Trên cơ sở 18 báo cáo khoa học nhận được của các tác giả là những nhà nghiên cứu, giáo sư, giảng viên tại các trường đại học trong và ngoài nước, ban tổ chức đã tiến hành in kỷ yếu với dung lượng 340 trang, và chọn trình bày 4 tham luận để góp phần làm sáng tỏ nguồn gốc của tín ngưỡng nữ thần Mariamman, vai trò của Bà trong tôn giáo Hindu, mối quan hệ giữa Mariamman với tín ngưỡng Bà Đen của người Việt Nam Bộ, Niềng Khmau của người Khơ – me, /Yeo Mao của người Campuchia, cũng như tín ngưỡng nữ thần Pô Na Ga (Po Naga) của người Chăm…
Hindu giáo được hình thành trên vùng đất Ấn Độ nhưng có ảnh hưởng sâu sắc đến quá trình phát triển văn hóa của nhiều quốc gia Đông Nam Á. Tại Việt Nam, ngay từ những thế kỷ đầu Công nguyên Hindu giáo có ảnh hưởng chi phối đến các nền văn hóa cổ như Champa (TK II – XVII), Óc Eo/Phù Nam (TK I - VI) và Hậu Óc Eo (TK VII – XVII). Song ảnh hưởng này lại thuộc lớp văn hóa cổ xưa, đã được cải biên theo nguyên tắc giao lưu tiếp biến văn hóa giữa Ấn Độ và các tộc người bản địa. Khi vùng đất Nam Bộ được khai phá, lưu dân người Việt đã tiếp nhận các dạng thức tín ngưỡng của người Chăm, người Khơ – me Nam Bộ nhưng một lần nữa người Việt lại biến đổi theo nhận thức về thần linh của dân tộc mình. Do ảnh hưởng sâu sắc bởi tín ngưỡng thờ Mẫu, cư dân người Việt đã biến đổi các vị thần Ấn giáo thành các dạng thức thờ cúng nữ thần theo truyền thống văn hóa của mình như Linh Sơn Thánh Mẫu/Bà Đen, Chúa Xứ Thánh Mẫu, Thiên Y A Na Thánh Mẫu ... hay chuyển đổi thành hình tượng Đức Phật như pho tượng thần Bảo tồn Vishnu được cải biên thành Phật bốn tay ở Linh Sơn Tự, thị trấn Óc Eo, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang ...
Ở Ấn Độ, nữ thần Mariamman là tín ngưỡng dân gian lưu truyền phổ biến trong cộng đồng người Tamil Nadu sinh sống ở miền Nam Ấn Độ. Trong tín niệm của người Tamil, Mariamman được xem là vị thần làng, thần Mưa, thần chữa bệnh đậu mùa, thần hộ trì đất đai, xứ sở, vị thần Mẹ rộng lượng chuyên ban phước lành cho dân chúng. Dân gian thường gọi bà là Mariamman, chữ Mari mang ý nghĩa là Người Mẹ, còn Amman mang ý nghĩa là Mưa. Trong phạm vi gia đình, phụ nữ ở miền Nam Ấn Độ thường tôn sùng bà như một vị thần bảo trợ cho phụ nữ và trẻ em, cho nên khi cầu nguyện họ thường đến các ngôi đền Mariamman áp mặt vào bức tường đá phía sau lưng bà thì thầm tâm sự.
Tất cả những tín niệm đó về nữ thần Mariamman đã phản ánh cho đặc điểm và hình thái của một nền văn hóa nông nghiệp do người Tamil hay người Dravida làm chủ thể. Nền văn hóa nông nghiệp đó đã chịu ảnh hưởng chi phối bởi vùng văn hóa trọng tâm linh của dân tộc Ấn Độ. Thích ứng với nền văn hóa nông nghiệp và đời sống trọng tâm linh chịu ảnh hưởng của Hindu giáo, người Tamil đã đồng hóa Mariamman với nữ thần Parvati hay Uma, người vợ nhân từ của thần Hủy diệt Shiva. Hình thái đồng hóa này nhằm kết hợp giữa tôn giáo Hindu và tín ngưỡng dân gian mà kết quả là nhằm cầu mong mùa màng bội thu, buôn bán nông sản gặp thuận lợi trong các làng quê, bảo trợ và che chở cho phụ nữ, bởi phụ nữ Ấn Độ ở miền quê thường chịu nhiều bất công về mặt định kiến gia đình và đẳng cấp.
Theo ông Vương Liêm, Trưởng ban Quản Trị Đền Mariamman, Tín ngưỡng thờ nữ thần Bà la môn giáo (Brahmanism) ảnh hưởng đến Việt Nam từ khá sớm, có thể do những người thuộc đẳng cấp tăng lữ (Brahmin) đi cùng thương nhân để truyền đạo tại những nơi xa xôi mà sau này những nhà Đông phương học phương tây gọi là vùng ngoại Ấn (Inde extérieur). Bà la môn giáo, Ấn độ giáo đi vào đời sống văn hóa – kinh tế - xã hội ở các khu vực bản địa thời kỳ hình thành các vương quốc cổ ở Trung Bộ (Champa) và Nam Bộ (Phù Nam). Sau này, đầu thế kỷ 19, người Ấn Độ nhất là giới thương buôn và người lao động mới tới Sài Gòn (nay là TP Hồ Chí Minh) để làm ăn sinh sống. Họ chủ yếu là cư dân bản địa miền Nam Ấn Độ gốc dân tộc Dradivian màu da đen thuộc bang Tamil Nadu nên tới Việt Nam mang theo tín ngưỡng thờ nữ thần Mariamman. Đến Việt Nam, nữ thần Mariamman được chính thức nhập chung với các vị thần nam, nữ của Bà La Môn giáo, hòa cùng với tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt làm nên Nữ thần Mariamman mang đậm nét tín ngưỡng dân gian thờ Mẫu hữu nghị của hai dân tộc, hai nền văn hóa Việt Nam - Ấn Độ.
