logo

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
    • Thư ngỏ
    • Khái quát về Trung tâm
    • Nhân lực Trung tâm
      • Thành viên Trung tâm
      • Cộng tác viên
    • Giới thiệu Khoa Văn hóa học
      • Khái quát về Khoa
      • Nhân lực của Khoa
  • Tin tức
    • Tin nhà (Trung tâm)
    • Tin ngành
    • Tin liên quan
  • Đào tạo - Huấn luyện
    • Các chương trình
    • Tổ chức và Hiệu quả
    • Đào tạo ở Khoa VHH
      • Chương trình đào tạo
      • Kết quả đào tạo
  • Nghiên cứu
    • Lý luận văn hóa học
      • LLVHH: Những vấn đề chung
      • VHH: Phương pháp nghiên cứu
      • VHH: Các trường phái - trào lưu
      • Loại hình và phổ quát văn hóa
      • Các bình diện của văn hóa
      • Văn hóa học so sánh
      • Vũ trụ quan phương Đông
      • Văn hóa và phát triển
      • VHH và các khoa học giáp ranh
    • Văn hóa Việt Nam
      • VHVN: Những vấn đề chung
      • Văn hóa cổ-trung đại ở Viêt Nam
      • Văn hóa các dân tộc thiểu số
      • Văn hóa Nam Bộ
      • Văn hóa nhận thức
      • Văn hóa tổ chức đời sống tập thể
      • Văn hóa tổ chức đời sống cá nhân
      • Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên
      • Văn hóa ứng xử với môi trường xã hội
    • Văn hóa thế giới
      • VH Phương Đông: Những vấn đề chung
      • VH Phương Tây: Những vấn đề chung
      • Quan hệ văn hóa Đông - Tây
      • Văn hóa Trung Hoa và Đông Bắc Á
      • Văn hóa Đông Nam Á
      • Văn hóa Nam Á và Tây Nam Á
      • Văn hóa châu Âu
      • Văn hóa châu Mỹ
      • Văn hóa châu Phi và châu Úc
    • Văn hóa học ứng dụng
      • VHƯD: Những vấn đề chung
      • VHH nghệ thuật
      • Văn hóa đại chúng
      • Văn hóa giao tiếp
      • Văn hóa du lịch
      • Văn hóa đô thị
      • Văn hóa kinh tế
      • Văn hóa quản trị
      • Văn hóa giáo dục - khoa học
    • Tài liệu phổ cập VHH
      • Văn hóa Việt Nam
      • Văn hóa thế giới
      • VHH ứng dụng
    • Tài liệu tiếng nước ngoài
      • Theory of Culturology
      • Vietnamese Culture
      • Applied Culturology
      • Other Cultures
      • 中文
      • Pусский язык
    • Thư Viện Số (Sách - Ảnh - Video)
      • Tủ sách Văn hoá học
      • Thư viện ảnh
      • Thư viện video
    • Các nhà văn hóa học nổi tiếng
  • Tiện ích
    • Dịch vụ Văn hóa học
    • Dịch vụ ngoài VHH
    • Trợ giúp vi tính
    • Từ điển Văn hóa học
    • Thư viện TT và Khoa
    • Tổng mục lục website
    • Tủ sách VHH Sài Gòn
    • Giải đáp thắc mắc
  • Thư giãn VHH
    • Văn chương Việt Nam
    • Văn chương nước ngoài
    • Nghệ thuật Việt Nam
    • Nghệ thuật thế giới
    • Hình ảnh vui
    • Video vui
  • Diễn đàn
  • Liên hệ
  • Trang chủ
  • Nghiên cứu
  • Thư Viện Số (Sách - Ảnh - Video)
  • Tủ sách Văn hoá học
Wednesday, 06 February 2008 03:27

Trịnh Hoài Đức. Gia Định Thành thông chí (phần 4)

Người post bài:  TT VHH

TRỊNH HOÀI ĐỨC

GIA ĐỊNH THÀNH THÔNG CHÍ (phần 4)

 

Hậu học LÝ VIỆT DŨNG (dịch và chú giải)

Tiến sĩ HUỲNH VĂN TỚI (hiệu đính, giới thiệu)

Nhà xuất bản Tổng hợp Đồng Nai (tái bản)

 

Quyển IV: PHONG TỤC CHÍ

[chép về phong tục]

 

Phương Nam thuộc quẻ Ly, hành Hỏa, thiên về hào văn minh, nên kẻ sĩ chuộng điều tiết nghĩa, tôn trọng lý học, dân thì chuyên nghề cày ruộng dệt cửi, làm thợ, đi buôn. Nhưng địa cuộc lại thuộc về khu vực sao Dương Châu. Dương là phát dương, tức tánh khí hay bồng bột; mà phong hóa tốt hay xấu, tập tục hậu hay bạc, thì tùy vào thời thế và vùng đất hoặc có thay đổi khác nhau.

Nay Thánh Thiên tử có hóa đức tác thành, nhân sâu nuôi dưỡng. Gia Định là nền móng của sự phục hưng, nên ban ơn bồi dưỡng, nghĩ định ra chế độ, ban bố điều luật, đặt chức Huyện quan để dạy bảo khuyên răn cho có công bình, ủy cho Trấn quan lo việc an dân. Lại đặt quan Đốc học để lo dạy dỗ cho dân, khiến quan Tổng trấn dùng tiết chế vỗ về nhân dân [1b] làm cho nơi lều xanh ngõ hẻm cũng bước lên cảnh thái bình thạnh trị, tạo sự biến đổi ngày càng tốt đẹp. Ôi tốt đẹp lắm vậy!


PHONG TỤC CỦA TOÀN THÀNH

Theo sách Chu lễ, thiên Chức phương thị ([1][1]) nói: Vùng phía đông nam, dân số cứ 2 người trai thì có 5 người gái, địa khí thì âm ít mà dương nhiều, trong thân người thớ thịt thưa, chim muông thì ít lông, tánh chịu đựng được nắng nóng.

Vùng Gia Định nước Việt ta đất rộng, thực vật phong phú, không lo đói rét, nên dân ít dự trữ, quen thói xa hoa, phong cách kẻ sĩ thì hiên ngang, do người từ bốn phương tụ lại nên mỗi nhà đều có riêng phong tục.

Đất thuộc Dương Châu gần với mặt trời, thiên khí phấn phát, ngay thẳng, văn vẻ, nên con người hay chuộng tiết nghĩa, họ học Ngũ kinh ([2][2]), Tứ thư ([3][3]), Thông giám ([4][4]), tinh thông nghĩa lý, lúc mới Trung hưng đã đặt chức Đốc học, ban bố quy chế học tập, mở khoa thi, lối học khoa cử thạnh hành, từ đó lý học và văn chương đều cùng tốt đẹp, nên văn phong mới phấn chấn.

Gia Định ở về phương Nam vị trí Dương Minh ([5][5]) người đủ tính trung dũng khí tiết, trọng nghĩa khinh tài, dẫu phụ nữ cũng thế. [2a] Giai nhân mỹ nữ lại nhiều mà hạng giàu sang, cao thọ, khôn khéo cũng xuất phát từ tên tuổi của giới phụ nữ. Họ sùng đạo Phật, tin việc đồng bóng, kính trọng nữ thần, như: bà Chúa Ngọc, bà Chúa Động (tục gọi phụ nữ sang trọng bằng bà), bà Hỏa Tinh, bà Thủy Long, cô Hồng, cô Hạnh v.v... tức là có ý mọi việc đều theo hào âm của quẻ Ly vậy. Lại thờ thần Táo quân (Ông Táo), ở 2 bên vẽ 2 hình người nam, ở giữa vẽ 1 hình người nữ, cũng tượng trưng của quẻ Ly Hỏa có ý là hai hào dương ở giữa một hào âm làm chủ.

Ngày xưa chỉ dùng xương gà để xem bói, nhưng nay thì dùng cỏ thi, mu rùa, các khoa nhâm độn, các môn học như y, bói, thuật số, tính lịch (coi ngày giờ) và địa lý đều tinh thông.

Phong tục gồm đủ lễ: quan, hôn, tang, tế ([6][6]); hôn lễ tuy dựa vào mai mối mà định duyên, nhưng thường dùng cau trầu làm trọng, nhưng đủ 6 ([7][7]) lễ thì chỉ có gia đình sĩ phu mới thực hiện nổi, lại có tục đi làm rể trước khi cưới vợ về. Nhiều nhà có con trai hay con gái phải thế chấp ruộng đất, trâu bò cho việc chi tiêu cưới gả. Về việc tang lễ thì hay dùng gia lễ Văn Công và nghi tiết Khâu Thị ([8][8]) [2b] phần nhiều trong tang tế thường dùng nhạc. Áo tang dùng tơ lụa sắc xanh hoặc đen, chính như Tô Đông Pha ([9][9]) nói: Chuông trống không phân biệt được việc buồn vui, áo mũ khó biết được người lành dữ; Nay cứ theo luật lệ lễ nghi mà thay đổi được phong tục, khiến việc lễ nghĩa trong nước càng sáng thêm.

Lại có tục cử tang theo kiểu nhà Phật, cúng cơm chay trong 49 ngày mới thôi, đám tang thì sắm rượu thịt cỗ bàn để khao đãi khách khứa đến phúng điếu tống táng, và tin theo thầy địa lý, quàn quan tài cả năm, để đi tìm đất theo luật phong thủy, nay đã có lệnh nghiêm cấm, và đã thấy có sự thay đổi.

Gia Định ở về phía nam nước Việt, khi mới khai thác, thì có lưu dân nước ta cùng người Đường (tục gọi người nhà Đại Thanh là Đường nhân, cũng như người dân tộc tứ di gọi người Trung Quốc là Hán nhân, người Hán đây không phải là Lưu Hán ([10][10]), người Đường đây không phải là Lý Đường ([11][11]). Sách Quảng Đông tự nhận mình là người Đường của đời Đường Ngu ([12][12]) chẳng qua chỉ là lời quá khoa trương). Người Tây Dương (các nước như Phú Lãng Sa ([13][13]), Hồng Mao ([14][14]), Mã Cao ([15][15]), đều gọi là Tây Dương) [3a] Cao Miên, Đồ Bà (người Sơn man, ở núi đảo theo đạo Bái Nhật (lạy mặt trời) ([16][16]) ở trong 36 cửa bể Mãn Lạt Gia, đều gọi là Đồ Bà), những người các nước ấy đến sinh sống chung nhau rất đông mà y phục đồ dùng đều theo kiểu của dân tộc họ. Duy có người Việt ta theo tục cũ Giao Chỉ: người quan chức thì đội khăn cao sơn (khăn đóng) mặc áo phi phong (áo dài), mang giày bì đà; hạng sĩ thứ thì bới tóc, đi chân đất, trai gái đều mặc áo ngắn tay bâu cổ thẳng, may kín hai nách, không có quần dài, quần ngắn, trai thì dùng 1 tấm vải buộc từ lưng thẳng đến dưới háng vòng đến rún, gọi là cái khố, gái thì mặc váy không gấp nếp, đội nón lá lớn; hút điếu bình, ở nhà thấp, trải chiếu ngồi không dùng bàn ghế. Năm Mậu Ngọ (1738) đời Thế Tông Hiếu Võ hoàng đế (Lê Ý Tông niên hiệu Vĩnh Hựu thứ 4, Đại Thanh Càn Long thứ 3), định lại sắc phục, y phục các quan văn võ châm chước theo chế độ các đời Hán, Đường, đến Đại Minh, cho đến hình thức mới như phẩm phục quan chế ngày nay đã được Hội điển ban hành gồm đủ cả văn chất. Còn y phục, nhà cửa vật dụng của hàng sĩ thứ đại để như thể chế người Minh, [3b] bỏ hết hủ tục ở Bắc Hà mà làm nên một nước y quan văn hiến vậy.

 

LỄ TẾT CUỐI NĂM Ở NÔNG NẠI

Đêm 28 tháng chạp, Na nhân ([17][17]) (tục gọi là Nậu sắc bùa) đánh trống mọi, gõ phách, một đoàn năm, mười người đi theo dọc đường, thấy nhà hào phú thì đẩy cửa ngõ vào dán lá bùa nơi cửa, niệm thần chú, rồi nổi trống phách lên, hát những lời chúc mừng, chủ nhà dùng cỗ bàn chè rượu khoản đãi và gói tiền thưởng tạ, xong nhà này lại qua nhà khác, cũng làm như vậy, cho đến trừ tịch mới thôi, ấy là có ý đuổi tà ma, tiễn cũ rước mới.

Ngày trừ tịch ([18][18]), ở trước cửa lớn mọi nhà đều dựng 1 cây tre, trên buộc cái giỏ bằng tre, trong giỏ đựng trầu cau vôi, ở bên giỏ có treo giấy vàng bạc, gọi là dựng nêu. Việc này không thể khảo cứu nguyên do được, mà có người cho đó là chia ra 3 giới thống trị [4a] cũng là thuyết hoang đường không nên tin, nhưng suy ý làm như vậy cũng như người Trung Quốc ngày đầu năm đốt pháo tre, treo bùa đào, ngày Đoan ngọ treo lá ngải, lá xương bồ vậy, ý là để làm tượng trưng cho năm mới mà tảo trừ những việc xấu xa trong năm cũ. Đến ngày mùng 7 Tết thì triệt hạ, gọi là hạ nêu. Trong mấy ngày Tết phàm những khoản nợ nần thiếu thốn đều không được đòi hỏi, đợi ngày hạ nêu rồi mới được đòi.

