- Quan niệm về vốn xã hội
Để phát triển xã hội, con người phải dựa vào nhiều nguồn vốn - vốn kinh tế, vốn chính trị, vốn văn hóa, vốn con người và vốn xã hội,… Riêng về vốn xã hội (VXH), đến những thập kỉ cuối thế kỉ XX, các nhà khoa học và các nhà quản lý, lãnh đạo mới chú ý nhiều đến việc nghiên cứu, sử dụng nguồn vốn quan trọng này. Đến nay, tuy còn nhiều ý kiến khác nhau, nhưng VXH được hiểu như là tổng hợp những mối quan hệ, liên hệ giữa con người với con người hoặc các chủ thể người với nhau trong một cộng đồng xã hội xác định mà nhờ đó, con người có thể tạo dựng lòng tin, tạo mạng lưới xã hội phức hợp và tăng cường khả năng làm việc chung để đạt tới những kết quả cao cho sự phát triển của mỗi con người và của cả cộng đồng xã hội.
Như vậy, theo nhiều nhà nghiên cứu, VXH bao gồm hai thành tố cơ bản: Thứ nhất, mạng lưới quan hệ xã hội mà người ta có thể xác lập được với những người khác. Mạng lưới này được đo bằng số lượng và chất lượng các quan hệ xã hội mà người ta thiết lập được. Vì vậy, VXH được các nhà xã hội học gắn với cơ cấu nhóm xã hội, cơ cấu tầng xã hội với các kiểu liên hệ và quan hệ xã hội đặc trưng trong từng hệ thống xã hội. Đây là yếu tố quan trọng đầu tiên của VXH. Thành tố thứ hai của VXH là niềm tin xã hội, cái được tạo ra bởi hệ thống các giá trị, chuẩn mực đạo đức, luật pháp, phong tục tập quán mà mỗi nhóm, mỗi tầng, mỗi cộng đồng xã hội đã xây dựng, đặt nền tảng cho cách tư duy và hành động của mình. Chính nhờ mạng lưới các quan hệ xã hội và niềm tin xã hội mà mỗi con người, mỗi chủ thể người có những khả năng làm việc chung để nâng cao tối đa những lợi ích của cá nhân mình cũng như lợi ích của cả cộng đồng. Như thế, có thể coi VXH là tài sản chung của loài người nhưng được mỗi người, mỗi chủ thể sở hữu thông qua những vị thế, vai trò mà họ có được và được quy định bởi các định chế xã hội.
Vốn xã hội được hình thành do nhiều tác nhân, nhưng tác nhân quan trọng nhất của VXH chính là những cố gắng, nỗ lực của mỗi cá nhân, mỗi chủ thể trong quá trình xã hội hóa. Đây là quá trình mà người ta chuyển biến từ con người sinh học thành con người xã hội. Trong đó, người ta càng tích cực, chủ động bao nhiêu trong quá trình học hỏi những tri thức, những kỹ năng, những cách thức ứng xử cần thiết để hội nhập vào xã hội thì càng có điều kiện để vươn lên đạt những vị thế cao, nắm giữ được những vai trò xã hội lớn, tạo được niềm tin xã hội rộng rãi. Mạng lưới xã hội sẽ ngày càng mở rộng, khả năng quy tập mọi người cùng hành động chung cho những mục tiêu xã hội nào đó càng dễ dàng. Vốn xã hội, vì vậy, càng tăng cao về số lượng và nâng cao về chất lượng.
Vốn xã hội còn phụ thuộc vào cả những yếu tố văn hóa truyền thống. Trong đó, hệ giá trị, chuẩn mực trong các loại hình gia đình, trong các cộng đồng làng, xã khác nhau, trong thiết chế văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng,… là những yếu tố có ảnh hưởng quan trọng. Ngoài ra, các quy chuẩn về dân chủ tự do cũng là những yếu tố làm cho VXH phát triển hay bị hạn chế.
