Tham dự tọa đàm có sự hiện diện của TS. Trần Ngọc Khánh – Phó trưởng khoa Văn hóa học kiêm Phó giám đốc Trung tâm Văn hóa học Lý luận và Ứng dụng, TS. Nguyễn Hoàng Yến - Phó Trưởng P.QLKH-DA, một số tiến sĩ trong và ngoài trường, đông đảo các vị khách mời, các anh chị nghiên cứu sinh, học viên cao học, và một số người quan tâm từ các cơ quan, công ty ngoài trường. Về phạm vi địa lý, ngoài các những người sống và làm việc ở Tp.HCM, có những người đến từ Đồng Nai, Bình Dương, xa hơn nữa là Cần Thơ, và có lẽ xa nhất là từ Nha Trang.
1. Báo cáo khoa học
Toàn cảnh buổi báo cáo (Ảnh Lê Thị Ninh)
1.1. Cơ sở lý luận nghiên cứu tính cách vùng miền
Đúc rút các kinh nghiệm nghiên cứutính cách vùng miền và tính cách con người từ các công trình khoa học trên thế giới và Việt Nam, tác giả đã trình bày ngắn gọn “Cơ sở lý luận nghiên cứu tính cách vùng miền” trên 3 điểm chính là khái niệm tính cách vùng miền, một số cách tiếp cận nghiên cứu tính cách tộc người và một số phương pháp nghiên cứu tính cách tộc người. Để có cơ sở vững chắc đi sâu nghiên cứu tính cách người Việt Nam nói chung và tính cách người Thanh Hoá nói riêng, tác giả dành riêng một mục khảo sát những nghiên cứu về các khía cạnh khác nhau của tính cách tập thể, tính cách dân tộc, tính cách vùng miền ở Việt Nam của các tác giả đi trước.
Sau khi phân tích chỗ mạnh chỗ yếu của cách tiếp cận tâm lý học - dân tộc học - văn hóa học, tiếp cận triết học - tâm lý học - văn hóa học, tiếp cận giá trị học, tiếp cận địa lý học - văn hóa học, và các phương pháp so sánh văn hóa, phương pháp nghiên cứu tính cách dân tộc từ xa, phương pháp nghiên cứu tính cách dân tộc qua sản phẩm văn hóa…, tác giả báo cáo đã đề xuất áp dụng phương pháp Dịch lý - Hệ thống - Loại Hình (DHH) [x. Trần Ngọc Thêm, Hệ giá trị Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại và con đường tới tương lai 2016, tr. 119-132]vào việc nghiên cứu tính cách dân tộc, vùng miền.
1.2. Nghiên cứu tính cách người Thanh Hóa
Phương pháp Dịch lý - Hệ thống - Loại hình được vận dụng để xử lý một trường hợp vào loại phức tạp nhất của các tiểu vùng văn hóa ở Việt Nam là tính cách người Thanh Hóa. Đây là nơi được mệnh danh là “Thanh cậy thế (Nghệ cậy thần)”, là mảnh đất sản sinh ra nhiều vua chúa nhất trong lịch sử Việt Nam, là “Thanh Hóa anh hùng”, lại cũng là mảnh đất được chính người xứ Thanh tự trào là “ăn rau má, phá đường tàu” (và rất nhiều giai thoại khác). Trong những năm gần đây, ở nhiều công ty, xí nghiệp, và thậm chí cả một số cơ quan, có hiện tượng ngại nhận người Thanh-Nghệ-Tĩnh vào làm việc. Trong đó bị “kỳ thị” nhiều nhất chính là người Thanh (ngay cả ở Nghệ-Tĩnh cũng có những nơi không nhận người Thanh). Từ đây, hình thành một nghịch lý về tính cách người Thanh Hoá là: Xưa Thanh Hóa là đất anh hùng, nơi sinh ra rất nhiều đời vua chúa, nay thì người lao động Thanh Hóa không được đón tiếp ở nhiều nơi.
Để giải mã nghịch lý này, tác giả xuất phát từ việc định vị hệ toạ độ của văn hoá xứ Thanh với ba đặc trưng Không gian, hai đặc trưng Chủ thể và ba đặc trưng Thời gian để làm cơ sở phân tích các thế mạnh cũng như xác định các điểm yếu trong văn hoá và tính cách người Thanh Hoá.