Tục ở đây thường đến cuối năm thì lo may sắm áo quần mới, quét dọn nhà cửa, dán treo câu liễn năm mới, đặt bàn ghế, trang trí bàn thờ tổ tiên, trên đó trưng bày các vật gì tốt đẹp để khoe diện, dặn con cháu phải cẩn thận trong mọi việc để bói điềm lành trọn năm. Bắt đầu giờ Dần ngày đầu năm phải dậy thắp hương đèn và dâng trà lễ bái tiên tổ, sau đó lạy mừng tuổi người trưởng thượng, chúc tụng phước thọ, đầu xuân mới được giàu sang, khỏe mạnh ([19][19]), và đặt cỗ bàn dâng lên tiên tổ, [4b] mỗi ngày 2 lần sớm và chiều, phụng sự như khi còn sống vậy, lễ vật gồm quả phẩm, bánh mứt, tất cả vật thực đều đem trưng bày, đến ngày mùng 3 đưa thần, gọi là đệ tiễn, lễ này dùng đồ dán giấy như đồ hàng mã đem đốt và đốt cả pháo, có thứ pháo đồng, pháo thiếc, tiếng nổ chấn động cả rừng núi rền vang không dứt. Ngày Tết họ còn uống rượu nếp than ([20][20]) và ăn bánh tét ([21][21]). Nay xét lễ ngày Nguyên đán, tuy sách Lễ không thấy chép, nhưng đó cũng là sự thể hiện cái đạo lý sâu dày không hại đến điều nghĩa, chỉ hàng sĩ phu tuân theo điển lệ quốc gia, tùy theo chức phận của mình mà kính cẩn vâng theo, không dám tự tiện thay đổi, ngoài những việc phải chiếu theo điều kiện điển lễ ra, còn có những việc trái lễ như tục truyền ngày mùng 3 Tết là ngày của quan tiễn đưa tiên tổ, thì hàng thứ dân không được cúng cùng ngày ấy, để tránh cho tiên tổ ở cõi u minh khỏi bị ép bắt đi khiêng gánh những đồ vật công, [5a] vì thế phải đợi đến ngày mùng 5, mùng 7 mới được cúng mà mỗi ngày chỉ được dùng vật cũ để cúng. Ấy là sự sai lầm quái đản, xem thường việc tế tự, vậy cứ tuân theo điển lệ quốc gia đến ngày mồng 3 làm lễ tống tiễn là phải, còn những việc sai ấy thì nên châm chước lễ nghi mà bỏ đi.

Tết Nguyên đán ở Gia Định có trò chơi đánh đu, nhưng khác với thể thức đu ở Trung Quốc. Cột tre làm trụ, ở hai bên tả hữu đều trồng 3 cây một chỗ chân dạng theo vòng tròn. Khoảng giữa giá đu chỗ hai càng đu đưa qua lại, hai bên tả hữu trước sau chia trồng xiên 4 cây trụ tre chân cách rộng ra, buộc chúm đầu tre vào cây giá cho chặt. Sáu đầu tre (mỗi bên 3) tại hai trụ chân được buộc túm đầu thật chặt rồi gác ngang ở giữa 1 cây gỗ tròn, xâu 2 cái ròng rọc treo tiếp liền với 2 cán tre dài gần đến đất, ước chừng cho người leo lên được, đầu dưới 2 cán tre gác ngang 1 miếng ván để làm chỗ đứng, một người leo lên 2 tay cầm 2 cán tre 2 bên, uốn mình nhún xuống đứng lên để đưa đu theo gió chao qua lại giữa không trung [5b], ấy gọi là đánh đu. Có người hiếu sự, treo những khăn, quạt, tiền bạc để làm vật thưởng, ai đu lên cao đến chỗ treo vật thưởng ấy, nhanh tay chộp lấy, được tiếng là xuất chúng, nếu rủi tuột tay ngã xuống thì bị thương, có khi rất nặng. Cho nên việc treo thưởng ấy không nên làm nữa. Có khi 2 người hoặc 3,4 người cùng đu một lượt nhưng trai cùng đu với trai, gái cùng đu với gái, trai gái không đu chung với nhau.

Lại có trò chơi vân xa thu tiên (tục gọi là đu tiên): hai bên trồng 2 trụ gỗ cao, gác ngang một cái trục bằng gỗ xoay động được, khoét lỗ bánh xe bằng ván luồn vô trục như bánh xe guồng lấy nước vậy. Ngoài vành bánh xe đặt 8 ròng rọc bằng ván để làm chỗ ngồi, rồi 8 người phụ nữ trang sức đẹp đẽ, y phục lộng lẫy, lên ngồi theo thứ tự 8 miếng ván ấy, đầu tiên mượn người đứng bên xây ([22][22]) bánh xe cho chạy tròn, rồi tiếp theo người ngồi trên bánh xe khi tới phiên mình xuống ngang mặt đất thì lấy chân đạp mạnh lên mặt đất cho trớn đẩy bánh xe xoay chuyển [6a], trông thấy y phục phơ phất như bầy tiên bay múa trong mây mù rất đẹp mắt, cuộc chơi này khởi sự buổi mai Nguyên đán cho đến đêm rằm tháng giêng mới thôi. Có trò chơi trồng 2 cây trụ, trên gác ngang một cây tròn, vắt cái dây thật bền dẻo lên trên cây ấy, một đầu dây buộc một cây ngắn, đầu kia thả thòng xuống, người chơi đứng trên cái cây ngắn ấy rút thẳng mối dây cho ngay sát theo mình, 2 tay cầm đầu dây thả thòng ấy rồi dùng lực rút dây xuống cho thân người mình nổi dần lên cao rồi thả xuống, kéo lên kéo xuống, để làm trò vui (tục gọi là đu rút). Có một trò chơi nữa, trồng 1 trụ ngắn ở giữa, bề cao đến rún, đầu trên đẽo nhỏ như đầu búp măng, dùng một thanh cây dài độ 6, 7 thước ta ([23][23]) tròn chừng 7, 8 tấc ta ([24][24]), chính giữa cây khoét một cái lỗ sâu vào nửa thân cây, gác ngang trên đầu trụ nhọn vừa khít nhau rồi 2 người trai chia đều ngồi mỗi đầu cây xà đối diện nhau, 2 tay cầm giữ lấy cây ấy, 2 chân nhún đạp lên xuống, xoay chuyển, khi thuận khi nghịch để chơi (tục gọi là đu dàng (xoay) xay); cũng có đào lỗ đất để các giải thưởng dưới lỗ; [6b] đôi khi người ngồi đầu này dùng lực đè mạnh xuống, khiến người ngồi đầu kia vổng lên trên cao không chỗ đạp chân, khiến cho nghiêng ngả để đùa giỡn, có khi bị tổn thương. Hai trò chơi trên dở cả, đều do bọn thiếu niên lêu lổng chơi, không phải là trò chơi phong lưu.

Ngày Nguyên đán cúng tổ tiên, có người bày cây mía đủ cả gốc ngọn, treo đủ các loại quả phẩm thực vật trên thân mía, tục cho rằng cây mía là để tổ tiên dùng làm gậy người già chống, đến nỗi có kẻ đê tiện lấy việc ấy kê vào văn từ khấn vái, thật là sai lầm đáng cười.

Ngày Nguyên đán bất kể là kẻ sang hèn, lớn nhỏ, đều no say vui chơi, tuy người nghèo trong thôn dã cũng đủ lễ. Từ ngày dựng nêu trở đi, nhà nào cũng đều đua tranh cờ bạc vui chơi đủ trò không ai ngăn cấm, đến ngày hạ nêu mới thôi.

Các tết Đoan dương, Thất tịch, Trung thu và Trùng cửu phần nhiều là theo tục người Hoa.

Về tế xã: Cúng Kỳ yên; mỗi làng có dựng một ngôi đình, ngày cúng tế phải chọn cho được ngày tốt, đến buổi chiều ngày ấy lớn nhỏ đều nhóm tại đình, họ ở lại suốt đêm ấy, gọi là túc yết. Sáng ngày mai [7a] học trò lễ mặc áo, mão, gióng trống khua chiêng làm lễ chánh tế, ngày sau nữa làm lễ dịch tế, gọi là đại đoàn, lễ xong lui về. Ngày giờ cúng tế tùy theo tục từng làng không đều nhau, hoặc lấy tháng giêng cầu phúc gọi là Tế xuân; hoặc lấy tháng 8, 9 báo ơn thần là Tế thu, hoặc lấy trong 3 tháng mùa đông là tế tròn năm thành công. Tế chưng, tế lạp chạp là đáp tạ ơn thần. Việc tế đều có chủ ý chung gọi là Kỳ yên. Ngoài tế phẩm ra có mổ trâu, bò, và ca hát hay không ấy là tùy lệ từng làng, việc ngồi có thứ tự đều nhượng cho vị hương quan ngồi trên, hoặc làng nào có học thức thì làm theo lễ Hương ẩm tửu ([25][25]), cùng giảng quốc luật và hương ước, ấy gọi là làng có tục tốt. Cũng trong ngày ấy xét sổ sách làng coi trong một năm ấy thâu nạp thuế khóa, tiêu dịch, lúa tiền thiếu thế nào, ruộng nương được mất thế nào trình bày tính toán công khai; rồi cử người chức sự làm việc làng và cũng bàn giao chức vụ trong ngày ấy.

[7b] Ở Gia Định, vào tháng cuối năm thường lo chạp phần mộ tổ tiên, việc ấy là vâng theo quốc điển, vì cho rằng gần tiết Nguyên đán, nhà cửa mọi người còn trang hoàng cho khang trang, huống chi cái lễ con cháu thờ người chết cũng như khi còn sống, chẳng lẽ ngồi xem cây cỏ rậm rạp, dơ dáy, mồ mả sụt lở mà không đắp sửa. Tuy đời xưa không có lễ tế mộ, nhưng lễ là do nghĩa mà ra, xem ở Trung Hoa có lễ Thanh minh tảo mộ, thì nước ta làm lễ tảo mộ trong tháng chạp cũng là phải nghĩa hơn.

Ở Gia Định, khi khách đến nhà, đầu tiên gia chủ bày trầu cau, sau dọn tiếp cơm bánh, thết đãi chu đáo đầy đủ, không kể là người thân sơ, quen lạ, tông tích ở đâu, tất cả đều được đón nhận tiếp đãi đàng hoàng cho nên người đi chơi không cần đem theo lương thực, nhưng lại khiến có nhiều người trốn tránh pháp luật hay đến xứ này, bởi đã có chỗ ăn ở vậy.

Phong tục ở đây khi có cầu đảo, hoặc nhà có hỉ sự đều mở trò diễn tuồng, như nhà Giáp sắp mở rạp tuồng [8a], trước hết giết heo chia gởi cho những người quen biết, rồi báo ngày mời đến xem hát, gọi là (phiêu) tiêu lễ (lễ biếu). Đến ngày ấy, tùy tình hậu bạc mà đem tiền đến làm lễ mừng, coi hát, ăn uống no say rồi về. Sau này, những người quen biết ấy có mở trò hát thì cũng đưa (phiêu) tiêu lễ đến Giáp, thì Giáp thế nào cũng phải đi, ví như Ất đã đi mừng cho Giáp một quan tiền, thì nay Giáp phải đi trả cho Ất thành 2 quan, sau Giáp có việc mừng nữa thì Ất phải đi thành 3 quan, rồi cứ đi qua đi lại như thế lên đến 100 quan, đến nỗi có người phải cầm thế vay mượn để trả phiêu lễ ấy, hoặc có người nghèo không trả cho đủ số, thì người làm phiêu lễ đến hỏi vặn, có khi còn kiện cáo nhau. Tục ấy đã bị cấm, nay đã hết.

Ngày trước, người Tàu gọi dân Gia Định là người Xích Cước (nghĩa là đi chân không) vì từ trước chỉ có quan quyền, người giàu có [8b] phong lưu ở phố chợ mới đi giày vớ. Nay đã nhiễm tục người Tàu, dù người làm thuê và bọn tì nữ cũng mang guốc quai da, giày vải.

Đất Gia Định nhiều sông kinh, cù lao, bãi cát, nên trong 10 người đã có 9 người giỏi nghề lội bơi, chèo thuyền, lại ưa ăn mắm, ngày ăn 3 bữa cơm mà ít khi ăn cháo.

Tục ở đây khi nhà có người sinh đẻ thì dùng một đoạn củi đã tắt rồi chẻ đầu cây cán gỗ kẹp ngang dựng ngay trước cửa, nếu sinh con trai thì trở đầu củi đã tắt lửa vào trong nhà, con gái thì trở đầu củi ra ngoài để làm hiệu ngăn cấm (tục gọi là cấm khem). Nếu ai bị sản nạn như không nuôi được con, bệnh xây xẩm, bệnh cục máu nhà con hay có hung táng v.v... đều không cho vào. Sản phụ nằm trên giường, bên dưới để lửa than đỏ ngày đêm không dứt, lại dùng nồi lửa để hơ bụng mỗi ngày 1, 2 lần, ăn những thứ cay, mặn, khô, [9a] uống nước thì tùy theo từng vùng, từng nhà hoặc quen dùng thuốc Nam như các loại rễ cây bằm nhỏ rồi nấu nước uống thường ngày; khi đầy tháng ra ngoài thì dùng củ nghệ thoa đầy mình để ngăn gió. Đầy tháng thì làm bánh trôi nước (xôi nước) cúng tạ 12 mụ bà ([26][26]), con trai thì sụt lui một ngày, con gái sụt lui 2 ngày, ấy là lễ đầy tháng. Giáp năm làm lễ thôi nôi (tôi tôi) y như tục Trung Hoa. Chồng người sản phụ không kể quân hay dân đều được miễn cho 1 tháng xâu dịch, gọi là cáo lợi thủy, đó cũng là hậu đạo châm chế cho người bận việc nuôi dưỡng vợ con.

Lại có tục của người thôn dã, khi có việc thù hiềm nhau thì đến miếu xưa hoặc ngã ba đường, chặt cây chuối trồng ngược lên, rồi xé con gà ở trên ấy, lén đem tên họ của người thù thầm đọc chú, người bị thù ấy có khi ngẫu nhiên đau ốm hoặc bị tai ách thật, ấy là bắt chước theo tục man rợ vậy.

[9b] Ngày trước có bọn vô liêm sỉ, có việc gì tranh cãi nhau, bất luận người kia có đấm đá mình hay không, liền nằm vật xuống đất, xé rách áo quần, tự cào cấu thân thể, rên rỉ kêu la, vu họa cho người để yêu sách phạt tạ, gọi là nằm vạ, gần đây phép quan đã trừng trị, nên tất cả đều bãi bỏ. Người nước ta đều học sách vở của Tàu. Nếu có quốc âm và tiếng địa phương thì cũng dùng chữ trong sách Trung Quốc có thanh âm gần nhau rồi tùy loại mà gia thêm bên cạnh, như kim loại, thì thêm bộ kim, loại mộc thì thêm bộ mộc, loại ngôn ngữ thì thêm bộ khẩu v.v... phỏng theo phép lục thư ([27][27]), hoặc giả tá, hoặc hội ý hay là hài thanh để ráp với nhau, chứ nước ta vốn không có loại chữ riêng. Khi viết chữ cũng trải giấy trên bàn, có 4 kiểu chữ: chân, thảo, triện, lệ, thì tùy nghi mà viết. Có người tay trái cầm giấy, tay mặt cầm bút viết thoăn thoắt [10a], cổ tay không đụng mặt giấy, mà thành ra chữ thảo, cách viết thảo ấy có phẩy, sổ, đá hất, biến hóa không giống như Trung Quốc, bởi cốt cho thuận tiện chữ mà thôi, cũng như phép viết thảo của bách gia ở Trung Quốc đều khác nhau, bởi không có ý bắt chước nhau, vậy nên trong việc quan phần nhiều không dùng lối chữ thảo.