Vốn xã hội, như vậy, là một lĩnh vực thuộc văn hóa phi vật thể song cũng có quan hệ mật thiết với các lĩnh vực vật chất khác. Cấu thành của VXH thường bao gồm hai yếu tố: Hệ thống mạng lưới xã hội cho phép các chủ thể và cá nhân có thể tiếp cận và sử dụng các nguồn lực về kinh tế, văn hóa, các thế mạnh của những người và những chủ thể có quan hệ với mình. Và thứ hai là số lượng và chất lượng các nguồn lực này. Với cách tiếp cận này, VXH có quan hệ mật thiết với vốn kinh tế, vốn văn hóa, vốn con người,… Ở đây, nếu một người, một chủ thể nào đó khi có VXH sẽ có thể sử dụng vốn kinh tế, vốn văn hóa,… từ những người khác trong mạng lưới xã hội của mình. Nhờ đó mà làm gia tăng những khả năng kinh tế, xã hội lên gấp bội. Ví dụ, nhờ sự hội nhập vào Hiệp hội các doanh nghiệp, mỗi chủ doanh nghiệp sẽ có thêm niềm tin, khả năng tín chấp để có thể vay vốn, ký hợp đồng, tạo môi trường sản xuất, kinh doanh thuận lợi trên nguồn tài chính, nguyên vật liệu, máy móc, kỹ thuật và sản phẩm hàng hóa của những chủ doanh nghiệp khác. Nhờ đó mà phát triển năng lực kinh tế của mình lên gấp nhiều lần.
Cũng như vậy, nhờ VXH, người ta sẽ tạo dựng được niềm tin vào nhau, củng cố, phát triển bền vững được những mạng lưới xã hội hiện có. Do đó, họ có thể tăng cường, phát triển năng lực kinh tế, xã hội theo nhiều hướng, làm được nhiều việc mà nếu chỉ riêng một chủ thể sẽ không thể làm được.
Ngược lại, ở những góc độ khác, vốn kinh tế, vốn văn hóa, vốn con người cũng có thể chuyển thành VXH. Trường hợp khi một người kinh doanh thành đạt, nắm được nguồn tài chính lớn, nắm được bí quyết nghề nghiệp và công nghệ thì ảnh hưởng xã hội của người này trong ngành kinh tế, trong cả nền kinh tế sẽ được nâng cao. Các nhà kinh doanh này thường không chỉ chú ý riêng đến việc kinh doanh sản xuất đơn thuần mà còn tham gia các hoạt động xã hội, góp phần xóa đói, giảm nghèo, làm từ thiện, giúp nhóm xã hội yếu thế phát triển. Uy tín xã hội của họ sẽ được nâng cao. VXH của họ sẽ phát triển và mở rộng.
Như vậy, VXH, vốn kinh tế, vốn văn hóa, vốn con người là những loại vốn có quan hệ hữu cơ, mật thiết với nhau. Khi người ta sử dụng VXH sẽ phát triển, mở rộng, nâng cao được hiệu quả hoạt động của những vốn khác. Ngược lại, nhờ các nguồn vốn khác được sử dụng thông qua mạng lưới xã hội mà VXH được phát triển. Người ta càng có khả năng sử dụng tốt, có hiệu quả những nguồn lực đã huy động được của mình để phát triển sự nghiệp và góp phần vào sự phát triển xã hội.
Để nghiên cứu, đo lường về VXH, có nhiều những hệ chỉ báo khác nhau2. Song dù sử dụng hệ chỉ báo nào thì VXH cũng phải đo lường theo một số những loại sự kiện, hành vi có thể quan sát được, chuẩn hóa được sau đây:
Thứ nhất, mức tham gia vào tổ chức xã hội, các đoàn thể xã hội, các hội từ thiện, tham gia vào các hoạt động nhằm gắn kết với cộng đồng. Ở đây số lượng và chất lượng các mối liên hệ và quan hệ trong các hội, đoàn thể là những chỉ báo đầu tiên, quan trọng về VXH.
Thứ hai, mức chủ động và tính tích cực xã hội của mỗi cá nhân trong quá trình thiết lập các mối quan hệ xã hội của mình với cộng đồng. Điều này được đo lường chủ yếu bằng sự hòa hợp của cá nhân với xã hội cùng khả năng làm chủ của họ trước những biến động khác nhau của xã hội. Ở đây, nhận thức, thái độ và nhất là hành vi của họ trong việc tham gia các hoạt động của cộng đồng nhằm phát triển xã hội và quản lý sự phát triển xã hội khiến xã hội phát triển bền vững là thước đo quan trọng.
Thứ ba, niềm tin, cái có thể đo lường được ở mỗi chủ thể thông qua đánh giá của chính chủ thể đó với những hệ giá trị và chuẩn mực xã hội mà xã hội đang tuân theo và chính họ đang chứng kiến, thực hiện. Sau nữa là niềm tin vào người khác, vào những thiết chế xã hội đang vận hành, vào những dịch vụ công đang thực hiện.