Bằng những phân tích khoa học trên cơ sở hệ tọa độ K-C-T, tác giả đã chỉ ra một cách thuyết phục điểm mạnh của Thanh Hoá ở chỗ đây là một vùng đất lý tưởng cho việc khởi nghiệp lớn (Thanh Hoá có 6 dòng vua chúa khởi nghiệp, trong đó có 4/6 triều đạitồn tại lâu bền) và thẳng thừng bác bỏ những cách giải thích nhuốm màu huyền bí như “địa linh nhân kiệt”, “vùng huyệt đạo”, “tinh túy núi sông hun đúc”... Được như vậy còn là vì với vị trí cầu nối, người Thanh Hoá vừa có chất dương tính, bản lĩnh, quyết đoán của người miền Trung vàchất âm tính, linh hoạt, biến báo, khôn ngoan của người miền Bắc. Bên cạnh đó người Thanh Hóa còn có tính cộng đồng toàn xứ liên kết chặt chẽ với nhau do trồng lúa nước trong một vùng khép kín, biệt lập như một cái làng lớn, một “tiểu quốc gia” (vè Thanh Hóa có đoạn: Khu Bốn đẩy ra, khu Ba đẩy vào/ Bỏ chạy sang Lào, nước Lào không nhận/ Tức mình nổi giận, lập quốc gia riêng...).
Trong khi người Thanh Hoá mạnh về chính trị và quân sự thì đồng thời lại yếu về năng lực làm kinh tế và năng lực ngoại giao (trong Địa chí Thanh Hoá tập 4 (Nhân vật chí), chỉ có 9/718 người thuộc lĩnh vực kinh tế, chiếm 1,2% và 8/718 người thuộc lĩnh vực ngoại giao, chiếm 1,1%). Từ đây có thể hiểu được là vì sao trong thời bình xây dựng kinh tế hiện nay, trong dư luận xã hội tồn tại một sự thiếu thiện cảm với người Thanh Hóa, và người lao động Thanh Hóa ít lọt được vào các thị trường lao động chất lượng cao ở mọi nơi. Những điểm mạnh trong tính cách người Thanh Hoá của thời xã hội loạn ly đã không còn phù hợp với sự chuyển đổi của thời cuộc (thời bình và hội nhập quốc tế) và chính bản thân người Thanh Hoá không cảm nhận được điều này để tự điều chỉnh mình. Vị trí trung gian đặc biệt đã khiến cho người Thanh Hóa trong thời bình tích hợp những hạn chế cũng của cư dân cả hai miền.
Ý nghĩa của việc giải mã nghịch lý Thanh Hoá ở chỗ: nhiều tật bệnh của người Thanh Hoá cũng là những tật bệnh của người VN nói chung. Những gì đã và đang xảy ra với người Thanh Hoá ở VN cũng đã và đang xảy ra với người VN trên trường quốc tế. Với những tật xấu như ăn cắp vặt, luồn lách pháp luật, người Việt Nam cũng đang trở thành đối tượng bị kỳ thị ở một số nước trên thế giới.
Không khí tiếp nhận nội dung báo cáo (Ảnh Lê Thị Ninh)
2. Thảo luận
2.1. Phần ý kiến của người nghe
Những người tham dự đánh giá cao tính khoa học, tính thực tiễn của báo cáo. TS. Trần Long cho rằng tác giả đã rất sáng suốt khi đứng từ bên ngoài khách quan nghiên cứu đối tượng, không bị các kết luận siêu hình, võ đoán chi phối. Những cách giải thích kiểu phong thuỷ lâu nay nhiều khi không chính xác, cho nên để có thể sử dụng chúng một cách hợp lý cần chứng minh bằng các phương pháp khoa học. TS. sử học Đỗ Văn Biên (Ban Công tác sinh viên ĐHQG-HCM), quê ở Hoằng Hóa - Thanh Hoá, bên cạnh việc đánh giá cao tính khoa học của báo cáo, cho rằng có một số vấn đề cụ thể cần nghiên cứu thêm, ví dụ việc xếp Thọ Xuân là một huyện trung du vào vùng đồng bằng là chưa hợp lý, hoặc coi Thanh Hoá là vùng biên viễn cũng không ổn, vì đây từng là vùng trung tâm, cái nôi của văn hoá Đông Sơn.
