logo

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
    • Thư ngỏ
    • Khái quát về Trung tâm
    • Nhân lực Trung tâm
      • Thành viên Trung tâm
      • Cộng tác viên
    • Giới thiệu Khoa Văn hóa học
      • Khái quát về Khoa
      • Nhân lực của Khoa
  • Tin tức
    • Tin nhà (Trung tâm)
    • Tin ngành
    • Tin liên quan
  • Đào tạo - Huấn luyện
    • Các chương trình
    • Tổ chức và Hiệu quả
    • Đào tạo ở Khoa VHH
      • Chương trình đào tạo
      • Kết quả đào tạo
  • Nghiên cứu
    • Lý luận văn hóa học
      • LLVHH: Những vấn đề chung
      • VHH: Phương pháp nghiên cứu
      • VHH: Các trường phái - trào lưu
      • Loại hình và phổ quát văn hóa
      • Các bình diện của văn hóa
      • Văn hóa học so sánh
      • Vũ trụ quan phương Đông
      • Văn hóa và phát triển
      • VHH và các khoa học giáp ranh
    • Văn hóa Việt Nam
      • VHVN: Những vấn đề chung
      • Văn hóa cổ-trung đại ở Viêt Nam
      • Văn hóa các dân tộc thiểu số
      • Văn hóa Nam Bộ
      • Văn hóa nhận thức
      • Văn hóa tổ chức đời sống tập thể
      • Văn hóa tổ chức đời sống cá nhân
      • Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên
      • Văn hóa ứng xử với môi trường xã hội
    • Văn hóa thế giới
      • VH Phương Đông: Những vấn đề chung
      • VH Phương Tây: Những vấn đề chung
      • Quan hệ văn hóa Đông - Tây
      • Văn hóa Trung Hoa và Đông Bắc Á
      • Văn hóa Đông Nam Á
      • Văn hóa Nam Á và Tây Nam Á
      • Văn hóa châu Âu
      • Văn hóa châu Mỹ
      • Văn hóa châu Phi và châu Úc
    • Văn hóa học ứng dụng
      • VHƯD: Những vấn đề chung
      • VHH nghệ thuật
      • Văn hóa đại chúng
      • Văn hóa giao tiếp
      • Văn hóa du lịch
      • Văn hóa đô thị
      • Văn hóa kinh tế
      • Văn hóa quản trị
      • Văn hóa giáo dục - khoa học
    • Tài liệu phổ cập VHH
      • Văn hóa Việt Nam
      • Văn hóa thế giới
      • VHH ứng dụng
    • Tài liệu tiếng nước ngoài
      • Theory of Culturology
      • Vietnamese Culture
      • Applied Culturology
      • Other Cultures
      • 中文
      • Pусский язык
    • Thư Viện Số (Sách - Ảnh - Video)
      • Tủ sách Văn hoá học
      • Thư viện ảnh
      • Thư viện video
    • Các nhà văn hóa học nổi tiếng
  • Tiện ích
    • Dịch vụ Văn hóa học
    • Dịch vụ ngoài VHH
    • Trợ giúp vi tính
    • Từ điển Văn hóa học
    • Thư viện TT và Khoa
    • Tổng mục lục website
    • Tủ sách VHH Sài Gòn
    • Giải đáp thắc mắc
  • Thư giãn VHH
    • Văn chương Việt Nam
    • Văn chương nước ngoài
    • Nghệ thuật Việt Nam
    • Nghệ thuật thế giới
    • Hình ảnh vui
    • Video vui
  • Diễn đàn
  • Liên hệ
  • Trang chủ
  • Nghiên cứu
  • Thư Viện Số (Sách - Ảnh - Video)
  • Tủ sách Văn hoá học
Wednesday, 06 February 2008 03:14

Trịnh Hoài Đức. Gia Định Thành thông chí (phần 3)

Người post bài:  TT VHH

 

 

 

Quyển III: CƯƠNG VỰC CHÍ

[chép về bờ cõi]

 

Khí trong nổi lên trời, chất đục tụ xuống đất, từ thời Bàn Cổ khai phá khí chất hỗn mang mà thoát ra, từ đó các thứ loài càng phồn thịnh. Khoảng đất giữa chiếm vị trí rộng lớn gọi là trung châu, bốn phía đông, tây, nam, bắc đều tùy nơi mà đặt tên, chứ ban đầu chưa vạch ra cương giới này nọ. Kịp khi khí vận càng mở mang, nhân dân càng đông đúc, vua Hoàng Đế (2697 - 2596 tr. CN) mới vạch ra khu vực, vua Thần Vũ (2205 - 2198 tr. CN) mở rộng đất đai. Sách vở để lại chỉ biết Trung Quốc có 9 châu trong thiên Vũ cống ([1][1]). Nhưng ngoài 9 châu ấy, lại còn 9 châu nữa, ngoài 4 biển lại còn 4 biển nữa; cũng như sách nhà Phật gọi là Bốn đại bộ châu vậy. Như vậy thì ngoài những nước biết ăn gạo, mặc tơ, không biết còn có bao nhiêu châu nữa, kỳ thực chỉ tại sách xưa [1b] thiếu sót mà thôi.

Vậy thì núi sông nhân vật chẳng phải đến ngày nay mới sinh ra đâu, như người Tây Dương bảo có Tân thế giới ấy là thứ kiến thức sâu mùa hạ ([2][2]) ếch ngồi đáy giếng ([3][3]) điều đó không thể hợp lý được.

Từ khi chân con ngao ([4][4]) được dựng, móng chim hồng đã chia ([5][5]) trời mở ra ở chi Tý thì trời Gia Định cũng có từ đấy, đất mở ra ở chi Sửu thì đất Gia Định cũng có từ đấy, người sinh ở chi Dần thì người Gia Định cũng sinh ra từ đấy, nguyên trong ấy không có việc riêng sinh, riêng dưỡng, riêng che, riêng chở gì. Còn như cương thường, thân thể, ăn uống, nói năng, hành động thì người thời ấy cũng bẩm thụ thiên tính như người đời nay. Nếu có khác là khác về ăn mặc, vật dụng, xưng hô, tên gọi, ấy là theo tập tục của người, tùy vào cái văn chất của từng thời mà biến chuyển, ấy là lý đương nhiên thông thường.

Kỳ thật người thời ấy {2a} không biết mình sẽ làm gì, khi đi không biết mình sẽ đi đâu, cả đời cho đến chết không biết qua lại với nhau, trong lúc trời đất thì mênh mông, núi sông lại hiểm trở mà kiến thức con người thì có hạn, ví như kẻ nhìn biển dừng chân bên bờ, ráng hết sức phóng mắt trông ra khơi, chỉ thấy lai láng mịt mù, mặt biển tiếp với chân trời, khựng lại không tiến lên nữa, rồi lấy chỗ mình thấy làm nơi tận cùng của trời đất, thế thì lời nói đó đâu phải do sự thấy, sự biết một cách rõ ràng? Cho nên thời vua Thần Nông, đất phía nam chỉ đến Giao Chỉ ([6][6]), thời Hoàng Đế đến sông Trường Giang ([7][7]), Ngũ đế sắp xếp lại việc hóa dục phương Nam ([8][8]), Hạ Vũ tuần thú phương Nam, cho hội chư hầu ở Đồ Sơn ([9][9]) (Trung Quốc), ấy là căn cứ vào nơi đã có thanh giáo và dấu tích bước chân đến đâu thì ghi chép vào sách vở đến đấy mà thôi. Ngoài ra thế nào tất phải đợi đến người đời sau chứ chưa truy cứu đến cùng được. Do đó xứ Gia Định của nước Việt ta [2b] cũng đại để như vậy. Nếu không phải như vậy thì tại sao đường đường một khu vực lớn chỉ cách tỉnh Hà Nam ([10][10]) (Trung Quốc) là nơi kinh đô của các đế vương xưa có 13.189 dặm, mà đất ấy (Gia Định) lại tiếp giáp bốn biển, các nước đều đã giao thông, các nước nhỏ bé xa xôi không làm sao so sánh nổi, vậy mà từ năm Giáp Thìn đời Đế Nghiêu đến năm Nhâm Tuất niên hiệu Gia Khánh thứ bảy đời Thanh, trải qua 4.164 năm ([11][11]) mà sách vở Trung Quốc chưa từng chép đến? Mãi cho đến năm Gia Khánh ấy khi nước ta bắt đầu có lệ triều cống thì tên Nông Nại (Gia Định tục gọi là Đồng Nai, người Thanh gọi Gia Định là Nông Nại) mới được nêu rõ nơi Sử quán. Ấy là một đoạn thiếu sót lớn của sách vở xưa vậy.

Lại đơn cử thêm một chuyện na ná nữa để nói, như phía bắc Trung Hoa có Mông Cổ ([12][12]), Mãn Châu ([13][13]), phía tây có Tây Dương ([14][14]) Thổ Lỗ ([15][15]), phía đông [3a] có Lưu Cầu ([16][16]), Lữ Tống ([17][17]); những nước ấy đất đai lớn thì hơn vạn dặm, nhỏ thì cũng không dưới vài ngàn dặm, đều có các nước phụ dung lệ thuộc la liệt như sao, sách vở đời sau luôn nêu rõ mồn một trước tai mắt mọi người, vậy chớ nên vì sách vở xưa không ghi chép mà xem thường bỏ ra ngoài. Đó là kẻ thư sinh chỉ theo lời vô căn cứ nhét vào tai chớ chẳng phải là sự học sâu rộng như biển của bậc sư Nho được in đậm trong tâm. Nhưng thời đại cách xa nhau, sự nghiệp lại khác nhau, việc thắt nút dây ([18][18]) để ghi nhớ sự kiện sẽ không ghi chép được xa, chỉ chép được việc gần, chỉ nghị luận mà không sáng tác được, vì thế mà chẳng lạ gì sách Ngoại kỷ của Lưu Đạo Nguyên chỉ nhặt nhạnh toàn những việc kỳ quái. Nay chỉ lấy những gì cốt yếu, có thật để khảo chứng mà ghi chép lại, chẳng những đấy là lý đương nhiên mà còn là việc chẳng làm khác đi được.

Gia Định [3b] xưa nguyên là đất của Chân Lạp (Chenla) ([19][19]) (nay là nước Cao Miên, phân ra làm Thủy Chân Lạp và Lục Chân Lạp). Đây là vùng đất đai màu mỡ, địa lợi có đủ ruộng đồng, đầm phá, sông, biển; muối, lúa, đậu rất nhiều. Các tiên hoàng liệt thánh triều ta chưa rảnh để mưu tính việc xa nên tạm để đất này cho Cao Miên ở, đời đời xưng là Nam Phiên, lo việc triều cống không bao giờ dứt. Tháng 9 mùa thu năm thứ 11 Mậu Tuất (1658) (Lê Thần Tông niên hiệu Vĩnh Thọ năm đầu, Minh Vĩnh Lịch thứ 12, Đại Thanh Thuận Trị thứ 14) thời Thái Tông Hiếu Triếthoàng đế (Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần) vua Cao Miên là Nặc Ong Chăn ([20][20]) xâm phạm biên giới (Người Cao Miên không có họ, con cháu nhà vua đều xưng là Nặc Ong, Chăn là tên, khi đặt tên thì thích dùng chữ hay, ông cháu cùng tên mà không kiêng, nước ta gửi thư xuống thì xưng là Cao Miên Quốc vương Nặc Ong Mỗ, ấy là lấy tên của vị vương tử mới được phong mà gọi. Lại như vương tước của nước ấy thì dùng đến 11, 12 chữ cho đến 23, 24 chữ tùy theo cách gọi chứ không có định lệ). Khâm mệnh dinh Trấn Biên (thời mới khai thác thì những chỗ đầu biên giới gọi là Trấn Biên, ở đây tức Phú Yên ngày nay), Phó tướng quân Yến Vũ {4a} hầu, Tham mưu Minh Lộc hầu, Tiên phong Cai đội Xuân Thắng hầu đem 3 ngàn quân đi trong 2 tuần đến thành Mô Xoài ([21][21]) của nước Cao Miên, phá thành và bắt vua Nặc Ong Chăn giải về Quảng Bình là nơi hành tại ([22][22]). Vua ra dụ xá tội cho, rồi phong làm Cao Miên quốc vương, luôn phải giữ đạo phiên thần, thường xuyên phải triều cống, không được xâm lấn cư dân ở ngoài biên, rồi sai quan binh hộ tống cho về nước ([23][23]).

Lúc ấy địa đầu của Gia Định là Mô Xoài và Đồng Nai (nay là trấn Biên Hòa) tại hai xứ ấy đã có dân của nước ta đến cùng với dân Cao Miên khai khẩn ruộng đất. Người Cao Miên rất khâm phục uy đức của triều đình, họ đem nhượng đất ấy rồi kéo nhau tránh đi nơi khác, chẳng dám tranh chấp điều gì.

Tháng 2 mùa xuân năm thứ 27, Giáp Dần (1674) (Lê Gia Tông, niên hiệu Đức Nguyên năm đầu, Đại Thanh Khang Hy thứ 13) [4b], Nặc Đài (Neac Ang Dai) nước Cao Miên ([24][24]) (sách Nam Việt chí của Nguyễn Bảng Trung chép là Nặc Ô Đài, sách Phủ Biên tạp lục của Lê Quý Đôn chép là Nặc Đài) đánh đuổi vua nước ấy là Nặc Ong Non; Nặc Ong Non chạy sang ta tránh, vua sai tướng Dương Lâm hầu ở dinh Thái Khang (nay là trấn Bình Hòa) làm Thống suất, Tham mưu Diên Phái hầu làm Hiệp lý biên vụ, đưa quân tiến đánh. Mùa hạ tháng 4 phá được ba lũy: Sài Côn (nay là đất trấn Phiên An), Gò Vách và Nam Vang, Nặc Đài thua chạy rồi chết. Nặc Thu xin lạy hàng (Theo sử nước Cao Miên, ngôi vương có 3 cấp: Chính vương, Nhị vương và Tam vương. Thời Nặc Sô (Neac Sor) làm Chính vương, em là Nặc Tân làm Nhị vương, con trưởng của Nặc Sô là Nặc Xá Phủ Tâm không được làm vua, y bèn giết cha rồi tự lập ngôi. Nặc Tân cùng con người em [5a] là Nặc Non (Neac Ang Non) chạy sang nước ta. Sau đó Nặc Xá Phủ Tâm bị vợ giết chết, con là Nặc Chi (Neac Ang Chei) kế vị. Năm Giáp Dần niên hiệu Thiên Vận ([25][25]) (1594), quan quân tiến đánh, Nặc Chi bỏ chạy rồi chết, quan quân đưa Tân và Non về nước, con thứ của Nặc Sô là Nặc Su xin hàng, Nặc Tân thì chết vì bệnh, triều đình cho lập Nặc Su làm Chính quốc vương, Nặc Non làm Nhị quốc vương, chia nhau mà cai trị. Như vậy tên gọi không giống Nặc Đài mà sự tích cũng hơi khác, nghi rằng hai chữ Su và Thu do tiếng nước ta vốn gần nhau nên có sự nhầm lẫn chăng).

Tháng 6 mùa hạ được tiệp báo ([26][26]), triều đình nghị sự chuẩn cho Nặc Thu là nhánh đích được làm Cao Miên Chính quốc vương, đóng dinh ở thành Vũng Luông; Nặc Non làm Phó quốc vương, đóng dinh ở thành Sài Côn, giữ lệ triều cống như cũ. Lại còn gia phong cho Dương Lâm hầu làm Trấn thủ dinh Thái Khang (Khánh Hòa) lo việc phòng ngự ngoài biên.

[5b] Tháng 4 mùa hạ năm thứ 32, Kỷ Mùi (1679) (Lê Hy Tông niên hiệu Vĩnh Trị thứ 4, Đại Thanh Khang Hy thứ 18), quan Tổng binh thủy lục trấn thủ các xứ ở Long Môn thuộc Quảng Đông nước Đại Minh là Dương Ngạn Địch và Phó tướng Hoàng Tấn, quan Tổng binh trấn thủ các châu Cao, Lôi, Liêm là Trần Thắng Tài, Phó tướng Trần An Bình dẫn quân và gia nhân hơn 3000 người cùng chiến thuyền hơn 50 chiếc xin được vào Kinh bằng hai cửa Tư Dung và Đà Nẵng (nay là cửa Hàn thuộc Quảng Nam). Sớ tâu lên rằng số người này tự xưng là người nhà Minh bỏ trốn đi, họ thề quyết tận trung với nước, nhưng nay đã thế cùng lực tận, vận nhà Minh đã dứt, họ không thể thần phục triều Thanh nên chạy sang nước Nam nguyện được làm dân mọn. Lúc ấy ở Bắc Hà đang có biến, vả lại họ ở xa mới đến, hư thực chưa hay, lại y phục ngôn ngữ bất đồng, nhất thời thật khó giải quyết ngay. Nhưng họ đang cùng quẫn mà chạy sang, lại tỏ bày lòng trung thực, về nghĩa cũng không thể từ chối được [6a]; vả lại xứ Đông Phố ([27][27]) (một tên khác của đất Gia Định xưa) của nước Cao Miên, đất đai màu mỡ có đến ngàn dặm, triều đình chưa rỗi để lo liệu, chi bằng tận dụng sức lực của họ, giao cho họ khai hoang đất đai để ở, ấy cũng là một cách làm mà được ba điều lợi. Nghĩ vậy, triều đình mới tổ chức khao đãi ân cần, chuẩn y cho giữ nguyên chức hàm, phong cho quan tước rồi lệnh cho tới Nông Nại (Đồng Nai) làm ăn, gắng sức khai thác đất đai. Mặt khác, triều đình còn hạ chỉ dụ cho Quốc vương Cao Miên (Thủy Chân Lạp) biết việc ấy để không xảy ra chuyện ngoài ý muốn.

Được lệnh, các ông Dương, Trần ([28][28]) vào Kinh tạ ơn rồi phụng chỉ lên đường. Bọn tướng Long Môn họ Dương đem binh thuyền tiến nhanh vào cửa Xoài Rạp [nay gọi là Lôi Lạp (Soi Rạp)] và cửa Đại cửa Tiểu (thuộc trấn Định Tường) dừng trú tại xứ Mỹ Tho (nay là trấn lỵ của Định Tường). Bọn tướng các xứ Cao, Lôi, Liêm họ Trần thì đem binh thuyền tiến vào cửa Cần Giờ [6b] rồi đồn trú tại xứ Bàn Lân thuộc Đồng Nai (nay là lỵ sở trấn Biên Hòa). Họ lo mở mang đất đai, lập thành phố chợ, giao thông buôn bán. Tàu thuyền người Hoa, người phương Tây, người Nhật, người Đồ Bà (Chà Và), tụ tập tấp nập, phong hóa Trung Quốc dần dần lan ra thấm đượm cả vùng Đông Phổ (Phố).

Tháng 6 mùa hạ năm thứ 2, Mậu Thìn (1688) đời Anh Tông Hiếu Nghĩa hoàng đế (Chúa Nghĩa Nguyễn Phúc Trăn) (Lê Hy Tông niên hiệu Chính Hòa thứ 9, Đại Thanh Khang Hy thứ 27), Phó tướng Long Môn là Hoàng Tấn sinh lòng kiêu mạn, y cầm quân tấn công giết Dương Ngạn Địch rồi dời đến đóng ở xứ Rạch Năn (thuộc huyện Kiến Hòa, trấn Định Tường), chiếm cứ vùng hiểm yếu, đóng thuyền chiến, đúc thêm súng lớn, không cho thương nhân qua lại, quấy nhiễu cướp bóc người Cao Miên. Vua Cao Miên là Nặc Ong Thu phải cho đắp lũy đất ở ba xứ Cầu Nôm, Nam Vang và Gò Vách, lại kết bè nổi ở sông Cầu Nôm và giăng dây thép [7a] chắn ngang cửa sông để cự thủ. Phó vương Cao Miên là Nặc Non đang đóng giữ Sài Côn vội tâu lên hết mọi chuyện. Tháng 10 mùa đông, triều đình sai Phó tướng dinh Thái Khang là Vạn Long hầu làm Thống suất, Thắng Long hầu và Tân Lễ hầu làm Tả hữu vệ trận, Vị Xuyên hầu làm Tham mưu cầm quân đi chinh phạt Hoàng Tấn, đồng thời ủy cho quyền mưu tính việc mở mang biên cương. Quan quân kéo đến đóng ở Rạch Gầm (thuộc thôn Kim Sơn, huyện Kiến Đăng, trấn Định Tường) rồi nói thác là đi đánh Nặc Thu, giả bộ ra lịnh cho Hoàng Tấn làm tiên phong, dụ Tấn hội ở giữa sông rồi cho phục binh ụp ra bắt và phá hết đồn trại của hắn. Hoàng Tấn thoát chạy rồi bị chết. Quan quân chiêu dụ đội quân Long Môn, những kẻ bị Tấn bắt ép phải theo đều được tha thứ.

Quan quân thừa thế tiến đánh Nặc Thu, ủy cho tướng Cao Lôi Liêm là Thắng Tài hầu kiêm quản tướng sĩ đội quân Long Môn [7b] làm tiên phong, bắt chước như Vương Tuấn đời Tấn ([29][29]) hồi xưa đốt hết dây thép chắn ngang sông, tiến công chiếm được ba lũy Cầu Nôm, Nam Vang và Gò Vách. Nặc Thu rút quân lui về Vũng Luông rồi lập mưu sai nữ sứ giả là Chiêm Luật đến xin hàng và đề nghị quan quân rút lui để họ chuẩn bị lễ vật cống hiến. Thực ra ấy là mưu kế để họ kịp mộ binh tiếp viện tính việc chống cự. Vạn Long hầu nhẹ dạ tin theo rồi cho lui quân về đóng ở Bến Nghé (nay là chợ Điều Khiển). Đã hơn một năm trôi qua mà Nặc Thu không chịu tiến cống, lúc ấy lại bỗng xảy ra bệnh dịch, quân sĩ nhiều người bị bệnh và chết, các tướng cùng nhau làm tờ tấu đàn hạch Vạn Long hầu về tội chần chừ làm hỏng quân cơ. Mùa đông năm thứ 3 Kỷ Tỵ (1689) (Lê Hy Tông niên hiệu Chính Hòa thứ 10, Đại Thanh Khang Hy thứ 28) [8a], triều đình sai Cai đội Hào Lương hầu Nguyễn Hữu Hào ([30][30]) (con của Chiêu Võ hầu Nguyễn Hữu Dật) làm thống suất, Hòa Tín hầu làm Tham mưu, Cai đội Thắng Sơn hầu làm Tiên phong, tuyển lựa tinh binh ở các xứ Phú Yên, Thái Khang và Bình Thuận để tiến đánh Cao Miên, rồi cho bắt trói bọn Vạn Long hầu cùm đưa về kinh sư. Sau đó triều đình miễn chức Vạn Long hầu cho về làm thường dân, giáng Vị Xuyên hầu xuống làm tướng thần thuộc lại.

Tháng ba mùa xuân năm thứ 4 Canh Ngọ (1690) (Lê Hy Tông niên hiệu Chính Hòa thứ 11, Đại Thanh Khang Hy thứ 29), Hào Lương hầu đánh thắng Cao Miên, bắt vua Cao Miên là Nặc Thu đem về Sài Côn rồi nghỉ quân, Cao Miên từ đó mới bình định. Sau đó Nặc Thu bị bệnh mất, Nặc Non cũng mất, các tướng tâu lên rằng dòng đích của vua Cao Miên không còn ai, [8b] do đó triều đình phong cho con Nặc Non là Nặc Yêm làm vua và lệnh cho đóng ở thành Gò Vách. (Sử Cao Miên ghi niên hiệu Thiên Vận (1622) là năm Thìn, Nặc Yêm con của Nặc Non là Tham - đích - sá - chiêu - trùy lên làm vua, so ra thời đại và tên gọi khá phù hợp nhưng tháng năm thì sai khác, điều đó còn cần khảo cứu thêm).

Mùa xuân năm thứ 8, Mậu Dần (1698) thời Hiển Tông Hiếu Minh hoàng đế (Quốc chúa Nguyễn Phúc Chu), (Lê Hy Tông niên hiệu Chính Hòa thứ 19, Đại Thanh Khang Hy thứ 37), triều đình sai Thống suất Chưởng cơ Lễ Thành hầu họ Nguyễn (Hữu Cảnh) ([31][31]) sang kinh lược đất Cao Miên, ông lấy đất Nông Nại đặt làm phủ Gia Định, lập đất Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng nên dinh Trấn Biên (lỵ sở nay là thôn Phước Lư), lập xứ Sài Côn làm huyện Tân Bình, lập dinh Phiên Trấn (quận sở nay gần Tân Đồn). Mỗi dinh lập ra chức Lưu thủ, Cai bạ và Ký lục để cai trị. Về vệ thuộc thì có hai ty Xá, Lại để làm việc, quân binh thì có tinh binh cơ đội thuyền thủy bộ và thuộc binh để hộ vệ. Ngàn dặm đất đai, dân hơn 4 vạn hộ, chiêu mộ lưu dân từ châu Bố Chính đến lập nghiệp, lập ra thôn xã phường ấp, phân định địa giới, ruộng đất, lập ra tô thuế, xây dựng đinh điền bạ tịch. Con cháu người Hoa nếu ở Trấn Biên được quy lập thành xã Thanh Hà, còn ở Phiên Trấn thì lập thành xã Minh Hương rồi cho phép vào hộ tịch.

Mùa thu năm thứ 9, Kỷ Mão (1699) (Lê Hy Tông niên hiệu Chính Hòa thứ 20, Đại Thanh Khang Hy thứ 38), triều đình [9b] tra xét bắt đạo Hoa Lang (tức đạo Thiên Chúa của người Tây Dương), phàm nhân dân ta ai có đạo thì phải bỏ để trở lại làm dân bình thường, lấy nhà tu làm nhà ở, lại còn đốt sách vở của đạo ấy, còn người phương Tây thì buộc họ phải về nước.

Tháng 8 mùa thu năm thứ 18, Mậu Tý (1708) (Lê Dụ Tông niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 4, Đại Thanh Khang Hy thứ 47), triều đình phong cho người Lôi Châu, tỉnh Quảng Đông là Mạc Cửu làm Thống binh Hà Tiên. Mùa xuân năm thứ 8, Nhâm Tý (1732) thời Túc Tông Hiếu Ninh hoàng đế (Đĩnh Quốc công Nguyễn Phúc Chú) (Lê Thuần Tông niên hiệu Long Đức năm đầu, Đại Thanh Ung Chính thứ 10), triều đình sai quan Khổn súy ([32][32]) Gia Định phân chia đất ấy để lập ra châu Định Viễn và dinh Long Hồ (lỵ sở nay là thôn An Bình Đông thuộc huyện Kiến Đăng, trấn Định Tường, tục gọi là dinh Cái Bè).

Năm Bính Thìn (1736) (Lê Ý Tông năm thứ 2 niên hiệu Vĩnh Hựu, năm đầu niên hiệu Càn Long nhà Đại Thanh), phong Mạc Thiên Tứ, tự Sĩ Lân, trưởng tử của Mạc Cửu, làm Đô đốc Tông Đức hầu, kế tập cha ([33][33]).

[10a] Tháng 6 mùa hạ năm thứ 12, Bính Thìn (1736) (Lê Ý Tông niên hiệu Vĩnh Hựu thứ 4, Đại Thanh Càn Long thứ 3), triều đình định lại quan chế, cải cách sắc phục, thay đổi phong tục, mọi người đều theo lối mới, tránh cái thô lậu của Bắc hà từ trước tới nay (lúc ấy từ sông Linh Giang (1) thuộc châu Bố Chính trở vào Nam gọi là Nam hà, trở ra Bắc gọi là Bắc hà). Miền Nam từ đây rạng rỡ một vùng y quan văn vật.

Mùa đông năm thứ 16, Quý Dậu (1735) (Lê Hiển Tông niên hiệu Cảnh Hưng thứ 14, Đại Thanh Càn Long thứ 18), triều đình sai Cai đội Thiện Chánh hầu làm Thống suất, Ký lục Nghi Biểu hầu Nguyễn Cư Trinh (2) làm Tham mưu điều khiển tướng sĩ 5 dinh: Bình Khang (Năm thứ 4 Canh Ngọ đổi Thái Khang làm dinh Bình Khang), Bình Thuận, Trấn Biên, Phiên Trấn và Long Hồ (Chức Điều khiển được thiết lập từ đây) [10b] đi kinh lược đất Cao Miên, quan quân đồn trú ở xứ Bến Nghé, lập nên dinh trại, gọi tên là Đồn Dinh (nay là chợ Điều Khiển), rồi lo luyện tập quân sĩ, điều độ lương thảo, tính kế mở mang.

Tháng 6 mùa hạ năm thứ 17, Giáp Tuất (1754) (Lê Hiển Tông niên hiệu Cảnh Hưng thứ 15, Đại Thanh Càn Long thứ 19), chia quân Gia Định ra làm hai đạo, Nghi Biểu hầu đem kỳ binh từ sông Bát Đông tiến phát, quân đến đâu địch thua đến đó, rồi đến Tần Lê Bắc ra sông lớn hội cùng chính binh Tiền Giang của Thiện Chính hầu ở đồn Lò Yêm. Bốn phủ Xoài Lạp (Soi Rạp) (những nơi người Bắc Địch sinh sống, chỗ lớn gọi là bộ, nhỏ gọi là lạc, người Xiêm La và Ai Lao thì gọi mường ([34][34]), người Cao Miên thì gọi là sóc. Sóc Xoài Lạp (Soi Rạp) ban đầu ở bờ biển, tức nay là cửa Lôi Lạp (Soi Rạp) thuộc trấn Định Tường. Vì lúc ấy Cao Miên nhượng đất cho dân ta rồi cả sóc dời [11a] đến xứ Quang Hóa (Trảng Bàng) nay là địa giới trấn Phiên An, tên sóc nay vẫn còn), Tầm Đôn, Cầu Nôm và Nam Vang của Cao Miên đều hàng (sóc lớn cai quản các sóc nhỏ, gọi là phủ và có đặt chức quan An phủ trông coi). Tiếp đó liền sai thuộc tướng Cai đội Chấn Long hầu đến phủ Tầm Phong Tiêm chiêu dụ người Côn Man Thuận Thành (trước gọi là Chiêm Thành, sau đổi lại là Thuận Thành. Tù trưởng bộ lạc ở tại trấn Bình Thuận nhưng cũng có số đông ở đất Cao Miên) để gây thanh thế. Lúc ấy quốc vương Cao Miên là Nặc Ong Nguyên chạy lánh sang phủ Tầm Phong Thu (nay là phủ La Vách) lại gặp trận lụt mùa thu quá lớn, quan quân phải trở về đồn nghỉ ngơi.

Mùa xuân năm thứ 18, Ất Hợi (1755) (Lê Hiển Tông niên hiệu Cảnh Hưng thứ 16, Đại Thanh Càn Long thứ 20), đại binh của Thiện Chính hầu đã về trước ở đồn Mỹ Tho, rồi lệnh cho người Côn Man Thuận Thành phải bỏ vùng Ca Khâm [11b], (Kha Khom?) đem hết bộ lạc xe cộ xuống đồn trú ở Bình Thanh (nay là Gò Bắp) ([35][35]), tinh tráng hơn vạn người, khi đến đất Vô Tà Ân liền bị hơn một vạn binh của Cao Miên thừa cơ tập kích, quân Côn Man sức yếu thế cô, liền đem hết xe chất thành lũy và một lòng chống giữ, mặt khác cho quân đi cấp báo. Thiện Chính hầu vì ao đầm ngăn trở nhất thời khó bề cứu viện ngay được, chỉ Nghi Biểu hầu dẫn 5 đội tùy quân đến ứng cứu, quân Cao Miên nghe hơi đã phải rút lui. Nghi Biểu hầu đón hơn 5000 dân Côn Man cả nam lẫn nữ về trú dưới chân núi Bà Đinh (Đen) rồi hạch tấu Thiện Chánh hầu về tội làm hỏng quân cơ, rút quân thiếu kỷ luật, bỏ rơi người mới quy phụ, không cứu viện - để quân giặc bắt đi. Tấu được dâng lên, triều đình cho tra xét rồi giáng Thiện Chánh hầu xuống làm Cai đội, thu quyền Thống suất, ra lệnh cho Cai đội Du chính hầu Trương Phúc Du làm Thống suất [11a], dùng người Côn Man dẫn đường để tiến đánh Cầu Nôm và Nam Vang và giết được một số Ốc nha. Vua nước ấy quá sợ nên phải chạy sang nương thân vào Đô đốc Tông Đức hầu Mạc Thiên Tứ ở trấn Hà Tiên. Mạc Thiên Tứ thay lời tâu rằng: Việc ấy do biên tướng Cao Miên là Chiêu trùy Ếch đàn áp người Côn Man, vua nước ấy xin chịu nhận tội.

Năm thứ 19, Bính Tý (1756) (Lê Hiển Tông niên hiệu Cảnh Hưng thứ 17, Đại Thanh Càn Long thứ 21), Quốc vương Cao Miên là Nặc Ong Nguyên xin hiến đất hai phủ Tầm Đôn và Xoài Lạp (Soi Rạp) ([36][36]) để chuộc tội, đồng thời xin cống nạp lễ vật còn thiếu ba năm trước đó. Triều đình trách tội, hạ lệnh phải bắt kẻ cầm đầu cuộc loạn ấy là Chiêu trùy Ếch đóng cũi giải nộp. Nặc Ong Nguyên gọi Chiêu trùy Ếch bằng cậu, vốn tình thân ái mà việc tập kích ấy y ta cũng có dự mưu nên nói dối rằng đã đưa Chiêu trùy Ếch ra xử tội rồi. Triều đình biết Nguyên [12b] không tâu thật, nhưng tạm không vặn hỏi đến cùng, rồi sai phải bắt giải vợ con của Chiêu trùy Ếch đến, Nặc Ong Nguyên lại nói thác rằng chúng hiện còn trốn tránh. Lúc ấy Nghi Biểu hầu tâu xin chuẩn cho lời chuộc tội của Nguyên, và xin lấy đất hai phủ nầy nhập vào châu Định Viễn ([37][37]) để được toàn vẹn một vùng. Triều đình chuẩn y.

Năm thứ 20, Đinh Sửu (1757) (Lê Hiển Tông niên hiệu Cảnh Hưng thứ 18, Đại Thanh Càn Long thứ 22), Quốc vương Cao Miên là Nặc Ong Nguyên mất, người chú họ là Nặc Ong Nhuận thay quyền coi việc nước, Khổn thần ([38][38]) Gia Định tâu rằng nhân đấy mà lập cho luôn thể để tỏ rõ ân ý mà cũng để biên thùy thêm bền vững. Vua xuống chiếu rằng phải hiến thêm đất đai hai phủ Trà Vinh và Ba Thắc ([39][39]) mới chuẩn cho lập ngôi. Gặp lúc ấy rể của Nặc Ong Nhuận là Nặc Hinh cướp ngôi, giết Nặc Ong Nhuận, con của Nhuận là Nặc Ong Ton chạy [13a] qua Hà Tiên, Du Chính hầu thừa thế tiến đánh, Hinh chạy đến Tầm Phong Xoài rồi bị phiên liêu là Ốc nha Uông giết chết. Lúc ấy Mạc Thiên Tứ vì Nặc Ong Ton mà dâng tấu, vua sắc phong cho Nặc Ong Ton làm Quốc vương Cao Miên rồi sai Mạc Thiên Tứ cùng binh tướng 5 dinh đưa Nặc Ong Ton về nước nhưng buộc phải hiến thêm đất Tầm Phong Long ([40][40]). Quan quân khải hoàn về Gia Định, sau đó Du Chính hầu và Nghi Biểu hầu dâng tấu xin dời dinh Long Hồ qua xứ Tầm Bao ([41][41]) (tức địa phận thôn Long Hồ ngày nay). Lại lấy xứ Sa Đéc đặt thành đạo Đông Khẩu, xứ Cù Lao Giêng ([42][42]) (tục gọi cồn cát giữa sông là cù lao) ở Tiền Giang đặt làm đạo Tân Châu, xứ Châu Đốc ở Hậu Giang làm đạo Châu Đốc, rồi lấy binh dinh Long Hồ đến gìn giữ nơi địa đầu trọng yếu ấy [13b].