Đây là ba loại chỉ báo quan trọng nhất có thể và cần phải thao tác hóa trong sự phù hợp với từng trường hợp và vấn đề nghiên cứu. Theo hướng này, hiện nay, đã có nhiều hệ chỉ báo được đưa ra, như hệ chỉ báo của Tổ chức hợp tác phát triển (OECD), hệ chỉ báo của Tổng cục Thống kê Au-xtrau-li-a, hệ chỉ báo của hai nhà nghiên cứu V. Vella (Nam Phi) và D. Narajian (Ngân hàng Thế giới)3,…
Có thể khẳng định rằng, cho đến nay, dù quan niệm về VXH còn có những ý kiến khác nhau nhưng về cơ bản đã thống nhất ở những nội dung chính yếu nhất. Từ đây mà xác định được hệ chỉ báo để đo lường trong những trường hợp nghiên cứu cụ thể. VXH, vì vậy, đang trở thành một trong những chủ đề nghiên cứu, ứng dụng, góp phần vào việc phát triển xã hội và quản lý sự phát triển xã hội bền vững ở nước ta.
- Phát triển xã hội và quản lý sự phát triển xã hội bền vững
Phát triển xã hội chính là quá trình phát triển toàn diện con người, nâng cao chất lượng sống của mỗi người, của từng chủ thể người (nhóm cộng đồng…). Để phát triển xã hội phải giải quyết những vấn đề nảy sinh trong quá trình phát triển, như: Giải quyết các vấn đề chính trị, văn hóa, tư tưởng, thực hiện chủ nghĩa nhân văn, nhân đạo nhằm tạo ra môi trường thuận lợi với sự công bằng, bình đẳng cho mỗi người, mỗi nhóm người, mỗi cộng đồng người, đưa xã hội phát triển theo hướng tiến bộ, văn minh. Phát triển xã hội như vậy thường được đo lường bằng hệ thống những chỉ báo sau:
Thứ nhất, phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội, đảm bảo những điều kiện thuận lợi cho hoạt động lao động sản xuất và cho đời sống của cộng đồng. Ở đây, hệ thống các dịch vụ về điện, nước, thông tin, thương mại, giáo dục, chăm sóc sức khỏe và dịch vụ nghỉ ngơi, vui chơi, giải trí là quan trọng nhất. Đây chính là yếu tố làm tăng chất lượng sống và tăng niềm tin cho mỗi con người.
Thứ hai, phát triển xã hội phải quan tâm, giải quyết các vấn đề dân số, lao động, việc làm. Đây chính là quá trình tái sản xuất ra chính xã hội và đảm bảo sự tồn tại, ổn định của cả xã hội. Quan hệ giữa các nhóm tuổi, giữa các nhóm nghề nghiệp, giữa các vùng miền và quan hệ trong từng gia đình, dòng tộc, làng xã, quốc gia, dân tộc thế nào, một phần phụ thuộc vào việc giải quyết những vấn đề xã hội này. Trong số này, tìm hiểu và điều chỉnh mối quan hệ giữa các nhóm lao động xã hội thanh niên với các nhóm lao động xã hội khác có ý nghĩa quan trọng, cấp thiết. Sự tương tác giữa các nhóm thế hệ và khả năng sử dụng VXH của nhóm lao động trẻ có ý nghĩa quan trọng trong phát triển kinh tế, xã hội bền vững.
Thứ ba, phát triển xã hội là giải quyết các vấn đề xã hội phát sinh như phân hóa giàu nghèo, phân tầng xã hội, bất bình đẳng xã hội, tạo niềm tin cho xã hội. Do vậy, tham gia vào việc điều chỉnh sự phân tầng xã hội, phân hóa giàu nghèo, giảm bất bình đẳng xã hội là một hướng quan trọng để phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội bền vững.
Thứ tư, phát triển xã hội là phải đảm bảo an sinh xã hội, làm cho mỗi người tiếp cận và hưởng thụ được những thành quả của nền giáo dục, y tế tiến bộ; phải trợ giúp được những nhóm yếu thế, thiệt thòi; phải can thiệp để giảm thiểu những hậu quả của thiên tai, địch họa; phải làm cho cộng đồng xã hội ngày một thống nhất hơn, đoàn kết hơn, dân chủ hơn. Những sự khác biệt về tôn giáo, tín ngưỡng, sắc tộc, văn hóa được quan tâm, giải quyết. Tệ nạn xã hội được đẩy lùi, trật tự, an toàn xã hội được đảm bảo. Lòng tin vào các giá trị xã hội và các dịch vụ xã hội được củng cố và tăng cường.