Bài tham luận nghiên cứu về tín ngưỡng Yea Mau hay Bà Đen của người Campuchia do GS. TS. Filippi Jean Michel đến từ Đại học Hoàng gia Phnom Penh trình bày đã mang đến cho các nhà nghiên cứu chúng ta một cái nhìn toàn diện hơn về mối quan hệ giữa tín ngưỡng dân gian Nam Bộ và Campuchia, nhất là tín ngưỡng Bà Đen mà người Campuchia gọi là Yea Mau. Hơn 20 năm qua đã có một số lượng lớn những pho tượng Yiey Mau được dựng lên khắp nơi ở Campuchia. Đôi khi tượng được dựng tại những nơi không mong muốn như trên núi Bokor, nơi có một sòng bạc hấp dẫn đang hoạt động. Yiey trong tiếng Khmer có nghĩa là “bà cụ, người phụ nữ cao niên”, còn từ Mau là cái tên rút gọn từ chữ Khmau, nghĩa là “đen hay tối”. Tên gọi Yiey Mau thường được đặt ở phía trước bằng một thuật ngữ thể hiện sự kính trọng là từ Lok nhằm để thể hiện vai trò của một vị Neak Ta. “Neakta là hình tượng thần linh phổ biến nhất, cai quản thế giới siêu nhiên ở các làng quê của Campuchia…”. Theo mạch báo cáo này, tác giả đã đưa bằng chứng đa dạng về các hình thức thờ Yiey Mau và các nghi lễ phong phú ở các vùng khác nhau tại Campuchia cũng như gợi ra những ý tưởng cho các hướng nghiên cứu chuyên sâu khác nhau. Bài tham luận của giáo sư đã tạo nên không khí say mê khoa học cho các khán thính giả tham gia hội thảo.
Viết về “Ý nghĩa của cây và lá chuối trong các nghi lễ ở đền thờ Hindu giáo (qua khảo tả dân tộc học đền thờ Sri Mariamman – Singapore”, PGS.TS. Phan Thị Hồng Xuân cho rằng, đền thờ Sri Mariamman là một địa điểm quan trọng trong sinh hoạt tôn giáo, cố kết cộng đồng của người Singapore gốc Nam Ấn. Trong không gian văn hóa lễ hội tại ngôi đền luôn có sự hiện diện của cây chuối, buồng chuối và lá chuối – loại thực vật được thuần hóa và trồng nhiều tại các quốc gia ở Đông Nam Á. Chuối là biểu tượng của sự sinh sôi nảy nở và là loại lễ vật không thể thiếu trong tín ngưỡng phồn thực. Trong đời sống, chuối có nhiều công dụng, ngoài trái làm đồ cúng, thức ăn, thì lá chuối được dùng làm đồ đựng, thân chuối dùng làm chỗ ngồi trong một số lễ nghi… Đồng thời tác giả cũng đưa ra các giả thuyết và lập luận cho nghiên cứu của mình về nguồn gốc của cây chuối.
PGS.TS. Trương Văn Món băn khoăn việc thờ nữ thần có sự biến đổi, chuyển hóa do sự biến động lịch sử,song sự biến đổi, chuyển hóa tục thờ nữ thần này như thế nào thì từ trước đến nay chưa tác giả nào nghiên cứu làm rõ. Trên cơ sở những ảnh hưởng sâu đậm nền văn minh Ấn Độ giáo, trong đó nổi bật nhất là việc xây dựng các thánh địa, trung tâm các đền tháp để thờ các vị thần có nguồn gốc Ấn Độ ở Vương quốc Champa cổ, chẳng hạn như thánh địa Mỹ Sơn - Quảng Nam, thánh địa Khauthara ở Nha Trang, bên cạnh thờ các vị thần Shiva, Vishnu, Brahma và các vị vua thần bản địa, người Chăm còn thờ nhiều nữ thần khác nhau, đặc biệt là nữ thần Bhagavati - Yang Pu Nagara (Mahisamardini) được người Chăm xem là "thần mẹ xứ sở". Bằng góc nhìn Nhân học - Lịch sử, quá trình hình thành và biến đổi từ tục thờ nữ thần Mahisamardini - Ấn Độ đến tín ngưỡng thờ mẫu Po Ina Nagar - Chăm và Thiên YANA Diễn Phi - Việt ở miền Trung Việt Nam hiện nay, đã được làm rõ và có những minh chứng cụ thể, sinh động bằng những câu chuyện, hình ảnh, tượng đá, các loại di tích đa dạng của người Chăm.
Để tăng thêm tính thực tiễn, sau nửa thời gian thảo luận, Ban tổ chức đã đưa các thành viên tới tham quan khảo cứu tại Đền Mariamman. Được Ban Quản Trị Đền đón tiếp nhiệt tình, đưa đi tham quan thực tế, nghe thuyết trình về từng chi tiết trong Đền và xem phim giới thiệu về Đền, cuộc thảo luận về tín ngưỡng Nữ thần Mariamman tiếp tục say sưa, sôi nổi đến hơn 12g trưa mới kết thúc.
TTVHHLL&UD