Lúc ấy, Nặc Ong Ton lại đem đất 5 phủ là Vũng Thơm, Cần Bột, Chân Sâm, Sài Mạt và Linh Quỳnh biếu Mạc Thiên Tứ để đền ơn đã bảo toàn cho. Thiên Tứ đặt xứ Rạch Giá ([43][43]) làm đạo Kiên Giang, Cà Mau làm đạo Long Xuyên, lại đặt quan trông coi, chiêu mộ cư dân lập nên thôn ấp, do đó mà đất đai xứ Hà Tiên mới rộng lớn ra.

Năm Kỷ Hợi, Thế Tổ Cao hoàng đế năm thứ 2 (1779) (Lê Hiển Tông niên hiệu Cảnh Hưng thứ 40, Đại Thanh Càn Long thứ 44, ngụy Tây Sơn Nguyễn Văn Nhạc niên hiệu Thái Đức thứ 2), vua lệnh vẽ địa đồ phân chia thêm bớt địa giới 3 dinh Trấn Biên, Phiên Trấn và Long Hồ cho được liền nhau. Lại lấy yếu địa 3 dinh tọa lạc ở xứ Mỹ Tho lập thành dinh Trường Đồn, đặt lỵ sở ở giồng Cai Yến.

[14a] Đất Nông Nại xưa vốn nhiều đầm ao rừng rú, buổi đầu mới lập ra 3 dinh, mộ dân đến lập nghiệp, phép tắc hãy còn khoan dung giản dị. Có khi đất ở hạt Phiên Trấn mà lập thuế ở hạt Trấn Biên, và ngược lại đất ở hạt Trấn Biên mà trưng thuế ở Phiên Trấn ấy là tùy theo lòng dân, không hề ràng buộc, cốt sao khiến dân khai hoang mở đất cho thành ruộng, lập nên thôn xã mà thôi. Nhiều nơi là đất bùn cỏ mà trưng làm ruộng đóng thuế, hoặc ruộng núi nơi đất gò đống mà trưng làm ruộng cỏ, chuyện đó có thường thôi. Đến như sào, mẫu, khoảng (khoảnh), sở, cũng chỉ dựa vào lời khai mà biên vào sổ bộ chứ không đặt thước xuống đo và phân biệt tốt xấu, còn thuế nhiều hay ít, đấu hộc to hay nhỏ cũng tùy vào lệ cũ từng nơi để phỏng theo mà làm [14b] không giống nhau. Đến lúc này mới châm chước để làm cho đúng, nhưng nếu so với các dinh trấn ở Bắc thì phép tắc ở Gia Định còn rất khoan dung mà thuế lệ cũng còn nhẹ.

Năm thứ 21, Canh Thân (1800) (Ngụy Tây Sơn Nguyễn Quang Toản niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 8, Đại Thanh Gia Khánh thứ 5), đổi phủ Gia Định làm trấn Gia Định. Ngày 17 tháng 6 mùa hạ năm Ất Sửu (1805), niên hiệu Gia Long thứ 4 (Đại Thanh Gia Khánh thứ 10), vua sai 5 dinh trấn của Gia Định là Phiên Trấn, Trấn Biên, Vĩnh Trấn, Trấn Định, và Hà Tiên phải kê khảo đầy đủ về sự tích, cương vực và thổ sản trong địa hạt, cùng với đường sá xa gần, núi sông chỗ nào bình thường, chỗ nào hiểm yếu, vẽ thành bản đồ, chép thành biên bản, ghi chú rõ ràng để làm thành trình lục.

[15a] Tháng 7 mùa thu năm Đinh Mão (1807), niên hiệu Gia Long thứ 6 (Đại Thanh Gia Khánh thứ 12). Nước Cao Miên sai sứ là là Ốc nha Bôn Lịch và Ốc nha Lịch Gia Phủ Phủ Rách dâng biểu đến kinh đô Phú Xuân để xin phong vương.

Theo sử Cao Miên, năm Đinh Sửu (1757), Nặc Ong Ton làm vua nước Cao Miên, Nặc Ong Non chạy sang đầu Xiêm La. Năm Kỷ Sửu (1769), vua Xiêm là Phi nhã Tân sai binh đưa Nặc Ong Non về đánh lấy lại Cao Miên nhưng việc không thành, bèn đến phủ Lò Gò Vật đánh cướp rồi trở lui. Năm Tân Mão (1771), quân Xiêm sang tập kích phủ Nam Vang bắt mất dân hơn vạn người, lại gặp lúc đang xảy ra đại dịch bịnh nên xứ này bị tổn thất rất nặng. Năm Ất Mùi (1775), Nặc Ong Ton nhường ngôi cho người em là Nặc Ong Vinh làm Chính vương còn Nặc Ong Ton xuống làm Nhị vương [15b], Nặc Ong Thâm làm Tam vương. Năm Bính Thân (1766), Nặc Ong Vinh không giữ phận thần chức nên Tiết chế Tuấn Quận công phải đem quân chinh phạt. Năm Đinh Dậu (1777), Cao Miên có nội biến, Nặc Ong Thâm bị giết, Nặc Ong Ton vì uất ức rồi lâm bệnh mà chết. Năm Mậu Tuất (1778), vua Xiêm là Phi nhã Tân sai Phi nhã Chất Tri ([44][44]) và Phi nhã Sô Sĩ đem một vạn binh Xiêm và mượn thêm một vạn binh Cao Miên phân làm hai đạo thủy lục, lấy đường Cao Miên để tấn công Xương Tỉnh, Lao Khổng và Ba Thắc rồi tiến thẳng đến Viên Chăn - Lào, tất cả các nơi đều hàng phục. Lúc ấy, Cao Miên phải chuyên chở lương hướng làm nước nghèo, dân đều xiêu tán. Năm Kỷ Hợi (1779), Nặc Ong Vinh trị nước thất chính lịnh, ([45][45]) anh em Chiêu trùy Mô chiếm phủ Phong Xoài, Vị Bôn Sưu chiếm phủ La Vách rồi xin binh Gia Định đánh giết chết Nặc Ong Vinh và lập con của Nặc Ong Ton là Nặc Ong [16a] In lên làm vua. In mới vừa 8 tuổi nên phải dùng Chiêu trùy Mô làm phụ chính.

Năm Tân Sửu (1781), vua Xiêm là Phi nhã Tân chia quân làm 3 đạo, sai con là Chiêu Nỗi đánh phủ La Vách, Phi nhã Chất Tri đánh phủ Lò Gò Vật, Phi nhã Sô Sĩ đánh lộ Phong Xoài. Cao Miên xin viện binh, triều đình sai quan Điều khiển Thoại Ngọc hầu đi cứu viện. Tháng 3 mùa xuân năm Nhâm Dần (1782), Thoại Ngọc hầu cùng tướng Xiêm giảng hòa rồi cùng phân địa giới nước Xiêm La, Chân Lạp, xong thì đem quân trở về. Năm Quý Mão (1783), cựu thần của Nặc Ong Vinh là Ốc nha Nhum Rạch Bèn từ nước Xiêm trở về giết Chiêu trùy Mô và Tham Đích Sưu, Nhum Rạch Bèn còn tự xưng là Chiêu trùy ([46][46]).

Năm ấy có người Đồ Bà là Toàn Sét Cháu Voi Vuốt khởi loạn, Nặc Ong In và Chiêu trùy Bèn chạy sang Xiêm La, vua Xiêm thấy Nặc Ong In đang tuổi nhỏ, chưa thể kham được việc lớn nên lưu lại nuôi ở Xiêm rồi sai Chiêu [16b] trùy Bèn giữ chức A phi phù biệt trấn thủ đất Cao Miên. Năm Giáp Dần (1794), Chiêu trùy Luyện giết được Toàn Sét, viện binh của Xiêm La quét sạch luôn bè đảng quân Đồ Bà. Năm Ất Tỵ, (1785) ngụy Đô úy Trấn của Tây Sơn đánh cướp phủ Nam Vang ([47][47]). Ngày 27 tháng 5 năm Giáp Dần (1794), quân Xiêm đưa Nặc Ong In về nước khôi phục lại ngôi vua, Chiêu trùy phụ chính, còn quan Phù biệt Bèn về trấn Bắc Tầm Bôn ([48][48]). Năm Bính Thìn (1796), Nặc Ong In chết, con là Nặc Ong Chăn kế vị.

Nước Cao Miên vốn là phiên thần của ta từ rất nhiều đời, họ luôn giữ trọn chức phận chưa hề thất lễ, nhưng từ khi nước ta gặp vận suy vi nửa chừng, Tây Sơn gây rối, nước Cao Miên gặp rất nhiều khó khăn mà ta chưa rảnh rang để cứu giúp. Năm Tân Dậu (1801), quan quân lấy lại đất thần kinh, năm Nhâm Tuất (1802), dẹp hết loạn lạc, đến năm này Nặc Ong [17a} Chăn sai sứ đến xin được kế ngôi. Ngày 2 tháng 9 mùa thu, vua phong cho Nặc Ong Chăn làm Quốc vương Cao Miên rồi sai Hữu tham tri bộ Binh là Tĩnh Viễn hầu Ngô Nhơn Tĩnh, Ký lục dinh Vĩnh Trấn là Đàn Ngọc hầu Trần Công Đàn làm Chánh phó sứ mang sắc phong và ấn mạ vàng có núm hình lạc đà đến nước Cao Miên, làm lễ sách phong, rồi định ra lệ cống, lấy năm Đinh Mão (1807) làm đầu, sau đó cứ 3 năm một lần, vào các năm Tỵ, Thân, Hợi, Dần, thì dâng cống. Vật cống gồm: 2 thớt voi đực (mỗi con cao trên 5 thước ta), 2 sừng tê, 2 ngà voi, 50 cân đậu khấu, (từ đây trở xuống mỗi thứ thêm 5 cân) 50 cân sa nhân, 50 cân sáp vàng, 50 cân tử ngạnh, 50 cân trần hoàng, 20 vò ô tất. Sứ bộ gồm một Chánh sứ, 1 Phó sứ, 2 thông ngôn, 6 tùy tùng, cộng [17b] lại là 10 người. Đến kỳ dâng biểu và vật cống, vào tháng 4 đoàn sứ phải đến thành Gia Định để trình kiểm phẩm vật, sau khi được xem xét xong thì ủy cho người dẫn theo đường trạm hộ tống đến kinh để nộp, còn những việc cung đốn khoản đãi thì đã có cơ quan bộ Lễ cứ theo lệ mà làm.

Ngày 12 tháng Giêng mùa xuân năm Mậu Thìn (1808), niên hiệu Gia Long thứ 7 (Đại Thanh Gia Khánh thứ 13), đổi trấn Gia Định ra thành Gia Định, rồi lệnh cho Khâm sai chưởng Chấn võ quân là Nhơn Quận công Nguyễn Văn Nhơn làm Tổng trấn và Khâm sai Thượng thư bộ Hộ [thần] đây là An Toàn hầu Trịnh Hoài Đức làm Hiệp tổng trấn (Phó tổng trấn), đồng thời ban cho ấn bạc có núm hình sư tử và được dùng mực son. Trấn thành đóng tại huyện Bình Dương thuộc phủ Tân Bình [18a]. Ngày mùng 4 tháng 10 mùa đông năm Canh Ngọ (1810), niên hiệu Gia Long thứ 9 (Đại Thanh Gia Khánh thứ 15), vua hạ chiếu sai Tả dinh Đô thống chế Thần sách quân là Phong Đăng hầu Lê Văn Phong và Ký lục trấn Định Tường là Minh Đức hầu Bùi Văn Minh lãnh 3000 quân và thuyền chiến đến trấn đóng ở vùng Tân Châu để canh phòng biên ải.

Trước đó, vua Xiêm đưa em của Nặc Ong Chăn là Nặc Ong Nguyên, Nặc Ong Yêm và Nặc Ong Đuông ([49][49]) về Cao Miên rồi lệnh cho Nặc Ong Chăn phải chia đất ấy ra cho Nguyên làm Nhị vương và Yêm làm Tam vương. Nặc Ong Chăn còn chưa chịu thi hành thì vừa gặp lúc tháng 8 niên hiệu Gia Long thứ 8 (1809), vua Xiêm gửi trát nói rằng Xiêm La đang cùng Miến Điện (tục gọi là Ô Đỗ hoặc là Phù Ma) ([50][50]) đánh nhau ở vùng Xa Lãng, một địa [18b] phương trên đất Xiêm, nên phải kêu gọi một vạn binh Cao Miên, nhưng phải có đủ 3000 binh đi trước theo đường biển đến thành Vọng Các (tên cũ của thành vua Xiêm là Mang Cóc, Vọng Các là tên do nước ta gọi) để chờ lệnh sai khiến. Nhưng số lính chưa kịp xuất phát thì vào ngày 13 tháng ấy, Ốc nha Cao la hâm Mang ([51][51]) và Ốc nha Ca tri ([52][52]) Bèn (hai người này vốn phụng mệnh vua Xiêm làm phụ thần cho vua Cao Miên) mưu làm phản, chúng bị Nặc Ong Chăn giết, đồ đảng là Đê Đô Minh chống lại và chiếm lấy phủ Phong Xoài. Quan A phi phù biệt ([53][53]) Bèn lo đắp đồn Tầm Bôn có ý muốn hại Nặc Ong Chăn, do đó việc canh phòng biên ải xa nói trên là một cách gây thanh thế để giúp đỡ Cao Miên vậy.

Ngày mùng 8 tháng 11 mùa đông, vua ra chiếu cho Khâm sai Tổng trấn Chưởng Chấn võ quân Nhơn Quận công ([54][54]) đích thân đem đại binh [19a] đi kinh lược Cao Miên để gây thế bảo hộ cho nước ấy.

Lúc ấy tướng Xiêm là Phi nhã Rồng Mang, Phi nhã Na Trật và Phi nhã Ba Lạc Ân Gò Rạch đem đại binh đến đóng ở Bắc Tầm Bôn. Nặc Ong Chăn xin binh bảo hộ. Ngày mùng 7 tháng 12, Nhơn Quận công tiến quân đến dinh La Vách (chỗ ở của Quốc vương Cao Miên) để trù tính việc ngoài biên, quân Xiêm thấy thế nên đóng yên không dám khinh động. Ngày 14 tháng Giêng niên hiệu Gia Long thứ 10 (1811), Nhơn Quận công đem quân về thành Gia Định.

Ngày 16 tháng 12 mùa đông năm Tân Mùi (1811), niên hiệu Gia Long thứ 10 (Đại Thanh Gia Khánh thứ 16), Nặc Ong Nguyên đang đêm trốn qua trú ẩn ở phủ Phủ Lật, phần nhiều các tội thần của Cao Miên đang ẩn trốn đều theo về với y. Nặc Ong Chăn sai bọn Rạch Y Giá Thiên lần lượt đến đón, Nặc Ong Nguyên chống lệnh, lại còn bắt giữ bọn Thiên [19b], mặt khác lo sửa sang binh bị và cho đòi lại đất 3 phủ Ca Gò, Phủ Trông ([55][55]) và Phủ Trong. Nặc Ong Chăn rất lo sợ bèn đem việc ấy khai báo. Thành Gia Định ủy cho trấn thủ Định Tường là Chưởng cơ Thoại Ngọc hầu Nguyễn Văn Thoại đem 500 (?) quân đến dinh La Vách giả vờ đốn gỗ, thực ra đó là kế sách bảo hộ Cao Miên. Lúc ấy vua Xiêm sai thêm Phi nhã Nhum Ba Lạc làm Đại tướng quản lĩnh binh tướng của bọn Phi nhã Thái Nam đem quân tiếp đến Bắc Tầm Bôn, khí thế rất hung hăng.

Ngày 24 tháng 3 mùa xuân năm Nhâm Thân (1812), niên hiệu Gia Long thứ 11 (Đại Thanh Gia Khánh thứ 17), tướng Xiêm Phi nhã Nhum ([56][56]) Ba Lạc chia quân ra làm 2 đạo thủy lục tiến thẳng đến dinh La Vách, Thoại Ngọc hầu đem quân binh ngăn lại khiến chúng không dám xâm phạm. Ngày 28, Nặc Ong Chăn [20a] đưa môn quyến xuống thuyền rồi giục bọn bề tôi chạy xuống đạo Tân Châu, em của Nặc Ong Chăn là Nặc Ong Yêm và Nặc Ong Đuông thì trước đêm 29 đã đầu hàng quân Xiêm, gặp lúc ấy viện binh của Gia Định vừa đến, hộ tống đưa Nặc Ong Chăn về thành (Tân Châu). Thoại Ngọc hầu thống quản đồn Oai Viễn, còn Dung Ngọc hầu Nguyễn Văn Dung thì đóng ở xứ Lò Yêm, trấn thủ Vĩnh Thanh là Tường Quang hầu Lưu Phước Tường đóng ở đạo Châu Đốc để gìn giữ nơi địa đầu. Quân Xiêm đóng tạm tại Vũng Long, niêm phong kho tàng, sửa sang thành lũy, không có ý tiến quân.

Ngày 15 tháng 4, quan quân bố trí Nặc Ong Chăn ở tại một ngôi dinh thự bên bờ sông cái cạnh phía đông thành (Tân Châu), còn bọn tùy tùng như bề tôi, binh lính, trai gái lớn nhỏ đều được cấp tiền gạo đầy đủ.

[20b] Ngày 15 tháng Giêng mùa xuân năm Quý Dậu (1813), niên hiệu Gia Long thứ 12 (Đại Thanh Gia Khánh thứ 18), nước Xiêm sai sứ là Phi nhã A Ha Mặc và Phi nhã Lạc Đô Tha Sá Thông Sừ đến thành Gia Định trình quốc thư rồi theo đường trạm đến kinh đô bái kiến. Đại để trong thư viết: Nặc Ong Chăn với Nặc Ong Nguyên vốn tình thân anh em ruột thịt nhưng họ đã không có lòng hiếu hữu. Khi Nặc Ong Nguyên chạy trốn qua phủ Phủ Lật để chỉ xây dựng kế phòng thân, thì Nặc Ong Chăn lại cho quân truy nã rất gắt, gây thành cuộc đánh giết lẫn nhau. Chỉ vì sợ tổn thương tình máu mủ mà lại phụ nghĩa vun bồi của hai nước (Xiêm - Việt) mình, nên nước chúng tôi mới sai trọng thần thân tín đến nơi để hòa giải, ngờ đâu Nặc Ong Chăn bỏ nước mà đi, đành phải niêm phong kho tàng, sửa sang thành lũy để đợi y trở về.

[21a] Ngày 15 tháng 2, vua hạ chiếu cho Tổng trấn thành Gia Định là Chưởng Tả quân Bình Tây tướng quân Duyệt Quận công Lê Văn Duyệt và Hiệp tổng trấn Thượng thư bộ Công là Tĩnh Viễn hầu Ngô Nhơn Tĩnh rằng: Trong thư của vua Xiêm, lý tình rất thuận hòa đôn hậu, các khanh nên sửa soạn thuyền bè binh bị để cùng sứ nước Xiêm đưa Nặc Ong Chăn về nước.

Ngày mồng 3 tháng 4, Duyệt Quận công và Tĩnh Viễn hầu thống lãnh thuyền chiến và 13.000 quân cùng với sứ nước Xiêm là bọn Phi nhã A Ha Mặc hộ tống Nặc Ong Chăn lên đường. Vua cấp cho tiền đi đường là 5.000 quan, ban lúa kho là 20.000 phương và bạc thỏi trị giá 10.000 quan để chi dùng. Ngày 14, quan quân đến dinh La Vách cùng hội kiến với các tướng Xiêm là Phi nhã Phì Sai Phủ Liên Tra và Phi nhã Phì Phạt Phạt Cô Sả để sửa sang sắp đặt mọi việc.

[21b] Ngày 18 tháng 7, quân ta đắp xong thành Nam Vang rồi rước Quốc vương đến ở, tướng nước Xiêm bàn giao kho tàng thành lũy xong rồi triệt binh về nước. Các em của Quốc vương là Nguyên, Yêm và Đuông thì đã ngầm trốn sang Xiêm La từ trước. Tháng 8, giao Chưởng cơ Thoại Ngọc hầu cùng 1.500 quân ở lại để bảo hộ nước Cao Miên. Ngày 16, Duyệt Quận công và Tĩnh Viễn hầu dẫn toàn quân khải hoàn. Vậy là nhờ vào oai phúc của triều đình mà Xiêm La phải kính phục, từ đó tình giao hảo láng giềng càng tốt đẹp, nước Cao Miên cũng do đó mà được yên ổn.

Ngày 26 tháng 8, dựng đài An Biên ở xứ Ngỗi Tràng Oa, trên đài dựng nhà Nhu Viễn, đến những ngày lễ như Tết, Trừ tịch, Đoan dương, Vạn thọ, ngày rằm mồng một thì vua tôi nước ấy đến trước tiền đường chiếu theo nghi thức để làm lễ vọng bái.

Ngày 25 tháng 9, vua ban dụ cho Chưởng cơ Thoại Ngọc hầu Nguyễn Văn Thoại và Tham tri bộ Binh là Đàn Ngọc hầu Trần Văn Đàn đóng quân giữ thành Nam Vang để bảo vệ cho nước Cao Miên. Ngày mùng 5 tháng 10, đồn Lò Yêm được xây xong, lấy đó làm nơi chứa tiền và lương thực cho các súc. Ngày mùng 2 tháng 12, vua ban triều phục cho Nặc Ong Chăn như khăn bịt đầu nạm vàng, áo mãng bào màu hồng và đai lưng có đính ngọc.

Ngày mùng 6 tháng 7, mùa thu năm Bính Tý (1816), niên hiệu Gia Long thứ 15 (Đại Thanh Gia Khánh thứ 21), vua ban quan phục cho các quan văn võ nước Cao Miên. Từ đó y phục, đồ dùng của quan dân nước Cao Miên đều bắt chước theo phong tục Tàu ([57][57]), các man tục như mặc áo xỏ qua đầu, dùng vải vận làm quần (xà rong), quì dài mà lạy, bốc cơm ăn đều đổi bỏ cả.

[22b] CƯƠNG VỰC CỦA TOÀN THÀNH

Gia Định là đất Chân Lạp xưa, phía đông nam giáp với biển, có tất cả 17 hải cảng lớn, đó là: Xích Ram, Tắc Ký, Cần Giờ, Đồng Tranh, Lôi Lạp (Soi Rạp), Cửa Đại, Cửa Tiểu, Ba Lai, Băng Côn (Cung), Ngao Châu, Cổ Chiên, Ba Thắc, Mỹ Thanh, Hào Bàn (Gành Hàu), Long Xuyên, Kiên Giang và Hà Tiên, còn các cửa nhỏ thì nhiều gấp đôi. Tuy vậy các cửa này do bùn cát nên khi mở khi lấp, khi cạn khi sâu, dời đổi bất thường. Ở đây sông ngòi lại chằng chịt như mắc cửi, nếu không phải là thổ nhân quen thuộc thì ắt bị lạc hố, lộn bờ. Duy cảng Cần Giờ phía đông Nam có núi Thát Sơn (tục gọi là núi Gành Rái) che quanh ở ngoài, Thuyền Úc (tục gọi là Vũng Tàu) là vũng lớn ở trong, lòng cảng vừa sâu vừa rộng, bốn mùa tám hướng gió đều yên ổn, không lo nạn cát ẩn và đá ngầm cũng như sóng to gió cả, [23a] các nước đều khen đây là một hải cảng tốt bậc nhất. Phía ngoài biển của núi Thát Sơn có chỗ giới hạn nước quợn tụ, gọi là hải chẩn ([58][58]) (tục gọi là giáp nước), lúc mùa gió nam thì giáp nước dời sang bắc, lúc mùa gió bắc thì giáp nước dời vào nam, thuyền bè đi lại từng biết giới hạn ấy thì sẽ tránh trước, khỏi gặp tai nạn.

Phía tây bắc giáp với vùng sơn man Cao Miên, phía tây từ Lào đến phủ Sơn Bô của Cao Miên toàn núi non trồi hụp, xuyên qua ruộng đồng eo đất, chạy ven Đại Giang của Cao Miên (tục gọi Sông Lớn) từ xa mà đến, rồi giữa đất bằng bỗng nổi lên ngọn núi Bà Đinh (Đen), chằm ao giăng ngang, cỏ tạp bùn sâu, đường lát bằng cây cũng không đi được. Từ đó mà chuyển qua phía bắc thì núi rừng tốt tươi trải dài ngàn dặm, tại đó các động sách của dân man chia nhau để ở và chịu tô thuế.

Phía bắc giáp với núi Thần Mẫu (tục gọi là mũi Bà Kéc) ([59][59]) của trấn Bình Thuận. Từ đông qua bắc núi rừng [23b] trùng điệp kéo dài cả ngàn dặm, ở đó có những sóc, mường, động, sách của các dân tộc man đã thuần thuộc, trong những dãy núi cao ở phía bắc còn có những tộc người mọi rừng chưa được thấm nhuần thanh giáo. Phía nam giáp với Cao Miên, có 4 đạo trấn giữ là Quang Hóa, Tuyên Oai, Tân Châu, và Châu Đốc, lấy sông Tiền, sông Hậu làm hào tự nhiên và kéo dài tiếp với đất 5 phủ của trấn Hà Tiên và Lình Quỳnh, Chơn Giùm, Sài Mạt, Cần Vọt, và Vũng Thơm.

Thành Gia Định này từ đông sang tây cách nhau 352 dặm rưỡi, đi hết 5 ngày đường, từ nam đến bắc cách 742 dặm rưỡi, hết 10 ngày đường. Từ thành lớn Gia Định đến kinh đô (Huế) cách 2340 dặm rưỡi, hết 30 ngày đường, đến biên giới Cao Miên cách 447 dặm, hết 7 ngày đường. Thành có nhiệm vụ trông coi các việc binh dân, thuế dịch, và hình án của năm trấn: Phiên An, Biên Hòa, Vĩnh Thanh, Định Tường và Hà Tiên, đồng thời còn kiêm lãnh đạo từ xa thêm trấn Bình Thuận ở phía bắc. Phàm việc binh thì do thành chỉ huy, còn các việc thuế dịch, hình án khác [24a] thì các trấn tự sắp đặt.

Đất Gia Định là nơi có núi sông hiểm yếu, quân mạnh lương nhiều, dân giỏi nghề chèo thuyền, sai khiến được các man dân, khống chế được cả hai nước Xiêm La và Chân Lạp, đây còn là nơi tụ hội người của các nước nên đã làm thành một miền Nam hùng mạnh của nước Việt ta.

 

 


([1][1])        9 châu (xem chú thích Cửu châu ở trước).

([2][2])        Hạ Trùng: Thiên Trang tử, Thu thủy chép: Hạ trùng bất khả dĩ ngữ vu băng giả đốc ư thời dã, nghĩa là: con sâu cái trùng chỉ sống có mùa hạ không thể nói tới băng tuyết mùa đông, luôn chịu thời gian khống chế.

([3][3])        Tỉnh oa: Theo Hậu Hán thư: Công Tôn Thuật xưng đế đất Thục, Ngỡi Ngao bảo Mã Viện đến dò xét. Mã Viện nói với Ngỡi Ngao rằng: "Tử Dương (Thuật) là con ếch ngồi đáy giếng, mà cuồng vọng tự tôn tự đại, chi bằng ta quyết ý đi về Đông".

([4][4])        Ngao túc: Theo Từ Nguyên: Sách Sử ký, bổ Tam Hoàng ký: "Họ Cung Công đánh Chúc Dung thua trận nổi giận húc đầu vào núi Bất Chu làm trụ trời gãy. Bà Nữ Oa phải chặt đứt bốn chân con ngao (một loại rùa) để làm bốn cột chống".

([5][5])        Hồng trảo: Hồng trảo do câu nói xưa Hồng trảo ấn tuyết nê, tức "móng chim hồng còn in trên tuyết", ý nói việc xưa còn in dấu tích.

([6][6])        Giao Chỉ (交趾): Thông thường chỉ quận huyện phía nam trong các đời Tần, Hán, Tùy, Tống. Chữ chỉ (趾) đồng nghĩa chữ túc (足), tức cái chân. Sách Trung Quốc nói người Nam Man khi ngủ đầu ló ra ngoài hai chân giấu bên trong và giao lại cho nên mới gọi là Giao Chỉ. Có sách nói người Giao Chỉ khi đi, hai đầu ngón chân cái giao đụng nhau là nhầm lẫn. Từ Giao Chỉ thường chỉ miền Bắc bộ của Việt Nam. Thật ra chữ Giao Chỉ trong đoạn văn nầy của GĐTTC không phải chỉ riêng quận Giao Chỉ của các đời Tần, Hán tức nước Việt Nam thời xa xưa mà theo sách Đường nghiêu, Nam phủ Giao Chỉ thì Giao Chỉ là dãy đất phía nam nằm ngoài Ngũ Lĩnh của Trung Quốc.

([7][7])        Trường Giang: Nguyên văn chỉ viết trơn chữ Giang (江), vì sông Trường Giang khi xưa gọi một tiếng là Giang (江) hay Giang thủy (江水). Nhân do đời sau gọi chung các sông lớn là giang, sợ có lầm lộn, người ta phải gọi sông Giang là Trường Giang (長江).

([8][8])       Việc hóa dục phương Nam: Nguyên văn viết Bình sất Nam ngoa (平抶南訛). Chữ ngoa (訛) đồng nghĩa với hóa (化). Bình sất Nam ngoa là "sắp xếp lại việc hóa dục phương Nam". Điển trong Kinh Thi Bình sất nam ngoa. Truyện: "Bình tập Nam phương hóa dục chi sự".

([9][9])        Đồ Sơn (塗山): Là nơi vua Vũ đi tuần thú phương Nam hội chư hầu, mà cũng là nơi vua Vũ cưới Đồ Sơn nữ. Về vị trí địa lý có ba thuyết: a. Nay thuộc huyện Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang; b. Nay thuộc Ba Huyện, tỉnh Tứ Xuyên; c. Nay thuộc huyện Hoài Viễn, tỉnh An Huy. Sách Thanh nhất thống chí cho rằng vua Vũ cưới vợ ở núi Đương, Đồ Thọ Xuân chớ không phải núi Đồ Sơn ở Giang Châu.

([10][10])      Hà Nam tỉnh (河南省): Ở Trung bộ nước Trung Quốc, đại bộ phận đất đai tỉnh nầy là ở phía nam sông Hoàng Hà cho nên mới gọi là Hà Nam (ở phía nam sông Hoàng Hà). Hà Nam xưa gọi là Dự Châu, gọi tắt là Dự. Vì Dự Châu ở ngay trung tâm của Cửu Châu nên cũng còn gọi là Trung Châu (cũng gọi là Biện Lương).

([11][11])      Nguyên văn bản in kèm bản dịch của Nguyễn Tạo chép 1.164 năm là nhầm; thời khoảng nầy đúng là 4.164 năm.

([12][12])     Mông Cổ (蒙古): Vị trí ở phía bắc nước Trung Quốc, Đông giáp tỉnh Đông Cửu, Tây giáp Tân Cương, Nam giáp Hà Bắc, Sơn Tây, Lũng Tây, Cam Túc. Bắc giáp vùng băng giá Tây Bá Lợi Á (Sibérie) của nước Nga. Thời mạt Tống, Mông Cổ xưng quốc hiệu là Nguyên, Nam hạ thống nhất nước Trung Quốc, sau bị Châu (Chu) Nguyên Chương đánh bại lập nhà Minh. Kể từ khi nhà Đại Thanh thống nhất nước Trung Quốc, Mông Cổ tùng phục nhà Thanh. Nay Mông Cổ là một quốc gia độc lập (từ năm 1921).

([13][13])      Mãn Châu (滿洲): Mãn Châu nguyên là tên một bộ tộc, sau gọi luôn thành tên đất. Thật ra bộ tộc nầy ở phía đông của Trường Bạch sơn tại Ngạc Đa Lý Thành, vốn là bộ tộc Nữ Chân của Trung Quốc. Thái Tổ nhà Thanh từng gọi tên nước là Kim, tức Hậu Kim, đến đời Thái Tông mới gọi là Đại Thanh, từ phương bắc vào chiếm Trung Quốc. Nay là một vùng đất của Trung Quốc.

([14][14])      Tây Dương (西洋): Có hai nghĩa: Một, chỉ chung các nước Thái Tây, tức Âu Mỹ, không phải nghĩa trong ngữ cảnh đoạn nầy; Hai, là chỉ quần đảo Nam Dương (Indonésia). Xét sách Minh sử, Trịnh Hòa truyện, vua sai Trịnh Hòa và Vương Cảnh Hoằng thông sứ với Tây Dương. Xét chuyện Trịnh Hòa 7 lần đi sứ xuống miền Tây Dương thì phần lớn lãnh thổ Tây Dương thuộc Nam Dương quần đảo (Indonésia) ngày nay.

([15][15])      Thổ Lỗ (土魯): Tức Thổ Lỗ Phiên (土魯潘) là vùng đất tại Tân Cương mà đời Nguyên hay phong các Thân vương cai trị nơi đó. Đời Minh đặt thành Ngoại Phiên. Thanh sơ đặt thành Nội Phủ. Cuối đời Thanh thuộc Trực Lệ sảnh thuộc Tân Cương. Nay đổi thành huyện trực thuộc Địch Hóa.

([16][16])      Lưu Cầu (琉球): Vị trí phía nam Nhật Bổn (Bản), đông bắc Đài Loan, bao gồm 50 hòn đảo ở Xung Thằng. Đời Thanh, Lưu Cầu giao thiệp với Trung Quốc. Hoàng đế nhà Thanh từng phong cho Tù trưởng Lưu Cầu làm Trung Sơn vương. Sau toàn thể quần đảo nầy thuộc Nhật Bổn. Đời Quang Tự nhà Thanh, Nhật Bổn chiếm nước nầy đặt thành huyện Xung Thằng. Sau đệ nhị thế chiến, đảo nầy do Mỹ cai quản một thời gian.

([17][17])      Lữ Tống (呂宋): Tức Luzon, là đảo lớn nhất của quần đảo Philippines, diện tích 106.110 km2. Trong đảo có nhiều núi non, dài theo mé biển đất đai phì nhiêu. Thủ đô là Manila.

([18][18])      Thời xưa khi chưa có chữ, sử quan thường dùng dây thắt nút làm ký hiệu để chép sự việc, dĩ nhiên từ rất hạn chế, không thể ghi được đầy đủ.

([19][19])      Chân Lạp (真臘): Chân Lạp (Chenla) là tên người Trung Quốc đời Tùy và đầu đời Hán gọi người Khơme, nhưng thật ra cũng không có gì chính xác. Đời Hán người Trung Quốc gọi Khơme là Phùnam (Funan). Đến đời Nguyên lại gọi Cát Bột Trí hay Cam Bột Trí. Từ niên hiệu Vạn Lịch về sau gọi là Campuchia. Tên nước Chân Lạp lần đầu tiên thấy chép trong truyện Chân Lạp ở sách Tùy thư, ghi ban đầu là thuộc quốc của Phùnam. Còn theo Tân Đường thư ở đoạn Hạ Chân Lạp truyện thì: "Khoảng sau đời Thần Long (705-706) Chân Lạp chia làm hai bộ phận: Phía bắc có nhiều núi non gọi là Lục Chân Lạp. Nửa nước phía nam, men theo bờ biển, đất bùn đầm lầy gọi là Thủy Chân Lạp. Đất đai Thủy Chân Lạp (Chenla of the Water or Lower Chenla) bao gồm đất đai cũ của Phùnam, thủ đô là Vyadhapura, nay là Akơr Bonei. Đất đai của Lục Chân Lạp (Chenla of the Land or Upper Chenla) bao gồm đất Chân Lạp cũ, thủ đô ở Sambhor, bao gồm vùng trung du sông Mêkông và từ núi Dagretk trở về phía bắc."