Thứ năm, phát triển xã hội còn được đo bằng sự đảm bảo về môi trường sinh thái nhân văn. Ở đây, môi trường tự nhiên được giữ gìn, các loại ô nhiễm được khống chế, xã hội ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu, nước biển dâng. Môi trường xã hội được giữ gìn. Hệ giá trị và chuẩn mực truyền thống được kế thừa, phát triển. Những mâu thuẫn và xung đột xã hội được giải quyết kịp thời. Xã hội là một cộng đồng có hệ thống các mối quan hệ lành mạnh, phát triển, tiến bộ theo đúng những quy luật về kinh tế, xã hội đang chi phối nó.
Đây là 5 nội dung chính yếu của phát triển xã hội và định hướng xác định hệ các chỉ báo để đo lường chúng. Rõ ràng, muốn phát triển xã hội nhanh và bền vững cần phải sử dụng VXH như một nguồn lực quan trọng để đảm bảo và quản lý sự phát triển này ở từng địa phương, khu vực và trên toàn đất nước.
Về thực chất, quản lý xã hội là quản lý con người. Đây chính là quá trình sử dụng những biện pháp về kinh tế, chính trị, tư tưởng, tổ chức để tác động vào những mối quan hệ xã hội phức tạp, đa chiều, nhiều biến động và thường bị che lấp bởi những hiện tượng và sự kiện xã hội khác, đưa mỗi người, mỗi chủ thể xã hội đến những mục tiêu đã được xác định.
Có nhiều cách thức để quản lý xã hội một cách có hiệu quả, trong đó, sử dụng VXH là một trong những biện pháp không thể bỏ qua. Muốn quản lý xã hội tốt, cần phải xây dựng và điều chỉnh hệ thống xã hội, đảm bảo các mối quan hệ về kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa phù hợp. Nghĩa là phải vận dụng các quy luật kinh tế, xã hội vào điều chỉnh các mối quan hệ xã hội giữa các chủ thể, các nhóm xã hội, các tầng xã hội, các cộng đồng xã hội, làm cho hệ thống này hoạt động ổn định, bình thường. Quản lý xã hội tốt còn phải tạo dựng và sử dụng các thiết chế xã hội, đảm bảo cho những thiết chế xã hội này tác động và điều chỉnh hành vi của mỗi người, mỗi chủ thể, hướng họ đến những giá trị của tiến bộ, văn minh. Điều này đòi hỏi phải quan tâm tạo dựng và phát triển mạng lưới xã hội, tăng khả năng liên kết của mỗi thành viên xã hội, giúp cho các thành viên mở rộng được các quan hệ xã hội của mình và sử dụng nó như một nguồn vốn làm gia tăng các nguồn lực cá nhân, lợi ích cá nhân, góp phần phát triển xã hội bền vững.
Phát triển xã hội và quản lý sự phát triển xã hội là tạo dựng thêm lòng tin cho con người không chỉ với hệ giá trị và truyền thống tốt đẹp mà còn là tạo cho họ niềm tin vào đồng loại, vào những thể chế xã hội đang vận hành, vào những dịch vụ xã hội đang tồn tại. Đồng thời, quản lý phát triển xã hội còn là việc góp phần điều chỉnh cho hệ thống xã hội và dịch vụ xã hội này chuẩn hơn, phục vụ tốt hơn, đáng tin cậy hơn, tiến bộ và nhân văn hơn.
Rõ ràng là, để phát triển xã hội và quản lý sự phát triển xã hội một cách bền vững phải sử dụng một tổ hợp các giải pháp. Trong đó, sử dụng VXH như một nguồn lực quan trọng nhằm huy động tối đa tính tích cực lao động và tính tích cực xã hội của mỗi người, mỗi chủ thể là một biện pháp đặc biệt cần phải quan tâm, chú ý.
- Một số vấn đề về sử dụng vốn xã hội trong quản lý phát triển xã hội, nâng cao vai trò của nhóm xã hội thanh niên trong điều kiện hiện nay
Trong vài ba thập kỉ gần đây, từ khi đổi mới, mở cửa, chuyển sang kinh tế thị trường, Việt Nam đã có được bước ngoặt phát triển mới. Nền kinh tế tăng trưởng khá, đời sống nhân dân được cải thiện và nâng cao, quyền dân chủ của nhân dân ngày càng được đảm bảo, môi trường cho sự phát triển xã hội bền vững cơ bản được tăng cường. Uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng phát triển.
