậm phát triển hơn như châu Phi, Châu Á, châu Mỹ la tinh, Người đã trải qua cả thực tế của các nước nông nghiệp chậm phát triển, nơi có những đặc thù kinh tế, văn hoá gần với hoàn cảnh nước nhà. Từ đó đúc kết được một con đường đúng đắn cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Dù ở đâu, Người luôn hướng về dân tộc, hướng về phục vụ Tổ quốc, hướng về con người và nhân dân, về các giá trị độc lập, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, về việc phát triển và hoàn thiện nhân cách và đạo đức, tự do và sự sáng tạo.
1. Vấn đề con người trong triết lý tư tưởng Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh ít lý luận về con người, song chúng ta vẫn thấy rõ mọi suy nghĩ và hành động của Bác đều hướng tới con người. Bác quan tâm đến hết thảy đồng bào: từ quân đội, đến công nhân, nông dân, trí thức, từ các cụ cao niên đến các cháu nhi đồng, từ đồng bào trong nước đến Việt kiều sống ở nước ngoài cũng như tất cả nhân dân lao động trên toàn thế giới... Từ Bản án chế độ Thực dân Pháp đến Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho chúng ta, ở đâu Hồ Chí Minh cũng rất quan tâm đến vấn đề con người, Người viết trong di chúc khi nói về công tác chỉnh đốn Đảng “Đầu tiên là công việc đối với con người”.
Hồ Chí Minh luôn luôn đặt vấn đề con người lên trên hết. Nó mang một tính nhất quán trong tư tưởng của Người, thấm đượm trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người, thể hiện trong mọi lời nói cử chỉ và hành động của Người. Từ Bản Tuyên ngôn độc lập bất hủ, người đã khẳng định một chân lý hào hùng của mọi thời đại: “Mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng...”. Đến những từng nhiệm vụ của cách mạng, Người luôn tôn chỉ nguyên tắc đó. Với Hồ Chí Minh độc lập dân tộc phải luôn được gắn liền với tự do hạnh phúc cho con người, Người nhiều lần nhấn mạnh: “Nếu độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng không có ý nghĩa gì”[2]. ý tưởng cao đẹp đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn được quán triệt trong mọi đường lối của Đảng, của nhà nước Việt Nam trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng sau này.
Yêu thương con người, Người luôn tôn vinh và quý trọng con người, và cũng yêu cầu rất cao với con người, đặc biệt là đối với những cán bộ của dân. Người luôn nhắc nhở các cán bộ, đảng viên. Vậy cán bộ phải có đức tính thế nào? Khi mình đối với mình, đối với đồng chí mình, đối với công việc, đối với nhân dân, đối với đoàn thể... Quý trọng Con người, đặt niềm tin vào con người, Hồ Chí Minh luôn luôn tìm mọi cách phát huy mọi thế mạnh tiềm năng cũng như những phẩm chất đạo đức của Con người. Chính nguyên tắc đó của Người đã đề cao được giá trị đích thực của con người: Con người vừa là mục tiêu của sự nghiệp cách mạng và xây dựng đất nước, vừa là chủ thể của cách mạng.
Các giá trị đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra, dường như trước hết để cho bản thân mình thực hiện, sau đó mới để giáo dục cho mọi người. Những phẩm chất nhân, nghĩa, trí, dũng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư... mà Người đã nêu ra, đó cũng chính là triết lý sống mà suốt đời Bác luôn tôn chỉ. Cuộc đời Người đã thực sự là một tấm gương sáng chói cho con cháu về đạo đức cách mạng. Song một nhiệm vụ Bác đề ra không kém phần quan trọng so với nhiệm vụ đấu tranh dành độc lập dân tộc - đó là việc giáo dục đạo đức cách mạng và đào tạo thế hệ kế cận để xây dựng đất nước. Về tầm quan trọng của nhiệm vụ đặt ra, trước lúc đi xa Người còn căn dặn: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và cần thiết”[3]. Bởi vì theo Bác: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa và muốn có con người xã hội chủ nghĩa thì phải có tư tưởng xã hội chủ nghĩa”[4]. Người coi việc đào tạo, bồi dưỡng thế hệ kế cận cho đời sau là một công việc trọng đại của Đảng ta và của cả dân tộc ta.
Lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh gần 40 năm về trước, đến nay tầm quan trọng và sự đúng đắn của nó ngày một được khẳng định. Bài học của Đảng Cộng sản ở nhiều Nước xã hội chủ nghĩa đã trở thành kinh nghiệm quý báu đối với Đảng ta, bởi đã có lúc họ chưa chú ý đúng mức tới nhân tố con người trong cương lĩnh hành động của mình. Hiện nay, tư tưởng đó đã được Đảng ta chú trọng thực hiện trong công cuộc đổi mới đất nước Phát triển kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa trên cơ sở công bằng xã hội” và xác định “đẩy mạnh phát triển toàn diện - sự phát triển của con người, cho con người và vì con người”.