([20][20])      Nặc Ong Chăn tức Neac Ang Chan, em của vua Ponhya Nu, đảo chánh năm 1642 giết cả triều thần. Để lấy lòng nhóm Hồi giáo Cham-Malay giúp mình lên ngôi, Chăn đổi tên Ibrahim, cưới một người Mã Lai làm vợ.

([21][21])      Nặc Ong Chăn là vua của Chân Lạp, khi xâm phạm Việt Nam đã đóng binh tại thành Mô Xoài (Bà Rịa sau nầy). Vùng Thủy Chân Lạp của Cao Miên vào thời khoảng 1658 nầy, phía bắc đất Phù Nam cũ, tức phía nam Chiêm Thành gần tới Khánh Hòa, Phú Yên, rất khớp với lời chú thích của Trịnh Hoài Đức: "Trấn Biên tức ải địa đầu của đàng Trong Nam hà là Phú Yên" chớ chưa phải Biên Hòa. Khớp thứ hai nữa là quân phải đi trong hai tuần tức 20 ngày mới tới thành Mô Xoài (Bà Rịa) đánh bắt Nặc Ong Chăn.

([22][22])      Hành tại: Chỗ vua chúa đi tuần thú tạm ở gọi là hành tại, cung đang ở gọi là hành cung.

([23][23])      Hộ tống về nước: Tức đưa về nước Chân Lạp trên Nam Vang.

([24][24])      Nước Cao Miên: Nước Cao Miên nầy là nước Lục Chân Lạp do vua Nặc Ong Non cai trị.

([25][25])      Niên hiệu Cao Miên.

([26][26])      Tiệp văn: Sớ tâu tin thắng trận lên vua.

([27][27])      Có người cho gọi đủ là Giản bộ Trại, nhưng vì chữ giản柬và chữ đông東tự dạng rất giống nhau nên có nhiều sách đã chép là Đông Phổ hoặc Đông Phố.

([28][28])      Dương Ngạn Địch và Trần Thắng Tài.

([29][29])      Vương Tuấn đời Tấn dùng bè lửa đốt cháy xích sắt của quân Ngô giăng ngang sông, khiến Ngô chúa Tôn Hạo phải đầu hàng (Tam Quốc Chí).

([30][30])      Không rõ Nguyễn Hữu Hào sanh năm mấy, chỉ biết ông tạ thế năm 1713.

([31][31])      Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh (禮成候阮有鏡) sanh năm 1650 mất năm 1700; quê làng Giạ Mưu (có sách chép: Gia Miêu), huyện Tống Sơn, Thanh Hóa (có sách nói Quảng Bình).

([32][32])      Nguyên văn Khổn súy (閫帥). Khổn là cổng thành ngoài. Sách Sử ký có câu: "Khổn dĩ nội quả nhân chế chi, khổn dĩ ngoại tướng quân chế chi", nghĩa là: "Từ cổng thành ngoài trở vào thì quả nhân coi xét, từ cổng thành ngoài trở ra thì tướng quân coi xét". Nay gọi vị quan thống lãnh đại binh ở cõi ngoài, xa kinh đô là Chuyên khổn hay Khổn súy.

([33][33])      Bởi nhũ danh của Mạc Thiên Tứ là Tông cho nên tước phong cho ông là Tông Đức hầu.

([34][34])      Chữ Nôm nguyên văn viết茫đọc là mương, còn chữ mường phải viết là q nhưng đọc là "mường" mới hợp nghĩa.

([35][35])      Nguyên văn chỗ này có bản chép Gò Bắp (r hay s) có bản chép Gò Chua (墥珠). Nguyễn Tạo ghi là Gò Vấp chưa đúng, gây hiểu nhầm Gò Vấp ở Gia Định, trong khi Gò Bắp ở đây thuộc Tây Ninh ngày nay. Có người chép là Gò Vầu e không ổn, vì không thấy tự điển Nôm nào có chữ Vầu cả. Cả hai cuốn tự điển chữ Nôm của Yonosuke Takeuchi và Vũ Văn Kính đều ghi là bắp, chữ r cũng còn viết là s.

([36][36])      Tầm Đôn - Soi Rạp: Đất thuộc Thủy Chân Lạp.

([37][37])      Định Viễn châu (定遠洲): Tên cũ đất Vĩnh Long đời đàng cựu gồm hai huyện Vĩnh Bình tức Long Hồ Trà Vinh và Vĩnh Trị tức Vũng Liêm.

([38][38])      Như Khổn súy (xem chú thích phần trước).

([39][39])      Trà Vinh - Ba Thắc: Đất thuộc Thủy Chân Lạp.

([40][40])      Tầm Phong Long: Đã chú thích ở trước.

([41][41])      Tầm Bao (尋u): Là vùng đất chạy dài từ Long Hồ qua Sa Đéc lên tận Châu Đốc. Có lẽ Tầm Bôn cũng là đất nầy.

([42][42])      Cù lao Giêng: Đã chú thích ở trước.

([43][43])      Rạch Giá (瀝架): Giá đây không phải là cọng giá mà là một loại tràm bông trắng, ong ăn bông nầy cho sáp thật trắng.

([44][44])      Phi nhã Chất Tri là Phya Chakkri, Đại tướng, sau trở thành vua Xiêm (Phật vương) Rama I. Dòng họ Chakkri làm vua Thái Lan cho tới ngày nay. Các vua đều xưng là Rama I, Rama II v.v...

([45][45])      Nguyên văn thất chính (失政) là nhà vua trị nước không có chính lịnh, không đúng phép chính trị làm mất lòng dân.

([46][46])      Chiêu trùy: Là tên gọi một chức quan to của Khơ me như Phụ chính đại thần.

([47][47])      Đoạn này có thể Trịnh Hoài Đức nhắc lại chuyện cũ (Bt).

([48][48])      Battambang.

([49][49])      Nguyên văn viết匿螉墩đọc là Nặc Ong Đuông (chữ墩có nghĩa là con đuông, còn viết là F).

([50][50])      Ô Đỗ Phù Ma (烏肚扶魔): Tức nước Miến Điện, nay đổi là Myanma, người phương Tây gọi nước nầy là Burma, Barma, Birma, đều là do từ Brahma chuyển âm thành. Nước Phù Ma nầy phía đông bắc giáp với Vân Nam, Tây Tạng của Trung Quốc, phía tây giáp Ấn Độ và Pakixtan, phía đông giáp Thái Lan và Lào, phía nam giáp vịnh Bengal. Thời xưa, Phù Ma và Xiêm thường xảy ra chiến tranh biên giới. Còn Ô Đỗ tức Bụng Đen là do người Miến Điện thích xâm bụng ngực bằng chàm đen các hình tượng thường liên quan đến sự tích Phật giáo.

([51][51])      Ốc nha Cao la hâm (屋牙高羅歆): Ốc nha Cao la hâm không phải tên vị Ốc nha là Cao La Hâm. Ốc nha Cao la hâm là tên một chức quan to ở triều đình Khơ me được mặc áo đỏ, thường phụ trách bộ hải quân. Cao la hâm là đọc trại tiếng Khơ me Kralahâm có nghĩa là màu đỏ.

([52][52])      Ốc nha Ca tri (屋牙伽知): Ốc nha Ca tri cũng là tên một chức quan của Cao Miên.

([53][53])      A phi phù biệt (阿丕扶別): A phi phù biệt cũng là một chức quan to của Cao Miên, tương đương như Nhiếp chính vương.

([54][54])      Tổng trấn Chưởng chấn võ quân Nhơn Quận công (總鎮掌振武軍仁郡公): Đây không phải Phương Quận công Đỗ Thanh Nhơn, chúa Đông Sơn, mà là Tổng trấn thành Gia Định Nguyễn Văn Nhân, hay đọc theo trong Nam là Nguyễn Văn Nhơn.

([55][55])      Phủ Trông (府x): Bản lưu trữ ở VHN chép x, còn bản in kèm bản dịch của VSH chép là yvà đọc là lùng. Cả hai chữ x và yđều không thấy chép trong các từ điển chữ Nôm. Đọc lùng không đúng vì chữ lùng tức cỏ lùng phải viết là |, đọc trông cũng không đúng vì trông phải viết }~hoặc |. Vậy xin đọc tạm là Trông.

([56][56])      Nguyên văn viết W tra không thấy ở các tự điển chữ Nôm. Đọc Nhẫm cũng không ổn, vậy xin đọc tạm Nhum.

([57][57])      Hoa phong (華風): Trong GĐTTC, từ Hoa nhân chỉ người Việt, Đường nhân chỉ người Hoa, nhưng từ Hoa phong lại chỉ phong tục của người Trung Quốc. Ở ngữ cảnh nầy, cách ăn mặc của người Khơ me bắt chước phong hóa người Hoa, tức bắt chước trực tiếp cách ăn mặc của người Việt ta, vì người mình trước đó đã bắt chước ăn vận theo phong hóa Trung Quốc.

([58][58])      Hải chẩn (海畛): Nguyên văn bản VHN viết ¤ không thấy trong từ điển chữ Hán, chữ Nôm. Nguyên văn in kèm bản dịch của nhóm dịch giả VSH viết ¤ cũng không thấy trong tự điển chữ Hán, chữ Nôm. Theo chúng tôi đây là chữ chẩn畛bị sao chép nhầm. Chữ chẩn (畛) nầy có nghĩa là bờ ruộng, là lằn ranh phân chia các thửa ruộng. Trong ngữ cảnh nầy, chữ chẩn là lằn ranh phân chia các luồng nước. Vậy hải chẩn là lằn ranh phân chia luồng nước trên biển, coi như "bờ nước" trên biển vậy.

([59][59])      Nguyên văn viết: $婆G tức "Mũi Bà Khịt". Chữ Nôm G nầy Thượng Tân Thị đọc là Hét, Đào Duy Anh đọc là Khế. Chúng tôi tra Tự điển chữ Nôm của Vũ Văn Kính và Tự điển chữ Nôm của Yonosuke Takeuchi đều phiên âm là Khịt nhưng viết là H. Tuy nhiên, Trương Vĩnh Ký, trong PCGPC cho núi nầy có tên cũ đọc theo tiếng Miên là Phnom Sek, có nghĩa núi Kéc (tự điển Miên - Pháp của T.B. Bernard dịch Sek là "perroquet" có nghĩa là con Kéc). Như vậy phải chăng núi này có tên trong thư tịch là Bà Khịt và được người địa phương gọi theo tên cũ của Miên là Bà Kéc? Cũng cần nói rõ thêm là bản đồ của Taberd in năm 1838 cũng ghi mũi nầy là mũi Bà Kéc. Ngoài ra, nguyên văn in kèm bản dịch của Nguyễn Tạo lại chép là潔 và dịch giả Tu Trai đọc là Khiết.


 

TRẤN PHIÊN AN

Trấn Phiên An đất rộng việc nhiều, đường thủy đường bộ thông thương. Phía bắc giáp với trấn Biên Hòa, phía trên từ sông Đức Giang (tục gọi là sông Thủ Đức) đến Bình Giang (thuộc huyện Bình Dương, tục gọi là sông Bến Nghé) chuyển rẽ xuống ngã ba cửa Phù Gia (tục gọi là ngã ba sông Nhà Bè) rồi đổ thẳng ra cửa biển Cần Giờ [24b], bờ nam của sông là địa giới trấn Phiên An. Phía nam giáp trấn Định Tường, trên từ Quang Hóa, Quang Phong, về phía tây đến Vàm Dừa, Rạch Cỏ, đến sông Bát Chiên, chuyển xuống đông đến Vũng Gù, qua Tra Giang rồi ra cửa biển Lôi Lạp (Soi Rạp), dùng bờ bắc của sông này làm địa giới trấn Phiên An.

Trấn Phiên An phía đông là biển, phía tây giáp đất Cao Miên, ngăn chặn người man núi, gối vào chằm phá đông tây cách nhau 352 dặm, nam bắc cách nhau 107 dặm. Trấn này buổi đầu mới lập gọi là dinh Phiên Trấn, trông coi 1 huyện 4 tổng, lỵ sở đóng tại thôn Tân Lân, tổng Bình Trị, huyện Bình Dương ngày nay.

Ngày 12 tháng Giêng năm Mậu Thìn (1808), niên hiệu Gia Long thứ 7, đổi thành trấn Phiên An, rồi lấy huyện làm phủ, lấy tổng làm huyện, đó là căn cứ theo thế đất rộng hay hẹp, dân nhiều hay ít và địa thế liên lạc mà phân bổ cho đồng đều, lại còn đặt thêm tên các tổng và lập ra giới hạn.

Năm Tân Mùi (1811), niên hiệu Gia Long [25a] thứ 10, dời lỵ sở đến đặt ở chợ Điều Khiển (tức chỗ cũ của Đồn Dinh) tại xóm Tân Mỹ.

Năm Bính Tý (1816), niên hiệu Gia Long thứ 15, lại đổi lỵ sở qua thôn Hòa Mỹ, cặp theo phía bắc thành Gia Định, có nhiệm vụ trông coi 1 phủ, 4 huyện, 8 tổng, danh mục đổi thay của các phủ, huyện, tổng, xã, phường, thôn được liệt kê sau đây (trong bảng kê này chỉ căn cứ vào người ở đó có ruộng đất trong xã thôn mà kê ra, ngoài ra còn hạng người gọi là biệt nạp, biệt tính, có thuế dịch mà không có đất riêng thì gọi là ngụ cư, danh mục hộ khẩu ở đây còn nhiều, chưa gộp hết vào đây).

PHỦ TÂN BÌNH (Trước là huyện, nay cải đôn lên làm phủ)

Lãnh 4 huyện, 8 tổng, 460 xã, thôn, phường, xóm, ấp, điếm.

[25b] HUYỆN BÌNH DƯƠNG (Xưa là tổng nay đổi làm huyện)

Lãnh 2 tổng, 150 xã, thôn, phường, lân, ấp. Phía đông giáp với biển Cần Giờ, Soi Rạp; phía tây vượt qua chằm phá tiếp với miền man núi; phía nam giáp với ngã ba Thị Phổ thuộc tổng Tân Phong huyện Tân Long, ngược dòng Rạch Ong Nhỏ đến Cống Môn chợ Tân Kiểng (tục gọi là chợ Quán) cho đến hồ Lão Nhông (Đống) ([1][60]); phía đông nam giáp với tổng Lộc Thành, huyện Phước Lộc (Cần Giuộc); phía tây nam giáp với tổng Bình Cách, huyện Thuận An.

TỔNG BÌNH TRỊ

(Mới đặt. Chữ huyện nguyên là chữ huyền, huyền có quan hệ với chữ phủ. Chữ tổng là tụ họp lại. Làng mạc ở phân tán, phải tập hợp lại và cho thuộc vào huyện)

Tất cả có 76 xã, thôn, phường, lân, ấp. Phía đông giáp với Bình Giang đoạn từ sông trước thành dọc đến kho Gian (Quản) Thảo (Cầu Kho); phía tây giáp [26a] đầu suối Bến Lầy (Nẩy?), đến cầu Tham Lương (Hóc Môn) giáp với đằng đông của tổng Dương Hòa; Nam giáp kho Gian (Quản) Thảo qua miếu Hội Đồng ([2][61]) đến cầu Tham Lương; Bắc giáp trấn Biên Hòa, trên từ Đức Giang (sông Thủ Đức) dưới bờ nam Bình Giang (sông Sài Gòn).

· Thôn Long Hưng.   · Lân ([3][62]) Thanh Hoa.

· Phường Tân Phước ([4][63]).   · Lân An Hòa.

· Thôn Trọng Hòa (xưa là thôn Tân Cang).      · Lân Tây Tự (Lưỡng Tự) ([5][64]).

· Phường Tân Lộc trạm sông (giáp Tây) hoặc phường Tân Lộc (giáp Tây) trạm sông.

· Lân Tây Hòa (Lưỡng Tây Hòa) ([6][65]).            · Lân Thanh Phú.

· Lân Tân Thuận.     · Lân Tân Thuận Nhì.

· Lân Tân Hội.         · Lân Tân Hội Nhì.

· Lân Tân Mỹ.          · Lân Tân Mỹ Đông.

· Lân Tân Khánh.     · Lân Tân Hòa.

· Lân Tân Thạnh ([7][66]).           · Lân Tân Phú.

· Lân Vĩnh Quới       · (26b) · Lân Tân Thới.

· Lân Tân Hưng.      · Lân Lưỡng Thạnh.

· Lân Tân An.          · Lân Tân Lộc.

· Lân Thanh Bình.    · Lân Thái Thành.

· Lân Tân Định.        · Thôn Nhơn Hòa.

· Thôn Long Điền.    · Thôn Tân Khai.

· Thôn Hòa Mỹ.       · Thôn Phú Mỹ.

· Thôn Thạnh Đa.     · Thôn Mỹ Hội Tân An.

· Thôn Hạnh Thông ([8][67]).       · Thôn Hạnh Thông Tây.

· Thôn An Hội.         · Thôn Bình Quới (giáp Tây).

· Thôn Thới Hòa.     · Thôn Phú Nhuận.

· Thôn Hạnh Phú     · Thôn Tân An (giáp Tây).

· Thôn An Thạnh (giáp Trung).           · Thôn Cựu Bình Nhan.

· Thôn Hạnh Thạnh. · Thôn An Lộc.

· Thôn An Lộc Đông (An Lộc Tân) ([9][68]).          · Thôn An Thạnh (giáp Trung)

· Thôn Cựu Binh Nhan.        · Thôn Bình Lý.

· Thôn Bình Lý Đông (Bình Đia Đông) ([10][69]).    · Thôn Tứ chiếng Mỹ Đức.

· Thôn Tân Mỹ Đông.           · [27a] · Thôn Thái An.

· Thôn Mỹ Thạnh.    · Thôn Tân Đông (giáp Đông).

· Thôn Tân Đông (giáp Trung).           · Thôn Tân Đông (giáp Tây)

· Thôn An Phước (xưa là thôn Đông Thuận).  · Ấp An Hòa.

· Thôn Bình Hòa (mới lập).    · Thôn Tân Thạnh Trung.

· Thôn Hưng Thạnh (mới lập)            · Thôn Tân Thạnh An (mới lập).

· Thôn Tân Thạnh (giáp Đông).          · Thôn Tân Thạnh (giáp Tây).

· Thôn Đức Thạnh.   · Thôn Phú Hòa Đông.

· Thôn Định Hòa.     · Thôn Nhuận Đức.

· Thôn An Nhơn (giáp Tây) ([11][70]).       · Thôn An Bình (mới lập).

· Lân Thái Hòa.        · Lân Vĩnh Khánh.

· Thôn Tân Đức.      · Thôn Hoa Đăng.

· Thôn Mộc Khôi Mỹ Thạnh hoặc thôn Mỹ Thạnh than gỗ.

TỔNG DƯƠNG HÒA (Mới đặt)

Gồm 74 thôn phường ấp. Phía đông giáp biển; Tây giáp Cao Miên, đi qua chằm phá rồi tiếp với miền man núi; Nam giáp tổng Tân Phong, huyện Tân Long, từ ngã ba Thị Phổ [27b] dọc theo sông Rạch Ong Nhỏ qua Cống Môn chợ Tân Kiểng đến hồ Lão Đống (Nhông); Bắc giáp với sông lớn Phước Bình, từ cảng Cần Giờ ngược dòng đi qua ngã ba Nhà Bè đến sông trước thành; Đông nam giáp tổng Lộc Thành, huyện Phước Lộc; Tây nam giáp bờ đông nam hồ Lão Đống (Nhông) tổng Tân Phong, huyện Tân Long rồi chạy vòng theo núi Bà Đinh (Đen) qua chằm phá tiếp với miền man núi.

· Thôn Bình Định.     · Thôn Hòa Thuận Đông.

· Thôn An Phú.        · Thôn Mỹ Hòa.

· Thôn Tân Thuận.    · Thôn Bình Sơn.

· Thôn An Định.       · Thôn An Sơn.

· Thôn An Sơn Đông.

· Thôn Phú Thuận (trước là thôn An Lợi và Hội An, nay hợp nhứt lại).

· Thôn An Thành.     · Thôn An Thành (giáp Tây).

· Thôn An Hòa Trung.           · Thôn Thanh Tuyền.

· Thôn Thanh Hòa Trung.      · [28a] · Thôn Thuận Kiều.

· Thôn Thanh An.     · Thôn Trung Hòa.

· Thôn Tứ chiếng Văn Đức.  · Thôn Tân Thới ([12][71]) Bình.

· Thôn Tân Thới Đông.         · Thôn Tân Thới Tây.

· Thôn Tân Thới Trung.         · Thôn Tân Thới Nhứt.

· Thôn Tân Thới Nhì ([13][72]).     · Thôn Tân Thới Tam.

· Thôn Tân Thới Tứ. · Thôn Mỹ Toàn.

· Thôn Tân Thới Nhứt (giáp Tây).      · Thôn Tân Thới Nhì Tây.

· Thôn Xuân Thới.    · Thôn Xuân Thới Tây.

· Thôn Tân Phú (giáp Tây).   · Thôn Tân Thông.

· Thôn Tân Thông (giáp Tây).            · Thôn Phước An.

· Thôn Vĩnh An.       · Thôn An Thuận Tây.

· Thôn Trung Chánh ([14][73]).     · Thôn Trung Chánh Tây.

· Thôn Phước Tường.          · Thôn Vĩnh An Tây.

· Thôn Tân Lập Trung.          · Thôn Tân Thông Trung.

· Thôn Phước Mỹ.   · Thôn Vĩnh Hòa (mới lập).

· Thôn Tân Thông An.           · [28b]· Thôn Phú Nghĩa.

· Thôn Long Thạnh.  · Thôn An Thạnh Cần Giờ.

· Thôn Phú Mỹ Tây. · Thôn Tân Thuận Đông.

· Thôn Tân Vĩnh.      · Thôn Tân Hòa Đồng Tranh.

· Thôn Khánh Hội (trước là thôn Tân Hội) phụ Đình Khao.

· Thôn Bình Ý.         · Thôn Vĩnh Khánh.

· Thôn Hòa Trung.    · Thôn Tân Thạnh.

· Xóm Tứ chiếng ấp Tứ Xuân.           · Xóm Tứ chiếng ấp Bình Thuyên.

· Xóm Tứ chiếng ấp Tân An. · Xóm Tứ chiếng ấp Bình Hòa.

· Phường Bình An.  · Thôn Tân Kiểng ([15][74]).

· Ấp Tân Châu ([16][75]) Đông.    · Phường Đồng Văn.

· Thôn Tân Chánh (trước là thôn Tân Châu).   · Thôn Hòa Dương.

· Thôn Phú Hội.       · Thôn An Nhơn.

· Thôn Phước Thạnh.           · Thôn Mỹ Xuân.

· Thôn Tân Thông (giáp Đông).


HUYỆN TÂN LONG
(Xưa là tổng nay đổi ra huyện)

Lãnh 2 tổng, 150 thôn, phường, ấp, xóm. Phía đông giáp (29a) tổng Dương Hòa huyện Bình Dương; Tây giáp Lão Đống (Nhông); Nam giáp sông cái Thuận An (Vàm Cỏ); Bắc giáp ngã ba Thị Phổ, huyện Bình Dương, đến sông Rạch Ong Nhỏ đi qua cửa Cống Môn, chợ Tân Kiểng cho đến cầu Tham Lương (Hóc Môn).

TỔNG TÂN PHONG (Mới đặt)

Gồm 76 thôn, xã, phường, ấp, xóm. Phía đông giáp ngã ba Khúc Lãng rồi dọc theo ngã ba sông Biên Bức (Bến Lức) đến hạ lưu sông Sa Hà (Rạch Cát); phía tây giáp hồ Lão Đống (Nhông); Nam giáp ngòi Khiêu ở cửa trên sông Sa Hà tổng Long Hưng cho đến thượng nguồn sông Sa Hà (Rạch Cát); Bắc giáp Cống Môn chợ Tân Kiểng cho đến sông Rạch Ong Nhỏ xuống tận ngã ba Thị Phổ.

· Thôn Khánh Hòa.   · Thôn Bình Nghi.

· Thôn Tân Hóa.       · Thôn Phú Hưng.

· Thôn Long Vĩnh.    · Thôn Bình Long.

· Thôn Cựu Phú An (Cựu An Phú ) ([17][76]).       · Thôn Tân Phú Hội.

· Thôn Hiệp Ân ([18][77]).            · Thôn Thuận An.

· Thôn Tân Nhuận.   · Thôn Tiến Lộc.

· Thôn Bình Tây.      · Thôn Bình Tiên.

· [29b]· Thôn Bình Đăng.      · Thôn Bình Đông.

· Thôn Quang Phục. · Thôn Ngũ Phước.

· Thôn Tân Thuận.    · Thôn Bình Lộc.

· Thôn Long Cảnh.   · Thôn Hội Đức (mới lập).

· Thôn Hòa Định.     · Thôn Tân Đồn.

· Thôn Phú An ([19][78]).            · Thôn Tân Liêm.

· Thôn Tân Lạc (giáp Đông).  · Xóm Tứ chiếng Phường Tứ Xuân.

· Thôn Vạn Xuân.     · Thôn An Phú.

· Thôn Phước Thạnh.           · Xóm Tứ chiếng Phường Tiến Đức.

· Thôn Nhơn Mỹ.     · Thôn Bình Đức.

· Thôn Tân Phú.       · Thôn Phước Lộc Đông (mới lập).

· Thôn Toàn Lộc.     · Thôn Tân Quảng.

· Thôn Phú Vinh.     · Thôn Tứ chiếng Thái Lộc.

· Thôn Tân An (giáp Tây).     · Thôn Tân An (giáp Đông).

· Thôn Tân Long.

· Thôn Giang Trạm Nhơn Nghĩa hoặc thôn Nhơn Nghĩa trạm sông.

· Thôn Tân An Trung.           · Thôn Tân Hương.

· [30a] · Thôn An Thới.        · Thôn Tân Phú Thạnh Đông.

· Thôn Tân Hưng.    · Thôn Tân Khánh.

· Thôn Tân Phú Điền.           · Xã Tân An (giáp Đông).

· Thôn Tân Hội.        · Thôn Tân Khơ me.

· Xã Tân Lộc.           · Thôn Tân Đức.

· Thôn Tân Thạnh.    · Thôn Tân Thành.

· Thôn Phú Hữu.      · Thôn Tân Phú Lâm.

· Thôn Tân Định (mới lập).    · Thôn Bình Quới.

· Thôn Minh Phụng ([20][79]).      · Thôn Cựu Phú Lâm.

· Thôn Tân Định (mới lập)     · Thôn Tân Hòa (giáp Đông).

· Thôn Tân Hòa (giáp Tây).   · Thôn Bình Hòa.

· Thôn (Sái Phu) Tân An.

· Thôn Tứ chiếng Tân Hòa (giáp Trung, mới lập).

· Thôn Tân Tạo.       · Thôn Bình Trị Đông (mới lập).

· Thôn Tân Lộc.       · Ấp An Hòa (mới lập)

· Thôn Tân Hòa.       · Thôn Tân Lạc Tây (mới lập).

· Xóm Tân Phú Đông.

[30b] TỔNG LONG HƯNG (mới đặt)

Gồm 74 thôn, phường. Phía đông của tổng giáp hạ khẩu sông Sa Hà (Rạch Cát), dọc theo ngã ba sông Cần Giuộc ([21][80]), chuyển qua chợ Thị Đắc ra đến Rạch Chanh; Tây giáp hồ Lão Đống (Nhông) dọc theo ngòi Miễn Mộ thuộc tổng Bình Cách huyện Thuận An; Nam giáp sông lớn Thuận An (Vàm Cỏ); phía bắc giáp với ngòi Khiêu ở tổng Tân Phong cho đến thượng khẩu Sa Hà (Rạch Cát).

· Thôn Mỹ Thuận.    · Thôn Mỹ Thuận Tây.

· Phường An Lạc.   · Thôn Trung Hưng.

· Thôn Phú Mỹ.       · Thôn Thới Bình (mới lập).

· Thôn Tân Hội Đông.           · Thôn Tân Kiên.

· Thôn Long Đức (mới lập).   · Thôn Tân Nhật.

· Thôn Tân Tảo.       · Thôn Tân Bửu ([22][81]).

· Thôn Tân Phú Tây.            · Thôn Lương Hòa Tây.

· Thôn Lương Hòa Đông.      · Thôn Tân Sơn (giáp nhì).

·[31a]· Thôn Sơn Hòa.         · Thôn Bình Hưng.

· Thôn Bình Hưng Đông.       · Thôn Bình Thạnh.

· Thôn Tân Hòa.       · Thôn Tân Phước Thiện.

· Thôn Lương Phú (mới lập).            · Thôn Tân Tảo Tây.

· Thôn Tân Nguyên. · Thôn Tân Hồ.

· Thôn An Trường.   · Thôn Bình Trường.

· Thôn Bình Chánh.  · Thôn Long Thạnh (mới lập).

· Thôn Bình Thượng.            · Thôn Tân Tú.

· Thôn Thạnh Hòa Đông.       · Thôn Bình Định Đông.

· Thôn Tân Hưng Tây.          · Thôn Bình An.

· Thôn An Phước Tây.         · Thôn An Phú Tây.

· Thôn Đức Hòa.      · Thôn An Thạnh.

· Thôn Tân Phú An.  · Thôn An Mỹ.

· Thôn Mỹ An.         · Thôn Tân Phú An Tây.

· Thôn Mỹ Hòa.       · Thôn Mỹ Thạnh.

· Thôn Thanh Tuyền.            · Thôn Bình Nghĩa.

· [31b]· Thôn Bình Phước.   · Thôn Tân Sơn (giáp nhứt).

· Thôn Tân Kim.       · Thôn Tứ chiếng Phước Lộc (mới lập).

· Thôn Tân Mỹ.        · Thôn Hưng Long.

· Thôn Bình Giao.    · Thôn Châu Thới ([23][82]).

· Thôn Tân Kiều.      · Thôn Tân Nhiễu.

· Thôn Tân Thủy.     · Thôn Tân Quới.

· Thôn Tân Quới Tây.           · Phường Phước Tú.

· Thôn Long Thái Đông.        · Thôn Sông Tra Tân Thạnh.

· Thôn Mỹ Hạnh (lập lại).      · Thôn Phú Thạnh.

· Thôn Tân Câu Tây.            · Thôn Minh Đức (lập lại).

· Thôn Tân Liễu.      · Thôn Tân Kính.

· Thôn Tân Phong.   · Thôn Bình An Tây.

· Thôn Mỹ Hội Đông.            · Thôn Quới Hòa (mới lập).


HUYỆN PHƯỚC LỘC

(Nguyên là tổng, nay đổi thành huyện. Khi xưa là tổng Phước Lộc thuộc địa tịch huyện Phước Long của dinh Trấn Biên, sau địa đồ triều đình khâm định rằng để cho liền nhau (32a) nên cho thuộc vào dinh Phiên Trấn, nay cũng giữ y như vậy)

Huyện lãnh 2 tổng, 95 xã, thôn, phường, lân, ấp, xóm. Phía đông giáp hải cảng Soi Rạp; Tây giáp Rạch Chanh thuộc tổng Tân Phong, huyện Tân Long; Nam giáp cửa sông Chanh xã Xá Hương (Vàm Cỏ Đông); Bắc giáp cửa sông Loát Giang thuộc tổng Dương Hòa, huyện Bình Dương vòng qua sông Ô Giang chạy đến sông Biên Bức (sông Bến Lức).

TỔNG PHƯỚC ĐIỀN (mới đặt)

Gồm 48 xã, thôn, phường, lân, ấp, xóm. Phía đông giáp bến ngã ba sông Xá Hương, tiếp đến là cảng Soi Rạp; Tây giáp chợ Thị Đắc và Rạch Chanh; Nam giáp tổng Thuận Đạo huyện Thuận An; phía bắc giáp tổng Lộc Thành.

· Thôn Phước Cơ.   · Thôn Long Thạnh Tây.

· Xóm An Xuân.       · Thôn Hòa Nghĩa.

· Thôn Tân An.        · Thôn Long Phú Đông.

· Thôn Long Định.    · Thôn Phước Bình.

· [32] · Thôn Vĩnh Phước.    · Thôn Tân Mỹ.

· Thôn Phước Lý.    · Thôn Long Hưng.

· Thôn Phước Quảng.          · Thôn Phước Toàn Thượng.

· Thôn Phước Toàn Trung.   · Thôn Phước Nghĩa.

· Thôn Long Phú.     · Thôn Tiến Long.

· Thôn Phước Tịnh. · Ấp Phú Thạnh Đông.

· Thôn Long Hợp.    · Thôn Bảo Hòa.

· Thôn Bình An (mới lập).     · Thôn Bình Thiện.

· Thôn Nhơn Lợi (mới lập).   · Thôn Phú Lợi (mới lập).

· Thôn Long Hựu.    · Phường Phước An Đông.

· Phường Phước An.          · Xã Tân An.

· Thôn Nhơn Hòa.    · Thôn Tân Lân.

· Thôn Phước Thạnh.           · Thôn Phước Mỹ.

· Thôn Phước Tường.          · Thôn Long Mỹ.

· Phường Mỹ Lệ.     · Phường Vạn Phước.

· Thôn Tân Trạch.    · Thôn Long Sơn.

· Phường Thạnh Hòa Trung. · [33a] · Thôn Long Hòa.

· Thôn Long Hòa Đông.        · Thôn Phước Hưng.

· Thôn Phước Hưng Đông.   · Ấp Tân Hòa Tây.

· Thôn Tân Điền.      · Thôn Phú Mỹ (mới lập).

TỔNG LỘC THÀNH (mới đặt)

Gồm 47 thôn phường. Phía đông giáp hải cảng Lôi Lạp (Soi Rạp); Tây giáp sông Hắc Khâu (sông Gò Đen) thuộc tổng Long Hưng, huyện Tân Long; Nam giáp sông Xá Hương thuộc tổng Thuận Đạo, huyện Thuận An và men theo cửa rạch Chanh; Bắc giáp cửa sông Cần Giuộc, ngược dòng Nha Ram (Lam) qua sông Kê Quan (Mồng Gà) cho đến bờ nam cầu ngang ở chợ Thị Đắc.

· Thôn An Thuận.     · Thôn Long Cang.

· Thôn Long Định.    · Thôn Long Kim.

· Thôn Phước Vân.  · Thôn Phước Lộc.

· Thôn Long Khê.     · Phường Phước Bửu.

· Phường Phước Hảo.         · Thôn Long Toàn.

· Thôn Long Thanh.  · Thôn Long Khánh.

· [33b]· Phường Long Diên. · Thôn Phước Toàn.

· Thôn Mỹ An          · Thôn Phước Hoa

· Thôn Long Điền     · Thôn Long Đức.

· Thôn Phước Lâm. · Thôn Thuận An.

· Thôn Long An (giáp Tây).   · Thôn Long An Cựu.

· Thôn Long An Đông.          · Thôn Long Vân.

· Thôn Long Kế.       · Thôn Long Kế Tây.

· Phường Thanh Tuyền.       · Phường Hòa Thuận.

· Thôn Phước Thành.           · Thôn Phước Thọ.

· Thôn Thái Bình.     · Thôn Long Phước.

· Thôn Mỹ Đức (mới lập).     · Thôn Long Hậu Tây.

· Thôn Long Đức Đông.        · Thôn Long Phú An (mới lập).

· Thôn Phước Lại.   · Thôn Tân Thanh.

· Thôn Vĩnh Khánh.  · Thôn Phước Vĩnh Tây.

· Thôn Phước Vĩnh Đông.    · Thôn Phước Khoa.

· Thôn Long Phụng. · Thôn Long Thạnh (giáp Đông).

· Phường Tân Châu Phước. · Thôn Thuận An.

· Thôn Hòa Xuân.

[34a] HUYỆN THUẬN AN (Trước đây là tổng Bình Thuận, nay cải thành huyện)

Phía đông giáp sông Xá Hương (Vàm Cỏ Đông); Tây giáp rừng hoang thuộc nguồn Quang Hóa (Trảng Bàng), phủ Tầm Đuông của Cao Miên; Nam giáp sông cái Hưng Hòa thuộc trấn Định Tường, ngược theo dòng Bát Chiên là đến thủ sở đạo Tuyên Oai; Bắc giáp cửa sông Xá Hương, đi lên là sông Thuận An, ngòi Miễn Mộ rồi giáp chằm lớn ở núi Bà Đinh (Bà Đen).