Tuy nhiên, do những hậu quả nặng nề của 30 năm chiến tranh lâu dài, cơ chế quản lý hành chính, bao cấp chưa được cải tạo triệt để. Mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu khủng hoảng, đổ vỡ. Công cuộc xây dựng, phát triển chủ nghĩa xã hội đang đứng trước nhiều thách thức, khó khăn. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới đang ảnh hưởng tới nhiều mặt của đời sống kinh tế, xã hội, đặt Việt Nam trước nhiều thách thức không hề nhỏ. Phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội thế nào để đảm bảo nước ta vững bước tới chủ nghĩa xã hội là nhiệm vụ không hề dễ dàng.
Để Việt Nam phát triển bền vững, định hướng đến chủ nghĩa xã hội, phải sử dụng VXH như một nguồn lực quan trọng để quản lý tốt sự phát triển xã hội. Vấn đề là phải sử dụng VXH thế nào để nguồn lực này được phát huy hiệu quả nhất.
Trước hết phải thấy rằng, để phát triển xã hội bền vững, niềm tin đang là vấn đề cần phải quan tâm đầu tiên. Ở đây, niềm tin vào tư tưởng xã hội chủ nghĩa, vào chế độ xã hội chủ nghĩa đang là vấn đề quan trọng hàng đầu. Trong đó, không chỉ do những tác động của sự khủng hoảng, đổ vỡ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu trong thế kỉ XX mà còn do sự suy giảm uy tín của các Đảng cộng sản và Công nhân quốc tế trước những biến chuyển của thời đại. Ở Việt Nam, sự suy giảm này chính là suy giảm niềm tin của đảng viên và quần chúng vào tính tiên phong, gương mẫu và vào những chuẩn mực giá trị mà Đảng đã từng tôn trọng tuân theo. Ở đây, nhiều phẩm chất cao quý của người đảng viên, cán bộ cộng sản bị xói mòn. Các quy chuẩn "cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư" đã không được một bộ phận cán bộ, đảng viên thực hiện nghiêm túc. Tình trạng tham ô, lãng phí rất trầm trọng và đang là hiện tượng khá phổ biến trong nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều lĩnh vực. Có thể nhận định rằng, xã hội Việt Nam đang trong tình trạng ít nhiều bị khủng hoảng niềm tin, rối loạn một số thiết chế xã hội lẫn hệ thống các dịch vụ xã hội, nhất là dịch vụ công. Nhiều người đang có cảm giác mất an toàn trong quá trình giao tiếp xã hội, mất an toàn tại cộng đồng mà mình đang sống, mất an toàn khi tham gia giao thông, mất an toàn khi trong làng xã, tổ dân phố nơi mình sinh sống có nhiều tệ nạn xã hội và tội phạm, nhất là các tệ nạn ma túy, mại dâm, cờ bạc, rượu chè, và lạm dụng chức quyền,… Chính tình trạng thiếu niềm tin này khiến vốn kinh tế không được phát huy, các nguồn lực không được sử dụng một cách hiệu quả. Tình trạng chạy theo lợi ích nhóm đã làm suy giảm rất nhiều những tiềm năng trong phát triển kinh tế, giảm nhiệt tình lao động và sáng kiến của nhiều người lao động. Năng suất lao động xã hội thấp. Tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm trong gần một thập kỉ qua chỉ dao động từ 5% đến 6%. Rõ ràng, tình trạng thiếu niềm tin đang là những cản trở lớn đối với sự phát triển kinh tế xã hội. VXH đang bị lãng phí một cách khá nghiêm trọng.