Trong khi nhắc tới con người nói chung, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt đề cao vai trò quần chúng, của nhân dân lao động. Trong tâm niệm của Người, nhân dân chính là nguồn lực vô cùng quan trọng, là người đẩy con thuyền cách mạng tiến tới thành công. Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng linh hoạt của triết lý Phương Đông, là sự kết tinh những giá trị truyền thống quý báu của dân tộc ta, một trong những truyền thống đó là tư tưởng “Trung Quân, hiếu Quốc”. Phát huy tinh thần trên, Bác Hồ vẫn thường căn dặn cán bộ, đảng viên: “Trung với Đảng, hiếu với dân”, Bác luôn coi mình là con em ruột thịt của nhân dân, Người vẫn tự nhủ phải sống và làm việc sao cho xứng đáng với sự tin yêu của nhân dân, trong từng công việc phải biết đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết: “Việc gì có lợi cho dân thì phải làm cho kỳ được, việc gì có hại cho dân thì hết sức tránh. Phải đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết, trước hết...”. Đối với Hồ chí Minh, mọi suy nghĩ và hành động của Người đều hướng về dân. Người coi cách mạng không phải sự “ban ơn” cho dân, mà chính là sự nghiệp của nhân dân, người cán bộ cũng phải xứng đáng là những người đày tớ trung thành của dân, do dân bầu ra, phục vụ mọi lợi ích của nhân dân.
Những điều Bác Hồ luôn tâm niệm và căn dặn các đồng chí của mình thật giản dị và rất Việt Nam, nhưng đó chính là sự chắt lọc và đúc kết tinh hoa trí tuệ của những hào kiệt dân tộc. Trong từng câu nói của Bác, chúng ta đều thấy như âm vang đâu đó lời thề Hai Bà Trưng, của tinh thần Hịch Tướng Sỹ và Bình Ngô Đại Cáo v.v... Dường như, giữa Thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã gặp được các hào kiệt tiền bối của dân tộc, hay đúng hơn chính là sự tiếp nối và phát huy cao độ các tư tưởng Nguyễn Trãi, Nguyễn Du và nhiều hiền triết Phương Đông khác. Cuộc đối thoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Nguyễn Trãi khi đến thăm Côn Sơn vào một sáng tháng 5 năm 1968 đã chứng minh một sự gặp gỡ thần kỳ của hai nhà tư tưởng, hai nhân cách lớn của dân tộc, nối tiếp nhau hơn 500 năm, đó chính là triết lý nhân sinh lấy dân làm gốc:
“Việc nhân nghĩa trước ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”[5].
Khi nói chuyện với dân, Bác thường chắt lọc trong triết lý phương Đông những điều giản dị nhất: “Hôm nay tôi muốn nói một câu chuyện rất giản đơn, câu chuyện về Tam tự kinh. Câu đầu tiên của Tam tự kinh là: “Nhân chi sơ, tính bản thiện”. Sau đó, Người giải nghĩa để dân dễ hiểu, dễ nhớ những vấn đề liên quan chặt chẽ với nhân dân và vai trò của dân: “Nhân nghĩa là nhân dân. Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân. Thiện nghĩa là tốt đẹp, vẻ vang. Trong xã hội không có gì tốt đẹp, vẻ vang bằng phục vụ cho lợi ích của nhân dân”[6].
Là Lãnh tụ của dân tộc, là người chiến sỹ kiên cường đấu tranh cho độc lập tự do của nhân dân, Hồ Chí Minh tự coi là người bạn lớn của nhân dân. Người coi nỗi đau của mọi nhà, của mọi người lao động, là nỗi đau của chính mình, Hồ Chí Minh thường quan tâm, cảm thông, chia sẻ vui buồn với hết thảy đồng bào: Từ việc chia sẻ nỗi đau khi biết con trai của bác sỹ Vũ Đình Tụng đã hy sinh trong kháng chiến, đến việc bớt phần ăn của mình dành cho đồng bào trong những ngày đầu khó khăn khi cách mạng mới thành công. Theo lời kể của Đại tưóng Võ Nguyên Giáp: “Mỗi tháng ba lần đến bữa Bác không ăn, Bác lấy phần gạo của mình tự tay đổ vào hom gạo chống đói. Một hôm đúng vào bữa cơ quan nhịn cơm để gom gạo thì Tiêu Văn mời bác đi chiêu đãi. Khi về, mặc dù được báo cáo là đã đem gom phần gạo của Bác rồi, Bác vẫn quyết định nhịn ăn một bữa vào ngày hôm sau”[7].
Trước bối cảnh đất nước còn chia cắt. Bác luôn dành tình cảm đặc biệt của mình đối với miền Nam, hết lòng trông đợi ngày miền Nam giải phóng. Hàng ngày, dù ở đâu Bác luôn dõi theo từng tin thắng trận, từng trận ném bom oanh tạc. Một trong những niềm vui của Bác là được tiếp các đoàn cán bộ chiến sỹ miền Nam, được trực tiếp nghe tin thắng trận của họ. Thật cảm động khi biết vào sáng tháng năm 1969, Bác không được khoẻ nhưng nghe tin có đoàn cán bộ Miền Nam ra, Bác trực tiếp đến thăm họ vì coi họ là khách đường xa vất vả... [8].