ThS. Nguyễn Thị Bích Phượng nêu câu hỏi: Làm sao khi nghiên cứu tính cách dân tộc khác tránh được việc so sánh với dân tộc mình để đảm bảo tính khách quan? ThS. Nguyễn Thị Hải Lê cùng con gái đến từ Nha Trang là một người gốc Thanh Hoá đã xa quê nhiều năm, quan tâm đến giải pháp làm sao xây dựng hình ảnh người Thanh Hoá đẹp hơn trong mắt các vùng miền khác. Chị Phạm Phương Lan cũng quê Thanh Hoá, đến từ tạp chí Nguồn nhân lực thuộc Học viện Cán bộ Tp.HCM cũng có nguyện vọng tương tự.
Nhiều người tham dự đã phát biểu cảm tưởng, cảm ơn tác giả đã truyền tải tới người nghe một báo cáo súc tích, gợi ý các hướng nghiên cứu mang tính lý luận cũng như thực tiễn cao.
Những trao đổi, thảo luận (Ảnh Lê Thị Ninh)
2.2. Phần trả lời của GS.TSKH. Trần Ngọc Thêm
Trả lời ý kiến của TS. Đỗ Văn Biên, GS. Trần Ngọc Thêm cám ơn những cảm tưởng và những nhận xét xác đáng rằng đây là báo cáo khoa học mang tính khai vỡ, gợi mở một hướng nghiên cứu tính cách văn hoá, tính cách con người hơn là một báo cáo hoàn chỉnh về tính cách con người của một vùng cụ thể. Về cách phân loại địa hình, GS. cho biết tác giả chủ trương chỉ chia địa hình Thanh Hoá thành ba vùng là vùng núi, vùng đồng bằng và vùng duyên hải; trung du không tách thành một vùng riêng. Vì vậy, huyện Thọ Xuân là vùng trung du chỉ có gò đồi thấp, thiên về đồng bằng hơn là miền núi, vì vậy mà được xếp vào vùng đồng bằng. Về việc Thanh Hoá đã từng là cái nôi văn hoá Đông Sơn (đặc trưng lịch sử cổ đại T1), sau đó đã trở thành vùng biên viễn vào thời kỳ muộn hơn (đặc trưng lịch sử T2): việc một địa phương từng là trung tâm ở giai đoạn này không loại trừ việc trở thành biên viễn vào giai đoạn khác.
Trả lời thắc mắc của ThS. Nguyễn Thị Bích Phượng về việc làm sao tránh so sánh với dân tộc mình trong khi nghiên cứu tính của cách dân tộc khác, GS. Thêm khuyên rằng không việc gì phải tránh, ngược lại, đó chính là thế mạnh của mình và mình phải tận dụng nó một cách chính danh; điều quan trọng là luôn luôn phải khách quan trong nghiên cứu khoa học, kể cả nghiên cứu chính dân tộc mình hay bản thân mình.
Giải pháp làm sao xây dựng hình ảnh người Thanh Hoá đẹp hơn trong mắt các vùng miền khác cũng như giải pháp xây dựng con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế, đã được tác giả trình bày trong chương IV cuốn sách “Hệ giá trị Việt Nam từ truyền thống tới hiện đại và con đường đi tới tương lai”. Song con đường từ lý thuyết tới thực tiễn còn dài và phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, không phải cứ muốn là được, cứ có giải pháp hợp lý là kết quả sẽ thành công. Cần nghiên cứu kỹ hơn, cũng như cần triển khai một cách bài bản, thấu đáo hơn trên nhiều bình diện, nhiều khía cạnh của cuộc sống.
GS. Trần Ngọc Thêm cám ơn các vị khách, các nhà khoa học trong và ngoài trường, các bạn nghiên cứu sinh, học viên cao học, sinh viên và những người quan tâm đã đến tham dự và ủng hộ cho hoạt động nghiên cứu khoa học của Trung tâm Văn hoá học Lý luận và ứng dụng; các ý kiến phát biểu đã gợi ý cho nhóm nghiên cứu nhìn nhận những khoảng trống trong nghiên cứu của mình để bồi đắp, mở rộng thêm và thúc đẩy nghiên cứu sâu sắc hơn vấn đề đã đặt ra; động viên Trung tâm tiếp tực hướng nghiên cứu thú vị nhưng đặc biệt khó khăn và phức tạp này. Cám ơn Phòng Quản lý Khoa học và Dự án đã ủng hộ và phối hợp với Trung tâm tổ chức bổi sinh hoạt khoa học hữu ích.