Hiện tượng thứ hai đang cản trở sự phát triển xã hội, làm cho VXH chưa được phát huy hết vai trò của nó, đó là tình trạng bất cập trong sự biến đổi của cơ cấu xã hội với những biện pháp đang được đưa ra trong quản lý sự phát triển xã hội. Ở đây, do sự biến đổi của cơ cấu kinh tế và cơ cấu thành phần kinh tế trong đổi mới, mở cửa, chuyển sang kinh tế thị trường mà cơ cấu xã hội và phân tầng xã hội đang ở trong một giai đoạn đặc thù. Với 4 giai tầng xã hội là công nhân, nông dân, trí thức và tầng lớp tư sản mới được hình thành mà quan hệ giữa các giai tầng xã hội có những biến đổi quan trọng. Một bộ phận công nhân, nông dân, trí thức phụ thuộc vào tầng lớp tư sản mới - các nhà doanh nghiệp. Quan hệ giữa các giai tầng được đặt trên cơ sở mới, được chi phối bởi quy luật giá trị và quan hệ hàng hóa tiền tệ. Điều này khiến cho vị thế, vai trò xã hội của các giai tầng xã hội thay đổi trong cả kinh tế, chính trị và văn hóa, xã hội. Các mạng lưới xã hội, vì vậy, cũng thay đổi theo. Thay vì thiết lập mạng lưới xã hội dựa trên cơ sở sự sắp xếp của thể chế hành chính, quan liêu bao cấp thời chiến tranh, một thể chế quản lý mới theo kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được thiết lập. Ở đây, những mối quan hệ về lợi ích kinh tế tuân thủ những quy luật của thị trường đã làm cho thị trường tự do phát triển với nhiều thành phần kinh tế, nhiều chủ thể xã hội. Yêu cầu bình đẳng trong phát triển và sử dụng các nguồn lực của các thành phần kinh tế này đang gia tăng sức ép, đòi hỏi những cải cách trong cả hệ thống quản lý kinh tế lẫn trong quản lý xã hội. Hiện tại, không chỉ trong kinh tế mà trong xã hội, nhiều tổ chức, đoàn thể, hội nghề nghiệp mới ra đời. Mỗi con người có nhiều cơ may hơn khi tham gia vào các tổ chức chính trị, xã hội, các đoàn thể xã hội mới nảy sinh này. Điều này làm cho mạng lưới xã hội của mỗi người, mỗi chủ thể có điều kiện được mở rộng. Vốn xã hội gia tăng. Bên cạnh các tổ chức xã hội chính thức, một số tổ chức xã hội phi chính thức được hình thành đã và đang góp phần vào việc giải quyết một số những vấn đề kinh tế xã hội mà các thể chế, tổ chức chính trị - xã hội chính thức không thể thực thi trọn vẹn. Điều này làm gia tăng khả năng huy động vốn kinh tế, vốn văn hóa, vốn con người, đẩy nhanh phát triển xã hội bền vững.
Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng, quá trình phát triển các tổ chức, đoàn thể xã hội phải đặt trong những điều kiện, hoàn cảnh thực tại của Việt Nam hiện nay. Đó là một xã hội đang phát triển, trình độ phát triển kinh tế còn thấp, trình độ áp dụng khoa học công nghệ chưa cao, năng suất lao động thấp, trình độ dân trí thấp. Dù Việt Nam bước vào giai đoạn đầu của một nước có thu nhập trung bình (2000 USD/người/năm) nhưng đã rơi vào bẫy thu nhập trung bình. Khả năng cạnh tranh của nền kinh tế thấp, nhất là khi Việt Nam bắt đầu thực hiện các Hiệp định thương mại tự do với ASEAN, với Hàn Quốc, với Nga và một số nước Trung Á, với EU và nhất là với Mỹ theo Hiệp định mậu dịch tự do TPP. Tất cả những yếu tố này khiến cho mạng lưới các quan hệ xã hội của người Việt Nam được mở rộng hơn. Sản xuất kinh doanh có điều kiện phát triển hơn nhờ sự hợp tác, đầu tư về vốn, kỹ thuật từ các chủ thể nước ngoài. Song mặt khác, do những hạn chế về năng lực quản lý, về trình độ kỹ nghệ, về sự chưa hoàn chỉnh trong hệ thống luật pháp và về cơ chế quản lý hành chính, bao cấp còn ít nhiều tồn tại khiến cho mạng lưới xã hội có lúc, có nơi chưa tạo được những điều kiện thuận lợi để sử dụng hết các tiềm năng của VXH cho phát triển sản xuất và phát triển xã hội. VXH, ở một góc độ nào đó, chưa phát huy hết những tiềm năng của nó để có thể giúp mỗi người lao động, nhất là lao động trẻ tham gia phát triển xã hội và quản lý sự phát triển xã hội bền vững.