Thương dân và tin dân chính là một trong những phẩm giá nổi bật của những lãnh tụ thực sự là của dân, mà Chủ Tịch Hồ Chí Minh là điển hình của những phẩm chất ấy. Điều đó đã giúp Bác niềm tin và nghị lực để lãnh đạo cuộc kháng chiến toàn dân chống thực dân - phong kiến, dành lại độc lập tự do cho dân tộc Việt Nam. Người đặt hết niềm tin vào nhân dân, rằng họ là chủ nhân đích thực của đất nước, họ là động lực của mọi sự đấu tranh, phát triển, vì thế cần phải quan tâm, đào tạo và biết phát huy mọi tiềm năng giá trị cũng như phẩm chất đạo đức của mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội.
Quan điểm yêu nước, thương dân, vì dân lấy dân làm gốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là điểm cốt lõi, là hạt nhân trong triết lý nhân sinh và hành động của Người. Chữ “Dân” của Bác hàm chứa biết bao nhiêu điều sâu sắc và chiếm một tần số lớn nhất trong ngôn ngữ của Người. Điều đó hoàn toàn lôgích với bản chất nhân đạo của Bác. Chính vì lẽ đó, Hồ Chí Minh là lãnh tụ của nhân dân Việt Nam, được toàn dân ngưỡng mộ, kính trọng và biết ơn vô hạn. Hồ Chí Minh luôn luôn đặt vấn đề con người lên trên hết. Nó mang một tính nhất quán trong tư tưởng của Người trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng.Từ Bản Tuyên ngôn độc lập bất hủ, người đã khẳng định một chân lý hào hùng của mọi thời đại: “Mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng...”, đến từng nhiệm vụ của cách mạng, Người luôn tôn chỉ nguyên tắc đó. Với Hồ Chí Minh độc lập dân tộc phải luôn được gắn liền với tự do hạnh phúc cho con người, Người nhiều lần nhấn mạnh: “Nếu độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng không có ý nghĩa gì”[9]. ý tưởng cao đẹp đó của Người luôn luôn được quán triệt trong mọi đường lối của Đảng của nhà nước Việt Nam và cho đến những giây phút cuối cùng của cuộc đời, ngay trước khi “đi gặp cụ Các-Mác, cụ Lê-nin và các vị cách mạng đàn anh khác Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn ân cần căn dặn lại trong di chúc: “Đầu tiên là công việc đối với con người”.
Tư tưởng hướng tới con người, tới những giá trị đích thực của họ và phấn đấu quên mình để mưu cầu hạnh phúc cho con người của Chủ tịch Hồ Chí Minh được đúc kết từ nhiều tinh hoa tư tưởng của các thời đại trước đó, nhờ nhãn quan văn hoá sâu rộng, Người đã chỉ rõ: “Khổng Tử, Cơ Đốc, Mác, bác sĩ Tôn, họ chẳng có điểm chung nhau đấy ư? Họ đều nghĩ vì nhân loại mà mưu cầu hạnh phúc, vì xã hội mà mưu cầu phúc lợi. Nếu như hôm nay họ còn sống trên đời này, nếu như họ tụ họp lại nhau, tôi tin rằng họ nhất định coi nhau như bạn bè và đối xử với nhau rất hoàn mỹ”[10]. Yêu thương con người, Người rất tôn vinh, quý trọng con người, và cũng yêu cầu rất cao với con người, đặc biệt là đối với những cán bộ của dân. Người luôn nhắc nhở các cán bộ, đảng viên “Việc gì có lợi cho dân thì phải làm cho kỳ được, việc gì có hại cho dân thì hết sức tránh. Phải đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết, trước hết...”.
Ý chí suốt đời chiến đấu để giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người chiếm một vị trí quan trọng trong hệ thống tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người đã xác định rõ, có giải phóng dân tộc mới giải phóng được giai cấp và giải phóng con người, cũng chỉ khi các giai cấp và mỗi con người được giải phóng thì sự nghiệp cách mạng mới hoàn thành triệt để. Vì vậy, muốn giải phóng dân tộc, giải phóng con người, thì phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
2. Văn hoá trong triết lý tư tưởng Hồ Chí Minh
2.1. Về định nghĩa văn hóa của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Ngay những lúc bị giam cầm trong nhà tù Tưởng Giới Thạch, chính trong gian khổ Hồ Chí Minh càng thấm nhuần ý nghĩa của văn hoá, lần đầu tiên Người làm rõ khái niệm văn hóa và nhấn mạnh vai trò của nó trong đời sống con người: Loài người sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn [11].