Đất Gia Định có nhiều sông ngòi, cù lao, bãi bến, nên 10 người đã có 9 người giỏi việc chèo thuyền, bơi lội, ưa ăn mắm, có người một bữa ăn hết 2 hũ mắm ([28][28]) độ hơn 20 cân, để đố cuộc nhau cho vui. Lại có người đố cuộc uống trà Huế: xưa có ông Nguyễn Văn Thạnh đố cuộc với người về việc uống nước trà; ông dùng cái vò to miệng chứa đầy nước ngọt, tự nấu lấy trà, rót ra bát lớn, uống luôn một hơi mấy bát, mình ông mặc áo đôi, mồ hôi ra như tắm, giây lát uống hết nước ấy tức thắng cuộc.

[10b] Người ở đây nói tiếng địa phương thường hay pha tiếng Tàu, tiếng Cao Miên, người nghe tập quen lần rồi tự biết, mà không để ý phân biệt chỗ khác lạ được một cách rõ ràng. Như quát mãi (mua sỉ) thì nói là óa; khi trám (lừa phỉnh) thì nói là khí xổ; ấp tạ (vái chào) thì nói là xá; phốc tái (chở bằng ghe chài lớn) thì nói là bốc chài; thi (là cái muỗng) thì nói là thưng xỉ; đối trừ (khấu trừ) thì nói là tụi; phiến trụy (cái rụi (tua) treo ở cán quạt) thì nói là xí tụi; thải nghi (khúc lụa màu) thì nói là xái kỷ ([29][29]); trư đỗ (bao tử heo) thì nói là tư tấu ([30][30]); trư thận (cật heo) thì nói là tư yêu ([31][31]); miến tuyến (sợi miến) thì nói là mỳ xọa (xụa), ấy là nói theo tiếng của người Tàu. Còn như sang sông thì gọi tầm long; chủ sự thì nói là tằng khạo ([32][32]); thần thuyền là thần dục; cái bao nhỏ thì nói là cà ròn ([33][33]) ; đối trừ (sang nợ qua) thì nói là gật, ấy là nói theo tiếng Cao Miên. Những tiếng ấy người ở nơi khác đều không biết. Các tiếng loại này còn rất nhiều, đây chỉ đơn cử ra để nêu sự lạ mà thôi.

Ở Gia Định chỗ nào cũng có ghe thuyền, hoặc dùng thuyền làm nhà ở, hoặc để đi chợ, hay để đi thăm người thân, hoặc chở gạo củi đi buôn bán, rất tiện lợi mà ghe thuyền đi lại chật sông suốt ngày đêm nối đuôi nhau, [11a] cho nên nhiều khi đụng nhau bị hư hỏng rồi sinh ra kiện cáo, nhưng ai phải ai quấy thì thật khó xử đoán cho đúng lẽ.

Lúc bấy giờ có quan Điều khiển Tham mưu đồn dinh là Nghi Biểu hầu (Nguyễn Cư Trinh) ra lệnh rằng: phàm ghe thuyền đi bất luận gặp gió nước thuận hay nghịch, khi gần gặp nhau thì đều phải hô là bát, (tục gọi ghe đi phía trái là cạy, đi phía phải gọi là bát) thì ghe mình đi về phía phải, ghe kia cũng phải đi phía phải để thuận lái cho dễ điều khiển mà tránh nhau. Nếu ghe nầy đã hô bát mà ghe kia còn đi về phía trái không tránh để đụng nhau làm hư hỏng, thì lỗi ấy về ghe không tránh kia. Trường hợp còn có kẻ biện bạch chưa chịu khuất phục, thì phải xét ghe nào chở nhẹ hơn và đi thuận dòng nước, thừa thế chạy mau, thì ghe ấy bị lỗi, cho nên ngày nay người đi ghe muốn bảo nhau để tránh, thì chỉ hô tiếng bát; còn như có hô cạy thì chỉ ở nơi vũng bến đậu mà gặp gió hay mắc cạn, có sự cố gì mới được hô như vậy, nhưng cũng ít khi hô như vậy, [11b] ấy là luật đi ghe phải nhất định như thế.

Trên sông thường có bọn cướp bôi mặt để cướp bóc làm người chủ ghe do hoảng hốt nhất thời không nhận được là ai, lại không có vật gì làm bằng nên rất khó cho việc truy cứu, nên Nghi Biểu hầu (Đạm Am Nguyễn Cư Trinh) ra lệnh tất cả ghe thuyền lớn nhỏ trong hạt, quan nha sở tại phải buộc chủ thuyền khai báo tên họ làm sổ sách rõ ràng, rồi khắc chữ đóng vào đầu thuyền, ai trái lệnh thì bị tội, làm hồ sơ ghe thuyền để lưu chiếu. Từ đó người bị cướp nhận ra được tên kẻ cướp, chỉ tên ra tố cáo, tìm ra được kẻ gian nên bọn côn đồ mới chịu yên.

Hai huyện Phước Lộc và Thuận An thuộc trấn Phiên An, huyện Kiến Hòa thuộc trấn Định Tường đều ở gần biển, ruộng bùn nước mặn, trong có đào ao vét giếng, nước tuy có hơi lợ ([34][34]) nhưng đun sôi thì lại mặn, không thể dùng pha trà nấu cơm được. Cho nên hằng năm từ tháng 10 hết mưa cho đến tháng 4 chưa mưa, trong thời gian ấy có người chuyên nghiệp rửa sạch lòng thuyền [12a] đi chở đầy nước ngọt, đến các xứ nầy đổi lấy lúa gạo, thu được nhiều lợi. ([35][35])

Tục lệ cứ 10 giạ ([36][36]) lúa gạo gọi là trăm; 100 giạ gọi là thiên, khi cân hoặc dùng cân Tư Mã đời Lê, hoặc dùng cân đương thời, có khi thêm 3 thêm 5, nặng nhẹ không chừng. Thước đo thì chế ra dài, ngắn khác nhau, việc mua bán trước hết phải nói rõ sẽ dùng thước nào, cân nào sau mới định giá, nếu không thì sẽ sinh ra tranh hơn thua, gây nên kiện cáo. Vì vậy khi gặp giữa đường hỏi nhau, như nói mua một thước vải giá tiền 1 quan, đầu nghe chưa biết mắc rẻ ra sao, phải hỏi xem dùng loại thước nào mới biết rõ. Phàm hầu hết các vật khác cũng như thế, người mua cứ châm chước thầm trong bụng mà theo hoặc không, chứ không cần biết cân thước lớn nhỏ dài ngắn ra sao, thật là lạ. Hiện nay đã ban hành phép nước, cân ([37][37]), thước ([38][38]), đấu ([39][39]), hộc ([40][40]) đều có chuẩn định, người nào tự tạo không đúng thì chiếu luật xử trị. Nhờ có phép mới của nhà vua mà mọi vật mới được quy định yên ổn.

[12b] NĂM TRẤN

TRẤN PHIÊN AN

Kẻ sĩ trọng danh tiết, phong tục chuộng sự xa hoa. Văn vật, nhà cửa, y phục, đồ dùng ở trấn Phiên An phần nhiều giống như Trung Quốc. Hai huyện Bình Dương, Tân Long dân cư trù mật, chợ phố chen chúc liền nhau, rường nhà mái ngói liền nhau. Nhiều người thạo tiếng nói người Phước Kiến, Quảng Đông, Triều Châu, Hải Nam ([41][41]), Tây Dương và Xiêm La. Tàu hải dương ([42][42]) đến buôn bán qua lại cột buồm nối liền nhau, hàng hóa tấp nập, trở thành nơi đô hội to lớn của Gia Định cả nước không đâu sánh bằng. Quen nghề thương mãi phần đông là dân bận rộn thành thị ([43][43]). Có kẻ ở thuyền gọi là dân giang hồ, có đám xứ khác tụ họp gọi là dân tứ chiếng (chữ chiếng là chánh nghĩa là người gốc ở bốn phương trôi nổi đến ở, tụ hội thành một chỗ) [13a] chợ Bình An gọi là ổ tụ tập dân anh chị. Tại hai huyện Phước Lộc và Thuận An, trong 10 nhà thì có 9 nhà làm ruộng, chỉ có 1 nhà buôn bán, nên tập tục hãy còn chất phác như xưa.

TRẤN BIÊN HÒA

Núi đẹp sông trong, phong tục thuần hậu, công việc giản dị, kẻ sĩ chuộng thi thư, dân siêng năng cày cấy, dệt cửi, họ đều có sản nghiệp. Văn vật, y phục, nhà cửa giống như phong tục Trung Hoa, duy có vùng Toái Đàm (Đầm Nát) thuộc huyện Long Thành có nhiều kinh mương đan nhau, rừng ao xanh rậm, đất trống, không có dân cư nên trộm cướp thường núp ở đấy, khách buôn qua lại thường phải đề phòng.

TRẤN VĨNH THANH

Chỉ hai xứ Long Hồ và Sa Đéc có phong tục giống như trấn Phiên An, lại thường quen giao dịch qua lại với người Cao Miên, cho nên có nét khác hơn là nhiều người biết được tiếng của nước ấy. Ngoài ra dân cư đều chuộng sự thật thà [13b]. Họ chuyên nghề cày ruộng làm vườn và đều có sản nghiệp, được xem là nơi giàu có đông đúc. Địa thế cách trở, sông rạch chằng chịt, không nhờ ghe thuyền thì không đi lại được, vậy nên ai cũng thạo chèo chống. Xứ ấy có nhiều rừng cây sầm uất, nhà ở xa nhau, cho nên nhiều trộm cướp nổi lên. Lúc Tây Sơn vào chiếm cứ, thì người ta đều chôn giấu của cải không dám để bày dấu vết, cho nên bọn trộm cướp không lấy được gì. Thuở ấy có tên dân địa phương là Nguyễn Văn Ngữ tụ tập thành đảng cướp, thường thừa ban đêm lẻn vào nhà bắt người bỏ vào bao lác buộc lại, mang đi để vào trong rừng sâu chỗ vắng không cho nhận mặt biết chỗ, cử người canh giữ, rồi đưa thư nặc danh ước hẹn đem tiền của đến chỗ nào đó để đòi chuộc, nếu không chịu lại tiết lộ cho ai biết, thì chúng sẽ giết. Người đời gọi là giặc Đâu Bao ([44][44]) do Văn Ngữ bày ra, rồi bọn trộm cướp khác bắt chước làm theo, di hại rất thảm khốc, cho nên những nhà giàu có [14a] ở xứ ấy đều phải dời về thành thị để lánh nạn, làng xóm trở thành hoang hóa. Rồi có kẻ vốn là thất phu trơ trọi hay đàn bà cô đơn không có bè đảng gì chỉ viết khống trong thẻ giấy, tự xưng là Lục lâm đại trại tướng quân, Thanh Sơn vô địch tướng quân phô trương danh hiệu, thầm đưa thư hù dọa người lấy của, sau lâu ngày bị khám phá ra, phép quan nghiêm trị, từ ấy dân cư mới được yên ổn.

Trấn này vốn có nhiều cá sấu và cọp dữ, nhưng dân cư đã quen nên không sợ hãi, tuy là trẻ con và đàn bà chỉ dùng liềm cắt cỏ và đòn xóc lúa cũng bắt được cọp dữ. Năm trước ở sông Tiên Thủy có con cá sấu lớn được 5 ôm dài tới 6 trượng, thường đón ghe thuyền đi qua quất đuôi cho người rơi xuống, hoặc làm lật úp chìm ghe để bắt người nuốt sống, gọi là ông Luồng. Người ta tìm đủ cách để trừ đi mà không được. Sau có người thợ câu dùng lưỡi câu lớn bằng sắt, móc một con vịt sống rồi [14b] lấy mây lớn xỏ buộc sau lưỡi câu thật chặt, tay ôm con vịt bơi xuống sông để nhử con cá sấu, trông chờ nó tới đuổi theo. Cá sấu không có cái mang tai, ở dưới nước không dám há miệng, mà có vẫy đuôi cũng không làm gì được. Người câu vốn từng biết vậy, nên đùa giỡn với cá sấu, đợi khi cá đến gần trồi lên mặt nước há miệng đến táp, thì anh ta thừa cơ bỏ con vịt vào trong miệng nó. Khi cá sấu nuốt rồi anh ta lặn vào bờ sông cho đông người kéo dây mây vào, rồi xúm lại đâm chết cá sấu, mới trừ được hại ấy. Tài nghệ của người câu ấy, người các nước nghe đến cũng đều khiếp sợ.

TRẤN ĐỊNH TƯỜNG

Phong tục xứ Mỹ Tho cũng giống với trấn Phiên An. Người huyện Kiến Đăng chuyên việc ruộng vườn, tuy không thiếu người trung dũng thực thà, mà cũng không ít trộm cướp ẩn núp. Đất huyện Kiến Hưng nửa ruộng, nửa vườn, [15a] dân chuyên nghề cày ruộng và trồng dâu nuôi tằm, có nhiều sĩ phu dũng cảm tiết nghĩa. Huyện Kiến Hòa đất ruộng màu mỡ, nhìn mút mắt không thấy ranh bờ ([45][45]), nên người ở đây lấy nghề nông làm gốc, trong nhà có vựa chứa trống nắp ([46][46]) lúa gạo tràn đầy, lại có đức tính trung hậu cần kiệm, ưa làm việc nghĩa, sống yên vui, là nơi lưu giữ được phong tục đời xưa vậy.