TỔNG BÌNH CÁCH (mới đặt)

Gồm 33 xã, thôn, phường. Phía đông giáp ngã ba Nước Mặn cửa sông Rạch Chanh của tổng Thuận Đạo; Tây giáp nguồn Quang Hóa, chằm lớn núi Bà Đinh (Đen) và phủ Tầm Đuông của Cao Miên; Nam giáp Thuộc Lãng sông Tra Giang của trấn Định Tường; Bắc giáp sông Đôi Ma (Song Ma) ([24][83]), dọc theo sông Thuận An đến ngòi Miễn Mộ.

· Phường Bình Thuận.         · Thôn Bình Đức.

· Thôn Bình Thanh.  · Thôn Bình Thạnh.

· Thôn Bình Cảnh.    · Thôn Bình Nghị.

· Thôn Bình Trường Tây.      · [34a] Thôn Bình Trường Đông.

· Thôn Phú Mỹ Đông.           · Thôn Nhơn Hòa.

· Thôn Bình Nhật.    · Thôn Bình Tự.

· Thôn Tân Đức.      · Thôn Tân An (giáp Đông).

· Phường An Lý.     · Phường Bình Dã.

· Thôn Bình Sơn Cựu.          · Thôn Hậu Đức.

· Thôn Cẩm Giang Tây.        · Thôn Long Tuyền.

· Thôn Thạnh Đức.   · Thôn Thái Bình Thượng.

· Thôn Bình Tịnh.     · Thôn Thanh Phước.

· Thôn Mỹ An.         · Thôn Tân Phú Thượng.

· Thôn Bình Thuận Đông.      · Thôn Tân Lợi Thượng.

· Thôn Tân Phước (giáp Tây)            · Thôn Bình An.

· Thôn Đới Nhật.      · Thôn Tân Bắc (đạo Thuận Thành).

· Thôn Bình Phú (đạo Quang Hóa)

TỔNG THUẬN ĐẠO (mới đặt)

Gồm 32 thôn, phường. Phía đông giáp sông Xá Hương và biển; Tây giáp [35a] phủ Tầm Đuông của Cao Miên; Nam giáp Thuộc Lãng sông Tra Giang của trấn Định Tường, đi lên qua Hưng Hòa đến sông Bát Chiên của đạo Tuyên Oai giáp nước Cao Miên; Bắc giáp tổng Bình Cách, qua ngã ba Nước Mặn sông Rạch Chanh rồi qua Cai Đao Bô Bô đến biên giới Cao Miên.

· Thôn Hậu Đức.      · Thôn Tân Trụ.

· Phường Bình Tịnh.            · Thôn Quảng Phú (mới lập)

· Thôn Bình Lãng.    · Phường Bình Dương.

· Thôn Mỹ Thuận.    · Thôn Tân Phong (mới lập).

· Thôn Hưng Thạnh. · Thôn Bình Khuê.

· Thôn Bình Trung.   · Thôn Phú Thạnh.

· Thôn Long Cang ([25][84]).        · Thôn Bình Cang.

· Thôn Bình Phú.     · Thôn Long Thạnh.

· Thôn Bình Định.     · Thôn Bình Lương Tây.

· Thôn An Hòa Trung.           · Thôn Long Thạnh Đông.

· Thôn Vĩnh Thạnh.  · Thôn Cựu Bình Hòa.

· Thôn Hưng Thạnh Đông.    · Thôn Toàn Hòa.

· Thôn Hội Nghĩa.     · Thôn Long Xuân.

· Thôn Thuận Hòa Đông.       · Thôn Thuận Nghĩa Thượng.

· Thôn Thạnh Hòa Đông.       · Thôn Bình Cang Trung.

· Thôn Bình Lương Trung.

[36a] TRẤN BIÊN HÒA

Trấn Biên Hòa lưng tựa núi, mặt trở ra sông, khống chế vùng man, ngăn chặn nơi hiểm yếu. Theo ranh giới cũ thì phía đông bắc đến trấn Bình Thuận, lấy nửa sông Ma Ly làm giới hạn. Năm Mậu Thìn (1808) niên hiệu Gia Long thứ 7, chuẩn định rằng, phía đông trấn giáp núi Thần Mẫu (thuộc trấn Bình Thuận), lập ra trạm Thuận Biên, quanh co kéo dài đến phía bắc là sách động của man núi. Phía nam giáp trấn Phiên An, trên từ suối Băng Bột (Thủy Vọt) ([26][85]), qua Đức Giang (Thủ Đức), đến Bình Giang rồi quành về Tam Giang Nhà Bè, thẳng xuống cảng Cần Giờ rồi qua Thuyền Úc (Vũng Tàu), ra Thát Sơn (núi Gành Rái) lấy dãy sông dài làm giới hạn. Bờ bắc con sông là ranh giới trấn Biên Hòa. Phía đông giáp biển, phía tây là vùng sơn man. Từ đông sang tây cách nhau 542 dặm rưỡi, nam bắc cách nhau 287 dặm rưỡi, đi về nam đến thành Gia Định cách 55 dặm rưỡi.

Buổi đầu mới đặt trấn gọi là [36b] dinh Trấn Biên, trông coi 1 huyện, 4 tổng, lỵ sở đóng tại đất thôn Phước Lư ([27][86]) thuộc huyện Phước Long. Ngày 12 tháng giêng niên hiệu Gia Long thứ 7 (1808), cải lại là trấn Biên Hòa rồi nâng huyện thành phủ, nâng tổng thành huyện, đó là căn cứ vào đất đai rộng hay hẹp, dân cư nhiều hay ít và thế đất liền nhau mà chia đều ra. Lại đặt thêm tổng và phân chia giới hạn.

Tháng 2 niên hiệu Gia Long thứ 15 (1816), dời lỵ sở về thôn Tân Lân thuộc huyện Phước Chánh. Danh mục thay đổi của phủ, huyện, tổng, xã, thôn, phường, được liệt kê như sau: (Biệt nạp, biệt tính, số mục còn nhiều, nhưng đều chưa chép vô hết được).


PHỦ PHƯỚC LONG (Tr
ước đây là huyện nâng làm phủ)

Lãnh 4 huyện, 8 tổng, 310 xã, thôn phường.

HUYỆN PHƯỚC CHÁNH

(Trước là tổng Tân Chánh nay đổi làm huyện Phước Chánh. Nguyên buổi đầu mới khai thác, thì đầu nguồn Đồng Nai còn là nơi rừng rậm, người địa phương lấy từ bãi Tân Chánh trở lên làm tổng Tân Chánh và trực thuộc vào [37a] huyện Tân Bình, dinh Phiên Trấn. Về sau người ta lại đem những vùng đất chưa sử dụng của Trấn Biên cho thuộc vào đây và đều dùng chữ Tân làm đầu mà đặt tên để phân biệt. Do vậy chỗ lẫn tạp lại càng lẫn tạp, đến khi lập bản đồ triều đình mới căn cứ vào thế liên thông cho qui về dinh Trấn Biên, từ đó mới ổn, nay vẫn theo như thế).

Huyện Phước Chánh có 2 tổng 85 xã, thôn, phường. Phía đông giáp bến đò Thị Nghĩa thuộc thôn Bình Dương, tổng Long Vĩnh, huyện Long Thành; phía bắc đến rừng núi; phía tây giáp với các sách man ở đầu nguồn; phía nam giáp huyện Bình An, từ núi Chiêu Thái (Châu Thới) cho đến sông Thị Kiên ở Ba Đốc; phía bắc đến các sách man trong rừng già.

TỔNG PHƯỚC VINH (mới đặt)

Gồm 46 thôn phường. Phía đông giáp bến đò Thị Nghĩa, thôn Bình Dương, tổng Long Vĩnh, huyện Long Thành, liền đến rừng núi; tây kéo dài đến đầu nguồn Ba Can và thủ sở Táo Mộc (Cây Táo), nam giáp Phước Giang (sông Đồng Nai) [37b], bắc giáp các sách man ở rừng già.

· Thôn Bình Đa.       · Thôn Bình An.

· Thôn Vĩnh An.       · Thôn Tân Mai.

· Thôn Tân Nhơn.    · Thôn Tân Phong.

· Thôn Phước Thạnh.           · Thôn Tân Tục - Phụ miếu Hội Đồng.

· Thôn Phước Lư.   · Thôn Bình Trúc.

· Thôn Tân Lân.       · Thôn Bình Thành.

· Phường Tân Lại.   · Phường Bạch Khôi.

· Thôn Bình Điện.     · Thôn Bình Thạch.

· Thôn Bình Sơn.     · Thôn Bình Thới.

· Thôn Tân Thạch.    · Thôn Tân Thạch Đông.

· Thôn Bình Thuận.  · Thôn Bình Thạnh.

· Thôn Bình Ý.         · Thôn Bình Hậu.

· Thôn Bình Thảo.    · Thôn Tân Xuân.

· Thôn Tân Triều Tây ([28][87]).    · [38a] · Thôn Tân Triều Đông.

· Thôn Tân Thành.    · Thôn Bình Lục.

· Thôn Long Phú.     · Thôn Xuân Hòa.

· Thôn Bình Thanh.  · Thôn Bình Định.

· Thôn Bình Lợi.      · Thôn Long Chánh.

· Thôn Tân Lộc Tây. · Thôn Phú An.

· Thôn Tân Huệ Tây.            · Thôn Tân Huệ Đông.

· Thôn Tân Quan Chánh.      · Thôn Tân Quan Trung.

· Thôn Tân Quan Đông.        · Thôn An Lâm.

· Thôn Tân Định.      · Thôn Bình An Tây.

TỔNG CHÁNH MỸ (mới đặt)

Gồm 39 xã, thôn, phường. Phía đông giáp sông Thị Lộ tổng Thành Tuy thuộc huyện Long Thành; Tây giáp trường giao dịch của thủ sở Tham Linh ở đầu nguồn đạo Đường Sứ; Nam giáp huyện Bình An, từ núi Châu Thới (Chiêu Thái) chạy dài đến sông Thị Kiên ở xứ Ba Đốc; Bắc giáp Phước Giang (sông Đồng Nai).

· [38b] · Thôn Tân Phước.   · Thôn Tân Phú.

· Thôn Tân Vạn.       · Thôn Tân Bản.

· Thôn Bình Tiên.     · Thôn Tân Hạnh Đông.

· Thôn Bình Trị.        · Thôn Tân Hạnh.

· Thôn Phước Hạnh.            · Thôn Tân Hạnh Trung.

· Thôn Tân Trung (giáp Tây). · Thôn Tân Hoa.

· Thôn Tân Thạnh (giáp Đông).          · Thôn Tân Hội.

· Thôn Tân Khánh Đông.       · Thôn Tân Khánh Trung.

· Thôn Tân Lương.   · Thôn Bình Chử.

· Thôn Bình Hưng.   · Thôn Tân Trúc.

· Thôn Tân Chánh.   · Thôn Bình Chử Trung.

· Thôn Điều Hòa.     · Thôn Bình Chánh Đông.

· Thôn Bình Hóa.     · Thôn Tân Hòa.

· Thôn Bình Thuận Đông.      · Thôn Bình Hóa Tây.

· Thôn Tân Lợi.        · Thôn Tân Lập.

· Thôn Tân Lộc Đông.           · Thôn Tân Tịch (có thôn Tân Đức nhập vào).

· Thôn Tân Lộc Thượng.       · Thôn Tân Quan.

· Thôn Phú Xuân Đông.        · Thôn Mỹ Thạnh.

· Thôn Tân Thạnh Tây.         · Thôn Tân Quan Thượng.

· Thôn Bình An Đông.


HUYỆN BÌNH AN (Trước là tổng, nay đổi thành huyện)

Gồm 2 tổng, 119 xã, thôn, phường, ấp, xóm. Phía đông giáp tổng Thành Tuy huyện Long Thành, từ sông Thị Lộ chạy dài đến giồng Ông Tố; Tây giáp các sách man ở thượng nguồn Băng Bột (Thủy Vọt); Nam giáp Bình Giang (sông Sài Gòn) của trấn Phiên An; Bắc giáp núi Châu Thới thuộc tổng Chánh Mỹ, huyện Phước Chánh, kéo dài đến sông Thị Kiên xứ Ba Đốc.

TỔNG BÌNH CHÁNH (mới đặt)

Gồm 50 xã, thôn, ấp, phường. Phía đông giáp xứ Ba Đốc tổng An Thủy, đến sông Gò Trà; Tây giáp các sách man ở nguồn Băng Bột (Thủy Vọt); Nam giáp [39b] Bình Giang (sông Sài Gòn) thuộc trấn Phiên An; Bắc giáp sông Thị Kiên xứ Ba Đốc thuộc tổng Chánh My, huyện Phước Chánh.

· Thôn An Phước.   · Thôn Long Tuyền.

· Thôn Hòa Thạnh Đông.       · Thôn Hòa Thuận.

· Thôn Hòa Mỹ Đông.           · Thôn Định An.

· Thôn An Định Tây. · Xã Tân An (giáp Đông).

· Xã Tân An (giáp Nhì).         · Xã Tân An (giáp Thuận).

· Xã Tân An (giáp Hòa).        · Xã Tân An (giáp Lợi).

· Xã Tân An (giáp Thạnh).     · Xã Tân An (giáp Trung).

· Xã Tân An (giáp Tây).         · Thôn Tân Mỹ Tây.

· Xóm Bến Sắn.       · Thôn Hòa Mỹ.

· Ấp Phú An.           · Thôn Vĩnh Trường.

· Thôn Bình Nhan Tây.         · Thôn Phước Hóa Thuận.

· Thôn Tân Khánh Tây.        

· Thôn Tân Phước (có thôn Nhơn Hòa nhập vào).

· Thôn Vĩnh Phú.     · Thôn Bình Hòa.

· Thôn Tân Đồng.     · Thôn Phú Lợi (giáp Trung).

· [40a] · Thôn Phú Lợi Tây.  · Thôn Bình Điềm.

· Thôn Bình Luật Tây.           · Thôn Chánh An Trung.

· Thôn Phú Thạnh.   · Thôn Phú Thuận.

· Thôn Hòa Thạnh.   · Thôn Chánh An Tây.

· Thôn Chánh An (giáp Tây). · Thôn Chánh An.

· Ấp Chánh Hòa.      · Thôn Phú Lợi (giáp Đông).

· Thôn Phú Lợi.       · Thôn Phú Hòa.

· Ấp An Phú.           · Thôn Bình Nhan Đông.

· Thôn Bình Nhan Thạnh.      · Thôn Bình Nhan Nhứt.

· Thôn Bình Nhan Thượng.   · Xã Tân Thới (giáp Tây).

· Xã Tân Thới (giáp Đông, có xã Thạnh Hòa nhập vào).

· Xã Tân Thới.         · Thôn Vĩnh Phước.

TỔNG AN THỦY (mới đặt)

Gồm 69 xã, thôn, phường. Phía đông giáp sông Thị Lộ tổng Thành Tuy thuộc huyện Long Thành, chạy dài đến giồng Ông Tố; Tây giáp sông Gò Trà xứ Ba Đốc thuộc tổng Bình Chánh; [40b] Nam giáp Bình Giang (sông Sài Gòn) thuộc trấn Phiên An; Bắc giáp xứ Ba Đốc vùng núi Châu Thới thuộc tổng Chánh Mỹ, huyện Phước Chánh.

· Xã Tân An (giáp Đông).      · Thôn Tân Thạnh (mới lập).

· Thôn Phú Mỹ.       · Thôn Tân Long.

· Thôn Lý Nhơn Tây (có thôn Phú Xuân nhập vào).

· Thôn Hạnh Hoa.    · Thôn Phước An.

· Thôn An Phú.        · Thôn Long Quới.

· Thôn Phước Thọ.  · Thôn Đông An Trung.

· Thôn Minh Phụng. · Thôn Đông An.

· Thôn Đông An Tây.            · Xã Tân An (giáp Đông).

· Xã Tân An (giáp Tây).         · Thôn Bình Trị ([29][88]).

· Thôn Bình Trị Tây. · Thôn Bình Trị (giáp Trung).

· Phường Bình Thung (có thôn Bình Thung Đông nhập vào).

· Thôn Bình Thắng Tây.        · Phường Bình Thắng.

· Thôn Hòa Thạnh.   · Thôn Tân Nhơn.

· Thôn Xuân Trường (giáp Tây).         · Thôn Tân Quới (giáp thượng).

· Thôn An Thạnh (mới lập, có thôn Thạnh Sơn nhập vào).

· [41a] · Thôn Xuân Hòa.      · Thôn Linh Chiểu (giáp Tây).

· Thôn Bình Đường. · Thôn Bình Thạnh.

· Thôn Linh Trị (giáp Đông)    · Thôn Bình Quới Đông ([30][89]).

· Thôn Bình Lợi Đông.          · Thôn Bình Quới Thượng.

· Thôn Bình Quới Hạ.           · Thôn Bình Kính.

· Thôn Bình Lợi Tây.

· Thôn Bình Phú Thượng (trước là thôn Bình Đán Thượng).

· Thôn Bình Đán Thượng      · Thôn Bình Đán Đông.

· Thôn Tân Lợi.        · Thôn Phước Lộc (mới lập).

· Thôn Tân Lộ.         · Thôn Bình Đồng (giáp Đông).

· Thôn Bình Đồng Trung (có thôn Bình Đồng Chánh nhập vào).

· Thôn Bình Đồng (giáp Tây).            · Thôn Bình Kính Tây.

· Thôn Long Phú Đông.        · Thôn Long Đức.

· Thôn Bình Phú.     · Thôn Tân Giám.

· Thôn Bình Kính Đông.        · Thôn Bình Hòa.

· Thôn Tân Hưng.    · Thôn Bình Quan.

· Thôn Long Quới.   · Thôn Bình Quới.

· Thôn Bình Xương. · Thôn Bình Tự.

· [41b]· Thôn Tân Mỹ.

· Thôn Bình Phú Trung (có một giáp 4 thôn là Bình Lộc, Chánh Thái Thuận, Bình Phước Đông, Bình Hạnh nhập vào).

· Thôn Bình Thuận Nhứt.      · Thôn Bình Hòa Đông.

· Thôn An Tài.         · Thôn Bình Quới.

· Thôn An Lợi.         · Thôn Bình Lâm.

· Thôn Bình Phước. · Thôn Mỹ An.


HUYỆN LONG THÀNH (Trước là tổng nay cải thành huyện)

Gồm 2 tổng, 63 xã, thôn, phường, ấp. Phía đông giáp tổng An Phú thuộc huyện Phước An, từ núi Nữ Ni (Thị Vải) ([31][90]) đến cửa Thất Kỳ (tục gọi Vàm Ngã Bảy); phía tây giáp núi Lượng Ni (Vải Lượng (2) tổng An Thủy, huyện Bình An; phía nam giáp sông cái Nhà Bè; Bắc giáp xứ Ngư Trì (Ao Cá) tổng Phước Vinh, huyện Phước Chánh.

TỔNG LONG VĨNH (mới đặt)

Gồm 34 xã, thôn, phường, ấp. Phía đông giáp các sách man ở rừng già ruỗi dài đến sông Đồng Môn; Tây giáp núi Lượng Ni (Vải Lượng), tổng An Thủy, huyện Bình An; Nam giáp sông Trảo Trảo tổng An Thủy; Bắc giáp xứ Ao Cá tổng Phước Vinh, huyện Phước Chánh.

· [42a]· Thôn Long Trường.  · Thôn Bình Dương.

· Thôn Long An.       · Thôn An Hòa.

· Thôn Vĩnh Thọ.      · Thôn Vĩnh Hòa.

· Thôn Vĩnh Đông.    · Thôn Phước Toàn.

· Thôn Vạn Toàn.     · Thôn An Xuân.

· Thôn Phước Châu.            · Thôn Phước Tân

· Thôn Phước Khả   · Thôn Phước Gia.

· Thôn Phước Miên.            · Thôn Phước Trường.

· Thôn Long Hòa.     · Thôn Phước Quới.

· Thôn Phước Mỹ.   · Xã Phước Trường.

· Thôn Long Thạnh Tây.        · Thôn Long Thạnh Đông.

· Thôn Long Phú Đông.        · Thôn Phước Thiện.

· Ấp Phước Hậu.     · Thôn Phước Thới.

· Thôn Long Đại.      · Phường Long Tuy.

· Thôn Phước Hòa.  · (42b). Thôn Phước Lợi.

· Thôn Vĩnh Thuận   · Thôn Long Thành

· Thôn An Hưng       · Thôn Phước Mỹ.

TỔNG THÀNH TUY (mới đặt)

Gồm 29 thôn ấp. Phía đông giáp núi Nữ Ni (Thị Vải) tổng An Phú, huyện Phước An đến cửa sông Ngã Bảy (Thất Kỳ khẩu); Tây giáp sông Trảo Trảo, tổng Long Vĩnh cho đến sông lớn Nhà Bè; Nam giáp Phước Bình Giang (sông Sài Gòn); Bắc giáp các sách man ở rừng già cho đến sông Đồng Môn.

· Thôn Vĩnh An.       · Ấp Phước Lộc.

· Thôn Phước Lợi An.          · Thôn Vĩnh Xương (mới lập).

· Thôn Phước Thành.           · Thôn Phước Kiến.

· Thôn Mỹ Khoan.    · Thôn Phú Mỹ An (mới lập).

· Thôn Phước Lai.   · Thôn Long Tạo.

· Thôn Long Thuận.  · Thôn Phước Hòa Đông.

· [43a] · Thôn Phú An.         · Thôn Phú Hòa.

· Thôn Long Hưng.   · Thôn Hương Mỹ.

· Thôn Lý Nhơn.      · Thôn Vĩnh Hưng.

· Thôn Lương Phước.          · Thôn Lương Phước Đông.

· Thôn Phước Thạnh.           · Thôn An Thuận (mới lập).

· Thôn An Phú.        · Thôn Long Đức.

· Thôn Lương Thạnh.           · Thôn Thạnh Hòa.

· Thôn Trường Lộc.  · Thôn Mỹ An (mới lập).

· Thôn Long Hiệu.


HUYỆN PHƯỚC AN
(Trước là tổng nay đổi thành huyện)

Lãnh 2 tổng, 43 xã, thôn, điếm, phường, ấp. Phía đông giáp với biển lớn; Tây giáp núi Cam La, núi Nữ Ni (Thị Vải) cho đến cửa sông Ngã Bảy (Thất Kỳ Giang khẩu); Nam giáp trấn Phiên An dọc theo bờ bắc cảng Cần Giờ; Bắc giáp các sách man ở thủ sở sông Nục.

[43B] TỔNG AN PHÚ (mới đặt)

Gồm 21 xã, thôn, ấp. Phía đông giáp cửa biển lớn; Tây giáp núi Nữ Ni (Thị Vải) cho đến cửa sông Ngã Bảy; Nam giáp sông Phước Bình thuộc trấn Phiên An và dọc theo bờ Bắc của cảng Cần Giờ; Bắc giáp đường cái quan tổng Phước Hưng.

· Xã Long Hòa (xưa là phường Long Nhung). · Thôn Long Hiệp.

· Thôn Long Thắng.  · Thôn Phước Đức.

· Thôn Long Lập.     · Thôn Long Xuyên.

· Thôn Long Kiên.    · Thôn Long Thuận.

· Thôn Phước Thạch.           · Thôn An Nhứt.

· Ấp Hắc Lăng.        · Thôn Phước Thiện.

· Thôn Long An.       · Thôn Long Điền.

· Thôn Long Thạnh.  · Thôn Long Hương.

· Thôn Phước Lễ.    · Ấp Phú Xuân.

· Thôn Trúc Phong.  · Thôn Hưng Long.

· [44a] - Thôn Giếng Bọng kề bên lũy.

TỔNG PHƯỚC HƯNG (mới đặt)

Gồm 22 xã, thôn, phường. Phía đông giáp biển lớn; Tây giáp núi Cam La cho đến núi Nữ Ni (Thị Vải); Nam giáp đường cái quan tổng An Phú; Bắc giáp các sách man ở thủ sở sông Nục.

· Thôn Phước Thái ([32][91]).      · Thôn Phước Hưng.

· Thôn Phước Liễu. · Thôn Long Trinh.

· Thôn Long Hưng.   · Thôn Phước Hiệp.

· Thôn Thới Thạnh.  · Phường Phước Lộc Thượng.

· Xã Phước An Trung.          · Thôn Long Hòa.

· Thôn Long Thới.    · Thôn Gia Thạnh.

· Thôn Phước Lợi.   · Thôn Phú Thạnh.

· Thôn Phước Hòa.  · Thôn Long Sơn (đảo Ông Trần)

· Thôn Phước Hải.   · Thôn Long Hội Sơn.

· Thôn Long Hải.

· Thôn Long Mỹ Tây (Giang Trạm) hay (trạm sông)

· [44b]- Thôn Hòa Mỹ (Giang Trạm) hay (trạm sông)

· Thôn Tân An (Giang Trạm) hay (trạm sông).

 


([1][60])       Lão Đống trì (老y池): Hồ Lão Nhông. Tức ao Gò Vấp. Di cảo của Trương Vĩnh Ký gọi ao nầy bằng tiếng Khơ me là Prêk Kompong Kakoh. Cũng gọi Lão Nhông.

([2][61])       Nay gần chợ Hòa Bình, quận 1, TP Hồ Chí Minh.

([3][62])       Lân: Trong thời phong kiến, cứ một khu cư dân chừng 5, 7 nhà thì lập thành 1 lân. Chữ lân hàm ý "gồm các nhà lân cận nhau", tức xóm nhỏ.

([4][63])       Chữ福có thể đọc phúc hay phước, nhưng Nam Bộ luôn đọc các địa danh là Phước, như tỉnh Phước Long (cũ), huyện Phước Lễ, xã Tam Phước, tỉnh Phước Thành (cũ), v.v...

([5][64])       Hai bản chép khác.

([6][65])       Hai bản chép khác.

([7][66])       Chữ盛có thể đọc thịnh hay thạnh, nhưng các địa danh trong Nam Bộ chỉ đọc thạnh như quận Bình Thạnh (TP. Hồ Chí Minh), Thạnh Trị (tên huyện ở Sóc Trăng) v.v...

([8][67])       Nguyên văn viết Hanh (亨) tại địa phương đọc nhầm là Hạnh đã quen, không sửa được.

([9][68])       Hai bản chép khác.

([10][69])      Hai bản chép khác.

([11][70])      Chữ 仁 đọc nhân hay nhơn cũng được, nhưng Nam Bộ đọc nhơn.

([12][71])           Chữ泰đọc thái hay thới nhưng địa danh trong Nam Bộ đọc thới.

([13][72])      Chữ二đọc là nhị nghĩa là nhì, nhưng địa danh vùng Sài Gòn đọc là nhì.

([14][73])      Chữ政đọc chánh hay chính, nhưng địa danh Nam Bộ quen đọc chánh.

([15][74])      Nguyên văn viết新境đọc Tân Cảnh, nhưng Nam Bộ quen đọc Tân Kiểng.

([16][75])      Chữ周có thể đọc chu hay châu, nhưng Nam Bộ quen đọc là châu.

([17][76])      Hai bản chép khác.

([18][77])      Chữ 合 có thể đọc hiệp hay hợp, địa danh Nam Bộ quen đọc là hiệp.

([19][78])      Chữ 安 có thể đọc an hay yên, địa danh Nam Bộ quen đọc là an.

([20][79])      Chữ鳳có thể đọc phụng hay phượng nhưng Nam Bộ quen đọc phụng như đình Minh Phụng, ngã bảy Phụng Hiệp, tuồng Phụng Nghi đình v.v...

([21][80])      Nguyên văn chép芹突đọc là Cần Tọt. Chữ Nôm突có nghĩa là "Bỏ tọt vô họng". Đọc Cần Giọc nhầm vì các tự điển chữ Nôm không có chữ giọc. Đây chính là Cần Giuộc.

([22][81])      Chữ寶có thể đọc bảo hay bửu, nhưng Nam Bộ các địa danh quen đọc là bửu, như BửuHòa, Bửu Phong, Bửu Long...

([23][82])      Chữ 周泰có thể đọc Chu Thái hay Châu Thới, nhưng địa danh Nam Bộ quen đọc là Châu Thới.

([24][83]) Sông Đôi Ma là tên tiếng Nôm của Song Ma giang. Sông Đôi Ma chữ Nôm viết là 滝堆魔, còn Song Ma giang chữ Hán viết là雙魔江.

([25][84])      Chữ岡có thể đọc cương hay cang, nhưng Nam Bộ quen đọc cang.

([26][85])      Vùng Tây Ninh ngày nay.

([27][86])      Bản lưu trữ VHN chép Phước Thạnh (福盛).

([28][87])      Chữ潮có thể đọc triều hay trào, nhưng địa phương Đồng Nai đọc là triều: ví dụ như bưởi Tân Triều.

([29][88])      Bản VSH dịch là Bình Chiểu (Bt).

([30][89])      Chữ貴có thể đọc quý hay quới, nhưng Nam Bộ quen đọc là quới.

([31][90]) + (2) Xem lại chú giải ở từ Nữ Tăng phía trước. Núi Nữ Ni tức Thị Vải ở Bà Rịa. Núi Lượng Ni tức núi Vải Lượng ở gần xã An Hòa, Long Thành. Đọc Vải Lạng là không đúng tên địa phương.

([32][91])      福泰村: Đọc là thôn Phước Thái chớ không đọc Phước Thới. Làng chài này chuyên nấu nước mắm biển.

 


 

[45a] TRẤN ĐỊNH TƯỜNG

Đất trấn Định Tường khi mới được khai thác, dân ở đó bị phân ra lắm mối, bởi vì đất Nông Nại ([1][92]) quá rộng nên cần mộ dân đến ở. Trước hết là lập ra 2 huyện Phước Long ([2][93]) và Tân Bình ([3][94]), nhưng dân ở cũng chưa hết đất ([4][95]), đất ấy lại cách Biên Hòa và Phiên An hơi xa mà lại hiểm trở. Tình thế ấy chưa thể vội dùng pháp luật để ràng buộc được, cho nên phải tính toán bằng nhiều cách, bèn phải lập ra sổ biệt nạp, biệt đái gồm 9 khố trường là Qui An, Qui Hóa, Cảnh Dương, Thiên Mụ, Gian Thảo, Hoàng Lạp, Tam Rạch, Bả Canh và Tân Thạnh, để cho dân tùy nghi khai hoang lập ấp cho ngày càng rộng ra. Nhưng ở những nơi ven rừng dựa biển, vùng hẻo lánh lẻ tẻ, cũng có [45b] người làm ăn nương lợi chốn núi rừng chằm ao mà không có ai quản lý. Do đó mà phải lập ra trang, trại, man (chỗ cư dân ở liền nhau gọi là man, nghĩa giống như cỏ mọc lan ra tiếp nhau vậy), nậu (nậu là bừa ruộng làm cỏ, tục gọi đám đông là nậu, ý nói họp đông người lại để làm ruộng) để tập hợp dân chúng và tùy vào nghề nghiệp từng người mà nạp thuế má cho có hệ thống, cốt sao để ruộng đồng được mở mang khai khẩn thêm rộng mà thôi. Như vậy tuy là có sự hỗn tạp ngổn ngang nhưng tất cả đều được quy tập thành đầu mối.

Ban đầu ở xứ Mỹ Tho lập ra đạo Trường Đồn rồi dùng chức thư ký để làm việc. Năm Kỷ Hợi (1779) đời Thế Tổ Cao hoàng đế thứ 2, lập địa đồ, vạch ra địa giới của Trấn Biên, Phiên Trấn, Long Hồ, Hà Tiên và bỏ 9 khố trường biệt nạp, trừ các hạt trước đây tùy thuộc vào các nha [46a] thì lấy số dân và số ruộng ấy làm thành huyện Kiến Khang, lập ra dinh Trường Đồn, đặt các chức Lưu thủ, Cai bạ, Ký lục để cai quản, lỵ sở đặt ở giồng Kiến Định (tục gọi chỗ đất bốn phía bằng phẳng mà ở giữa nổi lên cao gọi là giồng), lãnh 1 huyện, 3 tổng.

Tân Sửu (1781) năm thứ tư, đổi thành dinh Trấn Định rồi dời lỵ sở qua chợ Mỹ Tho ở thôn Mỹ Chánh. Tháng Giêng năm Mậu Thìn (1808) niên hiệu Gia Long thứ 7, đổi thành trấn Định Tường, lãnh 1 phủ, 3 huyện, 6 tổng. Đây là vùng đất phì nhiêu, đất nước liền bến nhau. Phía đông giáp biển, tây giáp nước Cao Miên, bắt đầu từ Vàm Dừa, Rạch Cỏ, Tuyên Oai, sông Bát Chiên, chuyển quanh qua hướng bắc đến sông Hưng Hòa (tục gọi là sông Vũng Gù, tại địa đầu hai huyện Kiến Hưng và Kiến Hòa), xuống sông Tra Giang, xuôi đông ra cửa biển Lôi Lạp (Soi Rạp) theo dãy Trường Giang, bờ nam của dãy sông là ranh giới của trấn Định Tường. Phía nam từ thủ sở Hùng Ngự (Hồng Ngự) đạo Tân Châu theo Tiền Giang qua bắc ngoặt qua đông, theo sông Hàm Luông [46b] rồi thẳng đến cửa biển Ba Lai; bờ bắc sông ấy là ranh giới của trấn này. Từ đông sang tây cách 430 dặm rưỡi, từ nam đến bắc cách 348 dặm, từ lỵ sở đến thành Gia Định xa 149 dặm rưỡi. Đây là vùng ao chằm chằng chịt hiểm yếu, sông nguồn thông suốt. Danh mục thay đổi của phủ, huyện, tổng, thôn, ấp kê như sau:

PHỦ KIẾN AN (Trước là huyện, nay nâng lên thành phủ)

Lãnh 3 huyện, 6 tổng, 314 thôn ấp.


HUYỆN KIẾN ĐĂNG (Trước là tổng nay đổi làm huyện)

Gồm 2 tổng, 87 thôn. Phía đông giáp Rạch Chanh, kinh mới Ba Lai thuộc tổng Kiến Xương, huyện Kiến Hưng; Tây giáp phủ Cầu Nôm của nước Cao Miên; Nam lấy sông Tiền Giang, qua cửa sông lớn Hiệp Ân, Cái Sao (có chỗ chép là Cái Tử), Cổ Lịch của trấn Vĩnh Thanh làm giới hạn; Bắc giáp trấn Phiên An, gối đầu với biên giới Cao Miên, vòng qua sông dài Bát Chiên và Bát Đông.

[47a] TỔNG KIẾN HÒA ([5][96]) (mới đặt)

Gồm 44 thôn. Phía đông giáp kinh mới Ba Lai và sông Chanh, tổng Kiến Xương, huyện Kiến Hưng; Tây giáp tổng Kiến Phong, lấy nhánh nhỏ sông Bát Chiên thẳng đến cửa sông Mỹ Lương (tục gọi là Cái Thia ở thôn Mỹ Lương); Nam giáp Tiền Giang, dọc theo sông lớn Mỹ Lương, Ba Lai; Bắc giáp sông Bát Chiên và Bát Đông.

· Thôn Kim Sơn.      · Thôn Giao Long.

· Thôn Phú Phong.   · Thôn Bình Chánh Trung.

· Thôn Bình Chánh Đông.     · Thôn Bình Chánh.

· Thôn Mỹ Đông Chánh.       · Thôn Mỹ Hòa.

· Thôn Mỹ Đông Trung.         · Thôn Mỹ Đông.

· Thôn An Thủy Đông.          · Thôn Long Phú.

· Thôn Phú Hòa An. · Thôn An Thủy Tây.

· Thôn Tân Sơn.      · Thôn Long Điền (mới lập)

· Thôn Mỹ Quới.      · Thôn Mỹ Ân.