Trong khi có nhiều người đã hiểu chủ nghĩa duy vật một cách thô thiển, chỉ nhấn mạnh yếu tố vật chất mà coi nhẹ yếu tố tinh thần, thì Hồ Chí Minh lại luôn luôn khẳng định ý nghĩa quyết định của nhân tố tinh thần trong cách mạng. Người coi nhân tố tinh thần thuộc vào thượng tầng kiến trúc xã hội, và văn hóa với tư cách là tinh thần xã hội phải được đặt ngang tầm với chính trị, kinh tế và xã hội. Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Hồ Chí Minh đã không ngừng phát huy nhân tố tinh thần ấy trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng. Tinh thần đó đã phát huy được ý nghĩa chân chính của mình trong thực tiễn đời sống xã hội và luôn được nhấn mạnh trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (1991): “Xây dựng nền văn hóa mới, tạo ra một đời sống văn hóa cao đẹp, phong phú và da dạng” [12].
2.2. Về tính chất của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa
Tính chất của nền văn hóa Việt Nam cho tới nay đã được điều chỉnh nhiều lần. Song tùy theo nhiệm vụ của từng giai đọan cách mạng, mà đặc trưng của văn hóa lại được nhấn mạnh hơn ở điểm này hay điểm khác. Nền văn hóa trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định trong “Đề cương văn hoá” (1943) có 3 tính chất cơ bản, đó là “dân tộc, khoa học, đại chúng”. Khi đề cập tới tính dân tộc, bản sắc dân tộc hay cốt cách dân tộc, Người nhấn mạnh là không phải khẳng định một cái gì bất biến đã tồn tại và phát triển trong lịch sử lâu đời của dân tộc. Mà tính dân tộc của văn hoá được hiểu một cách biện chứng, luôn gắn liền với tính tiên tiến của nó. Giữ gìn bản sắc dân tộc của văn hoá có nghĩa là vừa bảo tồn những giá trị nổi trội, vừa không ngừng bổ sung cho nó những nhân tố tiên tiến, được nảy sinh từ sự phát triển đi lên của dân tộc và những thành tựu mới của nhân loại. Trong tư tưởng văn hoá Hồ Chí Minh, tính tiên tiến luôn luôn là nhân tố bổ sung cho tính dân tộc, là điều kiện cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của văn hoá dân tộc.
Khi đặt vấn đề phải xây dựng một nền văn hóa mới của nước Việt Nam độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ: “Cái văn hóa mới này cần phải có tính khoa học, tính cách đại chúng, thì mới thuận lợi với trào lưu tiến hóa của tư tưởng hịên đại.... Nay nước ta đã có được độc lập, tinh thần được giải phóng, cần phải có một nền văn hóa hợp với khoa học và hợp với cả nguyện vọng của nhân dân” [13].
Trong những ngày đầu đất nước hoà bình Hồ Chí Minh đã luôn luôn nhắc nhở cán bộ nhân dân: “Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh tế và văn hoá. Vì sao không nói phát triển văn hoá và kinh tế? Tục ngữ ta có câu: Có thực mới vực được đạo, vì thế kinh tế phải đi trước. Nhưng phát triển để làm gì? Phát triển kinh tế và văn hoá để nâng cao đời sống của nhân dân”[14]. Trên cơ sở đó, Bác đã đề ra năm điểm lớn để xây dựng nền văn hoá dân tộc:
1) Xây dựng tâm lý: lý cách, tinh thần độc lập tự cường;
2)Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng;
3)Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong xã hội;
4)Xây dựng chính trị: dân quyền;
Những điểm cơ bản của nền văn hóa dân tộc gắn liền với thể chế chính trị và kinh tế mà Hồ Chí Minh đã vạch ra từ hơn 60 năm trước đây, cho tới nay vẫn còn nguyên ý nghĩa và giá trị. Triết lý của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được Đảng ta phát triển thành những luận điểm chủ đạo trong tư duy lý luận định hướng cho quá trình đổi mới. Đó là: Đẩy mạnh kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước phát triển đất nước. Những thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế xã hội sau gần 20 năm đổi mới đã chứng minh tầm nhìn chiến lược và ý nghĩa lớn lao của tư tưởng Hồ Chí Minh.
2.3. Về chức năng của văn hóa
Văn hoá được Hồ Chí Minh xác định là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Hồ Chí Minh đã quy tụ cả 3 chức năng chủ yếu của văn hóa: Một là, bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp; Hai là, nâng cao dân trí; Ba là, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, những phong cách lành mạnh, luôn hướng con người vươn tới cái chân, thiện, mỹ để không ngừng hoàn thiện bản thân mình.