TRẤN HÀ TIÊN

Phong tục ở đây còn chịu ảnh hưởng phong hóa người Tàu, mà ít có hạng thân sĩ ([47][47]) Người Việt người Thổ ở xen nhau, họ chuyên việc buôn bán, phần lớn người Hoa, người Cao Miên, người Đồ Bà (Chà Và) ở ven theo bờ biển, đất đai chưa được khai khẩn, dân không có đất đai chánh thức, nên hay di chuyển bất thường. Ở 2 đạo Long Xuyên (Cà Mau) và Kiên Giang ít nông dân nhưng biết chăm lo căn bản, cho nên cả trấn này đều nhờ lúa gạo của 2 đạo ấy cung cấp. Tánh người ở đây nông nổi, ưa trang sức phong nhã. Con trai hay dùng lược nhỏ chải đầu, bới cao tóc rồi dùng khăn bao lại, [15b] bên mái tóc thường giắt cái thoa cong dùng khi cần vẹt tóc và gãi đầu khi ngứa, lại dùng sáp thơm bôi râu mép vuốt thẳng ra hai bên như hình hai chữ nhất cân nhau. Con gái thì mặc áo ngắn chật tay, họ ưa dùng màu non lợt của thiên thanh ngọc lam, thúy vũ ([48][48]), ngư bạch, lục đậu. Bao đầu thì trước hết búi cao tóc lên, xức dầu phấn rồi lấy tay đè xuống cho tóc rũ cong xuống theo cổ như cái ức gà, còn đúm tóc thì dùng tay đè tóc xuống cho nhọn, gọi là dạng trang sức mới. Họ đeo xuyến, đeo hoa tai bằng vàng ngọc pha lẫn. Bộ đi thẳng đứng không có phong thái bay bướm uyển chuyển, ưa dùng khăn dài trùm đầu mà đi, hoặc là quàng vai, hoặc cầm ở tay, không dùng nón lá, ăn trầu cau thì lấy thuốc rê xát 2 hàm răng rồi ngậm vào môi phía tả, có ý để khoe hàm răng ngời ([49][49]) láng chỉnh tề. Họ biết những việc thêu đan, may vá kim chỉ, làm mứt, làm bánh [16a], đường kim mũi chỉ và nấu nướng rất khéo. Thời Mạc Đô đốc có Tống Thị Sương là con gái nhà giàu tuổi vừa cặp kê, nữ công tuyệt xảo, mai mối tới lui nhưng không đồng ý, cô nói: đợi có Phật dạy, thì mới kết nhân duyên, cha mẹ không hiểu ý, phải miễn cưỡng nghe theo. Lúc ấy có vị tăng là Ngộ Chân tu hành nghiêm túc, chỉ niệm Phật hiệu, không học kinh điển, không ăn vật hôi tanh và ngũ cốc, chỉ ăn rau quả, mỗi ngày một bữa, lại có nhiều phép lạ ([50][50]), người ta quen gọi là Thái tăng (thầy tu ăn rau). Có bữa thầy đi ngang qua ngõ, thấy Tống Thị Sương phơi áo lót, hớn hở vào năn nỉ hỏi xin, bảo là dùng để nguyện cúng Phật. Khi ấy cha mẹ cô mắng nhiếc đuổi đi, cô ra khuyên giải mới được yên. Thầy tăng cười lớn một tiếng rồi đi luôn. Từ đấy cô phát lòng từ bi, miệng thường niệm Phật, nguyện bỏ hết việc đời, cắt tóc làm ni cô theo hầu [16b] đức Quán Âm Đại Sĩ ở thế giới cực lạc. Gia đình khuyên bảo mãi mà không được, bất đắc dĩ phải làm cái am ở phía tả đảo Đại Kim. Cô mừng vui đến ở, thêu tượng Quán Âm cao bằng mình người, mỗi lần cô đâm cây kim xuống mặt vải thì niệm Phật một tiếng, trong 3 tháng thêu mới xong, sắc thái tượng linh động như vị Phật sống, tuy họa sĩ có tài vẽ đến đâu cũng không bằng được. Tăng đồ ở trấn này hay vào đất Việt (ở Trung Quốc) ([51][51]) đến chùa Hải Tràng ([52][52]) để tìm học người giảng giải chính xác Nam tông ([53][53]), cho nên pháp giới kinh điển và thanh điệu tụng tán khá học được tông chỉ của Thiền môn, được thời ấy coi là duyệt diệu.

 


([1][1])        Chu lễ, Chức phương thị (周禮職方氏) theo sách Chu lễ Hạ quan có Chức phương thị chỉ địa đồ trong thiên hạ, chỉ cống nạp từ bốn phương. Nhiều đời bỏ đi, đến Hậu Chu mới lập lại. Đầu đời Đường có Chức phương thị (侍) lang. Đời Đường đổi lại là Lang trung thuộc bộ Binh. Minh Thanh gọi là Chức phương ty, phân địa giới, cung vực trong thiên hạ đều vẽ thành địa đồ, ba năm trình lên vua một lần.

([2][2])        Ngũ Kinh (五經): Năm quyển sách quan trọng của Nho giáo thời xưa là kinh Dịch, kinh Thi, kinh Thư, kinh Lễ, kinh Xuân thu.

([3][3])        Tứ Thư (四書): Bốn quyển sách quan trọng của đạo Nho xưa là Đại học, Trung dung, Luận ngữ, Mạnh tử.

([4][4])        Thông giám, còn gọi là Tư trị thông giám (資治通鑑) do Tư Mã Quang đời Tống làm, là cuốn biên niên sử chép việc trong 2000 năm từ thời Chiến Quốc đến Ngũ Đại gồm 294 quyển. Tám quyển đầu do Tư Mã Quang tự soạn và gọi là Thông chí (通志) chỉ kể đến Tần Nhị thế. Tống Anh Tông ra lịnh soạn tiếp và tứ danh Tư trị thông giám.

([5][5])        Dương minh (陽明): Tức quang minh, sáng chói.

([6][6])        Lễ: Hương thôn xưa theo tục Trung Quốc có sáu lễ là quan, hôn, tang, tế, hương nghinh tân, hương ẩm tửu. Quan là con trai đến 20 tuổi làm lễ đội mũ. Hôn là lễ đám cưới, tang là lễ đám ma. Tế là lễ cúng bái thần thánh. Hương nghinh tân, và Hương ẩm tửu là hai lễ theo cổ chế, cứ ba năm trong làng tuyển chọn người hiền, kẻ giỏi dâng lên vua. Ngày họ lên đường, hương chức làng lấy lễ nghinh tân tiếp đón họ và mời họ uống rượu tiễn, gọi là hương nghinh tân và hương ẩm tửu.

([7][7])        Lục lễ: Tức sáu lễ trong hôn nhân gồm: (1) Nạp thái: ta gọi là lễ dạm. Sách Nghi lễ sĩ hôn lễ viết: Sai người nạp lễ thái trạch. Nạp thái là đem lễ vật đến ra mắt để nhà gái chọn lựa rể, vì mảng sợ nhà gái chối từ. Nạp thái hàm ý sự chọn lựa cho nhà gái. (2) Vấn danh: ta gọi là lễ hỏi. Ông mai đến hỏi tên tuổi, ngày sinh tháng đẻ, giờ... của cô dâu. (3) Nạp cát: sau vấn danh, đàng trai đến miếu bói xem tên tuổi cô dâu có hợp với chú rể không. Nếu bói được quẻ tốt rồi thì sai người đến báo tin tốt cho nhà gái, đồng thời hàm ý cô dâu đã được chọn. (4) Nạp trưng: còn gọi là nạp tệ, tức đàng trai đem tiền và lễ vật đến nạp cho nhà gái. Nhà gái nhận rồi thì coi như việc hôn nhân đã định. Chữ trưng có nghĩa là thành, ý nói sau lễ nạp trưng là hôn nhân đã thành tựu. (5) Thỉnh kỳ: nhà trai đến nhà gái trình ngày rước dâu (chỉ lễ này không dùng chim nhạn). (6). Nghinh thân: là lễ rước dâu.

([8][8])        Văn Công và Khâu Thị: hai nhà soạn lễ của Trung Quốc thời xưa. Văn Công gia lễ của Chu Hy đời Tống.

([9][9])        Tô Đông Pha: tên là Thức, người đời Tống.

([10][10])      Vua Cao tổ nhà Hán họ Lưu tên Quí, thường gọi Lưu Bang. Ý nói không phải người Hán của Hán triều.

([11][11])      Vua Cao tổ nhà Đường họ Lý tên Uyên, tự Thúc Đức, nhường ngôi cho con là Thế Dân, ở ngôi được 9 năm. Ý nói người Đường gọi đây không phải là người ở Đường triều.

([12][12])      Đường Ngu là đời hai vua Đường Nghiêu và Ngu Thuấn của Trung Quốc thời cổ.

([13][13])      Pháp.

([14][14])      Anh.

([15][15])      Áo môn (Ma Cao).

([16][16])      Tức người theo đạo Hồi có tục lạy mặt trời người bình dân ta quen gọi là "người Chà Và". Mãn Lạt Gia là phiên âm lại của Malacca, cũng gọi là Mã Lục Giáp.

([17][17])     Na nhân (儺人): Là người dán bùa, đọc chú cuối năm để trừ ma quỷ, dịch lệ, ôn thần cho chủ nhà. Thiên Hương đảng trong Luận ngữ: Hương nhân na. Khổng chú: "Na, có nghĩa là xua đuổi quỷ ôn dịch". Đây là một tập tục, thay cho lời chúc tụng mạnh khỏe đầu năm.

([18][18])     Trừ tịch (除夕): Theo cựu tục cho đêm cuối cùng tháng chạp trong năm là trừ tịch, ý nói năm cũ đến đêm này là dứt, qua sáng hôm sau đổi sang năm mới. Sách Phong thổ ký chép: "Đêm trừ tịch thức cho tới sáng, gọi là nắm giữ năm" (Chí trừ tịch đạt đán bất miên, vị chi thủ tuế).

([19][19])     Tùy theo phong cách mỗi nhà mà lời chúc tụng ông bà có khác nhau đôi chút, nhưng tựu trung không thể thiếu câu này: "Năm mới năm mủn, chúc (ông nội, bà nội, ba má v.v...) sống lâu muôn tuổi, may mắn, mạnh khỏe từ đầu năm đến cuối năm".

([20][20])     Rượu nấu bằng nếp than, loại nếp màu tím sẫm, ngọt ngọt chát chát uống rất ngon còn gọi là rượu lễ hay rượu ịch.

([21][21])     Bánh tét (có lẽ là bánh Tết đọc trại hay khi ăn phải tét lớp vỏ ra) là loại bánh dùng nếp nhứt, bọc nhưn bên trong gồm đậu xanh và mỡ heo thỏi, gói lại bằng lá chuối, cột bằng dây lát thành đòn cỡ bắp chuối dài chừng 3 tấc. Nguyên tắc và nguyên liệu cũng giống như bánh chưng, nhưng bánh chưng hình vuông và chất nếp mềm hơn.

([22][22])     Xoay.

([23][23])      Khoảng 2,5m.

([24][24])      Khoảng 0,3m.

([25][25])     Hương ẩm tửu lễ (鄉飲酒禮): Theo thể chế ngày xưa, thiên Hương ẩm tửu lễ sách Nghi lễ định rằng cứ ba năm thi một lần, chọn người hiền tài để vị Hương đại phu ở nước chư hầu dâng tiến họ lên Thiên tử. Đến ngày đưa đi, dùng nghi lễ uống rượu tiễn khách gọi là "Hương ẩm tửu lễ". Từ Hải, trang 4399 (中) có chép Nghi lễ hữu Hương ẩm tửu thiên, nghĩa là: sách Nghi lễ có thiên: Hương ẩm tửu.

([26][26])     Khi cúng thì vái "mười hai mụ bà, mười ba đức thầy".

([27][27])     Lục thư: (六書). Sách Thuyết Văn giả tự tập giải Lục thư là: Một: Chỉ sự, là nhìn thấy mà biết nghĩa chữ, xét mà biết ý chữ hoặc biết thuộc trên, dưới, như chữ上, chữ下; Hai: Tượng hình, là vẽ phác đơn sơ hình vật loại, như hình mặt trời, mặt trăng ở hai chữ日,月chẳng hạn; Ba: Hài thanh, là nhìn thấy trong chữ có một phần âm của một chữ mà biết chữ đó có âm thanh một thứ hay tương tự; Bốn: Hội ý, là nhóm ý nghĩa các phần của chữ suy ra mà đọc được ý nghĩa chữ; Năm: Chuyên chú, là nắm được một phần chữ giống một phần chữ khác mà biết có âm tương tự; Sáu: Giả tá, là vốn chữ này không có, nhân mượn một chữ khác mà đọc giống hay tương đương nhưng nghĩa hoàn toàn khác nhau.

([28][28])      Người Việt nhận mắm trong hũ chớ không đựng trong ống như người dân tộc thiểu số, gọi là cái chình.

([29][29])      Đọc xái kỷ vì chữ xái (綵) nguyên văn phiên âm viết là "xích tái" tức xái.

([30][30])      Đọc tầu vì chữ tầu嘈 nguyên văn phiên thiết âm là "tàm hầu" tức tầu (đọc nhẹ là tấu).

([31][31])      Chữ tư yêu (司天) nếu đọc theo giọng Quảng Đông là xí yếu có nghĩa là cật heo.

([32][32])      Đọc khạo vì chữ (靠) khạo này nguyên văn phiên thiết âm là "khổng đạo" tức khạo. Miền Tây gọi người thay mặt chủ điền để coi sóc công việc ruộng nương là "tằng khạo". "Tằng khạo" cũng chỉ người thay mặt chủ trông coi một chiếc ghe chài. Có người cho đây là âm hai chữ đồng khảo của tiếng Hoa, nhưng có người cho đây là thổ ngữ Quảng Tây chỉ cặp rằn ghe chài.

([33][33])      Miền Đông và Tây Nam Bộ ai cũng biết cái bao nhỏ dệt bằng cỏ bàng là cái "cà ròn". Người vùng Sài Gòn Gia Định phát âm thành cái "cà dòn".

([34][34])      Theo Việt Hán từ điển tối tân do Nhà xuất bản Chin Hua ấn hành năm 1962 và cũng theo tập quán người Hoa thì nước mặn gọi là hàm thủy (鹹水), nước ngọt gọi là đạm thủy (淡水), còn nước lợ là đạm hàm thủy (淡鹵水). Trong GĐTTC, cách biểu thị của Trịnh Hoài Đức lại khác. Nước ngọt ông viết là cam thủy (甘水), nước lợ ông viết là đạm thủy (淡水). Vậy trong ngữ cảnh câu văn trên, xin dịch đạm thủy là nước lợ, cho hợp với ngữ cảnh.

([35][35])      Không gọi "bán nước" mà gọi "đổi nước".

([36][36])      Một giạ lúa bằng 40 lít lúa. Một giạ lúa vê sạch lúa buôi, lúa lép qui ra 22 ký.

([37][37])      Cân = 600g

([38][38])      Thước = 0,4m (qui định chính thức năm 1900, còn thời Trịnh Hoài Đức là 0,324m)

([39][39])      Đấu = 10 lít

([40][40])      Hộc = 50 lít

([41][41])      Tục gọi đảo Quỳnh Châu là Hải Nam.

([42][42])      Tục gọi thuyền đi biển to là tàu.