· Thôn Trà Luật (Luộc).         · Thôn Mỹ An.

· [47b]. Thôn Phú Long.        · Thôn Mỹ Trang.

· Thôn Mỹ Tường.   · Thôn Mỹ Trinh.

· Thôn Tân Hội.        · Thôn Tân Hòa.

· Thôn Hòa Thuận.   · Thôn Hữu Hòa Thanh Sơn.

· Thôn Hội Sơn.       · Thôn Xuân Sơn.

· Thôn Cẩm Sơn.     · Thôn Phú Thuận Đông.

· Thôn Bình Chánh Tây.        · Thôn Phú An.

· Thôn Bình Phú.     · Thôn Mỹ Hạnh Đông.

· Thôn Mỹ Hạnh Trung.         · Thôn Mỹ Hạnh Tây.

· Thôn Phước An.   · Thôn Phú Mỹ.

· Thôn Đông An.      · Thôn An Mỹ.

· Thôn Bình Hiệp (mới lập)    · Thôn Mỹ Hưng (mới lập)

TỔNG KIẾN PHONG (mới đặt)

Gồm 43 thôn. Phía đông giáp nhánh nhỏ của sông Bát Chiên, tổng Kiến Hòa, thẳng đến cửa sông Mỹ Lương; Tây giáp phủ Cầu Nôm của nước Cao Miên; Nam giáp các sông lớn Tiền Giang, Hiệp Ân [48a], Cái Sao, Cổ Lịch; Bắc giáp đoạn chảy ngang của sông Bát Chiên tiếp với đất Cao Miên.

· Thôn Tân Đức.      · Thôn Tân Hiệp.

· Thôn Tân Phú Sơn.           · Thôn An Bình Đông.

· Thôn An Bình Tây. · Thôn An Thành.

· Thôn Mỹ Chánh.    · Thôn Mỹ Thạnh.

· Thôn Hòa Mỹ.       · Thôn Mỹ Đức Đông.

· Thôn Mỹ Đức Tây. · Thôn Mỹ Thiện (Thiện Mỹ). ([6][97])

· Thôn Mỹ Lợi.        · Thôn Mỹ Lương.

· Thôn An Thới Đông.           · Thôn An Thới Trung.

· Thôn An Thới Tây. · Thôn Hòa Lộc.

· Thôn Mỹ Hưng.     · Thôn Mỹ Thuận.

· Thôn Mỹ An Đông. · Thôn Thanh Hưng.

· Thôn Mỹ An Tây.   · Thôn An Mỹ.

· Thôn Mỹ Long.      · Thôn Bình Hàn Tây.

· Thôn Bình Hàn Trung.        · Thôn Mỹ Toàn.

[48]· Thôn Mỹ Xương.          · Thôn Mỹ Đảo.

· Thôn Mỹ Lộc.        · Thôn Mỹ Định (mới lập).

· Thôn Mỹ Trà.         · Thôn Mỹ Nghĩa.

· Thôn Tân An.        · Thôn An Bình Long (mới lập).

· Thôn Tân Mỹ (mới lập).      · Thôn An Long (mới lập).

· Thôn Tân Phú (mới lập)      · Thôn Tân Thạnh (mới lập).

· Thôn Tân An (mới lập).       · Thôn Tân Khánh (mới lập).

· Thôn Tân Phú Đông (mới lập).        · Thôn Tân Khánh (mới lập).

· Thôn Tân Phú Đông (mới lập).


HUYỆN KIẾN HƯNG (Trước là tổng nay đổi thành huyện)

Gồm 2 tổng, 76 thôn. Phía đông giáp sông Bảo Định, chạy ngang đến cửa sông Mỹ Tho, chạy qua bờ đông nửa sông Kinh Đào là giới hạn; Tây giáp sông Rạch Chanh, kinh mới Ba Lai; Nam giáp các sông lớn Tiền Giang, Ba Lai, Mỹ Tho; Bắc giáp với trấn Phiên An và sông Bát Đông, Hưng Hòa.

TỔNG KIẾN THUẬN (mới đặt)

Có 39 thôn. Phía đông giáp sông Bảo Định chạy ngang đến cửa sông Mỹ Tho [49a] qua hạ khẩu Kinh Đào Ba Lai; Tây giáp kinh mới sông Chanh, tổng Hưng Xương dọc theo ngã ba Xã Quảng đến Vu Trạch (chằm Khoai) (tục gọi bưng Môn ([7][98])); Nam giáp Vu Trạch (chằm Khoai), tổng Hưng Xương cho đến sông An Đức (tục gọi là sông Xoài Mút ở thôn An Đức Chánh); Bắc giáp sông Bát Đông, Hưng Hòa.

· Thôn Thái Sơn.                                           · Thôn Phú An Tây.

· Thôn Phú An Lộc.                                       · Thôn Điều Hòa - Giang Trạm hoặc trạm sông.

· Thôn An Đức Chánh.                                  · Thôn Bình Tạo.

· Thôn An Hòa.                                             · Thôn Trung Lương.

· Thôn Đạo Ngạn.                                          · Thôn An Đức Đông.

· Thôn Long Hội.                                           · Thôn An Vĩnh.

· Thôn Cửu Viễn.                                          · Thôn Nghĩa Hữu.

· Thôn Thân Nhơn (trước là thôn Thân Phụ)    · Thôn An Thới.

· Thôn Nhơn Hòa.                                         · Thôn Long Hội Tây.

· Thôn An Thạnh.                                          · Thôn Tân Thạnh Trung.

·[49b] - Thôn An Phước.                               · Thôn Tân An.

· Thôn Long Thạnh.                                       · Thôn Mỹ Thuận Đông.

· Thôn Mỹ Thuận Tây.                                   · Thôn Bình Thuyên Đông.

· Thôn Vĩnh Kim Đông.                                  · Thôn Long Hưng.

· Thôn Bình Đông.                                         · Thôn Bình Thuyên Tây.

· Thôn Tân Đức Đông.                                   · Thôn Tân Đức Chánh.

· Thôn Hữu Đạo.                                           · Thôn Bình Sơn.

· Thôn Vĩnh Kim Tây.                                    · Thôn Mỹ Điền.

· Thôn Tân Phú                                             · Thôn Phú An.

· Thôn Tân Hưng (mới lập).

TỔNG HƯNG XƯƠNG

Gồm 37 thôn. Phía đông bắc giáp lạch nhỏ Xã Quảng, tổng Kiến Thuận, qua Vu Trạch (chằm môn nước) đến sông An Đức; Tây giáp tổng Kiến Hòa, ([8][99]) huyện Kiến Đăng, lấy lạch kinh mới Xã Quảng, Ba Lai làm giới hạn; Nam giáp Tiền Giang, Ba Lai, quành qua cồn Trà Luật Luộc xuống sông cái An Đức.

· [50a] - Thôn Hòa Mỹ.                                         · Thôn Tân Hiệp (mới lập)

· Thôn Tân Lý Tây.                                               · Thôn Tân Lý Đông.

· Thôn Tân Hương Tây.                                        · Thôn Tân Hương.

· Thôn Nhơn Hậu.                                                · Thôn Tân Hương Trung (mới lập)

· Hai Thôn Nhơn Lợi Lương, Hòa Lương Thạnh.    · Thôn Bình Quân.

· Thôn Nhơn Lý Tây (mới lập).                              · Thôn Bình Định.

· Thôn Nhơn Nhượng.                                          · Thôn Xuân Sanh.

· Thôn Nhơn Hậu Đông (mới lập).                          · Thôn Bình An.

· Thôn Nghĩa Lợi.                                                 · Thôn Dương Hòa.

· Thôn Tân Hội Đông.                                           · Thôn Tân Hội Tây.

· Thôn Vĩnh Hòa (mới lập).                                    · Thôn Phú Mỹ.

· Thôn Vĩnh Hòa Đông (mới lập).                           · Thôn Mỹ Thạnh (mới lập).

· Thôn Long Định.                                                · Thôn Tường Khánh.

· Thôn Bình An Đông (mới lập).                             · Thôn Phú Khương.

· Thôn Phú Thượng.                                             · Thôn Thân Hòa.

· Thôn Đông An.                                                  · Thôn Mỹ Phước

 [50b] - Thôn Tân Đông.                                        · Thôn Chánh Đông Trung.

· Thôn Tân Thạnh (mới lập)                                   · Thôn Tuyên Thạnh (mới lập).


HUYỆN KIẾN HÒA (Trước là tổng, nay đổi thành huyện)

Gồm 2 tổng, 151 thôn ấp. Phía đông giáp cửa Lôi Lạp (Soi Rạp) và Ba Lai (Đại Tiểu); Tây giáp tổng Kiến Thuận, huyện Kiến Hưng, lấy sông Bảo Định ngang qua sông lớn Mỹ Tho đến hạ khẩu sông Ba Lai làm giới hạn; Nam giáp trấn Vĩnh Thanh, lấy các sông Tiền Giang, Mỹ Tho và Ba Lai chảy ra biển làm giới hạn; Bắc giáp trấn Phiên An, lấy sông Hưng Hòa ([9][100]) làm giới hạn.

TỔNG KIẾN THẠNH (mới đặt)

Gồm 65 thôn. Phía đông giáp sông Tra Giang, tổng Hòa Bình, ngang qua các sông lớn Kỳ Hôn ([10][101]), Mỹ Tho, qua hạ khẩu Kinh Đào và sông Ba Lai; Tây giáp kinh Hưng Hòa, ngang qua sông lớn Mỹ Tho đến hạ khẩu sông Ba Lai; Nam giáp sông lớn Mỹ Tho; Bắc giáp sông Hưng Hòa (Hưng Lợi).

· [51a] - Thôn Mỹ Chánh.      · Thôn Phú Hội.

· Thôn Mỹ Hóa.       · Thôn Bình Hài.

· Thôn Bình Phong (mới lập).            · Thôn Long Hòa.

· Thôn Thanh Xuân.  · Thôn Bình Hạnh.

· Thôn An Hòa.        · Thôn Lương Phú.

· Thôn Phú An.        · Thôn Phú Đức.

· Thôn Mỹ Trung.     · Thôn Bình Trung Lộc.

· Thôn Bình Phú.     · Thôn Bình Trị.

· Thôn Nhơn Ngãi.   · Thôn Phú Lộc (mới lập).

· Thôn Bình Cang.    · Thôn Bình Nguyên.

· Thôn Bình Tâm.     · Thôn Phú Long.

· Thôn Bình Quới.    · Thôn Phú Đa (mới lập)

· Thôn Bình Hiệp.     · Thôn Bình Định Đông.

· Thôn Bình Công Tây.         · Thôn Ái Ngãi.

· Thôn Tân Nho.       · Thôn Tân Hòa.

· Thôn Bình Thanh.  · Thôn Đông An.

·[51b] - Thôn Tân Xuân.        · Thôn Tân Thạnh.

· Thôn Bình An.       · Thôn Bình Dương.

· Thôn Nhật Tân.      · Thôn An Khương.

· Thôn Phú Hòa.      · Thôn Phú Xuân.

· Thôn Bình Phước. · Thôn Tân Long Hưng.

· Thôn Mỹ Hội (mới lập).       · Thôn Tân An Tây.

· Thôn Tân Thủy.     · Thôn Phú Tây.

· Thôn Bình Thuận.  · Thôn Mỹ Đức (mới lập).

· Thôn Thanh Xuân Đông.     · Thôn Bình Thới (mới lập).

· Thôn Tân An.        · Thôn Tân Giang.

· Thôn Bình Đăng.    · Thôn Vĩnh Phước.

· Thôn Tân Mỹ (mới lập).      · Thôn Tân Thạnh Lợi.

· Thôn Hưng Ngãi.   · Thôn Long Trì.

· Thôn Long Hửu (Hựu).       · Thôn Tân Tịnh Đông (mới lập).

· Thôn Tân Tịnh.      · Thôn Điền Trang.

· Thôn Bình Thời.     · Thôn Mỹ Thuận.

·[52a] - Thôn Tân Hưng (mới lập).

TỔNG HÒA BÌNH (mới đặt)

Gồm có 86 thôn, phường, ấp, phía đông giáp cửa biển Lôi Lạp (Soi Rạp), Ba Lai (Đại, Tiểu); Tây giáp Tra Giang, ngang đến sông Kỳ (Cà) Hôn, Mỹ Tho, đến hạ khẩu Kinh Đào và sông Ba Lai; Nam giáp sông lớn Ba Lai; Bắc giáp sông Hưng Hòa.

· Thôn Bình Phú Đông.         · Thôn Bình Xuân (mới lập).

· Thôn Bình Sơn.     · Thôn Bình Hưng.

· Thôn Long Thạnh.  · Thôn Bình Phương.

· Thôn Bình Quang.  · Thôn Thuận Hòa (mới lập).

· Thôn Tân Hóa.       · Thôn Định An.

· Thôn Bình Thạnh.  · Thôn Toàn Thạnh.

· Thôn Bình Thủy.    · Thôn Bình Phục Nhì.

· Thôn Bình Phục Nhứt        · Thôn Bình Phục Nhứt Đông.

· Thôn Tân Nhựt.     · Thôn Bình Phú Chánh.

· Thôn Vĩnh Hữu (Hựu).        · [52b] · Thôn Vĩnh Lợi (mới lập)

· Thôn Vĩnh An (mới lập).     · Thôn Vĩnh Thạnh.

· Thôn Bình Long Tây.          · Thôn Bình Long.

· Thôn An Long Đông.          · Thôn An Long Tây.

· Thôn Tân Cang.     · Thôn Tân Câu Trung.

· Thôn Tân Câu Đông.          · Thôn Bình Nghị.

· Thôn Bình Ân.       · Hai thôn Tăng Huy, An Hòa.

· Thôn Toàn Phước.            · Thôn Tân Niên Đông.

· Thôn Tân Niên Tây.            · Thôn Dương Phước - Ấp An Phước.

· Thôn Tân Long.     · Thôn Tân Niên Trung.

· Thôn Bình Thạnh Đông.      · Thôn Bình Thuận Đông.

· Thôn Bình Thuận Tây.        · Thôn Bình Công

 Thôn Tân Phước.    · Thôn Miếu Ông.

· Thôn Giao Long.    · Thôn Phước An Đông.

· Thôn Phước Hòa.  · Thôn Tân Thạch An Hồ.

· Thôn Phước Thới. · Thôn Phước Hậu.

· Thôn Phú Vinh.     · [53a] - Thôn Hoàng Long Quới Sơn.

· Thôn Phước An Thạnh.      · Thôn Phước An Hòa.

· Thôn An Hải.         · Thôn Giao Hòa.

· Thôn An Hòa Tân.  · Thôn Long Phụng.

· Thôn Phú Thuận.   · Hai thôn Thanh Long - Long Thạnh.

· Thôn Phú Mỹ (mới lập)       · Thôn Châu Hưng.

· Thôn Thới Long (mới lập).  · Thôn Vinh Quới.

· Thôn Lộc Thuận.    · Thôn Tân Định.

· Thôn Long Hội (mới lập). ([11][102])               Thôn Phú Hòa (mới lập).

· Thôn Phước Thuận (mới lập)          · Thôn Lương Thạnh (mới lập)

· Thôn Bình Đại.      · Thôn An Lộc Tân (mới lập)

· Thôn Thới Hòa.     · Thôn Vinh Thạnh.

· Thôn Tân Phong.   · Thôn Long Thới Long Hòa.

· Thôn Phước Toàn - Thôn Phước Định.        · Thôn Phước Hạnh Tây.

· Thôn Phú Thạnh.   · Thôn Phú Mỹ (mới lập)

· Thôn Phước Hạnh (mới lập).          · Thôn Long Hưng (mới lập)

· [53b] - Thôn Bình Thành Đông (mới lập).      · Thôn Phước Hạnh Đông (mới lập).

· Thôn Vĩnh Đức Hòa (mới lập).

TRẤN VĨNH THANH

Trấn Vĩnh Thanh vào buổi đầu lập ra châu Định Viễn và dựng dinh Long Hồ đóng tại xứ Cái Bè, về sau dời qua ấp Long An ở thôn Long Hồ. Lãnh 1 châu, 4 tổng.

Năm Kỷ Hợi (1779) đời Thế Tổ Cao hoàng đế thứ 2, đổi tên gọi là dinh Hoằng Trấn, lỵ sở ở chỗ ngày nay tục gọi là bãi Bà Lúa. Năm Canh Tý (1780) thứ 3, vì nghĩ rằng khi nước Cao Miên hữu sự, ở xa khó bề chế ứng nên phải đem lỵ sở trở lại đất thôn Long Hồ rồi đổi tên là dinh Vĩnh Trấn. Năm Mậu Thân (1788) đầu thời Trung hưng, đem hai đạo Long Xuyên và Kiên Giang (trước thuộc trấn Hà Tiên) sáp nhập vào quản hạt, còn như phủ Ba Thắc (54a) vốn nơi người Cao Miên sinh sống thì bỏ ra quy vào thuộc địa Cao Miên.

Năm Mậu Thìn (1808) niên hiệu Gia Long thứ 7, đổi châu làm phủ, lại đổi tên Vĩnh Trấn ra trấn Vĩnh Thanh. Niên hiệu Gia Long thứ 9 (1810), đưa Long Xuyên và Kiên Giang trở về lại trấn hạt Hà Tiên. Ngày 22 tháng 2 niên hiệu Gia Long thứ 12 (1813), đắp thành trì, dựng công thự trên đất hai ấp Bình An và Trường Xuân thuộc thôn Long Hồ. Đây là vùng có dãy sông lớn ôm quanh, giữ thế quan yếu, đúng là phên giậu vững vàng của thành Gia Định, khống chế Cao Miên, hai con sông lớn (Tiền Giang và Hậu Giang) chẹn chỗ hiểm yếu, giao thông đường thủy hết sức tiện lợi, ruộng vườn cũng rất tốt tươi.

Phía đông giáp huyện Kiến Hòa thuộc trấn Định Tường, lấy chỗ sông lớn Ba Lai đổ ra biển làm giới hạn. Phía tây giáp 3 phủ Nam Vang, Lình Quỳnh và Chơn Giùm (Chan Sum) của nước Cao Miên. Nam giáp hai đạo Kiên Giang và Long Xuyên thuộc trấn Hà Tiên. Phía đông nam giáp biển lớn Ba Lai, Ngao Châu, Băng Côn (Cung), Ba Thắc và Mỹ Thanh. Phía bắc giáp huyện Kiến Đăng thuộc trấn Định Tường, lấy [54b] sông Tiền Giang làm giới hạn.

Từ đông sang tây cách 200 dặm rưỡi; nam đến bắc cách 350 dặm rưỡi, phía bắc đến thành lớn ([12][103]) là 240 dặm rưỡi. Trấn có nhiệm vụ trông coi 1 phủ, 4 huyện, 6 tổng. Danh mục đổi thay của phủ, huyện, tổng, thôn, phường, ấp kê như sau:

PHỦ ĐỊNH VIỄN (Trước là châu, nay nâng làm phủ)

Lãnh 4 huyện, 6 tổng, 353 thôn, phường, ấp, điếm (xóm), trại.

HUYỆN VĨNH BÌNH (Trước là tổng Bình Dương, nay đổi tên là huyện Vĩnh Bình)

Gồm 2 tổng, 100 thôn, ấp. Phía đông giáp Tiền Giang, lấy cù lao Tân Cù, thượng khẩu sông Hàm Long (Luông), Cần Thay, rồi ven theo nửa sông Cổ Chiên làm giới hạn; Tây lấy Ngư Câu tục gọi Cái Cá đến nửa sông Cái Vồn ([13][104]) làm giới hạn; Nam lấy Hậu Giang, từ Ba Thắc đến nửa sông Cái Vồn làm giới hạn; Bắc từ Ngư Câu (Cái Cá) đến cù lao Tân Cù làm giới hạn.

[55a] TỔNG VĨNH TRƯỜNG (mới đặt)

Gồm 52 thôn, ấp. Đông giáp tổng Tân Minh thuộc huyện Tân An, lấy từ cù lao Tân Cù đến thượng khẩu Cần Thay, xuống Mân Thít, dọc theo nửa sông Trà Ôn làm giới hạn; Tây giáp Ngư Câu (Cái Cá) đến nửa sông Cái Vồn; Nam giáp Hậu Giang lấy từ sông Cái Vồn rồi dọc theo Trà Ôn làm giới hạn; Bắc giáp Tiền Giang, từ Ngư Câu (Cái Cá) cù lao Tân Cù làm giới hạn.

· Thôn Long Hồ.       · Ấp Bình An.

· Thôn Trường Xuân.            · Thôn Thanh Mỹ.

· Thôn An Thành.     · Thôn Bình Lương.

· Ba Thôn Bình An, Bình Thạnh, An Cù.         · Thôn Phú Thuận.

· Thôn Phú Hòa.      · Thôn Bình Long.

· Thôn Tân Cù, Tân Bình.      · Thôn Phước Đức (trước là thôn Tân Hòa)

· Thôn Tân Thới.      · Thôn Tân Phú.

· Thôn Bình Phụng (mới đặt, trước là thôn Bình Thạnh)

· Thôn Phước Định. · [55b] - Thôn Phú Hưng.

· Thôn Phú Sơn.      · Thôn Phước Lộc (trước là thôn Tân Lộc).

· Thôn Bình Toàn.    · Thôn Bình Sơn.

· Thôn Bình Định.     · Thôn Mỹ Tường.

· Thôn Mỹ Thạnh.    · Thôn Sơn Đông.

· Thôn Hòa Mỹ.       · Thôn An Phú Hòa (trước là thôn Lâm An)

· Thôn Xuân Sơn.    · Thôn Tân Điền.

· Thôn Định Thới.     · Thôn Hòa Phú Đông (trước là thôn Sơn Hòa).

· Thôn Thủy Thuận.  · Thôn Tân Hạnh.

· Thôn Tân Mỹ Đông.           · Hai Thôn Tân Hợp, Phú An.

· Thôn Tân Hội (thôn Đông).  · Thôn Tân Phú Đông.

· Thôn Bình An.       · Thôn Phú Lộc.

· Thôn Phú Trường. · Thôn Mỹ Lợi (mới lập)

· Thôn Mỹ Thạnh Trung.       · Thôn Mỹ Phú Trung (mới lập).

· Thôn Long Hội.      · Thôn Bình Thắng (mới lập)

· Thôn An Hội.         · Thôn Tân Phước An (mới lập).

· Thôn Phú Trường Đông.     · [56a] - Thôn Long Cù.

· Thôn Hạnh Hoa (mới lập).   · Thôn An Thạnh Hòa (mới lập).

· Thôn Long Thạnh (mới lập).

TỔNG BÌNH CHÁNH (mới đặt)

Gồm 48 thôn. Phía đông lấy Láng Thé xuống nửa sông Cổ Chiên làm giới hạn; Tây lấy Ba Kè đến nửa sông Trà Ôn làm giới hạn; Nam lấy Hậu Giang, Trà Ôn đến Ba Thắc, Cổ Chiên làm giới hạn; Bắc lấy Mân Thít đến nửa sông Láng Thé làm giới hạn.

· Thôn Phước Trường.         · Thôn Phú Thới.

· Thôn Thới Bình.     · Thôn Cựu Phước Khánh.

· Thôn Thanh Lương.           · Thôn An Phú.

· Thôn Thái Khánh (trước là thôn Long Cang).

· Thôn Bình Thạnh ([14][105]) (trước là thôn Bình Thủy Thanh Tuyền)

· Thôn Phú Nhuận (trước là thôn Tân Hoan)   · Thôn An Toàn.

· Thôn Tân Hưng.    · Thôn Bình Thạnh (2) (mới lập).

· Thôn Quang Đức.  · Thôn Hiệp Ngãi (mới lập).

· Thôn An Trường (mới lập). · Thôn Phước Toàn (trước là thôn Bình Hòa)

· [56b] - Hai thôn Phú Đức, Bình Mỹ (mới lập)            · Thôn Long Thạnh.

· Thôn Tân Phú (trước là thôn Tân Toản)       · Thôn Tân Định.

· Thôn Vĩnh Trường.            · Thôn Long Hưng.

· Hai thôn Vĩnh Long, Vĩnh An.          · Thôn Phước Long.

· Thôn Cựu Phước Hòa.      · Thôn Long Tuyền (mới lập).

· Thôn Long Hậu, Mỹ Lý.      · Thôn Hoàng Long.

· Thôn Tân An Tây.  · Thôn Tường Lộc.

· Thôn Thới Hòa (mới lập).    · Thôn Vĩnh Hưng.

· Thôn An Thạnh Mỹ.           · Thôn Long An (trước là thôn Tân Thạnh).

· Thôn Long Thới.    · Thôn Long Trị (mới lập).

· Thôn Long Phước.            · Thôn Hòa Hữu (mới lập).

· Thôn An Thái Trung (mới lập)          · Thôn Long Vĩnh.

· Thôn Long Phú.     · Thôn Long Khánh.

· Thôn Cựu Long An (mới lập).          · Thôn Phước Thọ.

· Thôn Phú An.        · Thôn Long Định (mới lập).

· Thôn An Thạnh (mới lập)

· [57a] - Thôn Tứ chiếng Mỹ Hòa (mới lập) - {tục gọi người bốn phương là tứ chiếng (正) Bởi vì quy tập dân lưu tán bốn phương để lập thành thôn chứ không phải do ông cha truyền lại}, (chữ chiếng viết 政 là nhầm).

HUYỆN VĨNH AN (Trước là tổng Bình An, nay đổi làm huyện)

Gồm 2 tổng, 81 thôn, phường. Phía đông giáp huyện Vĩnh Bình, lấy Ngư Câu (tục gọi là Cái Cá) ngang qua ngòi nhỏ Đồ Bà (Chà Và) đến cửa sông Cái Vồn; Tây giáp phủ Nam Vang của Cao Miên, lấy cửa sông Tiền Giang ngang đến thượng khẩu Hậu Giang làm hạn. Nam giáp huyện Vĩnh Định, lấy từ thượng khẩu của Hậu Giang xuống đến cửa sông Cái Vồn làm hạn; Bắc từ thượng khẩu Tiền Giang quanh các cù lao Cái Vừng, Tây, Tân, Trâu, Long Ẩn, Cai Nga, Tân Phụng, Vĩnh Tường đến bờ Nam cửa sông Cái làm hạn.

TỔNG VĨNH TRINH (mới đặt)

Có 29 thôn. Phía đông giáp tổng An Trung, lấy thượng khẩu sông Cái Tàu [57b] thẳng đến thủ Cường Oai (tục gọi là Lấp Vò) làm hạn; Tây giáp phủ Nam Vang của Cao Miên, lấy thượng khẩu hai con sông (Tiền, Hậu) làm giới hạn; Nam giáp huyện Vĩnh Định, lấy thượng khẩu Hậu Giang, qua Châu Đốc đến Cường Oai làm hạn; Bắc từ thượng khẩu Tiền Giang quanh đến các cù lao Cái Vừng, Tây, Tân, Trâu, đến thượng khẩu sông Cái Tàu làm hạn.

· Thôn Tân Phú Lâm.           · Thôn Long Sơn (mới lập).

· Thôn Long Khánh (mới lập).            · Thôn Mỹ Lương (mới lập).

· Thôn Tân Hưng.    · Thôn Tân Điền (trước là thôn Tân Tú).

· Thôn Tân Thuận.    · Thôn Nhơn Hòa Trung (mới lập).

· Thôn Tân Hòa.       · Thôn Mỹ Hưng.

· Thôn Mỹ Chánh.    · Thôn Phú Hưng (mới lập).

· Thôn Phú An Đông.           · Thôn Tân Thới.

· Thôn Toàn Đức.    · Thôn Toàn Đức Đông.

· [58a] - Thôn Tân Phước (mới lập).  · Thôn Tân Tịch.

· Thôn Tùng Sơn.    · Thôn Mỹ Long.

· Thôn Mỹ Phú.       · Thôn Bình Thành Tây.

· Thôn Bình Thạnh Đông.      · Thôn Bình Thạnh Hòa (mới lập).

· Thôn Nhơn Lợi Trung, Tân An (mới lập).      · Thôn Tiến An (mới lập).

· Thôn Thái Bình (mới lập).   · Thôn Mỹ Khánh (mới lập).

· Thôn Tân Long.

TỔNG VĨNH TRUNG (mới đặt)

Gồm 52 thôn, phường. Phía đông giáp tổng Vĩnh Trường, huyện Vĩnh Bình, lấy Tiền Giang, Ngư Câu (Cái Cá) đến ngòi nhỏ Đồ Bà (Chà Và) cho đến cửa sông Cái Vồn; Tây giáp tổng Vĩnh Trinh, từ thượng khẩu sông Cái Tàu đến nửa sông Cường Oai; Nam giáp huyện Vĩnh Định, từ Hậu Giang, Cường Oai đến bờ Bắc sông Cái Vồn làm giới hạn; Bắc từ Tiền Giang, thượng khẩu Cái Tàu, quành [58b] qua các cù lao Long Ẩn, Cai Nga, Tân Phụng, Vĩnh Tùng (Tòng) cho đến Ngư Câu (Cái Cá) làm giới hạn.

· Thôn Mỹ An.                                            · Thôn Cựu Hội An.

· Thôn Tân Mỹ.                                           · Thôn Tân An Trung.

· Thôn Nhơn Quới (mới lập).                        · Thôn Tân Long.

· Thôn Long Hậu.                                        · Thôn Bình An (trước là thôn Vĩnh Thạnh).

· Thôn Tân Bình.                                         · Thôn Nhơn Hòa (mới lập).

· Thôn Tân Xuân.                                        · Thôn Tân Lâm.

· Thôn An Tịch.                                           · Thôn Tân Phụng.

· Phường Sùng Văn.                                  · Thôn Vĩnh Phước (trước là thôn Tân Quy).

· Thôn Tân Phú Đông.                                 · Thôn Tân Phú Trung.

· Thôn Bình Tiên.                                        · Thôn Long Phụng (trước là thôn Tân Phú Tây).

· Thôn Tân Quy Tây.                                   · Thôn Tân Quy Đông.

· Thôn Tân Đông.                                        · Thôn Tân Khánh.

· Thôn Tân Khánh Tây.                                · Thôn Tân Triều.

· Thôn Tân Thạnh.                                       · Thôn Định An Phú.

· [59a] - Thôn Định Hòa.                              · Thôn Tân Lộc Trung.

· Thôn Đông Thành Trung.                           · Thôn Phú Lộc.

· Thôn Bình Lữ.                                          · Thôn Tân Hoa.

· Thôn Vĩnh Tùng (Tòng).                             · Thôn Tân Hạnh.

· Thôn Tân Sơn.                                         · Thôn Tân Hội.

· Thôn Phú Hữu (Hựu).                               · Thôn An Thuận.

· Thôn Tân Nhơn.                                       · Thôn Tân An Đông.

· Thôn Tân Hữu (Hựu)                                 · Thôn An Hòa Đông (mới lập)

· Thôn Phú An.                                           · Thôn Đông Thành.

· Thôn Mỹ Thuận.                                       · Thôn Tân Giai - Giang trạm hay xóm sông.

· Thôn Phú Hội.                                          · Thôn Tân Hòa (mới lập).

· Thôn Tân Lộc.                                          · Thôn Phước Hậu - Giang trạm hay trạm sông.


HUYỆN VĨNH ĐỊNH

(Trước đây huyện này thuộc tổng Bình An. Năm Gia Long thứ 7 (1808), đưa thêm Hậu Giang vào, từ sông nhỏ Tham Lung sang phía tây thuộc về tổng Vĩnh An, huyện Vĩnh Trinh. Từ sông Tham Lung đi về đông đến Cần Thơ thuộc tổng An Trung; từ Cần Thơ đi về đông đến cửa bể Ba Thắc thuộc tổng Bình Chánh, huyện Vĩnh Bình.

Ngày mồng một tháng 5 năm Gia Long thứ 15 (1816), sửa đổi, quy định lại: Phàm từ Hậu Giang đi về đông, từ cửa biển Ba Thắc đi về tây đến phía nam nửa sông Châu Đốc cho đến các cồn bãi và các thôn, xóm trên sông gom lại làm một, đặt thành huyện Vĩnh Định, địa giới tuy rộng nhưng dân còn thưa thớt, nên chưa phân tổng. Nay y như thế)

Phía đông giáp biển; Tây giáp đất ba phủ Nam Vang, Linh Quỳnh và Chơn Giùm của nước Cao Miên; Nam giáp đất Kiên Giang và Long Xuyên (Cà Mau) của trấn Hà Tiên, bắt đầu từ thượng khẩu Hậu Giang, qua hạ khẩu sông mới đào Vĩnh Tế của Châu Đốc, đến hạ khẩu Thoại Hà, cho đến Ba Lãng, Bãi Xàu ra cửa biển Mỹ Thanh làm hạn; Bắc giáp 2 tổng Vĩnh Trinh ([15][106]) và Vĩnh Trường thuộc huyện Vĩnh An, qua tổng Bình Chánh huyện Vĩnh Bình, từ thượng khẩu Hậu Giang đến bờ nam sông ra cửa biển Ba Thắc. Cộng tất cả là 37 thôn, xóm.

· Thôn Bình Thạnh Tây.        · Thôn Bình Trung (mới lập).

· Thôn Bình Lâm (mới lập).   · Thôn Bình Đức (mới lập).

· Thôn Mỹ Phước (mới lập). · Thôn Mỹ Thạnh.

· Thôn Đại Hữu.       · Thôn Thới Thuận (mới lập).

· Thôn Thới Hòa Trung.        · Thôn Tân Thuận Đông.

· Thôn Tân Lộc Đông.           · Thôn Thới Hưng.

· Thôn Thới An.       · Thôn Thới An Đông.

· Thôn Bình Thủy.    · Thôn Thới Bình.

· Thôn Tân An.        · Thôn Tân Thạnh.

· Thôn Tân Nhơn.    · Thôn Tân Phú Đông.

· Thôn Phú Mỹ Đông.           · Thôn An Lạc (mới lập).

· Thôn Long Phú (mới lập)    · Thôn Tân Thạnh Đông (mới lập)

· Thôn An Thanh Nhứt.         · Thôn Đại Hòa.

· Thôn An Thạnh Nhì.           · Thôn An Hòa (mới lập).

· Thôn Hòa Mỹ.       · Thôn Châu Quới An.

· Thôn Mỹ Hội Đông.            · Thôn Long Hưng.

· Thôn Mỹ Đức.       · Thôn Tân Lợi.

· Điếm An Thạnh.    · Điếm Tân Thạnh.

· Thôn Cựu Vĩnh Thạnh Hậu Giang.


HUYỆN TÂN AN
(Trước là tổng, nay đổi thành huyện)

Gồm 2 tổng, 135 thôn, trại. Phía đông giáp biển Ba Lai, Ngao Châu, Băng Côn (Cung), Cổ Chiên; Tây giáp thượng khẩu Cần Thay đến sông lớn Hàm Long (Luông); Nam giáp thượng (60b) khẩu Cần Thay đến nửa sông Cổ Chiên; Bắc giáp những sông Tiền Giang, Hàm Long (Luông), Sốc Sãi, Ba Lai.

TỔNG TÂN MINH (mới đặt)

Gồm 73 thôn. Phía đông giáp các cửa biển Ngao Châu, Băng Côn (Cung), Cổ Chiên; Tây giáp thượng khẩu Cần Thay cho đến Hàm Long (Luông); Nam giáp thượng khẩu Cần Thay cho đến Cổ Chiên; Bắc giáp hạ khẩu Cần Thay xuống đến Ngao Châu.

· Thôn Bình An.       · Thôn Bình Thanh.

· Thôn Thanh Tịnh.   · Hai thôn Tân Lương - Bình Chánh Nhì.

· Thôn Bình Trung.   · Thôn Thanh An.

· Thôn Thanh Hòa.   · Thôn Phú Thạnh.

· Thôn Tân Nhuận.   · Thôn Tân Quới.

· Thôn Vĩnh Khánh.  · Thôn Bình Hợp.

· [61a] - Hai thôn Bình Phụng (mới lập) - Bình Long Nhì.

· Thôn An Lộc.        · Thôn Lộc Hòa.