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: phải làm thế nào cho văn hóa vào sâu trong tâm lý quốc dân, nghĩa là văn hóa phải sửa đổi những tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ. Người đã nêu ra một luận điểm khái quát và luôn có ý nghĩa trong mọi điều kiện: văn hoá phải soi đường cho quốc dân đi, mà đội ngũ những người làm công tác văn hóa, những văn nghệ sỹ là lực lượng nòng cốt trong sự nghịêp to lớn này. Bên cạnh đó, văn hoá phải thiết thực phục vụ nhân dân, góp phần vào việc nâng cao đời sống vui tươi, lành mạnh của quần chúng: Văn hoá phải gắn liền với lao động sản xuất. Văn hoá xa đời sống, xa lao động là văn hoá suông. Nhiệm vụ của người cán bộ văn hoá là phải dùng văn hoá để tuyên truyền cho việc cần kiệm xây dựng nước nhà...[16]
Chính vì vậy, mọi hoạt động văn hoá theo Bác là cần phải nhằm xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc, xây dựng con người Việt Nam về tư tưởng, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống, xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh cho sự phát triển của xã hội: “Trình độ văn hoá của nhân dân nâng cao sẽ giúp chúng ta đẩy mạnh công cuộc khôi phục kinh tế, phát triển dân chủ. Nâng cao trình độ văn hoá của nhân dân cũng là một việc cần thiết để xây dựng nước ta thành một nước hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”[17].
Một trong những luận điểm cơ bản và quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa là: việc xây dựng, phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân, của toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Hồ Chí Minh còn nhận định: văn hóa sẽ phát triển mạnh mẽ và bền vững khi được tất cả mọi người, mọi tầng lớp nhân dân, mọi dân tộc tôn giáo... đều tham gia tự nguyện, tích cực và thường xuyên vào công tác phát triển văn hóa. Vì vậy, Người yêu cầu văn hoá phục vụ nhân dân không chỉ là đưa văn hoá đến cho nhân dân, mà còn phải đưa nhân dân đến với văn hoá, huy động nhân dân tham gia đông đảo vào hoạt động văn hoá, tạo điều kiện cho nhân dân làm chủ trên mặt trận văn hoá. Nói cách khác, nhân dân không chỉ là đối tượng phục vụ của văn hoá, mà còn trở thành chủ thể sáng tạo văn hoá, chủ thể xây dựng các thiết chế văn hoá của chính mình. Nhân dân có quyền, không chỉ là hưởng thụ văn hoá mà còn có quyền tạo ra các sản phẩm văn hoá cho xã hội. Về điều này Bác đã nói: “Quần chúng là những người sáng tạo, công nông là những người sáng tạo. Nhưng quần chúng không chỉ sáng tạo ra những của cải vật chất cho xã hội. Quần chúng còn là những người sáng tác nữa.. Những câu tục ngữ, những câu vè, ca dao rất hay là những sáng tác của quần chúng. Các cán bộ văn hoá phải giúp những sáng tác của quần chúng”[18]. Chỉ khi văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống, vào mọi quan hệ của con người trong xã hội lúc đó văn hóa mới phát huy hiệu qủa chức năng và nhiệm vụ của mình, trở thành động lực nội sinh để phát triển đất nước.
Đối chiếu sách lược của Bác và Đảng trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm với sách lược của Lê Lợi - Nguyễn Trãi cách đây đã trên 500 năm, chúng ta cũng thấy rõ tính thống nhất của các bậc Đại Nhân ở nhiều điểm: Một là, đoàn kết toàn dân chống xâm lược, tập hợp mọi lực lượng mà Nguyễn Trãi gọi là “Bốn phương manh lệ”. Hai là, dùng “nhân nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo”. Lịch sử Việt Nam chứng minh rằng, văn hoá đã đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong quá trình bảo tồn và phát triển những giá trị nhân văn đích thực của dân tộc, đây chính là nguồn sức mạnh nội lực quan trọng nhất để chiến thắng mọi kẻ thù ngoại xâm.
3. Mối quan hệ con người và văn hóa trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Bản chất của con người là tổng hòa các quan hệ xã hội (C. Mác) cùng với quá trình hình thành và phát triển con người, mối quan hệ tổng hòa của con người ngày càng được mở rộng. Đặc biệt trong mối quan hệ với văn hóa, với tư cách là một chiều kích quan trọng của quá trình phát triển, con người có văn hóa là con người hòan toàn tự do, được hoàn toàn giải phóng khỏi mọi xiềng áp bức bóc lột, con người được phát huy hết mọi khả năng, tiềm năng của mình sáng tạo ra những sản phẩm văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần phục vụ lại cho chính con người, biểu trưng cho các giá trị Chân - Thiện - Mỹ, những gì tốt đẹp nhất trong con người, từ đó nâng chính con người lên và đưa xã hội không ngừng phát triển.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quý trọng con người, song cũng luôn luôn đánh giá cao vai trò của văn hoá đối với sự phát triển. Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, sự toàn diện và hài hoà giữa “đức” và “tài” trong một con người thể hiện ở trình độ văn hoá, trình độ khoa học và kỹ thuật, ở khả năng tự chủ, tích cực, năng động và sáng tạo trong lao động; sự phát triển toàn diện và hài hoà giữa “đức” và “tài” còn thể hiện ở ý trí vươn lên để cầu tiến bộ và vì sự thành đạt của bản thân và sự phát triển của đất nước. “Tài” và “đức” không chỉ dừng lại với tư cách là phẩm chất của một cá nhân, mà còn vừa là vốn con người, vừa là vốn xã hội, mà dù ở hoàn cảnh hay thể chế nào, nó cũng luôn là điều kiện tiên quyết để phát triển.