([43][43])      Nguyên văn bản VHN lưu trữ chỉ viết: Quán tập thương cổ, đa thị tỉnh chi nhân, nghĩa là: "Quen nghề thương mãi phần đông là dân thành thị" nghe rất hợp lý. Bản in kèm bản dịch Nguyễn Tạo và bản VSH lại đều chép: Quán tập thương cổ, đa thị tỉnh du đãng (遊蕩) chi nhân, nghĩa là "Quen nghề thương mãi phần đông là dân du đãng thành thị", nhưng thật ra chữ du đãng (遊蕩) chỉ có nghĩa là "không nhàn tản, luôn bận rộn tất bật", ý nói kẻ quen buôn bán là dân thành thị luôn bận rộn chẳng có thì giờ nhàn hạ chớ không phải có nghĩa dân du đãng đâm thuê chém mướn.

([44][44])      Đâu bao: Đâu (丟) là đem đi mất. Vậy đâu bao là bắt bỏ vô bao đem đi mất, tức bắt cóc bỏ vô bao.

([45][45])      Người ta còn nói ví von cách khác là "Ruộng cò bay thẳng cánh, chó chạy bẹt đùi".

([46][46])      Tức cái bồ lúa, dùng cà tăng làm vách bọc tròn xung quanh, trong lòng bồ ken lót lá trầm, trên không có nắp đậy nhưng vẫn đặt trong nhà chớ không phải ngoài trời như nhiều người hiểu lầm.

([47][47])      Nguyên văn viết thân khâm (紳¶). Thân là tấn thân (搢紳) tức sĩ hoan; khâm là thanh khâm (青¶) tức sĩ tử. Hạng sĩ đại phu ở trong làng cũng gọi là thân khâm, cũng còn gọi là hương thân hay thân sĩ. Vậy xin dịch chữ này là "thân sĩ".

([48][48])      Thúy vũ là màu xanh lông con chim trả.

([49][49])      Nguyên văn viết: Dĩ khoa thị xỉ chi hắc quang chỉnh tề thì không còn dịch cách nào khác hơn là "Để khoe cho thấy răng mình đen nhánh chỉnh tề". Không biết chữ Hắc (黑) tác giả dùng còn có nghĩa nào khác nữa không, chớ nếu viết "Khoe răng đen bóng" e không đúng thực tế vì phụ nữ miền Nam tuy ăn trầu răng không trắng bóng như bây giờ nhưng cũng không "đen nhánh" được vì họ đâu có nhuộm răng đen như chị em phụ nữ ngoài Bắc thời Trịnh Hoài Đức. Vậy chúng tôi xin dịch né là "ngời láng chỉnh tề".

([50][50])      Nguyên văn viết "頗多奇行", nếu đọc Phả đa kỳ hành thì phải dịch là "có nhiều hành vi kỳ bí", tức nhiều phép lạ. Nếu đọc Phả đa kỳ hạnh thì phải dịch là "Có nhiều nết hạnh lạ".

([51][51])      Tức vùng Quảng Đông, Quảng Tây ở Trung Quốc.

([52][52])      Hải Tràng tự: Là một trong tám cảnh của Dương Thành (Quảng Châu) ở Quảng Đông. Tương truyền đất nầy là di chỉ của Thiên Thu tự thời Hán triều. Vào năm Khang Hy thứ 18 nhà Thanh, Thượng Khả Hỷ xuất tiền trùng tu điện Thiên Vương, vợ ông trùng tu Đại Hùng bửu điện, Tổng đốc Hứa Nhĩ Hiển trùng tu điện hai bên và gác sau, Tuần phủ Lưu Bỉnh Quyền dựng sơn môn. Nhân đó mà phạm vi chùa nới ra hết sức rộng rãi. Trong chùa trồng nhiều kỳ hoa, dị thảo, đại thọ, trong đó cây Ưng Trảo là một trong những cây quý của chùa. Lại có nhiều tảng đá kỳ lạ tên là "Thái Hồ Thạch". Lại có đá hình thù kỳ quái như "Vân Đầu Vũ Cước" và "Mãnh Hổ Hồi Đầu". Tứ Đại Kim Cương trong chùa là những tượng đắp trứ danh mỗi tượng cao 20m, khí phách hùng vĩ, hiếm có tượng nào sánh bằng. Chùa có lắm cao tăng uyên thâm Phật lý, triệt kiến chỉ ý Thiền tông.

([53][53])      Là Nam tông đốn ngộ của Huệ Năng chớ không phải Nam tông Therevada.


 

Quyển V: VẬT SẢN CHÍ

[1a] [chép về sản vật]

 

Kinh Dịch nói: Trời đất định ngôi, thì núi chằm thông khí. Núi sông là khí mạch của trời đất. Từ khi vua Hạ Vũ (ở Trung Quốc) an định được núi cao sông lớn, sau ấy của báu tiềm tàng mới bày ra, cá tôm sinh sản, của cải sinh sôi tự nhiên hoạt bát, là mối lợi vô cùng của rừng núi sông đầm vậy. Hệ từ ([1][1]) nói: lấy cái gì để gom người lại? Đáp: lấy của. Của cải từ nơi đất, mà chi dùng là ở nơi người, người sở dĩ được làm người là nhờ của mà sinh sống, không có ngày nào mà không dùng đến của.

Sách Vũ cống nói: sửa sang 6 phủ (kim, mộc, thủy, hỏa, thổ, cốc) cho được dồi dào, thận trọng việc tiền của thuế khóa thì quốc dụng thường đủ, mà dân sinh đều được toại lòng ([2][2]).

Nay gặp Thánh thiên tử yêu dân như kẻ bị thương ([3][3]), chính sự dùng nhân đức, thì chắc có lẽ trời không tiếc đạo làm mưa thuận gió hòa, đất không tiếc của báu (sinh sôi) rồi có long mã đội Hà Đồ và rùa thiêng cõng Lạc Thư ([4][4]) giúp rập, [1b] thần vật đều đến, chẳng phải chỉ thổ sản tầm thường sản xuất đầy dẫy mà thôi.

Gia Định đất tốt lại rộng, thổ sản có: lúa, gạo, cá, muối, cây gỗ, chim muông. Về ngũ cốc nên kể đến lúa đạo. Lúa đạo có rất nhiều loại, đại để có 2 loại lúa tẻ và lúa nếp trong đó có xen thứ lúa dẻo; Lúa tẻ là thứ lúa không dẻo, hạt gạo nhỏ mà mềm, mùi rất thơm, hạt lúa có cái mang; Nếp là thứ lúa dẻo, hạt tròn mà lớn. Có loại lúa như lúa tàu, lúa sá, lúa móng tay, lúa móng chim, lúa mo cải, lúa cà dông, lúa cà nhe, lúa tráng sẻ nhất, lúa chàng cô (co), tùy tên khác nhau, và sớm, muộn, dẻo và xốp khác nhau, nhưng thứ thơm ngon nhất là lúa tàu, nhì là lúa cà nhe.

Nếp thì có nếp hương bầu, nếp sáp, lại có thứ nếp đen (quạ), còn gọi là nếp than, sắc tím đen, nước cốt có thể dùng để nhuộm màu hồng, [2a] khi ăn không cần giã, dùng chõ hấp cho chín, nhơn khi còn nóng rưới mỡ hành gồm mỡ heo, lá hành xắt và muối trắng, trộn đều, thì vị rất ngọt và dẻo.

Bắp thì có bắp vàng, (có tên là hồng mạch hoặc ngọc thục) bắp trắng, bắp hồng pha trắng, riêng bắp trắng thì trái dài lớn, dày hạt, vị thơm dẻo các nơi không sánh bằng.

Đậu: có đậu nành, đậu đen, đậu xanh, đậu trắng, đậu ván (có ba màu: rìa hồng, rìa trắng, rìa xanh), đậu đũa, đậu rựa, đậu nanh heo, đậu phụng nhãn (có tên là lạc hoa sanh, hay thổ đậu) ([5][5]), đậu hương đại (hình như cật heo; lớn cỡ ngón tay, hạt có vân). Trong các thứ đậu ấy chỉ có đậu phộng ăn sống được, và làm tương, ép dầu cả năm dùng không hết, bã đậu đã ép dầu rồi làm thành bánh dùng làm phân bón ruộng ([6][6]), mỗi năm sản xuất hơn 400.000 cân.

Ma (mè): có loại chi ma (mè trắng), hắc ma (mè đen), tỳ ma (đu đủ tía). Riêng hoàng lương (kê vàng) và ý dĩ (bo bo) gián hoặc cũng có ít đỉnh.

Về khoai, ở đất gò có khoai ngọt, khoai sáp, khoai hồng, (tục gọi là khoai huyết, nước khoai dùng nhuộm đỏ) và khoai từ. Chỗ gần ao hồ có khoai nước, khoai hổ, khoai trắng (tục gọi khoai tro) và khoai tía (củ lớn nhỏ dính liền nhau như cây phụ tử mọc ở chằm ao, nạo nấu canh hoặc muối dưa), lại có củ mài (mọc ở khe đá, có củ nặng mươi cân), củ ngà, củ khoai lang, có 3 sắc: hồng, vàng, trắng, thơm ngọt hơn các nơi; củ sắn dây, loại dây bò, lá như đậu ván, hoa màu lục, củ sinh dưới đất lớn bằng nắm tay, trồng củ nầy cắt bớt dây bò, chỉ để 7 lá, thì gốc mới to lớn, có nhiều củ, chỉ khi nào muốn để giống thì để nó bò dài rồi sinh trái, lấy hạt đợi mưa đem trồng.

Qua (dưa): có bí đao, dưa hấu (loại dưa này mùa đông chín khác hơn nơi khác. Thứ sản xuất ở Bà Rịa, Đồng Tranh, quả tuy nhỏ nhưng ruột đỏ tuyệt ngon), dưa vàng (có tên dưa ngọt), bí rợ, dưa chuột, dưa hồng, mướp, mướp đắng (khổ qua) ([7][7]), chỉ có thứ dưa leo dùng ăn sống, trái có đốm xanh trắng, khi dưa già thì vỏ vàng đỏ. Những loại bầu bí, cà, cải, rất nhiều thứ không thể chép hết, nói tóm lại các thứ đậu, dưa, khoai, rau cải chỉ dùng để điểm tâm hoặc nấu canh bóp xổi mà thôi, [3a], chưa từng phơi khô mài bột dành khi đói kém. Bởi vì người Gia Định mỗi ngày ăn cơm 3 bữa, cháo còn ít ăn huống chi là các thứ khác, vì lúa gạo quá nhiều, mà không năm nào bị mất mùa.

Ruộng núi khi đầu khai khẩn thì phải đốn chặt cây cỏ, để khô đốt làm phân tro đợi khi mưa thì trồng lúa, không cần cày bừa, đem sức ra ít mà lợi thì nhiều. Sau 3, 4 năm ([8][8]) thì dời đi làm chỗ khác, cũng giống như cách làm ruộng dời chỗ của Triệu Quá đời Hán vậy ([9][9]), mà đó cũng là ý xưa để lại cấy bằng đao, bừa bằng lửa (tức chặt đốt cho cháy cây cỏ rồi trồng lúa). Lại có chỗ nguyên ruộng thấp (ruộng bưng) mà trưng làm sơn điền (ruộng gò) lâu ngày hóa ra thành thục, thì cày bừa cũng như ruộng cỏ (ruộng tốt) vậy.

Ruộng cỏ (ruộng tốt) là ruộng đầy lùng (năn), lác, bùn sình, mùa nắng khô thì nứt nẻ như lằn vân mu rùa, có chỗ thành kẽ nứt sâu to; đợi có nước mưa [3b] ngấm đầy, thấm đủ, bùn đất tan rã mới canh tác. Trâu cày phải lựa con nào có sức mạnh, chân cao mới kéo cày được, nếu không vậy thì bị ngập lún trong bùn lầy không rút chân lên nổi.

Ruộng cày trâu thì ở Phiên An, Biên Hòa, gieo một hộc lúa giống, thu hoạch được 100 hộc lúa, duy ở trấn Vĩnh Thanh toàn là ruộng bàu không dùng trâu cày được, phải đợi lúc cuối hạ đầu thu, có nước mưa đầy dẫy, phát bỏ cây lùng (năn), cây lác, kéo cỏ be bờ, rồi trang đất cấy mạ. Đất đây đúng là rất phì nhiêu, cứ một hộc lúa giống ở đây thu hoạch được 300 hộc lúa. Ở trấn Định Tường, chỉ huyện Kiến Đăng có ruộng bàu ngập nước, bỏ công thu lợi cũng bằng ruộng ở Vĩnh Thanh, ngoài ra là ruộng cày trâu, nhưng lúa gặt cũng bội thu. Đứng thứ 2 là Phiên An, sau đó mới tới Biên Hòa. Ruộng ở đạo Long Xuyên và Kiên Giang thuộc trấn Hà Tiên cũng tương tợ ruộng ở Vĩnh Thanh, nhưng chưa khai khẩn hết địa lợi. Việc làm ruộng ở năm trấn này sớm muộn, cây trồng và thổ nghi thế nào sẽ kể rõ sau đây để tiện tham khảo.

[4a] PHỦ TÂN BÌNH, TRẤN PHIÊN AN

Hai tổng Bình Trị và Dương Hòa thuộc huyện Bình Dương đều có ruộng sớm, ruộng muộn (ruộng ở chỗ thấp khi có mưa được dầm thấm trước, gọi là ruộng sớm, còn ruộng chỗ cao khô ráo là ruộng muộn). Các loại cây trồng thích hợp ở đây có: khoai, đậu, bắp, khoai lang, đậu phông, dưa, mía.

Ruộng sớm thì tháng 4 gieo mạ, tháng 6 cấy, tháng 10 gặt.

Ruộng muộn thì tháng 5 gieo mạ, tháng 7 cấy, tháng 11 gặt.

Khoai: tháng 4 giâm, tháng 10 dỡ củ.

Đậu: tháng 6 trỉa, tháng 7 lẩy hột.

Bắp: tháng 4 trỉa, tháng 7 lặt trái.

Khoai lang: tháng 4 giâm, tháng 6 dỡ củ.

Đậu phộng; tháng 4 trỉa, tháng 11 dỡ củ.

Mía: tháng giêng đặt hom (om), tháng 12 chặt cây.

Dưa tháng 4 trồng, tháng 5 hái quả.

Hai tổng Tân Phong và Long Hưng thuộc huyện Tân Long đều có ruộng sớm và ruộng muộn.

Ruộng sớm thì tháng 4 gieo mạ, tháng 6 cấy, tháng 10 gặt.

Ruộng muộn thì tháng 5 gieo mạ, tháng 7 cấy, tháng 11 gặt.