· Thôn Phú Thuận (trước là thôn Tân Hiệp).    · Thôn Vĩnh Hội.

· Thôn Vĩnh Hòa.     · Thôn Vĩnh Thuận.

· Thôn Tân Phụng.   · Thôn Long An.

· Thôn Gia Khánh.   · Thôn Tân Nhơn.

· Thôn Nguyên Khánh.         · Thôn Long Cù.

· Thôn Đông Thành.

· Thôn Khánh Hòa (mới lập - trước là thôn An Mỹ).

· Thôn Tân Phú Đông.          · Thôn Phước Hạnh.

· Thôn Trung Mỹ.     · Thôn Phú Mỹ.

· Thôn Mỹ Sơn.       · Thôn Mỹ Thạnh (mới lập).

· Thôn Tân Ngãi.

· Thôn Gia Thạnh (mới lập - trước là thôn Tân Thạnh).

· Thôn Thanh Long.  · Thôn Tân Thiện.

· Thôn Tân Thông.    · Thôn Thanh Xuân.

· Thôn Thanh Sơn.   · Thôn Tân Viên.

· Thôn An Hòa.        · Thôn Hội An

· Thôn Bình Trạch.   · [61a] - Thôn Tân Điền.

· Thôn An Thới.       · Thôn Phú Thạch (trước là thôn Thới Thạnh).

· Thôn Cẩm Sơn.     · Thôn Thới Hòa (mới lập).

· Thôn Trường Lộc.  · Thôn Tân Thanh Tây.

· Thôn Tân Đức.      · Thôn Thanh Thủy.

· Thôn Long Thạnh (trước là thôn Long Hóa).  · Thôn Tân Thành.

· Thôn Định Phước. · Thôn Tân Hậu. ([16][107])

 Thôn Phước Khánh.            · Thôn Phú An Định.

· Thôn Tân Trung.    · Thôn Tân Hương.

· Thôn Mỹ Điền.       · Thôn Phú Khánh (trước là thôn Tân Hóa).

· Thôn An Quy.        · Thôn Long Điền (mới lập).

· Thôn Giao Thạnh (mới lập).            · Thôn Toàn Phú Đông (mới lập).

· Thôn Tân Lộc Trung.          · Thôn Giao Long (mới lập).

· Thôn An Vĩnh (mới lập).     · Thôn An Thạnh.

· Thôn Vĩnh Thành.  · Thôn Hòa Thạnh (mới lập).

[62b] TỔNG AN BẢO (mới đặt)

Gồm 63 thôn trại. Phía đông giáp bể Ba Lai, Ngao Châu; Tây giáp thượng khẩu Cần Thay và Hàm Long (Hàm Luông), Bình Thủy (tục gọi Sóc Sãi ở địa phận thôn Bình Thủy); Nam giáp tổng Tân Minh, lấy hạ khẩu sông Cần Thay đến nửa sông Cổ Chiên làm giới hạn; Bắc giáp Bình Thủy đến biển Ba Lai.

· Thôn Hàm Long (Luông).    · Thôn Hòa Thủy.

· Thôn Phụ Long.     · Thôn Mỹ Phú (mới lập).

· Thôn Tiên Thủy.     · Thôn Tiên Thủy Tây.

· Thôn Sơn An.       · Thôn Sơn Hòa.

· Thôn Sơn Thuận.   · Thôn Mỹ Thành.

· Thôn Phú Lợi.       · Thôn Phú An Nhuận Đức.

· Thôn Phú Khương.            · Thôn Tân Thành Đông.

· Thôn Phú Tự.        · Thôn Phú Hưng.

· Thôn Tân Sơn.      · Thôn Tân Điền.

· Thôn Mỹ An.         · Thôn Long Thạnh.

· [62b] - Thôn Long Hưng.    · Thôn Hưng Thạnh.

· Thôn Tân Hào.       · Thôn Tân Hào Đông.

· Thôn Tân Định.      · Thôn Tân Thanh Đông.

· Thôn Tân Thanh Trung.       · Thôn Cựu Tân Hưng (mới lập).

· Thôn An Toàn (trước là thôn An Lý).            · Thôn An Ngãi Tây.

· Thôn An Ngãi Trung.          · Thôn An Hòa Đông.

· Thôn Vĩnh Đức Tây.           · Thôn Vĩnh Đức Đông.

· Thôn Vĩnh Đức Trung.        · Thôn An Bình Đông.

· Thôn An Bình Tây. · Thôn Phú Long Tây.

· Thôn Tân Hòa.       · Thôn An Thủy (mới lập).

· Thôn Tân Thuận (mới lập).  · Thôn Tân Thủy.

· Hai thôn Bình Thủy Tây, Bình Thủy Đông.    · Thôn Phú Quới.

· Thôn Phước Đức. · Thôn Phước Lộc.

· Thôn Phước Tường.          · Hai thôn Phước An Trung, Phước An Chánh.

· Thôn Phước An Thạnh.      · Thôn Phú An Thuận.

· Thôn Định Hòa (mới lập).    · Thôn Châu Thới.

· Thôn Bình Hòa.     · Hai thôn Phước Thạnh, Long Thạnh.

· Thôn Châu Bình.    · Thôn Mỹ Nhơn.

· Thôn Tân Trang.

· Thôn Bình Định (mới lập, trước là thôn Tân Long).

· Thôn Phước Long.            · Thôn Phú Long Đông.

· Thôn Tân Thạnh (mới lập).  · Thôn Tân Xuân.

· Trại Giồng Dừa.

 


([1][92])       Nông Nại (農耐): Chỉ chung Phiên Trấn và Trấn Biên thời trước.

([2][93])       Phước Long (福隆): Là huyện thuộc Trấn Biên.

([3][94])       Tân Bình (新平): Là huyện thuộc trấn Phiên An

([4][95])       Đất ấy (Kỳ địa...): Chỉ đất trấn Định Tường, phủ Kiến An.

([5][96])       Bản in kèm bản dịch của VSH chép Kiến Chế (建制)

([6][97])       Hai bản chép khác.

([7][98])       Nguyên văn viết ©門đọc là bưng Môn, tức bưng có nhiều môn nước. Chữ Nôm môn là khoai môn, viết đủ là菛, nhưng Trịnh Hoài Đức hay viết bỏ thảo đầu nên còn là門.

([8][99])       Bản in kèm bản dịch của VSH chép Kiến Lợi (建利).

([9][100])      Bản VHN lưu trữ chép là Hưng Lợi (興利)

([10][101])     Có người âm là Cà Hôn.

([11][102])     Bản của VSH dịch là thôn Tân Hội (Bt).

([12][103])     Chỉ thành Gia Định.

([13][104])     Nằm ở bờ bắc Bắc (phà) Cần Thơ ngày nay. Xưa đây là nơi cát cứ của tướng giáo phái Hòa Hảo Năm Lửa Trần Văn Soái, có chợ Bà tức bà Phàn Lê Huê - biệt danh của vợ tướng Năm Lửa.

([14][105]) và (2) Hai thôn trùng tên nhau? (Bt)

([15][106])     Bản in kèm bản của VSH chép là Vĩnh Chân (永真). Vì chữ chân (真) và chữ trinh (貞) tự dạng giống nhau.

([16][107])     Bản dịch của VSH là Tân Khánh (Bt).

 


 

[63b] TRẤN HÀ TIÊN

Hà Tiên vốn là đất cũ của Chân Lạp, tục gọi là Mường Khảm, tiếng Tàu gọi là Phương Thành ([1][108]). Ban đầu có người tên là Mạc Cửu gốc xã Lê Quách, huyện Hải Khang, phủ Lôi Châu, tỉnh Quảng Đông, vào thời Đại Thanh, niên hiệu Khang Hy thứ 19 (1680), nhà Minh mất hẳn. (Năm thứ 3 niên hiệu Thuận Trị nhà Đại Thanh, toàn thể vùng Mân (Phước Kiến) đều bị bình định xong. Ở Quảng Đông còn Quế vương Do Lang chiếm cứ Triệu Khánh. Đường vương Duật Áo (Úc) ([2][109]), chiếm cứ Quảng Châu, tuy quân Thanh có xuống cố sức đánh nhưng vẫn không bình định ngay được. Anh hùng hào kiệt hận kẻ địch nhân đó cũng nổi lên kinh dinh cứ địa như Cù Thức Cử (Tỷ), Trần Tử Tráng, Lý Thành Đống, Lý Tiệp Kiến ([3][110]), Lý Định Quốc. Đám này tương đối có tài thao lược. Còn những đám tài nghệ tầm thường khác chiếm một châu, một huyện không phải là ít. Trong khoảng đời Khang Hy, Thượng Chi Tín chiếm Quảng Châu, Dương Nhị, Dương Tam chiếm Việt Hải, Trương Tinh Diệu chiếm Thiều Châu, Lưu Tấn Trung chiếm Triều Châu, Lý Sơn Quan chiếm Tân Hội, Tổ Trạch Thanh chiếm Cao Châu, Diệp Hồng Kỳ chiếm Liêm Châu. Mãi đến năm Khang Hy thứ 19, vùng Quảng Đông mới bình định xong). Mạc Cửu không khuất phục chính sách buổi đầu của nhà Đại Thanh, mới chừa tóc rồi chạy qua phương Nam, trú tại phủ Nam Vang nước Cao Miên. Ông thấy ở phủ Sài Mạt của nước ấy, người Việt, người Trung Hoa, Cao Miên, Đồ Bà (Chà Và) các nước tụ tập mở trường đánh bạc để lấy xâu, gọi là thuế hoa chi, bèn thầu mua thuế ấy, lại còn đào được một hầm bạc nên bỗng trở thành giàu có. Từ đó ông chiêu mộ người Việt Nam lưu tán ở các xứ Phú Quốc, Lũng Kè, Cần Bột ([4][111]), Vũng Thơm ([5][112]), Rạch Giá, Cà Mau lập thành 7 xã thôn. Tương truyền ở đây thường có tiên xuất hiện trên sông, do đó [64a] mới đặt tên là Hà Tiên (tiên trên sông). Mạc Cửu còn sai thuộc hạ là Trương Cầu, Lý Xá dâng biểu trần trình lên kinh đô Phú Xuân khẩn cầu xin được đứng đầu trông coi đất ấy.

Tháng 8 mùa thu năm thứ 18 Mậu Tý (1708) đời Hiển Tông Hiếu Minh hoàng đế (Quốc chúa Nguyễn Phúc Chú) (Lê Dụ Tông niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 4, Đại Thanh Khang Hy thứ 47), chuẩn ban cho Mạc Cửu làm Tổng binh trấn Hà Tiên và phong tước là Cửu Ngọc hầu ([6][113]). Mạc Cửu lo xây dựng dinh ngũ và đóng binh tại Phương Thành (Hà Tiên), từ đó dân càng qui tụ đông đúc.

Tháng 4 mùa hạ năm thứ 21, Tân Mão (1711) (Lê Dụ Tông niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 7, Đại Thanh Khang Hy thứ 50), Tổng binh trấn Hà Tiên Cửu Ngọc hầu Mạc Cửu đến cửa khuyết tạ ơn.

Tháng 5 mùa hạ năm thứ 11, Ất Mão (1735) đời Túc Tông Hiếu Ninh hoàng đế (Đỉnh Quốc Công Nguyễn Phúc Chú) (Lê Ý Tông niên hiệu Vĩnh Hựu năm đầu, Đại Thanh [64b] Ung Chính thứ 13), Tổng binh Hà Tiên Cửu Ngọc hầu Mạc Cửu mất, thọ 78 tuổi, con trưởng dòng chánh là Mạc Tông tự là Thiên Tứ (hiệu Sĩ Lân Thị, Thụ Đức Hiên) dâng cáo tang.

Tháng 2 mùa xuân năm thứ 12, Bính Thìn (1736) (Năm thứ 2 niên hiệu Vĩnh Hựu đời vua Lê Ý Tông, năm đầu niên hiệu Càn Long nhà Đại Thanh), vua chuẩn cho Thiên Tứ được kế tập, lại thăng làm Khâm sai Đô đốc, phong tước Tông Đức hầu và ban cho 3 chiếc thuyền Long Bài, lại còn cho miễn thuế thuyền, hàng năm cho thuyền ra hải ngoại mua sắm vật quý để tiến nộp lên kinh. Lại còn gia ân cho mở một lò đúc tiền nữa. Thiên Tứ lo đặt văn võ nha thuộc, tuyển chọn binh lính, xây dựng công thự, đắp thành lũy, quy hoạch đường sá chợ búa, từ đó thuyền buôn các nước đều cập bến ấy.

Mạc Thiên Tứ còn chiêu tập các nhà văn học tài nghệ, do đó văn nhân tỉnh Phúc Kiến như Châu (Chu) Phác, Trần Minh Hạ, Châu Cảnh Dương, Ngô Chi Hàn, Lý Nhân Trường, Trần Duy Đức, Trần Dược Uyên, Trần [65a] Tự Nam, Từ Huyễn, Lâm Duy Tắc, Tạ Chương, Đan Bỉnh Ngự, Vương Đắc Lộ, Từ Hiệp Bùi, Từ Đăng Cơ; văn nhân tỉnh Quảng Đông như Lâm Kỳ Nhiên, Tôn Thiên Thoại, Lương Hoa Phong, Tôn Văn Trân, Lộ Phùng Cát, Thang Ngọc Sùng, Dư Tích Thuần, Trần Thoại Phụng, Lư Triệu Oánh, Trần Thiệp Tứ, Vương Húc, Hoàng Kỳ Trân, Trần Bá Phát; người phủ Triệu Phong như Phan Đại Quảng, Nguyễn Nghi, Trần Ngoan, Đặng Minh Bổn; người phủ Gia Định như Trịnh Liên Sơn, Lê Bá Bình, nhà sư Phật giáo người phủ Quy Nhơn là đại hòa thượng Hoàng Long; đạo sĩ tỉnh Phúc Kiến là Tô Dần tiên sinh, nối gót nhau đến. Mạc Thiên Tứ lập ra Chiêu Anh các, mua sắm sách vở, thường ngày ông cùng các nhà Nho luận bàn kinh sách, lại có thơ vịnh 10 cảnh ở Hà Tiên, được rất nhiều người hưởng ứng họa theo, từ đó văn phong mới nổi tiếng cả một dọi biển ấy. (Tông Đức hầu có khắc bản in Hà Tiên thập vịnh và Minh Bột di ngư truyền lại cho đời).

[65b] Tháng 8 mùa thu năm thứ 10 Đinh Mão (1747) đời Thế Tông Hiếu Võ hoàng đế (Võ vương Nguyễn Phúc Khoát) (Năm thứ tám niên hiệu Cảnh Hưng đời vua Lê Hiển Tông. Năm thứ 12, đời vua Càn Long nhà Đại Thanh), có bọn giặc bể ngụy xưng là Võ vương Đức Bụng cướp thuyền Long Bài của Hà Tiên ở ngoài biển Long Xuyên (Cà Mau). Trước đó vào tháng tư, Tông Đức hầu sai người cưỡi thuyền Long Bài mang chén ngọc thủy hỏa mỗi thứ 1 cái, 20 con hạc đầu đỏ ([7][114]) (20 viên ngọc Hạc đính), 1 con gà tây ([8][115]), 1 con chó ngao phương Tây ([9][116]), chim anh vũ ngũ sắc mỗi thứ 1 con, vải phương Tây, chiếu lăng văn, chiếu đằng hoa, cùng các vật quý để hiến dâng về kinh. Vua ban cho bằng bổ dụng: 2 đạo sắc cai đội, 2 đạo sắc đội trưởng cùng gấm đoạn và vật dụng khác. Tháng 8, đoàn tàu Long Bài về đến hải phận Long Xuyên (Cà Mau) thì gặp hải tặc là ngụy Võ vương tên Đức Bụng (y là người phủ Quy Nhơn, tên là Đức, vì bụng của y quá to nên mới gọi là Đức Bụng), chúng đã biết trước nên chờ rình ở ngoài biển để cướp lấy. Tông Đức hầu được tin, tức khắc sai người rể là Ngũ nhung Cai đội Kỳ Tài hầu Từ Hữu [66a] Dụng dùng 10 chiếc tàu lớn ra bắt được 4 tên trong đảng cướp giết đi. Đức Bụng chạy trốn sang vùng biển Ba Thắc. Tông Đức hầu đem việc ấy trình với thành Gia Định xin Điều khiển quan chia đường tìm bắt. Năm sau mới bắt được và xử lăng trì, từ đó dư đảng mới được dẹp yên.

Năm thứ 18, Ất Hợi (1775) (Năm thứ 16 niên hiệu Cảnh Hưng đời vua Lê Hiển Tông. Năm thứ 20 đời vua Càn Long nhà Đại Thanh), nước Cao Miên chống mệnh, quan quân phải đi chinh phạt, vua nước ấy là Nặc Ong Nguyên chạy sang Hà Tiên, Tông Đức hầu thay lời đề tấu rốt lại xin được dâng đất để khỏi tội.

Năm thứ 20, Đinh Sửu (1757) (Năm thứ 18 niên hiệu Cảnh Hưng đời vua Lê Hiển Tông. Năm thứ 22 đời vua Càn Long nhà Đại Thanh), nước Cao Miên có binh biến, vương tôn Nặc Ong Ton chạy sang Hà Tiên và xin được làm con nuôi của Tông Đức hầu. Tông Đức hầu đem việc ấy tâu lên, vua phong cho Nặc Ong Ton được làm Quốc vương nước Cao Miên, rồi cho quân hộ tống về lấy lại nước. Sau khi mọi việc đã yên, Nặc Ong Ton lấy đất 5 phủ Chơn Giùm, Sài Mạt, Linh [66b] Quỳnh, Cần Vọt và Vũng Thơm dâng cho Tông Đức hầu để tạ ơn đã nuôi nấng che chở cho đến ngày thành tựu. Tông Đức hầu đem đất ấy dâng lên triều đình, triều đình chuẩn nhận đất 5 phủ ấy nhưng vẫn cho thuộc vào trấn hạt Hà Tiên. Tông Đức hầu còn lập đạo Kiên Giang ở Rạch Giá, đạo Long Xuyên ở Cà Mau ([10][117]) và đặt chức quan lại để trông coi.

Tháng 8 mùa thu năm thứ 2, Bính Tuất (1766) (Năm thứ 27 niên hiệu Cảnh Hưng đời vua Lê Hiển Tông. Năm thứ 31, đời vua Càn Long nhà Đại Thanh) đời Duệ Tông Hiếu Định hoàng đế (Định vương Nguyễn Phúc Thuần), có thám tử của Hà Tiên từ Xiêm La về báo rằng vua Phung của nước Xiêm (vua nước Xiêm mắc bệnh phong cùi cho nên người nước ấy gọi vua này là Phong(Phung) vương) đã chuẩn bị chiến tháp (thuyền chiến của nước Xiêm gọi là tháp, nó giống như chiếc tam bản phương Tây nhưng rất to, thủy thủ ngồi xây mặt lại sau mà chèo), binh lính họ sẽ đến đánh trấn Hà Tiên. Lúc ấy Phong vương ưa dùng võ lực để xâm chiếm, gây thù oán với các nước láng giềng, chính sự thì rất độc ác, Tông Đức hầu biết vậy càng thêm lo, [67a] mau mau ra sức phòng bị. Tháng 9, Tông Đức hầu báo với quan Khổn súy thành Gia Định để xin binh tiếp viện. Ngày 18 tháng 10, quan Điều khiển Thống suất Khôi Khoa hầu Nguyễn Phúc Khôi, Tham mưu Miên Trường hầu Nguyễn Hữu Miên ra lịnh (Bộ) Bổ đạo quan (quan bắt cướp) cai đội Siêu Nghĩa hầu, Cai đội đạo Tân Châu Kế Thiện hầu, và Bình luận Duy Tài bá dùng 3 thuyền tuần biển, 20 ghe sai, 1.000 tinh binh đến Hà Tiên vào ngày 3 tháng 11 tìm cách công thủ nghiêm mật, dò xét thế địch để phòng bị mối hại mặt ngoài.

Tháng 3 mùa xuân năm thứ 3, Đinh Hợi (1767) (Năm thứ 28 đời vua Lê Hiển Tông, năm thứ 32 đời vua Càn Long nhà Đại Thanh), Miến Điện (vốn là man ở Tây Nam. Xét chuyện Nguyên Thế Tổ đánh Miến Điện hay chuyện Minh Quế vương Do Lang chạy qua Miến Điện tức là chỗ này. Người ở đây có tục vẽ bụng, nên gọi là Hoa Đỗ, người nước Xiêm gọi họ là Phù Ma) nhân người Xiêm oán hận vua họ nên xua quân đánh tan tành nước Xiêm, đốt hết cung thất, [67b] cướp hết ngọc lụa, bắt được Phong vương cùng Vương tử là Chiêu Đốc Đa và lùa hàng vạn dân đem về, để lại một vùng bạch địa. Con thứ ba của vua là Chiêu Xỉ Xoang chạy trốn sang Cao Miên. Con thứ hai của vua là Chiêu Thúy ([11][118]) (Chúy) thì chạy sang Hà Tiên, mà lời đồn đại quân Xiêm có ý định đánh chiếm Hà Tiên cũng tịt luôn.

Tông Đức hầu đem hết sự tình tấu đạt lên cùng lời tạ ơn quan Điều khiển đề nghị rút hết viện binh về để khỏi lao tổn. Tháng 5, quan Khổn súy Gia Định cho triệu các ông Siêu Nghĩa hầu đem quân về nghỉ ngơi.

Tuy vậy Tông Đức hầu còn lo sợ nước Miến Điện đang thừa nhuệ khí kéo tới xâm lấn nên mới sai người cháu bên ngoại ([12][119]) là Cai đội Thắng Thủy đội Sửu Tài hầu Trần Văn Lực ([13][120]) (là con của viên tướng giữ các châu Cao - Lôi - Liêm là Tổng binh Định Sách hầu, cháu của Đô đốc Thắng Tài hầu, con của người em gái của Tông Đức hầu) đem thuyền chiến lớn và binh lính ra đóng ở xứ Chân Bôn (tức vùng giáp ranh với nước Xiêm) để tuần phòng vùng biên cảnh.

Lúc ấy, nước Xiêm sau cơn binh hỏa [68a] lại bị dịch bệnh hoành hành dữ dội, quân sĩ Hà Tiên tuần thủ gần Xiêm và dân Xiêm La bị chết rất nhiều, Sửu Tài hầu cũng bị bệnh mà chết, nhưng tình hình biên giới với Xiêm chưa yên, việc binh thì không thể trễ nải nên mới sai Ngũ nhung Kỳ Tài hầu đến đóng binh tuần thú thay thế, nhưng chẳng bao lâu Kỳ Tài hầu cũng bị bệnh phải triệu hồi, trên đường về, ông cũng mất, bèn sai tiếp Cai đội Đức Nghiệp hầu đem lính thú đi tuần phòng các hải đảo Cổ Công, Cổ Cốt, Dần Khảm.

Trước đó có đứa côn đồ người Triều Châu tên là Hoắc Nhiên, khá giỏi võ nghệ, lại tụ tập được nhiều bọn hung ác. Chúng lấy đảo Cổ Công là nơi hiểm trở, trong liền với núi non của Cao Miên, ngoài có núi làm bình phong che chắn, ở giữa có vũng sâu đầm dài, thuyền bè có thể đậu yên ổn, nên chúng chiếm lấy nơi ấy rồi kết trại làm sào huyệt. Chúng thường ra vào ven biển để đón cướp thuyền buôn nam bắc, chúng còn cướp bóc của cải dân Xiêm La đang lánh nạn ở bờ biển, không ai không bị chúng hại. Hoắc Nhiên giỏi nghề dùng mũi tên đầu to bịt sắt bắn đứt dây buồm, hay dùng tấm khiên bằng mây [68b] nhảy qua thuyền buôn. Y hoành hành trên biển, đồ đảng tụ tập rất đông, chúng có sách lược âm mưu chiếm đất Hà Tiên, nhưng mưu ấy hơi bị lộ, Tông Đức hầu thầm sai Cai đội Khang Thành hầu đem quân tinh nhuệ ngầm đi vây bắt, tiếng súng nổ ran, tiếng trống và tiếng hò reo vang lên, bọn phỉ khiếp đảm không làm gì được nên chạy trốn thoát thân. Khi ấy Hoắc Nhiên chỉ cầm một cây đoản đao, cưỡi chiếc thuyền nhỏ phá vòng vây mà thoát, vì súng bắn theo như mưa, y phải nhảy xuống nước trốn nhưng bị nhiều mũi giáo đâm chết. Hoắc Nhiên bị bêu đầu răn chúng, dư đảng của y từ đó mới tan rã.

Năm thứ 4, Mậu Tý (1768) (năm thứ 29 niên hiệu Cảnh Hưng đời vua Lê Hiển Tông. Năm thứ 33 đời vua Càn Long nhà Đại Thanh), có người phủ Triều Châu tỉnh Quảng Đông là Trịnh Quốc Hoa, tên Xiêm gọi là Phi nhã Tân, nguyên trước kia y sinh sống trên đất Xiêm La, kế tập nghiệp cha (tên là Yển) làm chức quan trưởng đất Mường Tát (tục gọi là Tạc, là tên đất của Xiêm), lại còn có tên là Phi nhã Tát (Phi nhã là tên chức quan của Xiêm). Nhân lúc nước Xiêm không có chủ, bọn trộm cướp dấy lên như ong, Phi nhã Tân chiêu nạp bọn phản loạn bỏ trốn đó, quật khởi những cuộc tranh chiếm lẻ loi, hợp nhất chúng lại thành một nhóm [69a], phần y tự xưng là vua và đặt lệ cũ đòi nước Cao Miên phải cống hoa vàng hoa bạc. Vua Cao Miên là Nặc Ong Ton cho rằng Phi nhã Tân không phải là kẻ kế tục của nước Xiêm nên chống lại mệnh lệnh đó.

Ngày mồng 1 tháng 2 mùa xuân năm thứ 5, Kỷ Sửu (1769) (Năm thứ 30 niên hiệu Cảnh Hưng đời vua Lê Hiển Tông. Năm thứ 34 đời vua Càn Long nhà Đại Thanh), có một con cọp lớn chạy vào thành Hà Tiên, nó rong khắp trong các đường phố, nha thự, quan quân cùng nhau vây bắt nhưng nó chỉ rống lên một tiếng rồi chạy thoát ra ngoài thành, không thấy dấu vết gì nữa. Lúc ấy vua Xiêm là Phi nhã Tân sai Phi nhã Sô sĩ (tên một chức quan) Bôn Ma (tên người) đốc suất binh tướng qua đánh Nặc Ong Ton của nước Cao Miên, đồng thời hộ tống ngụy vương Cao Miên là Nặc Ong Non về nước. Đội quân ấy khi đến sóc Lò Gò Vật vì đánh mãi không thắng nên mới cướp bóc dân chúng Cao Miên rồi quay về.

Trấn Hà Tiên thấy nước láng giềng có biến động nên càng hết sức canh phòng biên ải. Trong lúc đó có người Triều Châu lưu vong tên là Trần Thái rủ rê tụ họp bọn cướp ở núi Bạch Mã (thuộc đất Hà Tiên) mưu đánh úp trấn Hà Tiên. Chúng bí mật cấu kết với người của gia tộc họ Mạc là [69b] Mạc Sùng, Mạc Khoan, và ước hẹn vào đêm 13 tháng 6 phóng lửa đốt làm nội ứng. Việc ấy bị lộ, Tông Đức hầu cứ y như ước hẹn ấy, ngầm cho phục binh vây bắt rồi truy quét bọn đồng đảng ở chùa Hương Sơn (tục gọi là chùa thầy Hương). Trần Thái chạy trốn qua xứ Chân Bôn thuộc Xiêm La. Ngày 20, người dân Cao Miên ở sóc Vọng Vân là Nặc Bồn tụ tập hơn 900 người toan làm loạn, nhưng cũng liền bị dẹp ngay.

Tháng 7 mùa thu năm thứ 6, Canh Dần (1770) (Năm thứ 31 niên hiệu Cảnh Hưng, đời vua Lê Hiển Tông. Năm thứ 35 đời vua Càn Long nhà Đại Thanh), có tên đào binh là Phạm Chàm tụ tập bọn ác phỉ ở Vũng Thơm, Cần Vọt, cùng với bọn Chà Và Vinh Ly Ma Lô, Ốc nha Cao Miên Ghê, bọn chúng đông hơn 800 người, chia ra đường thủy bộ toan đánh úp trấn thành. Chúng dùng 15 chiếc thuyền vào cảng Hà Tiên, nhưng đám bộ binh khi đến núi Thúy Bình thì đều bị trấn binh đánh phá, đâm chết Phạm Chàm ở giữa sông và bắt được cả hai Lô, Ghê đem chém. Từ lúc này binh lương của Hà Tiên đều bị [70a] thiếu hụt, lòng người trở nên dao động. Tông Đức hầu dâng sớ trần tình và xin tự thú tội. Triều đình tỏ lời khoan dung an ủi và sức cho quan Khổn súy Gia Định rằng khi nào Hà Tiên báo tin hữu sự thì phải cứu ứng kịp thời.

Tháng 8 mùa thu năm thứ 7, Tân Mão (1771) (Năm thứ 32 niên hiệu Cảnh Hưng đời vua Lê Hiển Tông. Năm thứ 36 đời vua Càn Long nhà Đại Thanh), tình báo Hà Tiên cho biết vua Xiêm là Phi nhã Tân đang điểm binh chuẩn bị tấn công trong nay mai. Tông Đức hầu gởi nhanh hịch xin viện binh đến thành Gia Định. Quan Điều khiển Khôi Khoa hầu và Miên Trường hầu phúc đáp rằng: Năm trước do báo sai về việc ngoài biên đã từng làm cho quan quân lao nhọc dầu dãi lâu ngày mà chẳng có gì nên phải rút về, hiện nay trấn thành đang còn phải bận tu chỉnh, tập hợp binh mã, vậy hãy đợi khi có tin chính xác quân Xiêm đến sát biên giới thì chúng tôi sẽ phát binh ứng cứu cũng không muộn.

Ngày 14, trong thành Hà Tiên, ở phía nam thấy có 2 mống chuồn ([14][121]) màu đỏ giao nhau thành hình chữ thập, dài hơn 30 trượng. Ngày 16, ở dưới lầu miếu Bắc Đế vốn có đống cát cao hơn 1 trượng [70b] bỗng nhiên bị gió trốc cuốn tung lên trời làm cả thành mù mịt, sau đó rơi xuống thành đống cũng có hình chữ thập. Kẻ hiểu biết dự đoán rằng đó là điềm tháng 10 thành sẽ mất.

Tháng 9, Phi nhã Tân thấy Chiêu Thúy (Chúy) hiện đang ở Hà Tiên, lo rằng việc ấy khó chịu chẳng khác nào bên giường mình có người đang ngủ ngáy o o, y bèn thừa nhuệ khí vừa mới phá giặc ở Lục Côn (thuộc nước Miến Điện) nên mới thân điều 2 vạn lính thủy lục, dùng tên cướp Trần Thái ở núi Bạch Mã làm người dẫn đường. Ngày mùng 3 tháng 10, chúng tiến đến Hà Tiên, vây chặt trấn thành (thành có 3 mặt chắn bằng ván gỗ, không phải xây bằng đất đá). Lúc ấy quân giữ Hà Tiên rất ít ỏi, nên họ phải đóng chặt cửa thành để chống cự, mặt khác lo cấp báo với đồn dinh Long Hồ. Thủy quân của Xiêm chiếm được núi Tô Châu rồi dùng súng lớn bắn vào thành, tình thế rất nguy cấp. Đêm mùng 10, kho thuốc súng ở núi Ngũ Hổ bốc cháy khiến cả thành đều chấn động. Qua đêm 13, quân Xiêm từ cửa sau của thành do chỗ cửa sông nhỏ không được đắp thành phá cửa xông vào phóng [71a] lửa đốt dinh, ánh lửa rực cả núi rừng, quân Xiêm trong ngoài giáp công, chúng vừa đánh trống vừa hò reo huyên náo, tiếng súng đại bác vang như sấm. Tông Đức hầu thân dẫn quân đánh với chúng trên đường phố, một lúc sau, quân dân trong thành tan vỡ chạy tán loạn, qua canh ba thành vỡ, Tông Đức hầu quyết tử chiến với địch thì Cai đội Đức Nghiệp hầu đến ôm nách đưa Tông Đức hầu lên thuyền rồi chèo theo đường sông hướng về Giang Thành (tên một thủ sở) ([15][122]) mà chạy. Hiệp trấn ([16][123]) Mạc Tử Hoàng, Thắng Thủy hầu Mạc Tử Thảng và Tham tướng Mạc Tử Dung đem thủy quân phá vòng vây rồi theo đường biển chạy xuống Kiên Giang, sau đó qua Trấn Giang đóng lại. Ngày 15, thuyền của Tông Đức hầu đến Châu Đốc, tướng Xiêm là Chiêu khoa Liên (vốn người Triều Châu, họ Trần, tên Liên, làm mưu sĩ cho Tân, Chiêu khoa là tên gọi một chức quan của nước Xiêm) cho truy binh đuổi theo, Tông Đức hầu sai Cai đội Đồ Bà (Chà Và) là Sa ra chặn đánh nhưng cũng thua. Cai đội Sa có phép cấm đỡ đao súng (tục gọi là có gồng) ([17][124]) [71b], tuy bị nhiều vết đạn, vết đâm nhưng không chết bèn rút ra đạo Tân Châu ở Tiền Giang, ở đó ông gặp Lưu thủ dinh Long Hồ là Cai cơ Kính Thận hầu Tống Phước Hiệp đang thân dẫn binh của dinh đến tiếp ứng, họ vội giục gấp quân tiến vào sông Châu Đốc đánh giết đẩy lui quân giặc. Quân giặc Xiêm vì không biết đường nên đi lầm vào sông cụt, bị đại binh đuổi kịp chém đầu được hơn 300 tên. Chiêu khoa Liên bỏ thuyền chạy lên bờ rồi suốt đêm theo đường Chơn Giùm (Chan Sum) chạy về Hà Tiên. Quân dinh Long Hồ thu được 5 chiếc thuyền chiến, súng ống và vật dụng của quân Xiêm và ghe sai của Hà Tiên không kể xiết, rồi để quân ở lại giữ đạo Châu Đốc, còn đại binh lui về Tân Châu cùng Tông Đức hầu hỏi han, an ủi cơ sự, sau đó sai thuyền bè đưa Tông Đức hầu về nghỉ tại dinh Long Hồ.

Lại nói Cai đội đạo Đông Khẩu là Nhơn Thanh hầu Nguyễn Hữu Nhơn đón đánh quân Xiêm ở Cường Thành, Hậu Giang, ông cho quân giữ lấy chỗ hiểm yếu rồi [72a] bất thần xuất quân đánh liền mấy trận đều thắng, thu được 10 chiếc thuyền chiến của quân Xiêm. Quân Xiêm theo đường bộ chạy trốn nhưng cũng bị chém, bị thương và bị đói khát chết mất quá nửa và cuối cùng chúng thấy đất Long Hồ nhiều hiểm yếu nên không dám tái phạm. Khi ấy Phi nhã Tân ([18][125]) để Chiêu khoa Liên ở lại giữ trấn Hà Tiên còn y thân dẫn hùng quân thẳng đến nước Cao Miên. Vua Cao Miên là Nặc Ong Ton chạy ra đất Bát Chiên, Long Quật, Phi nhã Tân đưa Nặc Ong Non trở lại làm Quốc vương Cao Miên, quân Xiêm chiếm giữ phủ Nam Vang và có ý dòm ngó đất Gia Định của ta.

Tháng 11, Thống suất Khôi Khoa hầu, Tham mưu Miên Trường hầu gửi công văn mời Tông Đức hầu cùng hội họp, Kính Thận hầu ủy người dẫn đến công quán Nghi Giang (tục gọi là sông Bà Nghi) ([19][126]), quan Điều khiển mời Tông Đức hầu đến đồn dinh an ủi và hỏi han ngọn ngành để tấu tiếp về triều. Tông Đức hầu [72b] trình bày hết mọi nguyên do thất thủ và dâng biểu xin chịu tội.

