Đến tham dự buổi tọa đàm có đông đảo khán thính giả là giảng viên của trường Đại học KHXHNV, Đại học Mở Tp. HCM, lãnh đạo và nghiên cứu viên của Bảo tàng Lịch sử TP.HCM, Trung tâm bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa TP.HCM, các hướng dẫn viên du lịch, nhà sưu tập cổ vật, nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên các trường đại học trên địa bàn thành phố.
Chủ đề “Di sản nghệ thuật và lịch sử Campuchia qua 10 thế kỷ” là kết quả nghiên cứu nhiều năm của GS.TS. Filippi Jean – Michel tại Campuchia và cũng từ thành quả nghiên cứu này, ông có kế hoạch xuất bản một quyển sách mang tên: Một ngàn năm nghệ thuật và lịch sử Campuchia (1,000 years of Art and History in Cambodia). Trong báo cáo của mình, GS. Jean – Michel cho rằng nghệ thuật Campuchia khởi nguồn từ phong cách Phnom Da (thế kỷ 6), được xem là giai đoạn nghệ thuật cuối cùng của vương quốc cổ Phù Nam tồn tại từ thế kỷ I – VI được người Khmer phát triển thành dòng nghệ thuật nổi tiếng mang phong cách Sambor Prey Kuk (TK VII). Phong cách này được đặt tên theo tên gọi của ngôi đền Sambor Prey Kuk, tương truyền chính là kinh đô Insanapura do vua Isanavarman I (615 - 635) xây dựng. Tuy nhiên, GS. Jean – Michel cũng cho rằng Phù Nam và đế chế Khmer là hai khái niệm khác nhau về mặt lãnh thổ và tộc người, Phù Nam là một đế chế biển có thương cảng Ô Keo (Óc Eo) nổi tiếng ở huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang và kinh đô Angkor Borei nằm sâu trong phần đất liền thuộc tỉnh Takeo ở Campuchia ngày nay. Còn đế chế Khmer có nguồn gốc từ phần đất phía Bắc Campuchia, cụ thể là các nhà nghiên cứu lịch sử nghệ thuật đã xác định ngôi đền Wat Phu ở tỉnh Champasak (Lào) thuộc loại hình nghệ thuật Khmer cổ và có thể nơi đây từng là kinh đô của vương quốc Chân Lạp trong thời kỳ thịnh trị của vương quốc Phù Nam.
Vốn tốt nghiệp tiến sĩ ngành Ngôn ngữ và Ngữ nghĩa học tại Đại học Sorbonne (Pháp), GS. Jean – Michel đã bỏ ra nhiều năm nghiên cứu từ ngữ thể hiện trong các minh văn thuộc thời đại Angkor (TK 10 - 14) để đối chiếu với ngôn ngữ của các tộc người sinh sống ở phía Bắc Campuchia. Ông cho rằng nhiều thuật ngữ cổ xưa trong minh văn vẫn còn được lưu giữ trong tiếng nói của tộc người Suy, một cộng đồng thiểu số sinh sống ở phía Bắc Campuchia. Một hướng nghiên cứu khác được ông tiến hành tại các làng chài ở cảng Sihanouk Ville và phát hiện ra rằng những từ ngữ được ngư dân Khmer sử dụng để gọi tên các loài cá biển lại có nguồn gốc từ tiếng Chăm và tiếng Việt như cá cơm, cá mồi, cá thu …. Kết hợp cùng với việc khảo cứu nguồn tư liệu khảo cổ, minh văn, và thư tịch của Trung Hoa, GS. Jean – Michel cho rằng văn hóa Campuchia từng có mối quan hệ mật thiết với núi nhưng lại không có mối quan hệ với biển. Từ đó, ông cho rằng quá trình cư trú của người Khmer ở vùng hạ lưu sông Mekong (Lower Mekong River) và duyên hải Campuchia ngày nay phải diễn ra trong giai đoạn muộn. Vì trong tổng số khoảng từ 19 – 20 thủ đô của Chân Lạp đều nằm về phía Bắc Biển Hồ (Tonlé Sap), ngoại trừ thủ đô Phnom Penh ngày nay được chuyển về phía Đông vào thế kỷ 15, sau khi vương quốc Chân Lạp chịu áp lực xâm lăng từ nước Xiêm (Thái Lan) hùng mạnh.