Xuất phát từ quan điểm biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định rõ mối quan hệ giữa con người và văn hoá, nhấn mạnh tính chủ thể sáng tạo của con người đối với mọi giá trị văn hoá, vật chất và tinh thần, nhưng đồng thời con người cũng là sản phẩm của hoàn cảnh. Muốn hình thành được nhân cách, con người phải có một quá trình học hỏi, tự hoàn thiện lâu dài, thông qua giáo dục đào tạo và hoạt động thực tiễn. Mà trong quá trình tự hoàn thiện đó, văn hoá lại đóng vai trò vô cùng quan trọng. Người coi, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Muốn tổ chức và đưa được quần chúng nhân dân lên đường tranh đấu thì trước hết phải thức tỉnh họ và huấn luyện họ. Trong sự nghiệp này, văn hoá, giáo dục và nghệ thuật có vai trò mở đường cho đấu tranh chính trị và quân sự.
Là người học trò trung thành của C.Mác, là người kế cận và phát huy tư tưởng của Mác trong hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, Hồ Chí Minh cho ta thấu hiểu một chân lý, nay đã trở thành giá trị tự thân của lịch sử mà C. Mác đã nhấn mạnh khi nói về xã hội cộng sản tương lai: giá trị cao nhất của mọi giá trị văn hoá là con người. Và, sự hoàn thiện con người là chiến thắng lớn nhất của văn hoá. Tự do và hạnh phúc của con người là mục tiêu cao nhất của mọi quá trình sáng tạo văn hoá. Ngày nay, quan điểm về vai trò tiên quyết cảu con người: Con người vừa là động lực vừa là mục tiêu của quá trình phát triển nêu trên, đã và đang được Đảng ta quán triệt, phát huy trong công cuộc đổi mới, được làm rõ và sâu sắc hơn trong nhiềuVăn kiện Đại hội gần đây.
Nhờ kết hợp truyền thống văn hoá dân tộc với tư tưởng tiến bộ của thế giới, Hồ Chí Minh đã tập hợp được một sự ủng hộ to lớn của nhân dân thế giới đối với cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, cung cấp được chiến lược đấu tranh cho các nước thuộc địa, thay đổi được cách nhìn về chiến tranh ở mọi người yêu hoà bình trong đó có những nhà văn hoá lớn nhất của thế kỷ.
Với những đóng góp lớn lao của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tại Lễ Kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Người, tổ chức Văn hoá UNESCO đã tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh là Danh nhân văn hoá thế giới: “... Sự đóng góp quan trọng về nhiều mặt của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong lãnh vực văn hoá, giáo dục và nghệ thuật là kết tinh truyền thống hàng nghìn năm của nhân dân Việt Nam và những tư tưởng của Người là hiện thân của những khát vọng của dân tộc trong việc khẳng định bản sắc dân tộc của mình và tiêu biểu cho việc thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau” [19].
Hồ Chí Minh gần gũi với tất cả mọi người dân lao động trên thế giới, Người cảm thông trước mọi cảnh đời, quan tâm đến mọi số phận, Người đã trở thành người Bạn lớn đối với mọi dân tộc cần lao trên toàn cầu. Ai cũng khâm phục và ngạc nhiên trước sự hiểu biết uyên thâm, trước nhân cách giản dị và vĩ đại, dù chỉ gặp Bác có một lần. Đã gần trọn một thế kỷ qua, nhà thơ Xô Viết Ôxiv Manđenxtam được gặp Hồ Chí Minh khi Người còn bôn ba tìm đường cứu nước, đã nói “...Từ Nguyễn Ái Quốc đã toả ra một thứ văn hoá, không phải là văn hoá Âu châu, mà có lẽ là một nền văn hoá tương lai... Qua phong thái thanh cao, giọng nói trầm ấm của Nguyễn Ái Quốc, chúng ta như nghe thấy ngày mai, như thấy sự yên tĩnh mênh mông của tình hữu ái toàn thế giới”[20].
Đặc trưng văn hoá Hồ Chí Minh chính là một chủ nghĩa nhân văn sâu rộng và quán xuyến, xuyên suốt quá trình phát triển. Đó cũng chính là đặc điểm của nền văn hoá của tất cả các dân tộc trên thế giới, là mục tiêu phấn đấu của tất cả các nhà khoa học, nhà văn hoá lớn hiện nay đang ra sức cống hiến mọi nguồn lực trí tuệ cho sự nghiệp cao cả của loài người: chống lại áp bức, bóc lột, bảo vệ thiên nhiên và môi trường sống, chinh phục vũ trụ vì mục đích hoà bình. Như nhận định của Xê-ra-phin Quy-xơn, Chủ tịch Viện Nghiên cứu Lịch sử quốc gia Phi-líp-pin: “Nhãn quan văn hoá của Hồ Chí Minh là bao quát và sâu sắc. Người thể hiện quan điểm của mình trong nhiều lĩnh vực hoạt động khác nhau, tức là người tổ chức, nhà văn, nhà báo, nhà viết kịch, nhà thơ, khi là nhà giáo, nhà chiến lược quân sự, nhà lãnh đạo kháng chiến, có khi lại là người làm vườn. Di sản văn hoá Việt Nam và Châu Á phong phú và truyền thống Tây phương ở Người đã tạo nên tất cả các điều đó”[21].