Tháng 12, triều đình xuống chiếu tha tội cho Tông Đức hầu, lại cấp cho lương tiền rồi sai quan Điều khiển Khổn súy điểm binh đưa Tông Đức hầu về trú ở đạo Trấn Giang để chiêu dụ vỗ về kẻ lưu vong, chuẩn bị cơ hội dẹp giặc.

Tháng 2 mùa xuân năm thứ 8, Nhâm Thìn (1772) (Năm thứ 33 niên hiệu Cảnh Hưng đời vua Lê Hiển Tông. Năm thứ 37 đời vua Càn Long nhà Đại Thanh), triều đình sai đốc chiến Đàm Ân hầu Nguyễn Phước Đàm, Tham tán Tiến Lễ hầu Nguyễn Văn Tiến ([20][127]) lãnh 1 vạn tinh binh thủy bộ của hai dinh Bình Khang và Bình Thuận cùng 30 chiếc thuyền đến Gia Định thay thế việc điều khiển. Đồng thời nghị tội việc Khôi Khoa hầu không tiếp viện để cho Hà Tiên bị rơi vào tay địch, giáng Khôi Khoa hầu xuống làm Cai đội, triệu Miên Trường hầu về kinh đợi lệnh. Tháng 6, quan Điều khiển điều binh tiến đánh, Đàm Ân hầu lãnh đại binh kéo đi theo đường Tiền Giang [73a], Cai bạ dinh Long Hồ là Hiến Chương hầu Nguyễn Khoa Thuyên đem quân binh Đông Khẩu theo đường biển Kiên Giang tiến tới, Lưu thủ Kính Thận hầu theo đường Hậu Giang đến đóng ở Châu Đốc để làm 2 đường tiếp ứng cho đạo quân trước. Lúc ấy, Nhơn Thanh hầu đương bị bệnh nặng, một mình Hiến Chương hầu quản 3000 quân dùng 50 chiếc thuyền đủ cỡ lớn nhỏ tiến đánh quân Xiêm nhưng thấy bất lợi nên phải rút về đạo Kiên Giang. Đàm Ân hầu lại dùng một người Cao Miên là Nhum Rạch ([21][128]) Tối làm tiên phong kéo quân đến đánh Nam Vang, quân Xiêm bị chết rất nhiều. Phi nhã Tân phải chạy xuống Hà Tiên, Nặc Ong Non thì chạy về Cần Vọt, quân ta thu phục được các phủ Nam Vang và La Vách. Nặc Ong Ton trở lại ngôi cũ, nước Cao Miên từ đó được yên ổn, đại binh kéo về và gửi tiệp báo lên triều đình. Đàm Ân hầu về đến đồn dinh liền lo đắp lũy thành bằng đất, phía nam từ Cát Ngang [73b], phía tây đến cầu Lão Huệ (Ông Huệ), phía bắc giáp đến thượng khẩu sông Nghi Giang, chiều dài đến 15 dặm bao quanh cả đồn dinh, cắt ngang đường bộ để chuẩn bị cho kế lâu dài.

Phi nhã Tân về đến Hà Tiên bèn viết thư giảng hòa gởi đến Tông Đức hầu nhưng hầu không trả lời, Phi nhã Tân tự nghĩ mình mới chiếm được nước Xiêm, gốc rễ chưa được vững bền, nay đem quân đi xâm lược phương xa cũng chưa thành công, nếu cứ để cho quân sĩ lưu dây dưa thì một mai nước Xiêm có người chiếm lấy sào huyệt khiến tấn thoái đều cùng đường, dẫu có hối cũng không kịp. Y bèn chọn quân giao cho Chiêu khoa Liên ở lại giữ Hà Tiên, còn tự thân dẫn quân, bắt lấy con cái của Tông Đức hầu và Chiêu Thúy (Chúy) đưa xuống thuyền trở về thành Vọng Các {về tới Xiêm thì giết Chiêu Thúy (Chúy)}.

Tháng 2 mùa xuân năm thứ 9, Quý Tỵ (1773) (Năm thứ 34 niên hiệu Cảnh Hưng đời vua Lê Hiển Tông. Năm thứ 38 đời vua Càn Long nhà Đại Thanh), Tông Đức hầu ở tại Trấn Giang rồi cho người sang Xiêm để thăm dò động tĩnh, ngoài mặt tỏ ra là hòa hoãn kết thân, nên Phi nhã Tân bằng lòng, đưa người thiếp thứ tư [74a] và người con gái nhỏ của Tông Đức hầu mà y đã bắt để làm tin trở về Trấn Giang và cho gọi Chiêu khoa Liên về nước.

Khi quân Xiêm qua xâm chiếm, chúng đã phá hết thành lũy Hà Tiên, phá tan nhà cửa, cướp hết của cải, nhân dân đều bỏ trốn chỉ còn lại gò đất hoang mà thôi. Tông Đức hầu khôn xiết bùi ngùi trước cảnh hoang tàn như thơ Thử Ly ([22][129]) miêu tả nên tạm trú ở Trấn Giang, rồi sai Hiệp trấn Mạc Tử Hoàng trở về để sửa sang lại dinh lũy.

Tháng 7, nghe tin rằng giặc Tây Sơn thuộc phủ Qui Nhơn là anh em Nguyễn Văn Nhạc, Nguyễn Văn Huệ nổi loạn và đã lấy được thành Qui Nhơn.

Tháng 5 mùa hạ năm thứ 10, Giáp Ngọ (1774) (Năm thứ 35 niên hiệu Cảnh Hưng đời vua Lê Hiển Tông. Năm thứ 39 đời vua Càn Long nhà Đại Thanh), quan Tư đồ nước An Nam là Diệp Quận công Hoàng Ngũ Phúc xâm chiếm đất miền Nam. Ngày 28 tháng 12 mùa đông, kinh thành bị chiếm, vua phải chạy vào đất Bến Giá thuộc dinh Quảng Nam. Ngày 12 tháng 2 mùa xuân năm thứ 11, Ất Mùi (1775) (Năm thứ 36 niên hiệu Cảnh Hưng đời vua Lê Hiển Tông. Năm thứ 40 đời vua Càn Long nhà Đại Thanh), thánh giá cùng Thế Tổ Cao hoàng đế đi đường biển vào Nam [74b], ngày 25 đến phủ Gia Định, tạm trú ở đất Bến Nghé thuộc phía bắc Đồn Dinh. Tông Đức hầu biết tin bèn đến nơi hành tại để bái kiến, vua đặc cách tấn phong cho làm Quốc lão Đô đốc Quận công, gia tặng cho con trai là Mạc Tử Hoàng làm Chưởng cơ, Mạc Tử Thảng làm Thắng thủy Cai cơ, Mạc Tử Dung làm Tham tướng Cai cơ, rồi ra lệnh cho tất cả trở về giữ đạo Trấn Giang, đồng thời lo chiêu tập dân lưu tán và tàn binh Hà Tiên để đợi thời cơ.

Ngày mùng 8 tháng 2 mùa xuân năm thứ 12, Bính Thân (1776) (Năm thứ 37 niên hiệu Cảnh Hưng đời vua Lê Hiển Tông. Năm thứ 41 đời vua Càn Long nhà Thanh), người em thứ 2 giặc Tây Sơn là ngụy Tiết chế Nguyễn Văn Lữ đem binh thuyền vào cướp phủ Gia Định. Trước đó Tây Sơn đã chiếm được Qui Nhơn, Quảng Ngãi và Phú Yên. Tin cấp báo cho Gia Định biết. Năm thứ 10, Giáp Ngọ (1774) (Năm thứ 35 niên hiệu Cảnh Hưng đời vua Lê Hiển Tông. Năm thứ 39 đời vua Càn Long nhà Đại Thanh), Lưu thủ dinh Long Hồ là Kính Thận hầu và Cai bạ Hiến Chương hầu lãnh năm dinh (Điều khiển Gia Định lãnh tướng sĩ 5 dinh: Bình Khang, Bình Thuận, Trấn Biên [75a], Phiên Trấn và Long Hồ, lúc ấy ủy cho Kính Thận hầu đốc suất để đánh dẹp giặc) gồm tướng sĩ thủy bộ 2 vạn người tiến thẳng đến Phú Yên. Lính bộ do Kính Thận hầu chỉ huy đến đóng ở Chợ Gò, lính thủy do Hiến Chương hầu dẫn đến đóng ở Vũng Lấm, quân đi như gió thổi sấm vang khiến quân Tây Sơn đều kinh hãi. Trước hết, Nhạc đưa thư trá hàng, sau đó sai Huệ đem toàn quân Quy Nhơn đến đánh úp và phá được quân triều rồi thừa thắng ruổi đến bắt được Cai cơ Triệu Vân (Tuyết) ([23][130]) hầu ở Ba Non. Kính Thận hầu trở lui đóng ở Ô Cam, cố thủ chỗ hiểm yếu, vừa lúc ấy ở Quảng Nam hữu sự, ngụy Nhạc báo gấp gọi Nguyễn Huệ rút quân về, chỉ để đạo quân Hòa Nghĩa ở lại ngăn mặt sau Phú Yên.

Lúc đó, vua đặc cách tấn phong cho Kính Thận hầu làm Hữu phủ Quốc công, Hiến Chương hầu làm Tham chính nhưng cho lui quân để chuẩn bị chuyện đánh trở lại sau này.

Cũng lúc đó, Gia Định vừa cô thế vừa yếu, [75b] ngụy Văn Lữ bỗng nhiên đến chiếm, Chưởng cơ Hựu Đức hầu Tống Phước Hựu đem một số quân hầu hộ vệ thánh giá đến dinh Trấn Biên, đóng lại ở Đồng Tràm rồi chiêu mộ quân bốn phương để cùng lo trừ địch. Vào lúc ấy, Thạch Thuyền ([24][131]) Cai đội Phương Danh hầu Đỗ Thanh Nhơn dùng 3000 người của Đông Sơn nghĩa lữ với bọn Hổ tướng Nguyễn Hoàng Đức, Trần Búa, Đỗ Vàng, Đỗ Tai, Võ Nhan, Đỗ Bảng, xưng là Đông Sơn Thượng tướng quân, đốn cây dựng cờ, bôi lang áo, vẽ mặt, từ Ba Giồng (ở trấn Định Tường có rất nhiều giồng đất, có 3 giồng lớn: trên có Chúa Triệu, giữa có Cai Lữ, dưới có Kiến Định, đó là đất tụ nghĩa của nhóm Đông Sơn, vì vậy mà có tên ấy) rần rần kéo tới, họ đi đến đâu địch tránh đến đó.

Tháng 5 mùa hạ lấy lại Gia Định, ngụy Văn Lữ chỉ đoạt lấy lúa kho chở hơn 200 thuyền bè về [76a] Qui Nhơn. Phương Danh hầu rước thánh giá về nơi hành tại Bến Nghé thuộc dinh Phiên Trấn. Vua tấn phong cho Phương Danh hầu làm Ngoại hữu Chưởng dinh Quận công. Hữu phủ Kính Quốc công đem quân bản bộ cùng tướng đầu hàng người Hoa là Lý tướng quân thuộc đạo Hòa Nghĩa (Lý người Phúc Kiến đến ngụ tại huyện Phù Ly, phủ Qui Nhơn, khi ngụy Nhạc khởi binh có chiêu tập người Hoa làm lính lập thành đạo Hòa Nghĩa, Lý hưởng ứng đi theo. Nhạc thấy Lý là người cảm tử, hung hãn nên lấy dùng làm vây cánh và cấp thưởng cho rất hậu. Từ năm Ất Mùi (1775), Hòa Nghĩa giao chiến với quân Bắc Hà ở Quảng Nam, từ sau khi bại trận ở Cẩm Sa liền bị Tây Sơn bạc đãi. Nhân năm đó Tây Sơn giao Lý giữ Phú Yên, Lý bèn đem quân về qui thuận với Kính Quốc công, nay cùng về Gia Định) đến dinh Trấn Biên, trú quân ở đó [76b] rồi thân dẫn thuộc tướng đến chỗ hành tại để bái yết.

Tháng 6, Kính Quốc công bị bệnh rồi mất, lúc ấy Tông Quận công đang ở tại Trấn Giang, trong tay không đủ binh quyền, chỉ ngồi nhìn nước đang mắc nạn nên ông thường đấm ngực nghiến răng phẫn uất hổ thẹn mà than dài.

Tháng 3 mùa xuân năm thứ 13, Đinh Dậu (1777) (Năm thứ 38 niên hiệu Cảnh Hưng đời vua Lê Hiển Tông. Năm thứ 42 đời vua Càn Long nhà Đại Thanh), Long Nhương Đại tướng quân Tây Sơn là Nguyễn Văn Huệ trở lại chiếm phủ Gia Định. Tháng 4, thánh giá ([25][132]) phải chạy qua đạo Trấn Giang, Tông Quận công nghênh rước vào đó. Tháng 6, vua để Tông Quận công ở lại giữ Kiên Giang, thánh giá lại về đạo Long Xuyên, qua tháng 8 bị quân Tây Sơn bắt bỏ cũi đưa về đồn Phiên Trấn cùng với Mục vương, chỉ còn Thế Tổ Cao hoàng đế lánh lại ở vùng Long Xuyên. Tháng 9, Tông Quận công chạy ra La Xoang (nơi giáp ranh giữa Hà Tiên với Xiêm La), Phi nhã Tân [77a] biết tin mới sai một người Cao Miên là Bò Ong Giao bày tỏ hảo ý rước hoàng thân Xuân Quận công, Tông Quận công sang Xiêm La, tiếp đãi rất hậu và lưu lại đó. Tháng 10 mùa đông, vua Cao Miên là Nặc Ong Vinh (tục gọi là Trị) giết anh là Nhị vương Nặc Ong Ton.

Ngày 5 tháng Giêng, mùa xuân năm Mậu Tuất (1778) đời Thế Tổ Cao hoàng đế năm đầu (Năm thứ 39 niên hiệu Cảnh Hưng đời Lê Hiển Tông. Năm đầu Tây Sơn ngụy Nguyễn Văn Nhạc Thái Đức. Năm thứ 43 Càn Long nhà Đại Thanh) ba quân mang đồ tang tôn Thế Tổ Cao hoàng đế làm Đại nguyên soái rồi cất quân đi lấy lại phủ Gia Định. Tháng 6 mùa hạ, sai Chánh sứ là Cai cơ Trưng Tín hầu Lưu Phước Trưng đến Xiêm La để tỏ tình giao hảo đồng thời thăm hỏi Xuân Quận công và Tông Quận công.

Mùa xuân năm thứ 2, Kỷ Hợi (1779) (Năm thứ 40 niên hiệu Cảnh Hưng đời vua Lê Hiển Tông. Năm thứ hai niên hiệu Thái Đức ngụy tặc Tây Sơn Nguyễn Văn Nhạc. Năm thứ 44 đời vua Càn Long nhà Đại Thanh) ở nước Cao Miên, Chiêu trùy Mô Đê Đô Luyện đánh Nặc Ong Vinh, Nặc Ong Vinh sai Vị Bôn Xu [77b] lấy binh Ba Thắc đi tiếp viện. Vị Bôn Xu đem tội thí nghịch của Nặc Ong Vinh đến cửa khuyết để tố cáo. Tháng 6 mùa hạ, triều đình sai Phương Quận công đi chinh phạt Cao Miên, bắt được Nặc Ong Vinh rồi giết đi, lập con của Nặc Ong Ton là Nặc Ong In làm vua nước Cao Miên.

Tháng Giêng mùa xuân năm thứ 3, Canh Tý (1780) (Năm thứ 41 niên hiệu Cảnh Hưng đời vua Lê Hiển Tông. Năm thứ 3 niên hiệu Thái Đức ngụy tặc Tây Sơn Nguyễn Văn Nhạc. Năm thứ 45 đời vua Càn Long nhà Đại Thanh), Đại nguyên soái lên ngôi ở Gia Định. Tháng 6 mùa hạ, vua sai sứ là Cai cơ Sâm Đức hầu và Tĩnh Viễn hầu qua Xiêm La để tỏ tình giao hảo, vừa lúc ấy, thuyền buôn của vua Xiêm (tục nước Xiêm là vua tôi đều theo việc buôn bán) về báo rằng thuyền từ Quảng Đông trở về, khi qua hải phận Hà Tiên đã bị tướng ở đó là Chưởng cơ Thăng Bình hầu cướp giết. Phi nhã Tân giận lây nên ra lệnh bắt sứ ta hạ ngục. Khi ấy Bò Ong Giao từ Cao Miên đến Xiêm La tố cáo là y bắt được mật thư của Gia Định sai Xuân Quận công [78a] và Tông Quận công làm nội ứng để mưu đánh thành Vọng Các. Vua Xiêm tưởng thật nên ngày mùng 5 tháng 10, các vị ấy bị bắt giam lại để tra hỏi nhưng tất cả đều kêu oan và không nhận tội. Tham tướng Mạc Tử Dung hết sức biện hộ về việc vu cáo ấy liền bị Phi nhã Tân đánh chết, Tông Quận công thì tự tử. Ngày 24, Xuân Quận công ([26][133]) cùng sứ thần nước ta và con cháu môn quyến của Tông Quận công cộng 53 người đều bị hại, còn người Việt Nam cư trú trên nước Xiêm đều bị đày ra vùng biên viễn.

Tháng 10 mùa đông năm thứ 4, Tân Sửu (1781) (Năm thứ 42 niên hiệu Cảnh Hưng đời vua Lê Hiển Tông. Năm thứ 4 niên hiệu Thái Đức ngụy tặc Tây Sơn Nguyễn Văn Nhạc. Năm thứ 46 Càn Long nhà Đại Thanh), đại tướng Xiêm La là hai anh em Chất Tri ([27][134]) và Sô Si sang đánh nước Cao Miên, vua nước Cao Miên là Nặc Ong In gửi thư gấp báo về triều. Tháng Giêng mùa xuân năm thứ 5, Nhâm Dần (1872), triều đình sai Điều khiển Chưởng cơ Thoại Ứng hầu Nguyễn Hữu Thoại cử binh đi cứu viện [78b], lúc ấy Phi nhã Tân rất bạo ngược, hở là chém giết, dân chúng không biết trông cậy sống vào đâu được, bọn cướp bóc nổi lên khắp nơi, chỉ có quân giặc ở thành Cổ Lạc là hung dữ lắm nên Phi nhã Tân sai Đại tướng Phi nhã Oan Sản đem quân đến đánh. Tướng giặc giữ thành Cổ Lạc vốn là em ruột của Oan Sản nên y mới kể hết tệ hại của tên bạo chúa Phi nhã Tân, thần dân đều oán hận, nếu không lo tính trước chuyện trở cờ, sẽ bị nhân dân làm thịt chẳng chơi. Oan Sản nghe theo nên hiệp binh trở giáo kéo về vây đánh thành Vọng Các, dân chúng đều hưởng ứng theo, Oan Sản bắt được Phi nhã Tân đem giam tù, mở kho bạc phát ra khao thưởng đoàn quân khởi nghĩa rồi cho mời anh em Chất Tri về nước để thương nghị. Tháng 3, Chất Tri được tin, liền sai em là Sô Si ở lại sau để cùng Thoại Ứng hầu giảng hòa, còn Chất Tri tự đem bọn cận vệ tay chân đang đêm trở về thành Vọng Các kể hết tội ác của Phi nhã Tân [74a] rồi giết đi, còn cho phơi thây ngoài thành để hả lòng người trong nước. Tiếp đó, Chất Tri lên ngôi Phật vương của nước Xiêm (tục của nước Xiêm là trọng Phật nên mới gọi vua là Phật vương, cũng như ở Trung Quốc do kính trời nên gọi vua là Thiên tử). Sô Si về sau được phong làm Nhị vương và phong cho người cháu là Ma Lặc làm Tam vương. Những người Việt trước đó bị Phi nhã Tân đày đi nay cũng được miễn xá cho trở lại thành Vọng Các, lại còn được cấp tiền gạo để sinh sống. Oan Sản vì tự quyền phân phát kho bạc nên bị giam tù rồi phẫn uất mà chết, ấy cũng do Chất Tri kỵ ngại Oan Sản nên mới dẫn tới sự việc như thế. Sau đó, vua Xiêm lại sai Thát Sỉ Đa đi xem xét đất Hà Tiên.

Tháng 3, anh em Tây Sơn là Nguyễn Văn Nhạc và Nguyễn Văn Huệ dẫn 3 vạn quân thủy bộ vào lấy Gia Định. Thủy quân của ta bày trận ở ngã bảy Cần Giờ, quân Tây Sơn nhờ thuận gió và thủy triều nên căng no buồm xông thẳng vào, quân ta không đánh mà tự tan rã (79b), chỉ có chiếc tàu phương Tây của Man Hòe là chống cự được lâu. (Man Hòe ([28][135]) là người nước Pháp, theo giúp rất hiệu dụng, làm quan đến Khâm sai Cai cơ quản đội Trung Khuông, được phong tước An Hòa hầu, khi chết được tặng là Hiệu Nghĩa công thần phụ quốc Thượng tướng quân, được tòng tự ở miếu Hiển Trung). Nguyễn Văn Huệ cho quân vây đánh đốt cháy tàu đó, Man Hòe chết, quân Tây Sơn thừa thắng phá luôn quân ta ở ngã ba Lôi Lạp (Soi Rạp), thẳng tiến Bến Nghé, quan quân phải chạy tan tác. Khi ấy, vua chạy đến Ba Giồng để hiệu triệu tướng sĩ, bốn phương tụ tập về rất đông. Tháng 5, anh em Nguyễn Văn Nhạc đem quân thủy bộ trở về Qui Nhơn, để lại một hàng tướng Đông Sơn là Đỗ Nhàn Trập lo đốc lãnh binh lính giữ gìn Gia Định, đồn trú tại Bến Nghé. Tháng 8, quan quân lấy được phủ Gia Định, Đỗ Nhàn Trập phải bỏ chạy [80a]. Tháng 2 mùa xuân năm thứ 6, Quý Mão (1783) (Năm thứ 44 niên hiệu Cảnh Hưng đời vua Lê Hiển Tông. Năm thứ 6 niên hiệu Thái Đức ngụy tặc Tây Sơn Nguyễn Văn Nhạc. Năm thứ 48 đời vua Càn Long nhà Đại Thanh), Nguyễn Văn Lữ và Nguyễn Văn Huệ của Tây Sơn vào chiếm Gia Định. Lúc ấy vua cho mời Tiếp Quận công từ đồn núi Chà Lang ([29][136]) kéo quân về để điều khiển thủy quân bày trận hỏa công; điều khiển Trừng Thanh hầu (Dương Công Trừng) giữ đồn Thủ Thiêm; hoàng đệ Thiếu phó Mân giữ đồn Rạch Bàng; Giám quân dinh Phiên Trấn Tô Văn hầu giữ bè lửa; tàu thuyền của Tiếp Quận công (Châu (Chu) Văn Tiếp) thì lo phân chia bè cỏ giăng ngang trên sông Bến Nghé.

Ngày 24, Chưởng thủy quân Hoảng Nhật hầu và Thăng Bình hầu đem quân đón đánh ở Khúc Manh ([30][137]), dụ địch vào trận để mở thế hỏa công, hôm ấy gặp ngày nước ươn lớn, từ giờ Dần đến giờ Tỵ, nước lình bình rồi tự dâng tràn ngập, bỗng nhiên có cơn gió đông bắc quật ngược làm bè lửa quay lại đốt quân ta, khói lửa mịt mù, quân Tây Sơn thừa thế đánh rập tới làm cho quân ta vỡ chạy tán loạn. Tiếp Quận công theo đường núi chạy lên Lao quốc (nước Lào) [80b] (đó là các tộc người Ai Lao, thời Hậu Hán mới thông với Trung Quốc, tiếp giáp với phía nam tỉnh Vân Nam và ở vào phía tây bắc của nước ta. Ngoài vùng sơn man còn có các tộc người như Ai Lao, Lạc Hoàn, Vạn Tượng, Xỉ Đa, Mục Đa, Hãn Viện, Chân Mang, Khổng Xương, Mại Xương, Tinh Ba Thắc. Tên gọi thì rất nhiều nhưng tổ tông của họ đều từ Lao Sơn nên gọi chung là Lào). Thánh giá phải chạy qua Mỹ Tho, đến Đông Khẩu rồi ra đảo Phú Quốc. Ở đây vua sai Tả thủy Cốc Tài hầu trở vào Hà Tiên để chiêu tập tàn binh. Lúc ấy Điều khiển đạo Hòa Nghĩa là Trần Đĩnh không chịu mệnh nên bị Cốc Tài hầu ([31][138]) chém đi, Tổng binh đảng ấy là Trần Hưng, Lâm Húc đánh úp giết Hữu chi Khuông chính hầu ([32][139]) rồi chiếm Hà Tiên làm phản. Quan binh hiệp sức đánh, giết Trần Hưng, Lâm Húc bỏ chạy trốn. Trong lúc đó có người Đồ Bà (Chà Và) là Vinh Ly Ma Luyền từ ngoài đảo đem hơn 10 chiếc thuyền vào xin đầu hàng.

Tháng 6, quan quân hầu vua trở ra lánh ở vũng Lụy Thạch thuộc Phú Quốc [81a]. Vừa lúc ấy bị Thống suất Tây Sơn là Thận (Phan Tiến Thận) đem quân đánh úp, Vinh Ly Ma Luyền bị bắt, thánh giá phải chạy ra đảo Côn Lôn nhưng cũng bị thám báo của Tây Sơn dò biết. Tháng 7, ngự binh qua hướng đông đậu thuyền ở Eo Rỗi ([33][140]) (Ốc Lồi) Băng Côn (Cung). Ngày 12, thuyền của Tây Sơn do ngụy Đô úy Trấn và Ngự úy Văn đến vây đánh, thế rất nguy cấp. Hôm ấy trời đang sáng sủa, bỗng trở nên mây mù bốn phía, gió to sóng cả nổi lên, thuyền của địch trôi dạt như bèo giữa biển, theo chiều gió tan ra nên bị chết chìm không biết bao nhiêu mà kể. Khi ấy, thuyền của vua giương hai buồm theo hướng đông bắc mà chạy ra, khi ngang cảng biển Ma Ly lại gặp quân Tây Sơn xông đến, thuyền vua bỏ chạy không dám đụng đầu với chúng ([34][141]). Một chốc sau, trời bỗng nổi gió mưa tối mù, thuyền của vua phải trở qua hướng đông chạy ra giữa biển mênh mông, không biết bến bờ nào cả. Lúc ấy nước ngọt trên thuyền đã cạn, quan quân chịu khát [81b] đã 7 hôm, bỗng nhiên thấy mặt biển mù tan, đầu thuyền sóng lặng, nhìn thấy nước biển chia ra hai dòng trắng đen rất rõ, nước trong tràn ra, nếm thử thấy nước ngọt, quan quân nhờ vậy mà được an toàn nên mới cho quay thuyền về đảo Phú Quốc rồi các thuyền đi theo dần dần qui tập về đây cả.

Tháng 8, vua về đạo Long Xuyên (Cà Mau) để lo tu sửa thuyền bè và chỉnh trang lương hướng, lâu sau đó Lưu thủ Hóa (Nguyễn Hóa) của Tây Sơn dò biết được nên đem một đại đội thủy binh từ Ba Thắc rần rần kéo đến, chiều tối dừng lại ở hạ khẩu Đốc Vàng (sông Ông Đốc) phân phái đâu vào đó, định ngày mai sẽ vây đánh. Đêm ấy, vua dò la được tin liền cho thu quân đương đêm chạy ra Hòn Chông. Quân Tây Sơn biết quân ta có chuẩn bị nên không dám đuổi theo (?) Quan quân lại trở ra đảo Thổ Chu là một đảo xa để tránh.

Tháng 12, sứ nước Xiêm là Thát Xỉ Đa dâng biểu của Tiếp Quận công và quốc thư của nước Xiêm xin rước vua [82a] sang Xiêm để hội nghị bàn việc lớn phục quốc. Từ đó, vua mới biết rằng sau khi bại trận ở Bến Nghé, Tiếp Quận công đã chạy trước theo đường Ai Lao sang Xiêm để cầu viện, trời cao đang giúp nên thánh thượng gặp được những báo ứng rất thần kỳ. Việc ấy cũng đã được truyền bá bởi bia miệng quân Tây Sơn, nên chi Chưởng cơ Vân Long hầu Nguyễn Đăng Vân vốn là người đứng đầu trong mười người con nuôi anh kiệt của Nguyễn Huệ đã nghiêng lòng hâm mộ, bèn giả vờ bị câm, bỏ hết quyền lực, âm thầm ra hải đảo truy tìm nhưng không gặp được vua. Tháng Giêng năm Đinh Mùi (1787), Vân đến Vọng Các là nơi hành tại để bái yết và xin theo, rồi xin được làm người đưa đường để quét sạch bọn địch. Về sau binh bại ở Mỹ Tho, ông bị quân Tây Sơn bắt, ông mắng chửi rồi nhịn ăn mà chết.

Tháng 3 mùa xuân năm thứ 7, Giáp Thìn (1784) (Năm thứ 45 niên hiệu Cảnh Hưng đời vua Lê Hiển Tông. Năm thứ 7 niên hiệu Thái Đức ngụy tặc Tây Sơn Nguyễn Văn Nhạc. Năm thứ 49 đời vua Càn Long nhà Đại Thanh), xa giá đến Xiêm La kể lại đầu đuôi mọi gian lao và [82b] cầu xin viện binh để lấy lại nước. Vua Xiêm lấy lễ để an ủi tiếp đãi và tặng quà rất hậu. Phật vương còn lấy tình giao hảo láng giềng hứa cử nghĩa binh giúp vua lấy lại nước. Nhị vương Xiêm La nhân đó nhắc lại việc năm trước là khi giao hòa với Thoại Ngọc hầu ở Cao Miên đã ước thề rằng nếu có hoạn nạn thì cứu lẫn nhau, nguyền hết sức với nhau. Không bao lâu, gặp khi Miến Điện xâm lấn ngoài biên, Nhị vương phải xuất chinh, nên ủy cho cháu là Chiêu Tăng làm soái tướng, Chiêu Sương làm tiên phong đem 2 vạn thủy binh cùng 300 thuyền chiến chọn ngày mùng 9 tháng 6 khởi hành đưa vua về nước, Tiếp Quận công theo hộ giá.

Khi trước Tông Quận công và con cháu ông bị hại, chỉ còn con thứ là Tử Sanh, Tử Tuấn và Tử Thiêm vì còn nhỏ lại được Cao la hâm Hốc (người Cao Miên làm quan ở xứ Xiêm La) thương tình mang đi giấu. Còn bọn cháu là Công Bính, Công Du, Công Thế, Công Tài ở tuổi đang bồng thì lẫn theo dân ta bị đày [83a] đến nơi biên ải xa xôi, sau được vua mới nước Xiêm gọi về và nuôi nấng. Lúc này vua nghĩ đến cháu con sót lại của công thần nên bổ Tử Sanh làm Tham tướng, phong tước là Lý Chánh hầu.

Tháng 7, đại quân tiến lấy đạo Kiên Giang rồi vào Trấn Giang đánh với ngụy Đô đốc Hóa (Nguyễn Hóa) của Tây Sơn, sau đó kéo thẳng đến chia quân đóng ở các xứ Ba Thắc, Trà Ôn, Mân Thít và Sa Đéc.

Ngày 18 tháng 10, đang đêm Tiếp Quận công tập kích thủy quân của Phò mã Đa (Trương Văn Đa) ở sông Mân Thít, chém chết Chưởng tiền Bảo, quân Tây Sơn bị thương và chết rất nhiều nên phải bỏ thuyền lội chạy. Lúc ấy, Tiếp Quận công đang ở trong vòng hỗn chiến bị địch đánh lén thọ thương, ngày hôm sau thì chết. Quan quân thu được thuyền bè, khí giới của quân Tây Sơn không biết bao nhiêu mà kể. Phò mã Đa thì chạy về Long Hồ cùng Đô úy Trấn cứ thủ tại đó.

Tháng 11, quân ta đánh đồn Ba Lai và Trà Luật, thế quân đi tới đâu giặc hàng phục tới đó. Trước đó tướng Tây Sơn đã cấp báo về Quy Nhơn [83b], Nguyễn Nhạc sai Nguyễn Văn Huệ đem hết quân tinh nhuệ đáp thuyền vào Gia Định để ứng viện. Trong lúc đó, quân cần vương của ta từ bốn phương tụ tập về, binh uy cũng vang dội. Lúc ấy chỉ có quân Xiêm đi đến đâu thì cướp bóc rất khó chế ngự nên vua rất lo âu. Đã vậy, quân Xiêm còn kiêu ngạo hung hãn khiến lòng dân không phục. Khi quân Xiêm kéo đến Rạch Gầm, do không thuộc địa thế chỗ nào hiểm, chỗ nào không, lại bị giặc lừa sâu vào đường cùng rồi bị phục binh vừa thủy vừa bộ đổ ra chận đánh, cả cánh quân đều thua chết hết. Chiêu Tăng và Chiêu Sương đem vài ngàn tàn quân theo đường Cao Miên chạy về Xiêm.

Ngày 18 tháng 12, vua về Trấn Giang, Tham tướng Lý Chánh hầu đón rước về trấn Hà Tiên. Vua sai Lý Chánh hầu và Cai cơ Trung Nghĩa hầu mang quốc thư nói rõ nguyên nhân thất lợi để vua Xiêm biết.

[84a] Tháng Giêng mùa xuân năm thứ 8, Ất Tỵ (1785) (Năm thứ 46 niên hiệu Cảnh Hưng đời vua Lê Hiển Tông. Năm thứ 8 niên hiệu Thái Đức ngụy tặc Tây Sơn Nguyễn Văn Nhạc. Năm 50 đời vua Càn Long nhà Đại Thanh), vua tạm trú ở đảo Thổ Chu (Châu), quân địch đuổi đến rất gắt, vua phải dời ra đảo Cổ Cốt, lúc ấy đã có thuyền bè của quân Xiêm đậu sẵn ở đó để đón rước nhà vua. Ngày mùng 1 tháng 3, xa giá trở qua thành Vọng Các, vua Xiêm cung kính đón tiếp và an ủi rồi nói: Bọn cháu tôi ngông cuồng chẳng ra gì nên bị thua nhục nhã, làm nhọc thánh giá phải lánh đi đây đó. Nói xong ra lệnh phải đem Chiêu Tăng và Chiêu Sương ra xử tử. Vua vốn khoan hồng và nhân từ nên can rằng: Đó là do ý trời chưa muốn cho yên, cần phải đợi thời cơ, vậy xin được tha tội cho hai tướng đó. Vua Xiêm nghe vậy mới tha cho.

Lúc ấy tướng sĩ văn võ tụ tập càng đông, tuy lương hướng trên dưới vua Xiêm cung cấp đầy đủ, chưa đến nỗi thiếu thốn nhưng lương thực cho quân lính là chuyện lớn cần phải có trước, vì vậy vua về trú tại Long Khâu (dân Xiêm gọi là Gò Khoai (Khuy) (?) chăm lo việc đồn điền. Vua lại còn sai phái các tướng hoặc giúp vua Xiêm đi đánh Miến Điện ở Sài Nặc (Tháng 6 năm Bính Ngọ (1786) ([35][142]) quân Miến Điện đánh Xiêm La ở Sài Nặc, vua Xiêm nhờ giúp đỡ, vua thân chinh và dùng súng phun lửa hỏa hổ thắng được, quân Miến Điện khiếp sợ bỏ chạy), hoặc đánh Đồ Bà (Chà Và) ở Tòa Nầy (Này) ([36][143]) (thương nhân người Hoa gọi đất nầy là Đại Niên ở hải đảo Tây Nam, vốn làm thuộc quốc Xiêm La, nhưng không tuân theo chức cống. Năm Bính Ngọ, vua Xiêm cầu quân ta giúp, vua sai Tiền quân Dũng Quận công cùng với Nhị vương nước Xiêm dẹp yên được nước Đại Niên), hoặc ra hải đảo sửa sang thuyền bè, hoặc ngầm về Gia Định chiêu mộ nghĩa binh để tính kế khôi phục.