[4b] Hai tổng Phước Điền và Lộc Thành thuộc huyện Phước Lộc đều có ruộng sớm và ruộng muộn:

Ruộng sớm thì tháng 4 gieo mạ, tháng 6 cấy, tháng 10 gặt.

Ruộng muộn thì tháng 5 gieo mạ, tháng 7 cấy, tháng 11 gặt.

Hai tổng Bình Cách và Thuận Đạo thuộc huyện Thuận An đều có ruộng sớm, ruộng muộn, duy tổng Bình Cách thích hợp với khoai và dưa.

Ruộng sớm tháng 4 gieo, tháng 6 cấy, tháng 10 gặt.

Ruộng muộn tháng 5 gieo, tháng 7 cấy, tháng 11 gặt.

Khoai thì tháng 4 trồng, tháng 10 thu hoạch.

Dưa hấu: tháng 10 trồng, tháng chạp thu hoạch.

PHỦ PHƯỚC LONG, TRẤN BIÊN HÒA

Hai tổng Phước Vinh và Chánh Mỹ thuộc huyện Phước Chánh đều có ruộng sớm và ruộng muộn, cây trồng thích hợp là đậu, bắp và mía.

Ruộng sớm thì tháng 5 gieo mạ, tháng 6 cấy, tháng 9 gặt.

Ruộng muộn thì tháng 6 gieo mạ, tháng 7 cấy, tháng 11 gặt.

Đậu: tháng 4 trỉa, tháng 6 thu hoạch.

Bắp: tháng 4 trỉa, tháng 7 lặt trái.

Mía: tháng giêng om, tháng chạp thu hoạch.

[5a] Tổng Bình Chánh thuộc huyện Bình An có ruộng sớm. Tổng An Thủy đều có ruộng sớm và ruộng muộn. Cây trồng ở đây có: khoai, đậu, thơm, đậu phông.

Ruộng sớm thì tháng 5 gieo mạ, tháng 6 cấy, tháng 9 gặt.

Ruộng muộn thì tháng 6 gieo mạ, tháng 7 cấy, tháng 11 gặt.

Khoai thì tháng 10 năm trước giâm, tháng 10 năm sau dỡ (?).

Đậu: tháng 4 trỉa, tháng 6 lẩy hạt.

Đậu phông: tháng 4 trỉa, tháng chạp dỡ củ.

Thơm (khóm): tháng 3 trồng, tháng 4 năm sau thu hoạch ([10][10]).

Hai tổng Long Vĩnh và Thành Tuy thuộc huyện Long Thành đều có ruộng sớm và ruộng muộn. Cây trồng thích hợp ở đây là dưa, đậu phông và khoai lang.

Ruộng sớm thì tháng 5 gieo mạ, tháng 6 cấy, tháng 9 gặt.

Ruộng muộn thì tháng 6 gieo mạ, tháng 7 cấy, tháng 11 gặt.

Dưa thì tháng giêng trồng, tháng 8 thu hoạch.

Đậu phộng tháng 4 trỉa, tháng chạp thu hoạch.

Khoai lang tháng 7 giâm, tháng 10 dỡ củ.

Hai tổng An Phú và Phước Hưng, huyện Phước An đều có ruộng sớm và ruộng muộn. Cây trồng hợp thổ nghi: Bắp, đậu phộng, dưa hấu.

Ruộng sớm tháng 5 gieo, tháng 6 cấy, tháng 9 gặt.

Ruộng muộn tháng 6 gieo, tháng 7 cấy, tháng 11 gặt.

Bắp tháng 5 trỉa, tháng 8 lặt trái.

Đậu phộng tháng 4 trỉa, tháng chạp thu hoạch.

Dưa hấu tháng mười bỏ hột, tháng chạp hái trái.

PHỦ ĐỊNH VIỄN, TRẤN VĨNH THANH

Hai tổng Vĩnh Trinh và An Trung thuộc huyện Vĩnh An có ruộng bàu (lung). Cây trồng thì có: khoai, đậu, bắp, khoai lang và mía.

[5b] Ruộng bàu (lung) thì tháng 6 gieo mạ, tháng 8 cấy, tháng chạp gặt.

Khoai: tháng 4 trồng, tháng 10 thu hoạch.

Đậu, bắp, khoai lang đều trồng vào tháng 4, qua tháng 7 thu hoạch.

Mía: tháng giêng om, tháng 9 thu hoạch.

Hai tổng Vĩnh Trường và Bình Chánh thuộc huyện Vĩnh Bình có ruộng lung. Cây trồng có: khoai, đậu, bắp và khoai lang.

Ruộng bàu (lung) thì tháng 6 gieo mạ, tháng 8 cấy, tháng giêng sau thì thu hoạch.

Khoai: tháng 4 giâm, tháng 10 dỡ củ.

Đậu: tháng 4 trỉa, tháng 6 lẩy hạt.

Bắp và khoai lang tháng 4 trồng, tháng 7 thu hoạch.

Huyện Vĩnh Định: Cây trồng và việc làm ruộng cũng giống như huyện Vĩnh Bình.

Tổng Tân Minh, huyện Tân An, cây trồng có: khoai và khoai lang.

Tổng An Bảo, cây trồng có: Khoai, đậu và bắp, ruộng đều thuộc ruộng bàu (lung). Ruộng bàu (lung) tháng 6 gieo mạ, tháng 8 cấy, tháng giêng thì gặt.

Khoai thì tháng 4 giâm, tháng 10 dỡ củ.

Đậu: tháng 4 trỉa, tháng 8 thu hoạch.

Bắp: tháng 4 trỉa, tháng 7 lặt trái.

Khoai lang tháng 4 giâm, tháng 8 dỡ củ.

PHỦ KIẾN AN, TRẤN ĐỊNH TƯỜNG

[6a] Hai tổng Kiến Lợi và Kiến Phong thuộc huyện Kiến Đăng đều có ruộng bàu (lung). Cây trồng ở đây thì có: khoai môn, đậu, bắp, khoai lang, dưa và mía.

Ruộng bàu (lung) tháng 6, 7 gieo mạ, tháng 8, 9 cấy, tháng giêng, tháng 2 gặt.

Khoai thì tháng 4 trồng, tháng 11 dỡ.

Đậu: tháng 6 trỉa, tháng 7 thu hoạch.

Bắp: tháng 4 trỉa, tháng 7 lặt trái.

Dưa: tháng 4 trồng, tháng 7 hái trái.

Khoai lang: tháng 4 giâm, tháng 6 dỡ.

Mía: tháng chạp om, tháng 9 năm sau chặt cây.

Hai tổng Kiến Thuận và Hưng Xương thuộc huyện Kiến Hưng đều có ruộng sớm và ruộng muộn. Cây trồng thì có: khoai môn, dưa, khoai lang và bắp.

Ruộng sớm tháng 4, 5 gieo mạ, tháng 6, 7 cấy, tháng 8, 9 thu hoạch.

Ruộng muộn tháng 5, 6 gieo mạ, tháng 8,9 cấy, tháng chạp tháng giêng thu hoạch.

Khoai môn: tháng 4 trồng, tháng 11 thu hoạch.

Dưa: tháng 10 trồng, tháng chạp thu hoạch.

Khoai lang: tháng 4 trồng, tháng 6 thu hoạch.

Bắp: tháng 4 trỉa, tháng 7 lặt trái.

Hai tổng Kiến Thuận và Hòa Bình thuộc huyện Kiến Hòa đều có ruộng sớm và ruộng muộn. Cây trồng thì có: khoai môn và khoai lang.

Ruộng sớm thì tháng 4, 5 gieo mạ, tháng 6, 7 cấy, tháng 10, 11 gặt.

Ruộng muộn: tháng 5, 6 [6b] gieo mạ, tháng 7, 8 cấy, tháng chạp, tháng giêng gặt.

Khoai môn: tháng 4 trồng, tháng 11 thu hoạch.

Khoai lang: tháng 4 trồng, tháng 6 thu hoạch.

TRẤN HÀ TIÊN

Hai tổng Kiên Định và Thanh Giang thuộc huyện Kiên Giang đều có ruộng sớm, cây trồng hợp thổ nghi là khoai, bắp và mía.

Ruộng sớm thì tháng 4 gieo mạ, tháng 6 cấy, tháng 9 gặt.

Khoai: tháng 3 trồng, tháng 7 dỡ.

Bắp: tháng 5 trỉa, tháng 8 lặt trái.

Mía: tháng 3 om, tháng 7 chặt cây.

Hai tổng Long Thủy và Quảng Xuyên, thuộc huyện Long Xuyên (Cà Mau) đều có ruộng muộn. Tháng 5 gieo mạ, tháng 7 cấy, tháng 11 gặt.

Mía ở đây có 4 loại: hồng, trắng, xanh và hồng pha trắng. Lại có loại mía voi lớn 6, 7 tấc ta, dài hơn 10 thước ta, có vị ngọt thanh tuyệt vời. Mía dùng ép nấu ra đường, chỉ loại mía trắng, ngoài da có phấn trắng mới làm được đường thôi. Đường cát chỉ ở huyện Phước Chánh thuộc trấn Biên Hòa sản xuất, ngoài việc nấu ra đường phèn, đường phổi [7a], chỉ kể số đường cát bán cho thương thuyền một năm có hơn 600.000 cân, nhưng cứ mỗi một trăm cân theo lệ phải gia lên 5 cân nữa. Còn mía trắng ở các huyện khác thì đường ít cát mà có nhiều mật, mật ấy chỉ làm ra đường đen mà thôi ([11][11]).

Mỏ bạc có ở núi Chơn Giùm thuộc trấn Hà Tiên, trữ lượng quặng bạc rất vượng, nhưng còn đương đóng chặt vì triều đình chưa tiện khai thác.

Sắt sản xuất ở huyện Long Thành, trấn Biên Hòa. Nơi đây có lò nấu sắt (Thiết Tràng), dân đóng thuế khai thác nấu quặng ([12][12]).

Đá ong (đá tổ tàng ong): Ở trấn Biên Hòa có rất nhiều. Đất khoáng từ mỏ đất, người thợ đào ra nhân khi đất còn ướt, tùy theo thước tấc rộng dài thế nào, mà chặt ra thành khối, để dãi ra giữa gió và mặt trời, lâu ngày đất ấy cứng lại, búa đẽo cũng không vô, dùng xây vách tường, sân thềm, kè sông và xây mộ, cứng rắn không thua gì đá núi. Mặt viên đá ấy lỗ chỗ lấm chấm trông như tổ ong, nên gọi tên ấy.

Muối trắng sản xuất ở vùng Vũng Dương (Vũng Dang, Dương Úc) thuộc huyện Phước An, trấn Biên Hòa, cứ 100 cân giá là 1 tiền kẽm [7b] rất rẻ, vậy mà muối ở trấn Bình Thuận có khi còn chở đến bán nườm nượp. Xứ Ba Thắc, trấn Vĩnh Thanh, sản xuất nhiều muối hồng ([13][13]), vì nước đất ở đây có màu vàng đỏ, khi phơi nước vẫn còn bùn đục, nên ra như thế, nhưng nấu lại lần nữa, lọc vớt những bọt đen nổi ở trên, thì sắc muối lại trong trắng, có vị ngon ngọt hơn muối các chỗ khác. Người Hoa chuyên nghề này, đan bao bằng lá dừa hình vuông, mỗi bao đựng 5, 6 cân theo tục man gọi cứ 40 bao làm 1 xe, rồi chở đi bán ở Cao Miên thu lợi rất nhiều. Phàm ướp cá đồng làm mắm nên dùng muối đỏ, nếu khi đầu đã dùng muối đỏ, thì ướp lại lần nhì cũng chỉ dùng muối đỏ, nếu trước dùng muối trắng thì cũng trước sau một thứ như thế, nếu dùng cả muối trắng lẫn muối đỏ thì mắm sẽ hư thúi.

Gia Định là xứ lúa, gạo, cá, muối. Vào năm Mậu Tuất, Thế Tổ Cao hoàng đế nguyên niên (1778), quân nhà vua đem bộ binh khắc phục Gia Định, lúc ấy ngụy quân Tây Sơn do Đô đốc Châu, Hổ tướng Hãn, Tư khấu Oai còn cho thủy binh qua lại dọc theo dòng sông [8a] Phiên An, Biên Hòa, và Định Tường để quấy nhiễu. Tháng 3, Hộ giá ngụy Tây Sơn Phạm Ngạn từ Quy Nhơn vào tiếp viện, đến địa đầu xứ Bà Rịa, dùng chiến hạm lén qua sông Phước Lộc đến vùng chùa Nguyễn Tuyên ở huyện Tân Long. Trần Phụng thuộc đạo Hòa Nghĩa của binh lực ta cự địch không nổi. Dũng Quận công Nguyễn ([14][14]) Quân dùng đại binh đánh phá, giặc phải rút lui ra Trường Giang, rình canh phòng sơ hở mà cướp bóc. Quân ta đắp lũy đất từ bờ tây Bến Nghé chạy dọc đến mé sông An Thông, phàm tại các cửa sông đều đóng cọc cây ngăn cản tàu để chống giữ và bí mật đóng hơn 50 chiếc chiến hạm tại sông nhỏ Thị Tĩnh thuộc sông An Thông. Mấy chiến hạm nầy đầu bọc nhọn, đầu và thân đều gắn ba tấm ván có vẽ hình như hạm của Tây dương, lại giăng lưới gọi là Long Lân thuyền ([15][15]), lại chỉnh bị bè cho hỏa công.

Giờ Dần sáng ngày 19 tháng 6, quân ta ngầm ra sông lớn Bình Dương, tập kích binh ngụy, và đốt chiến hạm của giặc, chém đầu ngụy Tư khấu Nguyễn Oai, thâu hết khí giới của thủy quân ngụy. Ngay trong đêm ấy, 20 chiến thuyền của ngụy Hổ tướng Hãn từ Bến Than liều chạy xuống Cần Giờ hiệp cùng tướng giặc ở sông Định Tường là Chu, cùng tướng giặc ở sông Thuận An là Ngạn (Phạm Ngạn) cùng chạy trở về Qui Nhơn, quan binh ta đuổi theo không kịp. Lúc bấy giờ, nhân hai bên giàn binh đánh nhau từ tháng 10 năm ngoái cho tới tháng 6 năm nay, nên cả hai đường thủy bộ đều tắc nghẽn, đồ thực dụng của dân gian đều hết ráo, không tiếp tế được. Trong chợ chỉ bán ễnh ương, mắm lạt, bánh đậu và tương lạt ([16][16]). Người ta lấy lá dâu, lá khế nấu thay trà uống, dùng rễ cây chà là và bồ quì thay cho cau ăn trầu. Ngoài ra, những việc lạm dụng chuyện gian ác, giả trá, đánh tráo hàng nhiều không sao kể xiết. Một chén nhỏ muối thô nặng chừng 3 lượng giá bán 5 tiền, nhưng lại không có nhiều, cho nên nhân dân đều lận muối trong thắt lưng, như ôm của quí. Gạo một vuông giá đến 2 quan, nên cả quan dân đều khổ. Đến giờ đây (tức lúc binh thuyền Tây Sơn rút về Qui Nhơn) nỗi khổ về muối mới chấm dứt, mà đồ dùng của dân chúng cũng hơi có lại đầy đủ.