GS. Jean – Michel đã chia quá trình phát triển của nghệ thuật Khmer thành bốn giai đoạn chính như sau: nghệ thuật Phnom Da thuộc giai đoạn cuối cùng của vương quốc cổ Phù Nam (TK 6); nghệ thuật Khmer Tiền Angkor (TK 7-9); nghệ thuật Angkor (TK 10-15) và nghệ thuật Phật giáo Nam tông (TK 15 – nay). Trong mỗi giai đoạn nghệ thuật đều có những biến đổi quan trọng dựa trên mẫu hình nghệ thuật điêu khắc Bà La Môn giáo và Phật giáo từ Ấn Độ. Ở phong cách Phnom Da, sự ảnh hưởng mạnh của nghệ thuật Ấn Độ thể hiện rõ nét qua nét nhân chủng trên khuôn mặt và phong cách tạo hình Tribhanga cho phép hình dáng của các pho tượng đứng lệch sang một bên. Đầu, eo và chân tượng tạo thành ba điểm nhấn quan trọng thể hiện qua các pho tượng thần Vishnu, Balarama, Krishna và Đức Phật. Giai đoạn tiền Angkor (TK 7-9), tượng thần Ba La Môn giáo đã thoát ra khỏi mẫu hình của nền văn hóa Ấn Độ tạo nên một nền nghệ thuật mang tính bản địa với các hình tượng thần Vishnu, thần Harihara (kết hợp giữa thần Vishnu và Shiva), Krishna, Kalki (kiếp hóa thân thứ 10 của thần Vishnu), tượng Bồ Tát (Avalokitesvara) và đặc biệt là sự xuất hiện của những pho tượng nữ thần Durga chiến thắng quỷ trâu Mahisa có kích thước to lớn như người thật, đồng thời giai đoạn Tiền Angkor cũng đánh đấu cho sự xuất hiện hình tượng thần Shiva nhảy múa trên các mi cửa (lintel) đền mà trước đó tín ngưỡng Shiva giáo chỉ được thể hiện qua tục thờ Linga – Yoni trong ngôi đền của hoàng tộc. GS. Jean – Michel cho rằng trước khi ảnh hưởng văn hóa Ấn Độ, người Khmer cũng như các dân tộc khác ở Đông Nam Á sùng bái tín ngưỡng vạn vật hữu linh (Animism), sự ảnh hưởng của nền văn hóa Ấn Độ cho phép họ tiếp nhận những khái niệm mới (new conception) về tôn giáo (Bà La Môn giáo và Phật giáo) và học thuyết chính trị Bà La Môn giáo về nhà nước và quốc gia. Cũng từ đó, mối quan hệ giữa nghệ thuật và chính trị luôn tồn tại xuyên suốt quá trình phát triển của lịch sử Campuchia. Sau thế kỷ thứ 8, có thể bắt đầu từ triều đại của vua Jayavarman II (802-850) đã có sự xuất hiện của những ngôi đền núi (mountain temples) và học thuyết chính trị thần vương (the doctrine of Devaraja) đã được thiết lập để quản trị đất nước. Song đỉnh cao của nghệ thuật Khmer phải diễn ra trong thời đại Angkor (TK 10 - 14) với hai công trình kiến trúc vĩ đại, Angkor Wat và Angkor Thom. GS. Jean – Michel cho rằng sự thay đổi này bắt đầu từ cuối thế kỷ thứ 9 xuất phát từ sự suy yếu trong công tác quản lý đất nước ở Campuchia đã làm cho các vị vua Khmer nhận thấy việc cần thiết phải xây dựng một chế độ chính trị tập trung sức mạnh và quyền lực vào tay nhà vua. Do vậy, đã có sự xuất hiện của các kiểu tượng chân dung của vua và hoàng hậu như một phần biểu tượng của quyền lực chính trị ở Campuchia thời bấy giờ. Angkor chính là giai đoạn thịnh trị nhất của hệ phái Vishnu giáo và cũng là dòng nghệ thuật chịu ảnh hưởng mạnh bởi nghệ thuật Java từ Indonesia truyền sang. Sự nổi bật của nghệ thuật Phật giáo Đại thừa trong giai đoạn vua Jayavarman VII đã đánh dấu thời kỳ phát triển đỉnh cao của nghệ thuật Khmer nhưng cuối thế kỷ 14 vai trò tôn giáo quốc gia lại thuộc về hệ phái Shiva. Song sự suy yếu về mặt chính trị ở Campuchia đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền nghệ thuật Khmer trong giai đoạn này, các tác phẩm Shiva giáo phần nhiều thể hiện sự yếu kém về mặt nghệ thuật tạo hình, đa số các pho tượng thần Shiva và các vị thần trong hệ phái được sửa lại từ những pho tượng Phật thuộc thời kỳ vua Jayavarman VII. Chính sự suy tàn của nền văn hóa Bà La Môn giáo ở Campuchia vào thế kỷ 15 đã mở đường cho sự hình thành của dòng nghệ thuật Phật giáo Nam tông phát triển cho đến ngày nay ở Campuchia.
Để hoàn thiện bài báo cáo của mình, GS. Jean – Michel đã sử dụng những tác phẩm nghệ thuật Bà La Môn giáo và Phật giáo quan trọng ở Campuchia để chứng minh cho đặc điểm mỹ thuật tuyệt vời của nền văn hóa Khmer là các kiến trúc đền tháp, mi cửa (lintel), tượng tròn và phù điêu. Đặc biệt, ông đã dùng loại hình điêu khắc tượng tròn để chứng minh mối quan hệ song hành trong văn hóa cổ xưa ở Campuchia là nghệ thuật và chính trị. Trong đó, mỗi giai đoạn nghệ thuật đều biểu hiện cho mối quan hệ giữa vương quyền và thần quyền theo tính ngưỡng thần vương (Devaraja) của Ấn Độ.
Sau khi kết thúc phần báo cáo khoa học, GS. Jean – Michel đã nhận được rất nhiều câu hỏi trao đổi của người tham dự về đặc trưng nghệ thuật điêu khắc Ấn độ và sự ảnh hưởng của nó ở Camphuchia, mối quan hệ giữa ba nền nghệ thuật Angkor, Champa và Java là thế nào, mối quan hệ giữa nghệ thuật Phù Nam và Campuchia ra sao. Đặc biệt, ông đã nhận được rất nhiều câu hỏi của các bạn hướng dẫn viên du lịch là những từng hướng dẫn cho các tour tham quan đi Mỹ Sơn, Óc Eo và Angkor. GS. Jean – Michel đã giải đáp thấu đáo các câu hỏi và cùng trao đổi khoa học thẳng thắn với các khán thính giả nghiên cứu và yêu thích nền nghệ thuật Khmer ở Campuchia.
Một số hình ảnh về buổi tọa đàm:
Tin bài: Phan Anh Tú, Lê Thị Ninh
Ảnh: Lê Thị Ninh, Nguyễn Trọng Hùng