Tháng 5 mùa hạ năm thứ 10, Đinh Mùi (1787) (Năm thứ 2 niên hiệu Lê Chiêu Thống. Năm thứ 10 niên hiệu Thái Đức ngụy tặc Tây Sơn Nguyễn Văn Nhạc. Năm thứ 52 đời vua Càn Long nhà Đại Thanh), Giám quân Úy Văn hầu Tống Phước Đạm đến nơi hành tại ở Vọng Các tâu bày anh em Tây Sơn Văn Nhạc, Văn Huệ đang dàn quân sát hại lẫn nhau, tướng Tây Sơn giữ Gia Định là Đô úy Trấn đã rút hết quân về ứng cứu Quy Nhơn, Gia Định đang yếu, có cơ thu lại được.

[85a] Ngày mùng 1 tháng 7, nhà vua tính toán rất sáng suốt, lại hợp ý trời, chẳng theo thói thường tình mà đi cầu mượn binh lương để cho người Xiêm được thế kiêu căng hung hãn khó chế ngự, lại có hại cho lê dân, cũng không câu nệ việc nhỏ là phải đối mặt để từ tạ, để họ nhân chuyện giúp đỡ mà chẳng làm được gì rồi lựa lời can ngăn, nên vua để lại bức thư từ tạ nơi dinh thự đang ở rồi trong đêm dẫn ngự binh theo cửa bể Bắc Nôm ra Hòn Tre để điều khiển ba quân tiến đánh, vua sai chém Cai cơ Trung rồi lấy đầu gửi tạ vua Xiêm. (Trung ức hiếp và giết người Xiêm, việc sắp bị phát giác nên đem chém). Lúc ấy, vua Xiêm cho quân chạy theo ân cần bày tỏ lời tự trách và nói nếu vua cần những gì thì sẽ xin cung ứng đầy đủ. Vua nói lời cảm ơn rồi tiến thẳng đến Hà Tiên.

Lúc ấy có tướng Tàu Ô cướp biển của Thiên Địa hội (Đảng Bạch Liên giáo tỉnh Tứ Xuyên ra biển xưng vương hiệu là Thiên Địa hội, chúng cướp phá rất hung dữ, hai xứ Mân - Việt (của nhà Thanh) đều không chế ngự được) là Hà Hỉ Văn và Châu Viễn [85b] Quyền đem binh thuyền xin theo về. Quân vua đến đạo Long Xuyên, tướng Tây Sơn là Lưu thủ Quyền Chánh hầu Nguyễn Văn Trương (sau thăng là Chưởng trung quân, Bình Tây đại tướng quân, tước Quận công, là người đứng đầu công thần thời Trung hưng) đem quân đến lạy hàng, rồi xin làm tiên phong đem quân đi phá đồn giặc ở Trà Ôn, Ba Lai. Còn vua về trú tại Hồi Thủy (tức đồn Hồi Oa tại thôn Hưng Long, An Giang)([37][144]),nghĩa quân bốn phương hưởng ứng theo về rất đông. Ở Trấn Định có tiên phong Tánh Thiện hầu Võ Tánh (sau thăng Chưởng hậu quân Bình Tây tham thừa đại tướng quân, mùa hạ năm Tân Sửu ([38][145]) tử tiết ở thành Qui Nhơn, được tặng Thái úy Quốc công); ở Trấn Biên có Chưởng cơ Nghĩa Lý hầu Nguyễn Văn Nghĩa là người có mưu mô thủ đoạn, ngoài ra các hào kiệt thường hay đánh giết tướng tá quan lại của Tây Sơn để hưởng ứng theo quan binh nơi nơi không phải là ít. Trong đó cũng có kẻ thế cô, tính việc không thành bị địch giết hại [86a] và cũng có người vì lòng trung phẫn, mà làm nội công, nổi lửa làm hiệu mà quân giặc không sao chế ngự được, nên việc Trung hưng có thể định trước chẳng lâu xa gì.

Tháng 6, Tham tướng Lý Chánh hầu từ Xiêm La trở về giữ trấn Hà Tiên, lúc ấy thanh thế quân ta đã vang động. Ngụy Đông Định vương Nguyễn Văn Lữ dẫn quân lánh vào gò Mụ Lượng (nui Vải Lượng) ở Trấn Biên đắp lũy bằng đất mà ở, chẳng bao lâu phải đem thuộc hạ trở về Qui Nhơn, ngụy Tham đốc Tây Sơn là Tú giữ Phiên Trấn cũng lo phòng giữ nghiêm mật, đường thương mại cũng bế tắc. Ngụy Thái bảo Tham (Phạm Văn Tham) ở Mỹ Tho Long Hồ mỗi khi giao chiến cũng bị thua, phải dùng thuyền chiến kết lại làm thành dưới nước để bảo vệ nhau. Ở những nơi như Ba Lai, Kiến Định, Mỹ Tho quân địch không dám leo lên bờ. Tiếp đó có một viên Thái úy Tây Sơn là Hưng (Nguyễn Văn Hưng) dùng 30 chiếc thuyền chở binh lương từ Qui Nhơn cật lực giúp Thái bảo Tham để chiến đấu nhưng cũng nhiều lần bị thua.

Mùa hạ năm Mậu Thân (1788), quân Tây Sơn phải [86b] chở lương trở về, chỉ còn Thái bảo Tham ở lại chống chỏi một cách nhọc nhằn mà thôi.

Ngày mùng 8 tháng 8 mùa thu năm thứ 11, Mậu Thân (1788) (Năm thứ 3 đời vua Lê Chiêu Thống. Năm thứ 11 niên hiệu Thái Đức ngụy tặc Tây Sơn Nguyễn Văn Nhạc. Năm đầu niên hiệu Quang Trung ngụy tặc Tây Sơn Nguyễn Văn Huệ. Năm thứ 53 đời vua Càn Long nhà Đại Thanh), vua lấy lại được Gia Định và đồn trú ở Bình Dương (tục gọi là Mụ Nghè), Tham đốc Tây Sơn là Tú đến xin hàng. Thái bảo Tham dẫn binh thuyền ngoài phủ Qui Nhơn và Thuận Hóa đến Cần Giờ, vào Cửa Tiểu, qua Ba Lai, Long Hồ rồi đến Ba Thắc, chạy quanh bốn phía rồi cũng bị đại quân đuổi theo tới cùng.

Tháng Giêng mùa xuân năm thứ 12, Kỷ Dậu (1789) (Năm thứ 54 đời vua Càn Long nhà Đại Thanh. Năm thứ 12 niên hiệu Thái Đức ngụy tặc Tây Sơn Nguyễn Văn Nhạc. Năm thứ 2 niên hiệu Quang Trung ngụy tặc Tây Sơn Nguyễn Văn Huệ), vua thân chinh đi dẹp, Thái bảo Tham bị truy bức đến cùng nên phải ra hàng, vua tha cho tội chết. Về sau Tham định làm phản, việc bị bại lộ nên bị giết, liền bình định (... ) Gia Định ([39][146]).

Lúc ấy Tham tướng Lý Chánh hầu đã bị bệnh và mất rồi, vua Xiêm đưa Mạc Công Bính về lại trấn Hà Tiên. Trấn này vốn là dọi biển xa xôi hẻo lánh, lại bị binh lửa đã lâu ngày, nhân dân chưa trở về hoàn tụ, vua gia phong cho Công Bính làm chức Lưu thủ tước Bính Chánh hầu [87a] đồn trú ở đạo Long Xuyên. Chẳng bao lâu Công Bính cũng bị bệnh mất nên phải thay quan khác chia nhau coi sóc hai đạo Long Xuyên và Kiên Giang, còn trấn Hà Tiên thì còn để khuyết.

Năm thứ 22, Kỷ Mùi (1799) (Năm thứ 4 niên hiệu Gia Khánh nhà Đại Thanh. Năm thứ 7 niên hiệu Cảnh Thịnh ngụy tặc Tây Sơn Nguyễn Quang Toản), vua cho đòi Mạc Tử Thiêm và Mạc Tử Du (con Hiệp Trấn Hoàng Tân hầu) ([40][147]) từ Xiêm về.

Tháng 10 mùa đông niên hiệu Gia Long năm đầu (Năm thứ 7 Gia Khánh nhà Đại Thanh) Nhâm Tuất (1802), phong chức Cai cơ cho Mạc Tử Thiêm rồi cử làm Trấn thủ trấn Hà Tiên và sai trở về trấn ấy lo chiêu tập nhân dân, tha cho các khoản thuế khóa. Còn các khoản thuế của dân hai đạo Long Xuyên và Kiên Giang thì đem nộp ở dinh Vĩnh Trấn.

Tháng 12 mùa đông niên hiệu Gia Long thứ 8, Kỷ Tỵ (Năm thứ 14 Gia Khánh nhà Đại Thanh) (1809), Trấn thủ Hà Tiên Chưởng cơ Thiêm Lộc hầu Mạc Tử Thiêm mất. Lúc ấy, Công Du, Công Thê, Công Tài đang ít tuổi, chưa am hiểu chính sự, vua ban cho họ [87b] mang hàm Cai đội lo việc thờ phụng Mạc Thống binh và Mạc Quận công, cấp thêm cho phu và quân giữ mộ 53 người.

Tháng Giêng mùa xuân niên hiệu Gia Long thứ 9, Canh Ngọ (Năm thứ 15 Gia Khánh nhà Đại Thanh) (1810), Tổng trấn thành Gia Định là Khâm sai Chưởng chấn võ quân Nhơn Quận công Nguyễn Văn Nhơn, Khâm sai bộ Hộ Thượng thư Hiệp tổng trấn [thần] An Toàn hầu Trịnh Hoài Đức, quyền Khâm sai Cai đội Nghiễm Chánh hầu Ngô Y Nghiễm, Tham luận Tri Lễ hầu Lê Tiến Phước án thủ trấn Hà Tiên. Ngô Y Nghiễm và Lê Tiến Phước tâu xin cho bỏ ba ngạch thuế hoa chi, thuốc phiện và mỡ lợn. Vua còn dụ rằng các loại tàu thuyền buôn của hạt Hà Tiên từ nay về sau đều cho miễn thuế khóa.

Tháng 9, vua ra lệnh thuyên chuyển Trấn thủ trấn Vĩnh Thanh Thiện Chánh hầu Nguyễn Văn Thiện sang làm Trấn thủ Hà Tiên [88a], Ký lục Hội Lý hầu Nguyễn Đức Hội làm Hiệp trấn, Tham luận Châu Quang hầu Dương Văn Châu làm Tham hiệp, chuẩn ban cho ấn đồng dùng mực đỏ để làm việc và đem hai đạo Long Xuyên và Kiên Giang cho thuộc vào trấn Hà Tiên như cũ. Đồng thời chuyển 20 viên trong hai Thừa ty tả hữu của bốn trấn Phiên An, Biên Hòa, Vĩnh Thanh, Định Tường bổ sung làm hai Thừa ty cho trấn Hà Tiên. Lại còn cấp thêm 200 lính cơ cho bốn trấn cùng 6 chiếc ghe để sai phái, chuẩn định cứ 6 tháng 1 lần thay phiên và thuộc quyền quan Lưu thủ sai phái việc công để tuần bắt bọn giặc biển (trấn này vì loạn lạc nên bị điêu tàn, do đó quan binh đều thiếu).

Thiện Chánh hầu được bổ làm Trấn thủ nhưng chưa đến trấn thì đã bị bệnh mất. Hội Lý hầu và Châu Quang hầu không đủ khả năng chấn chỉnh cho yên ổn, họ còn vì chuyện riêng tư mà kèn cựa lẫn nhau, thường cho quân ẩu đả nhau gây rối loạn địa phương, Khổn súy thành Gia Định ra lệnh bắt giam và tâu lên triều xin tra xét rồi thay quyền lệnh [88b] cho Thủy quân Khâm sai Chưởng cơ Thoại Vân hầu Nguyễn Phước Thoại đến vỗ về cư dân và canh phòng bọn trộm cướp.

Tháng 8 mùa thu niên hiệu Gia Long thứ 10, Tân Mùi (1811) (Năm thứ 16 Gia Khánh nhà Đại Thanh), Khâm mạng đạo Kiên Giang là Cai cơ Giáo Hóa hầu Trương Phước Giáo được thăng làm Trấn thủ Hà Tiên, chuyển Ký lục trấn Định Tường là Minh Đức hầu Bùi Văn Minh ([41][148]) làm Hiệp trấn. Từ đó, Minh Đức hầu lo sửa sang nha thự, doanh trại, chiêu dụ dân lưu tán, tập họp người buôn bán, dựng trường học, khẩn hoang ruộng đất, qui hoạch đường sá chợ búa, sắp xếp rất nề nếp. Người Việt, người Tàu, người Cao Miên, Đồ Bà (Chà Và) cùng nhau đến ở, chính sự rất giản dị rộng rãi, không gây phiền nhiễu, từ đó việc ở trấn này mới đi vào nề nếp tốt đẹp.

Tháng Giêng mùa xuân niên hiệu Gia Long thứ 15, Bính Tý (Năm thứ 21 Gia Khánh nhà Đại Thanh) (1816), vua hạ chiếu cho Mạc Công Du làm Hiệp trấn Hà Tiên [89a]. Tháng 12 mùa đông niên hiệu Gia Long thứ 17, Mậu Dần (Năm thứ 23 Gia Khánh nhà Đại Thanh) (1818), vua hạ chiếu gia thăng cho Hiệp trấn Du Thành hầu (Mạc Công Du) làm Trấn thủ trấn Hà Tiên, đó là triều đình tưởng nhớ đến công mở mang đất đai của công thần, nên con cháu được nhờ ơn phúc ấm của tổ tông lâu dài vậy.

Trấn Hà Tiên này phía nam giáp trấn Vĩnh Thanh, phía tây giáp nước Xiêm La, phía tây nam trông ra biển, phía đông trông về thành Gia Định, phía bắc giáp nước Cao Miên, đảo Đại Kim Dữ và Tiểu Kim Dữ làm thành các viên ngọc biển án phía trước, núi Ngũ Hổ như cái ấn treo chận đằng sau. Phía đông có núi Tô Châu cao ngất nghểu làm thành cái cửa ải lớn lao bảo vệ vùng biển mênh mông. Phía tây có núi Lộc Trĩ như trụ đá ngăn chặn các đợt sóng dữ. Phía trái Hà Tiên có dãy Bình Sơn chầu về. Phía phải có dãy đảo hộ vệ, trông lồi thụt như răng chó, hoặc như cái đai ngọc, cánh cung nằm ngang, hoặc như cái đài vuông, cái đàn nằm ngang vừa cúi xuống vừa bao tròn quanh trấn. Có đảo Phủ Quốc chầu ngoài xa, vừa nhô cao vừa mỹ lệ, nay có thêm sông Vĩnh Tế mới thông thương, [89b] thuyền sông, tàu bể tụ tập tấp nập, đường thủy, đường bộ đều tiện lợi, thật là một nơi có hình thế tốt đẹp vậy.

Từ phía nam đến phía bắc cách nhau 54 dặm; từ đông sang tây là 419 dặm. Từ đông bắc đến thành (Gia Định) là 773 dặm. Trấn này có 2 huyện, 4 tổng, 103 xã, thôn, điếm, đội, nậu, phố, thuộc, sở, sóc. Danh mục theo cũ và thay đổi kê như sau:


LỆ THUỘC TRẤN THÀNH HÀ TIÊN (chư
a đặt tên phủ, huyện, tổng)

Đông giáp tổng Kiên Định huyện Kiên Giang; Tây giáp vùng địa đầu Chân Bôn, Đại Đồng nước Xiêm La; Nam nhìn ra bờ biển; phía bắc giáp nước Cao Miên. Có 52 xã, thôn, điếm, phố, sở, thuộc, đội, soc.

19 xã, thôn, thuộc của Việt Nam.

· Xã Minh Hương.    · Xã Hòa Mỹ.

· Thôn Tân An.        · Thôn Thuận An.

· Xã Tân Đông.        · [90a] - Thôn Tiên Hương.

· Thôn Tiên Hưng.    · Thôn Dương Cảng Đông

(12 thôn dưới đây nguyên thuộc đảo Phú Quốc, trước đó thuộc sự cai quản của đạo Long Xuyên. Tháng 11 niên hiệu Gia Long thứ 18 (1819) cho thuộc vào trấn thành Hà Tiên cho gần và tiện).

· Thôn An Hòa.        · Thôn Thới Thạnh.

· Thôn Vĩnh Thạnh.  · Thôn Phước Lộc.

· Thôn Phú Đông.    · Thôn Tân Quy.

· Thôn Cẩm Sơn.     · Thôn Mỹ Thạnh.

· Thôn Phước Sơn. · Thôn Tiên Tỉnh.

· Thôn Minh Hương.

Phố, sở, điếm, thuộc của người Hoa

· Phố Lớn Minh Bột (Minh Bột Đại Phố).

· Phố Mới Minh Bột (Minh Bột Tân Phố).

· Phố Minh Bột Kỳ Thọ (trước có tên là Cây Kè).

· Sở Minh Bột Lư Khê (trước là xứ Rạch Vược).

· Điếm Minh Bột Thổ Khâu (trước là xóm Rễ)

THUỘC NGƯỜI HOA Ở PHÚ QUỐC

(Trước đó thuộc quản hạt đạo Long Xuyên, tháng 11 niên hiệu Gia Long thứ 18 (1819) cho lệ thuộc vào Hà Tiên)

[90b] 26 sóc của người Cao Miên

· Sóc Lộc Trĩ.          · Sóc Vàm.

· Sóc Cổ Cần Lố.     · Sóc Cò Vinh.

· Sóc Sa Cà Mau.    · Sóc Xoài Tống.

· Sóc Cố Sâm.        · Sóc Cô Gấp [hay (Hắp?), (Sà?), (Sai?)]

· Sóc Cố Vơn.         · Sóc Kiên Xà Me Rạch Vược.

· Sóc Luốt (hay Lọt).            · Sóc Sai Trò.

· Sóc Ba Nôm Rạp. · Sóc Côn Vun.

· Sóc Vàm Chông.   · Sóc Côn Đồng.

· Sóc Nam Rạp.      · Sóc Vẹt Trác.

· Sóc Côn Trà Mạt.  · Sóc Cốt Tà Nục.

· Sóc Cốc Tầm Lai.  · Sóc Bài Tầm Mang.

· Sóc Cốt Trà Câu.   · Sóc Lạc Bà Già (Cà?).

· Sóc Phun Vàng Co.           · Sóc Tầm Nặc Tà Bẹt.

* Một đội Đồ Bà: Đồ Bà Đội.

HUYỆN LONG XUYÊN
(mới đặt thành huyện)

Lãnh 2 tổng, 40 xã, thôn, điếm, nậu, thuộc.

TỔNG LONG THỦY ([42][149]) (mới đặt)

Có 23 xã, thôn, thuộc, nậu. Lấy hai bên rạch Cai Điều đến Gành Hàu giáp đến Mương Đào làm giới hạn.

· Thôn Tân Xuyên.    · Thôn Minh Hương.

· Nậu Sái Phu.        · Thôn Tân Phong.

· Thôn Tân Trạch.    · Thôn Tân Qui.

· Thôn Mỹ Chánh.    · Thôn Tân Định.

· Thôn Bình Thạnh.  · Thôn Phong Thạnh.

· Thôn Mỹ Thuận.    · Thôn Vĩnh Thạnh.

· [91b] - Thôn Tân Long.       · Thôn Tân Thuộc.

· Thôn Hòa Thạnh.   · Thuộc Hòa Thạnh (người Hoa).

· Thôn Tân Đức.      · Thôn Tân Nghĩa.

· Thôn Bình Lâm.     · Thôn Tân Thới.

· Thôn Cát An.         · Thôn Tân Bình.

· Thôn Tân An.

TỔNG QUẢNG XUYÊN ([43][150]) (mới đặt)

Có 9 thôn, nậu. Lấy bờ bên trái cửa bể Gành Hàu xuống đến Mương Đào làm giới hạn.

· Thôn Tân Hưng.    · Thôn Tân Duyệt.

· Thôn Tân Thuận.    · Thôn Tân Ân.

· Thôn An Phong.    · Thôn Lâm An.

· Thôn Tân Khánh.   · Nậu Hoàng Lạp Phú Thạnh.

· Thôn Sàn Dầu hòn Sơn Rái.


[92a] HUYỆN KIÊN GIANG (mới đặt)

Gồm 2 tổng, 11 xã thôn.

TỔNG KIÊN ĐỊNH (mới đặt)

Có 7 xã, thôn. Từ Phong Đồng Bài đến ngã ba sông Cai Huệ xuống Giồng Riềng rồi dọc theo cửa cảng sông Thổ Khâu (tục gọi là Cái Bé), cảng Lịch Giang sông Trà Ninh (tục danh rạch Sỏi), cảng Kiên Giang (tục danh Rạch Giá), cảng Khâu Giang (tục gọi là Rạch Giồng), đến núi Tật Lê (tục gọi là hòn Chông) ([44][151]), giáp trở lại với Phong Đồng Bài.

· Xã Bình An.           · Xã Thái Hòa.

· Xã Vĩnh Thạnh.      · Xã Vĩnh An.

· Thôn Vĩnh Hòa Đông.         · Thôn An Hòa.

· Thôn Sái Phu.

TỔNG THANH GIANG (mới đặt)

Gồm 4 xã, thôn. Từ ngã ba Cạnh Đền đến Cái Tàu, Cái Tư, Nước Trong, Nước Đục, Thầy Quang, Hốc Hỏa, Cái Bần, Cái Mới, Cái Nước, Cái Xu ([45][152]), Thứ Nhứt (từ thứ nhất tới thứ 11 là ra tới biển) cho đến Kim Quy (rùa vàng), rồi men theo đảo Bạch Thạch (đá trắng) giáp lại ngã ba Cạnh Đền.

· Thôn Vĩnh Thuận.  · Thôn Vĩnh Hòa.

· Thôn Thái An.        · Thôn Đông An.

 

 


([1][108])      Người Hoa gọi người Khơ me là Hoan Kía (芳吇). Vậy Phương Thành tiếng Hoa là Hoan Kía (芳吇) nghĩa là thành của người Khơ me. (Chờ chỉ giáo).

([2][109])      Bản in kèm bản dịch của VSH chép là (¬), bản VHN chép澳.

([3][110])      Bản in kèm bản dịch của VSH chép là Lý Kiến Tiệp.

([4][111])      Cần Bột tức Kampot của Campuchia, dân địa phương gọi là Cần Vọt.

([5][112])      Vũng Thơm còn gọi là Hương Úc tức Kompong Som của Campuchia.

([6][113])      Theo bản dịch của VSH: Mạc Cửu được phong Tổng binh vào năm Giáp Ngọ Hiển Tông Hiếu Minh hoàng đế năm thứ 24 (1714), (Lê Dụ Tông Vĩnh Thịnh năm thứ 10, Đại Thanh Khang Hy năm thứ 53). Nếu đọc tiếp đoạn sau (trang 120) lại thấy chép Mạc Cửu đến Phú Xuân tạ ơn vào tháng 4 năm Tân Mão (1711) thì thời gian thật mâu thuẫn (Bt).

([7][114])      Theo Từ Hải, Hạc đính là một loại xương nhỏ lấy từ cổ con hạc, hay cổ con cá hạc (hạc ngư) ở biển Nam Phiên dùng để cẩn dây nịt như nạm ngọc. Ngoài ra, hạc đính tức Đan đính hạc là thứ chim hạc đầu đỏ rất quý mà xưa kia Tống vương nuôi và đặt tên là Cửu Cao Xử Sĩ. Hạc ngày nay vẫn còn ở Việt Nam. Trong ngữ cảnh trên, dịch hạc đầu đỏ hay viên ngọc Hạc đính đều hợp nghĩa.

([8][115])      Gà lôi.

([9][116])      Chó berger.

([10][117])     Đáng lý phải viết là Cà Mao vì nguyên văn tên khi xưa là Ca Mao (哥毛) đọc trại thành Cà Mao.

([11][118])     Bản VHN chép Chiêu (翠) Chất Bùi phiên (昭翠質裴反), tức chữ翠phiên âm là "chất bùi" tức đọc là Chúy. Bản VSH cũng có chép ba chữ質裴反nhưng làm dấu bôi bỏ.

([12][119])     Nguyên văn ngoại điệt có nghĩa là cháu bên ngoại tức con của chị hay em gái mình. Dịch cháu ngoại tức cháu kêu mình là ông ngoại là nhầm, vì đoạn dưới nói rõ đây là con người em gái của Tông Đức hầu tức gọi Tông Đức hầu bằng cậu.

([13][120])     Mặc dầu cả ba bản nguyên văn đều chép là Sửu (丑) Tài hầu, nhưng căn cứ theo cách phong hầu của các chúa Nguyễn thì đã là Trần Đại Lực tất phải là Lực Tài hầu. Có thể tên tục của Trần Đại Lực là Sửu?

([14][121])     Cầu vồng (Bt).

([15][122])     Giang Thành (江城): Tên đồn lũy đóng theo dọc bờ sông Giang Thành. Sông Giang Thành nầy bắt nguồn từ vùng Sài Mạt (Bantay-mas) và Lình Quình (Hà Dương) trên đất Khơ me chảy ra vàm Hà Tiên, xưa gọi là Kan Kao (Khẩu). Vàm sông Giang Thành ở chỗ đầu dãy Trúc Bằng thành (Bờ Đồn lớn), bên trong còn có một bờ đồn nữa gọi là Bờ Đồn nhỏ.

([16][123])     Hiệp trấn (協鎮): Là chức phụ tá Trấn thủ như Trịnh Hoài Đức làm Hiệp Tổng trấn cho Tổng trấn Khâm sai Chưởng chấn võ quân Nhơn Quận công Nguyễn Văn Nhơn ở Gia Định thành. Tuy Hà Tiên là một trong năm trấn của Gia Định thành nhưng là trấn lớn, nên phụ tá cho Trấn thủ Tông Đức hầu có Hiệp trấn là con cháu tâm phúc trong nhà.

([17][124])     Có gồng (固肛): Bản nguyên văn in kèm bản dịch VSH viết là固叿. Tương truyền, đây là một thuật lạ của người Khơ me, người Thái và người Chà Và. Người học gồng tới chữ, khi uống bùa niệm chú rồi thì dao đâm không thấu, đạn bắn không thủng.

([18][125])     Phi nhã Tân (丕雅新): Là Trình Quốc Anh, tiếng Thái là Phya Tan.

([19][126])     Bản VHN lưu trữ chép là sông Mụ Nghi (媒儀) thay vì Bà Nghi (婆儀).

([20][127])     Bản VHN chép Nguyễn Văn Tiến (文進).

([21][128])     Chữ Nôm瀝có thể đọc rạch hoặc lạch để chỉ con sông nhỏ.

([22][129])     Thử Ly là tên một bài thơ trong Kinh thi, do một ông quan đại phu nhà Chu đi ngang qua chỗ tôn miếu cùng cung thất cũ của nhà Tây Chu, đã hoang tàn thành ruộng lúa, xúc cảm mà làm ra để than thở cho sự suy tàn của nhà Chu.

([23][130])     Bản nguyên văn in kèm bản dịch VSH chép nhầm là Tiêu Tuyết (逍雪).

([24][131])     Bản nguyên văn VHN lưu trữ viết là Hữu Thuyền Cai đội右船該隊.

([25][132])     Trong nguyên văn đoạn văn này, từ Thánh giá Đại giá hay Giá là chỉ Định vương, tức Thái Thượng vương. Năm 1765, Vũ ( Võ) vương mất, người con thứ 16 của Vũ vương được nối ngôi Chúa gọi là Định vương. Về sau dưới áp lực của Lý Tài, Định vương phải nhường ngôi cho Đông cung Nguyễn Phúc Dương (Mục vương) ở chùa Kim Chương làm Tân Chánh vương còn Định vương thì làm Thái Thượng vương.

([26][133])     Tức Tôn Thất Xuân.

([27][134])     Tức Chakkri

([28][135])     Tức Manuel.

([29][136])     Bản in kèm bản dịch VSH chép là Trà Hương (茶鄉), bản VHN lưu trữ chép là Chà Lang.

([30][137])     Khúc Manh (曲萌), có bản chép曲蓈.

([31][138])     Tức Tôn Thất Cốc.

([32][139])     Tức Nguyễn Kim Phẩm.

([33][140])     Nguyên văn chữ Nôm viết (°) còn có thể đọc là rối hay trối, khác với sỏi viết là ±.

([34][141])     Có người dịch: "Nhưng giặc sợ không dám phạm" Nguyên văn Dực nhi bất cảm phạm (翼而不敢 犯), có nghĩa là " thuyền Vua cao chạy, xa bay, không dám chạm trán với chúng giặc."

([35][142])     Bản dịch của VSH chép là "Tháng 6 năm Ất Tỵ (1785)". (Bt)

([36][143])     Bản in kèm bản dịch VSH chép là Tòa Nây (²³).

([37][144])     Bản VHN và bản VSH chép: (tục danh Nước Xoáy渃d)

([38][145])     Theo Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim thì năm này là Tân Dậu (1801) vì Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng đem quân vây Qui Nhơn năm Canh Thân (1800) đến năm Tân Dậu 1801 thành mất, Võ Tánh tuẫn tiết.

([39][146])     Theo bản VHN, nguyên văn từ toại bình đến Gia Định thiếu một đoạn 17 chữ nên không dịch được.

([40][147])     Tức Mạc Tử Hoàng (鄚子潢)

([41][148])     Sách Đại Nam thực lục chính biên chép là Bùi Đức Mân.

([42][149])     Nay thuộc tỉnh Cà Mau.

([43][150])     Nay thuộc tỉnh Cà Mau.

([44][151])     Bản in kèm bản dịch của VSH chép là Vàm Chông (汎蔠). Bản in kèm bản dịch của Nguyễn Tạo chép là hòn Chông (I蔠) như bản VHN lưu trữ.

([45][152]) Cái Xu là Xẻo Rô. Cái Xu là tiếng Hoa địa phương gọi Xẻo Rô, nay là xã Đông Yên, huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang.

 

 

 

Lên trên

Cùng chủ đề

  • Sách “Di sản Ấn Độ trong văn hóa Việt Nam”

  • Nguyễn Văn Bốn. Tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt ở Khánh Hòa

  • Sách: Quản lý và khai thác di sản văn hóa trong thời kỳ hội nhập

  • Hồ Sĩ Quý. Con người và phát triển con người

  • Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 3

Thông báo

Tư vấn khoa học và kỹ năng nghiên cứu…

Tủ sách văn hoá học Sài Gòn

  • Thư viện ảnh
  • Thư viện video
  • Tủ sách VHH

Phóng sự ảnh: Toạ đàm khoa học: Xây dựng…

Hình ảnh văn hóa Tết xưa (sưu tầm)

Phóng sự ảnh: Lễ hội truyền thống VHH 2011

Phóng sự ảnh Lễ hội truyền thống VHH 2010

Thành phố Sankt-Peterburg, Nga

Bộ ảnh: Việt Nam quê hương tôi 2

Tranh Bùi Xuân Phái

Bộ tem tượng Phật chùa Tây Phương

Bộ ảnh: Đá cổ Sapa

Bộ ảnh: Phong cảnh thiên nhiên

Bộ ảnh: Việt Nam quê hương tôi

"Biển, đảo Việt Nam - Nguồn cội tự bao đời":…

Con dê trong văn hóa và văn hóa Việt Nam

Văn hóa Tết ở Tp.HCM (Chương trình truyền…

Văn hóa Tp. HCM: Một năm nhìn lại và động…

Phong tục Tết cổ truyền của người Nam Bộ

Bánh tét và Tết phương Nam

Con ngựa trong văn hóa và văn hóa Việt Nam

Điện Biên Phủ - Cuộc chiến giữa hổ và voi

Nhìn lại toàn cảnh thế giới từ 1911-2011…

Tọa độ chết - một bộ phim Xô-Việt xúc động…

Video: Lễ hội dân gian Việt Nam

Văn hoá Việt từ phong tục chúc Tết

Văn hoá Tết Việt qua video

Tết ông Táo từ góc nhìn văn hoá học

“Nếp nhà Hà Nội” trên “Nhịp cầu vàng”: tòa…

Văn hóa Thăng Long - Hà Nội qua video: từ…

Hướng về 1000 năm TL-HN: Xem phim “Tử Cấm…

Hướng về 1000 năm TL-HN: Người Thăng Long…

Phim "Chuyện tử tế" – tập 2 (?!) của “Hà…

Default Image

Hướng về 1000 năm TL-HN: "Chuyện tử tế" -…

Sách “Di sản Ấn Độ trong văn hóa Việt Nam”

Nguyễn Văn Bốn. Tín ngưỡng thờ Mẫu của người…

Sách: Quản lý và khai thác di sản văn hóa…

Hồ Sĩ Quý. Con người và phát triển con người

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 3

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 2

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 1

Hồ Sỹ Quý. Tiến bộ xã hội: một số vấn đề về…

Hồ Sỹ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á (Phụ…

Hồ Sỹ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á…

Hồ Sĩ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á…

Sách: Chuyên đề Văn hoá học

Sách: Một số vấn đề về hệ giá trị Việt Nam…

FitzGerald. Sự bành trướng của Trung Hoa…

Hữu Đạt. Đặc trưng ngôn ngữ và văn hoá giao…

Sống chụ son sao (Tiễn dặn người yêu)

Gs. Mai Ngọc Chừ. Số phận & Tâm linh

Trần Văn Cơ. Những khái niệm ngôn ngữ học…

Đoàn Văn Chúc. Văn hóa học (Phần 3 - hết)

Đoàn Văn Chúc. Văn hóa học (Phần 2)

Các nhà VHH nổi tiếng

Julian Haynes Steward

Wen Yi'duo (Văn Nhất Đa)

Leslie Alvin White

Huang Wen'shan (Hoàng Văn Sơn)

Radcliff-Brown, Alfred Reginald

Sapir, Edward

Margaret Mead

Thăm dò ý kiến

Bạn thích cuốn "Cơ sở văn hoá VN" của tác giả nào nhất?

Chu Xuân Diên - 4.8%
Lê Văn Chưởng - 0.9%
Trần Diễm Thuý - 1%
Trần Ngọc Thêm - 37.4%
Trần Quốc Vượng - 53%
The voting for this poll has ended on: 26 06, 2020

Tổng mục lục website

tong muc luc

Tủ sách VHH Sài Gòn

tu sach VHH SG

Thống kê truy cập

  • Đang online :
  • 489
  • Tổng :
  • 3 7 7 6 6 4 0 0
  • Đại học quốc gia TPHCM
  • Đại học KHXH&NV
  • Tran Ngoc Them
  • T.c Văn hóa-Nghệ thuật
  • Tc VHDG
  • Viện NCCN
  • Khoa Văn hóa học
  • Khoa Đông phương học
  • Phòng QLKH
  • Khoa Việt Nam học
  • Khoa Hàn Quốc học
  • BM Nhật Bản học
  • Khoa Văn học - Ngôn ngữ
  • Khoa triết học
  • Khoa Quan hệ quốc tế
  • Khoa Xã hội học
  • Bảo tàng Lịch sử - Văn hóa
  • viettems.com
  • myfaifo.com
Previous Next Play Pause

vanhoahoc.vn (các tên miền phụ: vanhoahoc.edu.vn ; vanhoahoc.net)
© Copyright 2007-2015. Bản quyền thuộc Trung tâm Văn hóa học Lý luận và Ứng dụng, Trường Đại học KHXH & NV - ĐHQG Tp. HCM
ĐT (028) 39104078; Email: ttvanhoahoc@hcmussh.edu.vn; ttvanhoahoc@gmail.com. Giấy phép: số 526/GP-BC, do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 27-11-2007
Ghi rõ nguồn vanhoahoc.vn khi phát hành lại các thông tin từ website này.

Website được phát triển bởi Nhà đăng ký tên miền chính thức Việt Nam trực thuộc Trung Tâm Internet VNNIC.

Tủ sách Văn hoá học