Phát biểu của TS. Nguyễn Hoàng Yến, đại diện Phòng Quản lý Khoa học và Dự án (Ảnh Lê Thị Ninh)
Kết thúc buổi tọa đàm, thay mặt Ban tổ chức, TS. Nguyễn Hoàng Yến đánh giá đây là một buổi tọa đàm rất thành công, lượng người tham dự rất đông (chỗ ngồi không đủ) và hào hứng đến phút chót. Phó Trưởng phòng QLKH-DA bày tỏ sự cảm ơn sâu sắc đến Giáo sư Trần Ngọc Thêm đã chuẩn bị chu đáo và trình bày một báo cáo có hàm lượng khoa học cao và tính ứng dụng thiết thực. Báo cáo khoa học mở ra hướng nghiên cứu tính cách văn hoá, tính cách dân tộc, tính cách con người của các vùng miền khác nhau, trong các thời kỳ lịch sử khác nhau để các vùng miền hiểu biết và hòa nhập với nhau hơn.
Các nghiên cứu sinh chụp ảnh lưu niệm với diễn giả (Ảnh Lê Thị Ninh)
Vĩ thanh:
Sau buổi toạ đàm khoa học, tác giả và Trung tâm tiếp tục nhận được nhiều ý kiến phản hồi từ những người tham dự. Các ý kiến đều đánh giá rằng buổi tọa đàm rất hữu ích, bày tỏ lòng cảm ơn tác giả và ban tổ chức và mong rằng trong tương lai sẽ tiếp tục có những sinh hoạt như thế này. PV vanhoahoc.vn xin trích nhận xét của một trong số đó (bạn …@ctu.edu.vn):
“Em xin cám ơn Thầy về buổi Sinh hoạt khoa học vào chiều Thứ 5, 18/8/2016. Qua nội dung buổi sinh hoạt, Thầy trao truyền cho em rất nhiều điều về NCKH.
Trước hết, NCKH phải trả lời những câu hỏi đặt ra trước thực tại đời sống. Kết quả nghiên cứu của Thầy đã trả lời được 2 câu hỏi quan trọng về vùng đất Xứ Thanh, rất thuyết phục.
Thuyết phục ở chỗ những giả thuyết của Thầy đều bắt nguồn từ bằng chứng lịch sử thực tại khách quan, không thể bắt bẻ (nếu có ý muốn bắt bẻ cũng rất khó!).
Bởi kết quả ấy đã được thực hiện bằng phương pháp Dịch - Hệ - Hình là phương pháp nghiên cứu hết sức phù hợp để nghiên cứu tính cách vùng miền. Cách tiếp cận Địa lí học văn hoá mà Thầy áp dụng cũng rất hợp lí ở đây.
Thứ hai, điều mới mẻ mà em chưa từng đọc được ở đâu là Thầy đã khẳng định tính cộng đồng toàn xứ của con người Xứ Thanh. Trong nghiên cứu của mình, em đang mô tả rất nhiều về tính cộng làng xã, mỗi làng là một tiểu triều đình rất hoàn chỉnh về cơ cấu và tâm thức. Nhưng cũng thấy có những chỗ rất giống nhau trong miêu tả phong tục, tín ngưỡng,... của các làng trong một vùng, như vùng Thanh Hoá, vùng xứ Quảng, vùng Nam bộ... Tính cộng đồng kiểu ấy vừa yếu vừa mạnh trong văn hoá Việt Nam mà em không biết dùng từ gì để diễn tả!
Hôm nay nghe Thầy nói về tính cộng đồng toàn xứ, rồi cả tính cào bằng toàn xứ nữa, em thấy thú vị quá, bởi nó đúng quá! Em từng gặp hội đồng hương Thanh Hóa ở Cần Thơ và ở Hà Nội, thấy sự tương trợ, nâng đỡ lẫn nhau của họ rất đặc biệt.
Quan trọng hơn, những điều Thầy nói đã gợi ý cho em rất nhiều điều trong nghiên cứu nhỏ của mình”.
Nguồn: PV vanhoahoc.vn
X. thêm: Phóng sự ảnh: Toạ đàm khoa học: Xây dựng phương pháp nghiên cứu tính cách vùng miền