Lãnh, là, vải, lụa thì nơi nào cũng có, nhưng ở huyện Phước An trấn Biên Hòa có thứ lãnh thâm mềm láng là tốt nhất trong cả nước.

Thổ sản (Gia Định) gồm có:

· Sừng con tây (tê giác), còn gọi là tê ngưu giác, hương tê giác.

· Ngà voi.

· Đậu khấu (Mỗi năm sản xuất 20.000 cân) ([17][17]), còn gọi bạch đậu khấu.

· Sa nhân ([18][18]) (Mỗi năm sản xuất 80.000 cân).

· Lộc nhung (nhung nai).

· Hồ tiêu (Mỗi năm sản xuất 100.000 cân).

· Tô mộc (cây vang), gỗ vang, vang nhuộm, tô phượng.

· Hoàng lạp (sáp ong) Có hai loại vàng và trắng, mỗi năm sản xuất 30.000 cân.

· Bông vải: Có thứ đài hoa lớn gọi là cát bối, mỗi năm sản xuất 4.000.000 cân.

· Cánh kiến (tử ngạnh, tử giao, xích giao, hoa một dược, dương can tất, trĩ thảo nhung).

· Trần hoàng.

· Hạt sen.

· Tre rằn.

· Long diên hương (còn gọi long phúc hương, long tiết, tục gọi là nước dãi rồng dùng làm hương liệu) ở Hà Tiên có ([19][19]).

· Yến khòa ([20][20]).

· Hải sâm ([21][21]): Ở Hà Tiên có hai loại trắng và đen, mỗi năm sản xuất hơn 50.000 cân.

· Đồi mồi.

· Huyền phách ([22][22]).

· Vi cá (Mỗi năm sản xuất 50.000 cân), (thường là vi cá mập).

· Bong bóng cá ([23][23]): (Mỗi năm sản xuất 50.000 cân).

· Khô voi (thịt voi khô).                                     · Gân nai khô.

· Da con tây (tê ngưu).                                    · Da ngựa núi (rừng).

· Da rái cá.                                                     · Da nai.

· Da trâu.                                                        · Da rắn vàng (kim xà).

· Lông chim trả, mỗi năm có 2, 3 ngàn bộ.        · Lông cánh ngỗng biển.

· Quạt lông.                                                    · Diêm tiêu ([24][24]).

· Phục linh ([25][25]).                                             · Hoài sơn ([26][26]).

· Nam nhân sâm ([27][27]).                                     · Thổ đương quy ([28][28]).

· Nam bạch truật ([29][29]).                                    · Ngưu tất ([30][30]).

· Phòng phong ([31][31]).                                        · Thổ trầm hương ([32][32]).

· Trần bì ([33][33]).                                                · Chỉ xác ([34][34]).

· Mộc thông ([35][35]).                                            · Ô dược ([36][36]).

· Sài hồ ([37][37]).                                                 · Thiên môn ([38][38]).

· Mẫu đơn bì ([39][39]).                                          · Mạch môn.

· Bán hạ ([40][40]).                                                · Cát căn ([41][41]).

· Nhân trần ([42][42]).                                             · Hương phụ ([43][43])

· [9b] Xương bồ ([44][44]).                                      · Địa phu tử ([45][45]).

· Chi tử ([46][46]).                                                  · Xạ can ([47][47]).

· Tử tô ([48][48]).                                                   · Bạc hà ([49][49]).

· Kinh giới ([50][50]).                                              · Hoắc hương ([51][51]).

· Kim ngân hoa ([52][52]).                                       · Uất kim ([53][53]).

· Cao lương khương ([54][54]).                               · Thiên hoa phấn ([55][55]).

· Thảo quyết minh ([56][56])                                                                       · Lô hội ([57][57]).

· Tật lê ([58][58]).

· Hoàng tinh (còn gọi là cứu hoan thảo, là củ cây cơm nếp ở tỉnh Lào Cai, thuộc họ hành tỏi).

· Đại phong tử ([59][59]).                                        · Mã tiền tử ([60][60])

· Xa tiền tử ([61][61]).                                            · Ích mẫu ([62][62]).

· Sứ quân tử ([63][63]).                                          · Cốc tinh thảo ([64][64]).

· Trắc bá diệp ([65][65]).                                        · Hy thiêm thảo ([66][66]).

· Hắc khiên ngưu ([67][67]).                                    · Tang ký sinh ([68][68]).

· Xuyên luyện tử ([69][69]).                                     · Thủy tam thất ([70][70]).

· Thường sơn ([71][71]).                                         · Tam lăng ([72][72]).

· Nga truật ([73][73]).                                             · Thủy từ cô.

· Thương nhĩ ([74][74]).                                          · Mộc miết tử ([75][75]).

· Thạch hộc ([76][76]).                                           · Nha tạo.

· Kim mao cẩu tích ([77][77]).                                 · Hậu phác ([78][78])

· Bồ hoàng ([79][79])                                                                                            · Thiết tuyền phấn ([80][80]).

· Hương bài thảo ([81][81]).                                    · Cam thảo ([82][82]).

· Linh dương giác (sừng linh dương).

· Xuyên sơn giáp (vảy tê tê, vảy con trút, thuộc loại tê tê)

· Ô tiêu (sao) xà ([83][83]).                                     · Hùng khổ (mật gấu), còn gọi là hùng đởm.

· Mẫu lệ ([84][84]).                                                 · Cửu khổng ([85][85]).

· Hải phiêu tiêu (sao) ([86][86]).                               · Thạch giải (cua đá).

· Tịch lịch hám (đá tầm sét).                            · Dạ minh sa (phân dơi) ([87][87]).

· Ngô công (con rít) ([88][88]).                                 · Toàn hạt (toàn yết) ([89][89]).

· Thiền thuế (xác ve) ([90][90]).                               · Lam tất (chàm bột).

· Quy bản (yếm rùa) ([91][91]).                                · Miết giáp (mai ba ba) ([92][92]).

· Mộc nhĩ ([93][93]).                                               · Duẩn bô (măng khô).

· Thạch hoa (rong trắng ở biển) ([94][94])                                 · Tỉ bì (vỏ đay) ([95][95]).

· Ma bì (vỏ gai) ([96][96]).                                       · Kiển ty (tơ kén) ([97][97]).

· Cam cúc ([98][98]).                                              · Nam tinh (củ giải chuột).

· Xà sàng (cây bươm bướm) ([99][99]).

[10a] Còn các thứ khác như kỳ nam, trầm hương, nhục quế, ốc hương, cá mực và gỗ mun thì ở các hạt chở đến, nhưng những vật kể cả ở đây và các nơi đều có, cũng chuyển đến tấp nập, bởi Gia Định là nơi đô hội, tụ họp thương thuyền của các nước, cho nên trăm thứ hàng hóa đều dồn về đây.

Về rượu thì rượu Thạch Than thuộc Biên Hòa; Tân Nhuận thuộc Phiên An; Sa Khâu thuộc Định Tường và Long Hồ ở Vĩnh Thanh là ngon nhất, từ trước, ghe tàu thường mua nhiều chở về kinh làm quà quý, tiếng là rượu Nông Nại.

Về cây cối có cây sao lá màu xanh, nhọn đầu, bề ngang chừng 2 tấc ta, hoa màu xanh biếc rực rỡ, quả nhỏ như ngón tay có nhiều hạt, dưới đế hoa có 2 cái râu như cánh chuồn chuồn. Sao có 4 thứ; sao xanh, sao vàng, sao chân tôm và sao đá, thứ hảo hạng có tên là điều mộc (gỗ thức), lớn đến 4, 5 người ôm, cao cả trăm thước ta, sớ gỗ bền chặt, dùng làm ghe thuyền, nhà cửa thì tốt nhất, có lệnh cấm dân gian không được dùng, chỉ có loại giá sao là xấu; lại có thứ giống cây sao [10b] nhưng chất gỗ thì không giống, gọi là thạch lăng. Thứ lá như lá sao mà nhỏ và dài, không cao lớn đến có thể dùng được, gọi là bô bô. Còn loại lá như lá sao mà nhỏ, gọi là vên vên; loại lá như lá sao mà trắng nhạt, gọi là sản hoa, quả như sao, lá dài có lông. Những thứ trên sớ gỗ thô sơ không được bền tốt. Tháng 7 mùa thu năm Canh Tý (1780), Thế Tổ Cao hoàng đế năm thứ 3 sai quân đốn lấy gỗ để làm thuyền chiến. Ở nguồn Quang Hóa ([100][100]) có cây sao lâu đời, ban đêm thường thấy có lửa sáng như 2 cây đèn, người miền núi đều kính sợ mà tránh xa, nên nó cao lớn không cây nào sánh kịp. Lúc ấy quan quân chợt thấy, vừa tra rìu vào đốn, lập tức bị thổ huyết mà chết. Vì vậy, họ truyền bảo nhau kiêng cữ không dám phạm đến. Nhưng rồi quan Ngoại tả Chưởng dinh quản Lễ bộ, Hình bộ, lãnh Đại tư nông là Phương Quận công Đỗ Thanh Nhơn nghe vậy bèn đem lệnh tiễn đến, ra lệnh đốc thúc phải đốn cho được: Người nào lẩn tránh thì bị xử theo quân pháp. Mọi người buộc tuân theo tướng lệnh, rốt lại phải đốn hạ, bỗng nhiên lửa sáng [11a], phát ra tiếng nổ rồi bay đi trông như dải lụa, thân cây có nhựa chảy ra dầm dề như máu. Từ đấy cây to chặt được rất nhiều, Thanh Nhơn mới sáng chế đóng thuyền chiến, làm bánh lái dài để đi đường biển yên ổn, nhưng vẫn để bánh lái tròn khi trước để dùng khi đi đường sông, gọi là thuyền 2 bánh lái, phía trên gác sàn chiến đấu, 2 bên treo phên tre để che cho thủy binh ở dưới chuyên lo chèo chống, trên thì bố trí bộ binh để xung kích, nhờ vậy mà kỹ xảo của thủy sư càng tinh nhuệ, đến nay cũng vẫn theo.

Vạn cổ mộc tục gọi cây gõ, lá tròn có lông, vỏ quả có gai, da thô, thớ gỗ màu tím thâm, chất gỗ bền nặng, dùng làm cột rường và xẻ ván là hảo hạng.

Cây thiết tú (gỗ táu) lá giống cây gõ, da có vằn sần như da ếch, gỗ bền dẻo, dùng làm rui mè, cột trụ và mái chèo.

Cây bàn lân (bằng lăng) hoa và lá giống cây tử kinh, thớ gỗ trắng ngà, dùng làm rui mè, cột trụ và mái chèo; rễ cây chỗ gốc cong queo nổi u kỳ quái, hoặc giống hình người, hoặc hình chim muông hoa lá, [11b] dùng làm ống cắm bút, dĩa bày quả, có vẻ đẹp tự nhiên cổ kính.

Cây hồng du, tục gọi cây xoai, lá nhỏ tròn, hoa màu hồng nhạt, quả tím đen, nhỏ bằng ngón tay, dầm bỏ vỏ ngoài, hạt thịt hồng hồng có bột, vị ngọt; thớ gỗ đỏ, thân cành nhỏ dùng làm tay cày bừa, khúc thân lớn dùng làm đòn ép mía và thân chiếc neo thuyền được chắc và bền.

Cây hoàng (huỳnh) đàn, lá như hoa kim phụng, thịt gỗ trắng mà thơm, chôn dưới đất không mục, dùng làm quan quách rất tốt, thứ đến có cây giáng hương (lá nhỏ mà mỏng), còn cây ba khía thì là loại xấu nhất, lá tròn lớn như lá đa...

Cây hồng, lá giống lá táo, hoa trắng, ở đây có rất nhiều, dùng làm bàn ghế, rương tủ, thuyền buôn thường mua chở đầy đem về. Loại ấy có thứ hoa lê và cẩm lai, giá rẻ hơn (?)

[12a] Cây trai (chay), lá nhỏ mà dài, cành thẳng lên như cán chổi, gỗ bền chắc, trăm năm không mục, lâu ngày gân cây như răng lược, người ta thường dùng làm quan quách và cột mốc giới.

Cây váp, lá như lá khê, thân cao xỏng, cứng chắc, sắc tím đen, muốn dùng làm đồ xài thì dùng lúc cây mới đốn còn tươi, để lâu thì dao búa đẽo cũng không vào, chịu đựng được nước mưa, đốt làm than để nấu đồng sắt, rất cần cho việc quốc gia.

Cây dầu, lá có lông, lớn như cây tỳ bà, dân gian thường dùng làm chèo, làm thuyền. Thân cây có dầu, người ta vạt 2, 3 lỗ nơi gần gốc cây, rồi đốt lửa vào, nhựa chảy ra thành dầu, (Sách Võ bị chí gọi là dầu mãnh hỏa, tục gọi là dầu rái) cứ ngay chỗ vạt lấy vá múc lấy, dầu chảy ra không hết. Một năm tổng số dầu sản xuất có 2.000.000 cân, dùng để trét ghe thuyền, làm đèn đuốc, lợi rất nhiều.

Cây sơn cảm lãm tức cây trám núi, thân cây cong, thớ vân quấn nhau, không thành gỗ để dùng, có dầu trong thân rướm ra thành khối gọi là [12b] mộc thán ([101][101]) (cục chai), nó ở dưới đất lâu năm trở nên đặc dẻo là tốt, mỗi năm sản xuất hơn 2.000.000 cân. Thứ này trộn với dầu rái để trét ghe và làm đèn đuốc rất lợi ([102][102]).

Cây bời lời, lá tròn dài, có lông, chất nhẹ, thớ gỗ đặc mịn, có hai loại vàng và trắng đều dùng được tốt cả. Vỏ cây và lá có chất nhựa rất dính, hòa trộn với vôi, cát và đất (tam hòa thổ), xây mộ rất tốt.

Cây hoàng giao (còn có tên là cây hoàng tâm (tục gọi gáo vàng), sắc vàng, thớ gỗ đặc mịn, dùng làm rương tủ rất tốt.