Phát triển xã hội trong điều kiện hiện nay, song song với tăng trưởng kinh tế nhanh phải ổn định xã hội, phát triển theo chiều rộng đồng thời phải phát triển theo chiều sâu. Đây là chủ trương được Đảng và Nhà nước ta đề ra trong nghị quyết Đại hội toàn quốc của Đảng lần thứ XI. Điều này đòi hỏi phải sử dụng VXH, tạo điều kiện cho mỗi người, mỗi chủ thể phát huy hết năng lực của mình. Tuy nhiên, trên thực tế, nhiều chế độ, chính sách còn chưa đầy đủ, tình trạng quan liêu, hành chính hóa còn nặng trong bộ máy công quyền. Tham nhũng, lãng phí còn rất nặng nề khiến niềm tin vào xã hội suy giảm. Đây là một trong những yếu tố đang làm cho tính tích cực lao động và tính tích cực xã hội của con người Việt Nam, hiện nay, chuyển biến theo hướng tiêu cực, nhất là với tầng lớp thanh niên. Nhiều hoạt động xã hội, trong đó, có cả những hoạt động từ thiện thiếu chiều sâu, một số mang tính hình thức, chiếu lệ. Đoàn kết xã hội, gắn kết cộng đồng, vì nhiều lý do, nên thiếu chặt chẽ. Mặt trái của việc sử dụng các nguồn VXH có điều kiện phát triển. Đây cũng là một yếu tố khiến phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội còn thiếu bền vững.
Như vậy là, để sử dụng và phát huy có hiệu quả các nguồn VXH nhằm phát triển xã hội Việt Nam bền vững trong tương lai còn nhiều việc phải làm. Trong đó, chuẩn hóa, tăng cường các thể chế kinh tế, xã hội, hoàn thiện và thực thi nghiêm chỉnh luật pháp, tạo niềm tin cho cộng đồng là việc căn bản, cấp bách đầu tiên. Sau nữa phải căn cứ vào cơ cấu kinh tế, cơ cấu thành phần kinh tế để tạo dựng cơ cấu xã hội và cơ cấu quyền lực xã hội phù hợp. Trên cơ sở này mà tạo dựng một mạng lưới xã hội đa chiều, nhiều cấp độ, trong đó, mỗi người, mỗi chủ thể người có thể mở rộng tối đa mạng lưới xã hội của mình để huy động có hiệu quả các nguồn vốn kinh tế, xã hội, văn hóa cho sự phát triển. Đồng thời tiếp tục cải cách các thể chế kinh tế, chính trị, xã hội, tạo điều kiện chuẩn hóa các hệ giá trị, chuẩn mực, đặt cơ sở vững chắc cho việc phát huy nhân tố con người; sử dụng có hiệu quả VXH để phát triển xã hội và quản lý sự phát triển xã hội bền vững.
Với tầng lớp thanh niên và lực lượng lao động trẻ, tăng cường tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục để thanh niên có niềm tin vào những lý tưởng mà chủ nghĩa xã hội đang định hướng tới; đồng thời nâng cao lòng yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, làm cho thế hệ trẻ biết đau với nỗi đau của một dân tộc nghèo, để dũng cảm vượt lên. Ngoài ra, để củng cố niềm tin, phải tích cực đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực xã hội, xây dựng các hình mẫu tiêu biểu đại diện cho xu thế phát triển của thời đại; làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đây là một trong những yêu cầu cấp thiết trong tuyên truyền, giáo dục cho phát triển xã hội bền vững.
Hoàn thiện đường lối, chính sách, hệ thống luật pháp tạo cơ sở lý luận và pháp lý cho việc tổ chức, chỉ đạo, thực hiện việc truyên truyền, giáo dục, đào luyện thế hệ trẻ cũng là điều rất cần chú ý thực hiện hiện nay. Ngoài ra, cần có những biện pháp thích hợp nhằm tăng cường mạng lưới xã hội, giúp các nhóm xã hội thanh niên có thể sử dụng được các nguồn vốn kinh tế, vốn văn hóa, vốn con người cho các hoạt động phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội, góp phần xây dựng xã hội Việt Nam “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
1 Bài viết trong khuôn khổ đề tài cấp Nhà nước “Vai trò của vốn xã hội trong phát triển nguồn nhân lực trẻ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Mã số KX.03.09/11-15.
2 Lòng tin vào vốn xã hội (2013), Nxb. Tri thức, Hà Nội, Tr. 99 - 106.
3 Sđd.
Nguồn: http://ihs.vass.gov.vn/