Tư tưởng lý luận về con người và văn hoá của Hồ Chí Minh là những đúc kết từ thực tiễn đấu tranh và xây dựng đất nước. Người đã đi từ thực tiễn để đến với lý luận, rồi lại kiểm nghiệm, soi sáng lý luận qua thực tiễn, phát triển lý luận bằng sự tổng hợp giữa lý luận và thực tiễn. Chính vì vậy, đã gần nửa thế kỷ trôi qua, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho đến nay vẫn có một sức sống thần kỳ, không những đối với thực tiễn đổi mới đất nước mà còn có tác dụng lớn lao đối với nhiều dân tộc trên thế giới.
Trong hoàn cảnh cụ thể của nước nhà hiện nay, Đảng ta, nhân dân ta đang thực hiện công cuộc đổi mới đất nước theo hướng CNH, HĐH, nhằm vươn tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh như tinh thần các Đại hội lần thứ VII, VIII và IX của Đảng đã xác định rõ. Đúc kết quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa con người và văn hoá, những kết luận sau đây, theo chúng tôi là có ý nghĩa quan trọng đối với thực tiễn phát triển con người và đổi mới đất nước ở Việt Nam hiện nay:
1) Sự phát triển của một đất nước sẽ không toàn diện và bền vững nếu chỉ đơn thuần là sự phát triển kinh tế và công nghệ, mà thiếu những định hướng phát triển con người và văn hoá. Đây chính là hai nhân tố quan trọng nhất, mang ý nghĩa chiến lược, quyết định tiến độ và khả năng vượt trội của sự phát triển;
2) Con người trước tiên là nhân tố mang ý nghĩa quyết định, “vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển”, nên trước tiên phải có một chiến lược phát triển con người đúng đắn, hợp lý, dựa trên cơ sở trình độ thực tế của nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay đang có, nhằm xây dựng một nguồn nhân lực trí tuệ đáp ứng được những yêu cầu cấp thiết của công nghệ hiện đại và kỹ thuật tiên tiến;
3) Con người vừa là sản phẩm của hoàn cảnh, vừa là nhân tố tác động lại hoàn cảnh và sáng tạo ra những hoàn cảnh mới có lợi cho cuộc sống của chính con người. ứng xử đúng đắn của môi trường tự nhiên và môi trường xã hội chính là quá trình tự hoàn thiện nhân cách của con người. Do đó, thực tiễn hay hoàn cảnh cần được nhân văn hoá nhằm tạo cho con người có một nhận thức đúng đắn về những giá trị vật chất và tinh thần, tạo nên mối quan hệ tốt đẹp hơn giữa con người với tự nhiên và giữa mọi người với nhau;
4) Chỉ trong hoạt động xã hội con người mới được bộc lộ và phát huy hết tính tiềm năng, khả năng của mình, đồng thời làm giàu hơn tri thức, kinh nghiệm, củng cố và hoàn thiện hơn phẩm chất, nhân cách. Chính vì vậy mà con người phải được rèn luyện, xem xét trong hoạt động lao động tạo ra của cải vật chất. Bởi Lao động chính là thước đo phẩm giá con người;
5) Khi đưa ra những chính sách, định hướng phát triển kỹ thuật và công nghệ, không thể không cân nhắc những “cái lợi, cái được”, “cái dở, cái bị mai một” của kinh tế thị trường và toàn cầu hoá đối với sự phát triển con người và văn hoá ở nước ta, để có phương thức có hiệu quả hạn chế tối đa ảnh hưởng tiêu cực của toàn cầu hoá và kinh tế thị trường tới sự phát triển của con người Việt Nam.
6) Quá trình gắn kết CNH, HĐH và toàn cầu hoá thông qua kinh tế thị trường ở nước ta một mặt, vừa tạo ra những tác động tích cực góp phần xây dựng nền văn hoá và con người Việt Nam đương đại, vừa tạo cơ hội cho những trào lưu hội nhập của văn hoá nước ngoài. Trước hoàn cảnh đó, bản sắc văn hoá dân tộc của chúng ta chính là “nguồn lực nội sinh” để đối phó với những thách thức của những ảnh hưởng thiếu lành mạnh bên ngoài đưa vào. Hiện nay, Đảng ta đang chủ trương thực hiện “gạn đục khơi trong” nhằm tiếp thu văn minh nhân loại trên cơ sở bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống dân tộc, chính là việc tiếp tục vận dụng và phát triển tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới đất nước.
Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một di sản vô cùng quý giá và lớn lao của cả dân tộc ta. Về tư tưởng văn hoá của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã nhấn mạnh: “Ở Bác Hồ, văn hoá là sự kết tinh văn hoá nghìn năm của đất nước Việt Nam trên cơ sở đổi mới, kết hợp hài hoà với tinh hoa của văn hoá nhân loại - tinh hoa của Sếch-pia, Vích-to Huy-gô, Lỗ Tấn... tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Ngày nay, Việt Nam muốn đổi mới, tiến lên, phải vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời vươn lên làm chủ khoa học: khoa học xã hội, khoa học tự nhiên, khoa học công nghệ”[22].
Tư tưởng Hồ Chí Minh đặc biệt có ý nghĩa với chúng ta, những người đang nghiên cứu cơ sở khoa học cho việc xây dựng và phát triển con người. “Việc nghiên cứu tư tưởng của Người, đặc biệt đối với việc nghiên cứu ocn người vẫn còn khá mới mẻ. Chúng ta sẽ còn phải làm nhiều và nhiều hơn nữa để vận dụng sáng tạo tư tưởng của Người vào công việc đổi mới, vào cuộc sống, vào khoa học, vào từng công việc và đến với nhiều thế hệ mai sau, tạo nên một sức mạnh tinh thần vô tận và bất diệt, giữ gìn và xây dựng một xã hội phồn vinh, ấm no và hạnh phúc...đồng thời hoàn thiện cơ sở lý luận cho sự nghiệp nghiên cứu con người” [23]. Dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, Chúng ta thấy tự tin đi tiếp con đường mà Bác đã chọn, để thực hiện ý nguyện thiêng liêng của Người là phát huy những giá trị quý báu của dân tộc, xây dựng con người và văn hoá Việt Nam như những trụ cột quan trọng và mục tiêu đích thực của công cuộc Đổi mới đất nước.
Chú thích
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam. Báo cáo chính trị Đại hội IX. NXB,. CTQG. Hà Nội, 2001. Tr. 27 – 28.
[8] Hàng loạt bài thơ trong tập Nhật ký trong tù đã thể hiện rất rõ tình thương của Bác dành cho hết thảy mọi người.....
[12] Đảng Cộng sản Việt Nam. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH. NXB. Sự thật. Hà Nội.1991. Tr.14.
[16] Hồ Chí Minh tòan tập. Bài nói tại Hội nghị đại biểu những người tích cực trong phong trào văn hoá quần chúng. Ngày 11 tháng 2 năm 1960. T. 10, Tr. 59.
[17] Hồ Chí Minh tòan tập. Thư gửi đồng bào đã thanh toán mạn mù chữ. Ngày 21 /12/1956. T. 8, Tr. 218.
[20] Ôxiv Menđextam - Nhà thơ Xô Viết. Người đã được vinh dự tiếp xúc với Chủ Tịch Hồ Chí Minh khi Người đến Nước Nga sau Cách mạng Tháng 10 vào năm 1923.
[21] Lời giới thiệu Kỷ yếu Hội Thảo quốc tế: Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hoá lớn. Tr. 3.
Tài liệu tham khảo
- Ban Tư tưởng văn hóa TW. Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa. Hà Nội. 2005.
- Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hoá lớn. NXB. Khoa học Xã hội. Hà Nội. 1995.
- Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Bài phát biểu tổng kết Hội thảo Quốc tế: Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hoá lớn. Hà nội. 1990.
- Đảng Cộng sản Việt Nam. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH. NXB. Sự thật. Hà Nội.1991.
- Đỗ Huy, Lê Hữu Ái. Tìm hiểu tư tưởng văn hoá nghệ thuật Hồ Chí Minh. NXB. Khoa học Xã hội. Hà Nội. 1995.
- Hồ Chí Minh. Biên niên tiểu sử. NXB CTQG, Hà Nội, 1993.
- Hồ Chí Minh. Về công tác văn hoá văn nghệ. NXB Sự thật, Hà Nội, 1971.
- Hồ Chí Minh. Về xây dựng con người mới.. NXB CTQG, 1995.
- Hồ Chí Minh. Về văn hóa. Bảo tàng Hồ Chí Minh. Hà Nội, 1997.
- Hồ Chí Minh toàn tập. T. 3. NXB. CTQG., 2000.
- Hồ Chí Minh toàn tập. T. 4. NXB. CTQG., 2000.
- Hồ Chí Minh toàn tập. T. 8. NXB. CTQG., 2000.
- Hồ Chí Minh toàn tập. T. 8. NXB. CTQG., 2000.
- Hồ Chí Minh toàn tập. T. 12. NXB. CTQG., 2000.
- Phạm Minh Hạc. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề xây dựng con người. T/c Nghiên cứu Con người số 2/2004. Tr. 3 - 6.
- Phạm Minh Hạc. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và nhân cách con người Việt Nam. T/c Nghiên cứu Con người số 3/2005. Tr. 3 - 8.
- Sơn Tùng. Búp sen xanh. NXB. Kim Đồng (Tái bản). 2005.
- Võ Nguyên Giáp. Những chặng đường lịch sử. NXB Văn học. 1977.
Nguồn: tác giả