Thiết tuyền mộc - cây muồng - lá nhỏ mà xanh, gỗ sắc đỏ, bền dẻo, dùng làm rường cột, giữa tim cây có lỗ nhỏ, trong lỗ có phấn vàng, người miền núi thường dùng xức mụt nhọt rất công hiệu ([103][103]).

Cây ấu (ao), mỗi cuống có 3 lá như cây gạo, có 2 loại tím và trắng chỉ dùng đóng đồ linh tinh.

Cây cà đuối, lá như lá cây vên vên, cũng là loại gỗ tạp.

[13b] Cây sam, có 2 loại đỏ và trắng, gỗ sam đỏ nhiều mắt, có vân xoáy tròn như trôn ốc, ván gỗ hay nứt nẻ, hoặc chỗ thớ gỗ xoay tròn tự nhiên thường hay sứt rụng, nên không thành vật liệu, ngâm nước là mục nát, chỉ dùng nấu dầu làm lịch thanh ([104][104]). Loại sam trắng gọi là trúc sam thì còn có thể dùng được.

Nam chữ là cây dó, lá như lá dâu núi (rừng), vỏ dùng làm giấy, mềm bền và trong suốt, giấy dó sản xuất ở trấn Biên Hòa là tốt nhất.

Cây bông (cây miên) có 3 loại: sơn miên (tục gọi là cây gạo), mộc miên (cây gòn), miên hoa (bông vải - có tên là cát bối hay cổ bối) đều dùng làm vải, mà loại cát bối thì tốt hơn.

Cây đồng, lá nhọn mà lớn, thân cây thẳng, thớ gỗ bền, dùng làm cột buồm.

Cây nha đồng (tục gọi lồng mứt), lá nhỏ, hoa màu hồng nhạt, cây đứng thẳng, thớ gỗ sáng trắng như ngà voi, dùng khắc con dấu và bản in sách rất tốt ([105][105]).

Cây thủy mai, tục gọi là mù u, lá, hoa giống cây mai, không có gai, quả tròn bằng ngón chân cái, ngoài có da mỏng, trong có lớp vỏ cứng bao 1 hạt. Dùng hột ép ra dầu xanh là thứ thuốc cần thiết để trị các vết thương, dầu còn dùng thắp đèn, loại kiến không ăn được. Thân cây cong vặn [13b] bền dẻo, thường được nhà nước trồng nhiều để làm cây lô ở mũi và cong trong khoang ghe, cùng xương cột lái ([106][106]).

Các loại gỗ còn rất nhiều, đây chỉ ghi ra những thứ cây đặc biệt và cây thường dùng, còn những thứ gỗ thô tạp không cần phải ghi hết.

Tre cũng có rất nhiều loại, không thể chép hết. Sách Tài thụ (sách dạy trồng cây) nói: loại tre cứ 60 năm 1 lần ra trái rồi khô chết, chỗ có trái rơi rụng xuống lại mọc lên thành lùm, như xứ Đồng Môn ở Biên Hòa, sông Trúc Giang ở Tân Châu, từ xưa vốn được gọi là rừng tre. Năm Gia Long thứ 10 (1811), tre kết trái rồi chết cả, sau thấy nơi gần đó lại phát sinh, nay đã như cũ. Lại có người lấy trái đem trỉa cũng mọc rất tốt. Ở trấn Vĩnh Thanh, Định Tường sản xuất tre tầm vông, bề hoành lóng chừng 3, 4 tấc ta, đặc ruột mà nhẹ thẳng, dùng làm cán giáo, các trấn kia không có. Còn thứ tre rằn nên trồng vào chỗ vườn rợp bóng thì vẻ hoa văn mới đẹp.

[14a] Cây dừa ở đất nước ngọt, mặn, đều thích nghi cả, quả già, non đều ăn được, cơm quả già dùng nấu dầu xức tóc, chiên đồ ăn và dùng thắp đèn, thứ nào cũng thích hợp. Vỏ xơ dừa đánh thành dây thừng dùng cho thuyền bè, sọ dừa chạm trổ làm thành chén, đĩa, ve, bình, cưa làm muỗng, gáo, có thứ sọ dừa nhỏ bằng trứng gà mà hơi dẹp dùng làm bình đựng thuốc súng và muỗng nhỏ để uống nước rất đẹp, được người đời ưa chuộng.

Lại có loại dừa nước không có cây cành, ban đầu từ dưới bùn dần dần trồi lên lõi cà bắp nhọn, dần dần hai bên sóng cà bắp nảy ra lá xanh, dày khít, dài đều thành tàu như đuôi chim phụng, rồi các tàu mọc lên từng lớp kế nhau thành lùm cao hơn một trượng. Người ta chặt lấy tàu nhỏ xé tét ra làm hai, để cả lá phơi khô để lợp nhà. Còn tàu lá lớn thì chỉ róc lấy lá bện thành lá tấm, lá chầm ([107][107]) cũng để lợp nhà, lót đựng lúa gạo, vỏ bẹ dùng làm dây chuỗi xâu tiền, mầm vú non trong lá đốt ra tro dùng bôi đẹn trong miệng trẻ con, ở nách bẹ dừa nẩy buồng kết trái xếp thành nhiều tầng, cơm dừa nước vừa để ăn và cũng ủ rượu được. Loại dừa nước ở Gia Định được dùng rộng rãi trong việc công lẫn việc tư.

Cây thiết tung tục gọi là cây nhum ([108][108]), giống như cây dừa mà có nhiều gai, thớ gỗ màu đen mà cứng bền, dùng làm cột nhà, sàn nhà, xẻ ra làm tấm khắc liễn đối rất tốt, lại dùng làm đồn lũy vì có gai nhọn và cứng. Tung trúc (tục gọi cây lôi (lụi)) dùng làm rẻ quạt, giá trướng, hoặc dùi rỗng ruột làm ống đồng thổi chim. (Nghề này các nước khác không có, thổi chim dùng đạn đất, thổi cá dùng tên, thường thì đều thổi trúng cả). Cây quì tung, tục gọi cây kè, lá giống bồ quỳ, có gai, cây cao to như cây dừa, dùng làm trụ cầu và trụ miệng đáy.

Cây bối đa giống cây bồ quỳ nhưng to và thẳng, không có nhánh, tàu lá trên ngọn cây tỏa bốn phía tròn như cây lọng, tàu lớn có 3 cạnh, bên cạnh có tàu nhỏ, mọc rẽ ra, lá mọc đối nhau, bốn mùa không tàn rụng. Sóng tàu lớn dùng làm cung tên, sóng tàu nhỏ dùng đánh thành dây, lá già bện thành tấm để che mưa gió, lá non chẻ ra đan làm tấm buồm, cả nước đều dùng. Dân Cao Miên dùng lá già để chép giấy tờ khế ước vì để được lâu.

[15a] Dây mây, ở đảo Phú Quốc thuộc Hà Tiên có thứ long đằng (mây rồng), tức dây song, mình tròn 3 tấc ta dùng làm dây chằng cột buồm, và vấn nịt ([109][109]), dùng làm đai thùng cây (như thùng cây ủ nước mắm chẳng hạn). Trong núi cao Phiên An và Biên Hòa cũng có mây thiết đằng (mây sắt), thủy đằng (mây nước) và mao đằng (choai) được xe bện thành dây buộc lèo buồm, sử dụng rộng rãi, nó bền dẻo mà lại có nhiều, các hạt ([110][110]) không sánh được.

Loại quả thì có ba la mật (tức mít). Có 2 loại: ướt và ráo, cây lớn 2 ôm, dùng làm tang trống, làm cột nhà và cưa ván.

· Cam.

· Quít.

· Bưởi.

· Chanh.

· Long nhãn (thường chỉ gọi tắt là nhãn).

· Vải.

· Thị.

· Dâu tiên.

· Dâu phật (tục gọi quả boòng boong, sản sanh ở xứ Mỹ Lồng, trấn Vĩnh Thanh) ([111][111]).

· Phật đầu lê (hay tú cầu tử tức quả mãng cầu).

· Quả trám.

· Quả gấc.

· Quả khế.

· Vô hoa quả, còn có tên là Ưu đàm hoa, tức quả sung, (sống chát, chín ăn cũng ngon).

· Hiệp hoan đậu còn có tên là toan đậu, tục gọi là cây me chua.

· Tiên lý, tục gọi quả măng cụt.

· Sơn lựu (quả lựu núi), tục gọi quả ổi.

· Quả toan cầm, tục gọi quả cầm bột, tức quả bứa.

· Mông quả còn có tên là am (yêm) la, hay là hương toán (xoài): quả lớn, thịt vàng, vị thơm ngọt gọi là tượng mông (xoài tượng); quả nhỏ hơn, thịt trắng, đuôi nhọn hơi cong gọi là anh ca mông (tục gọi xoài thanh ca) ([112][112]) loại thịt trắng, quả dài gọi là mã mông (xoài ngựa); loại quả tròn, hơi dẹp gọi là toan mông (xoài chua); loại quả nhỏ gọi là phạn mông (xoài cơm), nọa mông (xoài nếp), hàm mông (xoài ngậm) khi chín có lấm chấm đen ngoài da, vị rất thơm ngọt.

· Thạch lựu: quả thạch lựu, chỉ có ở vùng nước mặn Cần Giờ là rất ngon ngọt mà quả lại sai to, ấy là điều lạ.

· Mộc qua (đu đủ).

· Xú lê (quả bình bát).

· Miên đào (quả điều lộn hột) lá hơi chua, thân cao lớn như xoài, hoa hồng nhiều râu, quả bằng nắm tay, da hồng (cũng có thứ da vàng), [15b] thịt trắng, hạt tròn bằng đầu ngón chân cái (mọc dính ngoài đầu trái).

· Quả đại hữu, sản xuất ở Ký Sơn, Biên Hòa, tục gọi trái lười ươi hình như quả trám, người miền núi phơi khô đem bán; khi ăn phải ngâm nước cho nó nở ra thịt, một quả thịt nở đầy một chén, bỏ xơ màng rồi thêm đường vào để ăn; tính mát lạnh, mùa hạ nên dùng để giải nhiệt.

· Chuối: chuối kim tiêu (chuối tiêu), chuối ba hương, chuối hồng (vỏ hồng, ruột trắng), chuối cau (quả nhỏ như quả cau), chuối mật, chuối hột (thịt có nhiều hột, khi còn sống gọi là chuối chát, ăn sống chung với rau ghém). Chuối có rất nhiều loại, có thứ buồng cao 3 thước ta. Trổ buồng nải chồng chất dài thòng tới đất. Có khi phơi khô làm mứt, tơ trong bẹ lá dùng dệt vải ([113][113]).

· Phiên lê, tức quả khóm (thơm, dứa), có tên nữa là bách nhãn lê hay là phụng lê. Vườn ở núi hay trồng nhiều, người bán khóm trước ngày Đoan ngọ bán 10 quả, lệ phải thêm 1 quả, nhưng chỉ trả tiền theo giá 10 quả mà thôi. Còn sau ngày Đoan ngọ phải thêm 3 quả. Lá thơm dùng dệt vải.

Về các loài hoa. Những hoa đặc biệt:

· Mạt lỵ (hoa lài) (đơn đài, trùng đài rất nhiều, có cây thân to cả thước ta bề hoành).

· Hoàng mộc bút, cây thân to đến hai thước ta bề hoành, cao hơn trượng, lá nhỏ mà dài, hoa vàng, lúc mới nhú ra như đầu ngọn bút, tục gọi hoa sứ.

· Thanh mộc bút (hoa sứ xanh) (nấu dầu thoa tóc, mùi thơm).

· Nam mai, là hoa mai ([114][114]).

· Dã mẫu đơn (bông trang).

· Nguyệt quí còn gọi nguyệt quới, lá nhỏ xanh, hoa nhỏ trắng rất thơm (có hoa đơn, hoa kép).

· Mộc lan (lá như nguyệt quới, hơi tròn, hoa vàng như ngư tử lan (hoa ngâu).

· Giao hoa (hoa dứa), cây có đốt cỡ tấc ta như bồ quỳ, lá dài như lá dứa, bắp hoa trắng nõn, nhụy như vảy cá, có phấn vàng. Hoa và lá đều có mùi thơm, ướp quần áo hằng tháng vẫn còn thơm, trừ được con mọt, gọi là hoa dứa.

Những hoa thường có:

· Sen hồng, sen trắng.                                     · Sen trăm cánh (bách diệp liên).

· Cúc.                                                            · Hoa mộc tê (hoa quế)

· Hoa trà.                                                        · Giải trảo hoa (hoa ngoe cua).

· Lệ xuân (hoa hồng).                                       · Hoa quế.

· Tử kinh.                                                       · Hoa ngâu (ngư tử lan).

· Thủy tiên.                                                     · Hoa tỉ muội.

· Dâm bụt (mộc cận) ([115][115]).                            · [16a] Hoa trúc đào.

· Kim phụng (hoa móng tay).                            · Hồ điệp (hoa bươm bướm).

· Tý ngọ.                                                        · Hoa mồng gà năm sắc (ngũ sắc kê quan).

· Hoa quỳ.                                                      · Hoa phù dung.

· Ngọc phù dung: lá trắng, hoa nhấp nháy như ngọc tuyết.

· (Hồng, hoàng, bạch) lựu hoa.                         · Tiễn nhung.

· Cẩm trúc.                                                     · Hoa man lý (dây leo, hoa xanh non).

· Thiên nhật hồng.

Những hoa kể trên các nơi đều có.

Cá biển thì có cá voi: Đầu tròn, nơi trán có lỗ phun nước, mũi miệng giống như voi, mình trơn láng không có vảy, đuôi có 2 nhánh rẽ như đuôi tôm, tánh hiền lành biết cứu giúp người. Người đánh cá thường kêu réo nhờ nó đuổi các loại cá vào lưới. Gặp thuyền đi biển bị chìm, cá nầy thường đưa người vào bờ, dân miền biển đều tôn kính, nếu thấy thây cá nầy trôi dạt, dân chài lưới góp tiền mua vải, sắm hòm tẩn liệm, chôn cất, cử người trùm trưởng trong làng chài đứng làm tang chủ, cất đền thờ phụng. Trong Tự điển (sách điển tịch về thờ cúng), phong cá làm Nam hải Tướng quân, vì ở trong vùng biển Nam mới linh ứng, còn ở biển khác thì không linh. Mỡ cá voi dùng trị bệnh đậu, phong, nhiệt và đỏ mắt.

Cá đao (đao ngư): Nơi đầu có mọc ra cái xương dài, hai bên mép xương này có răng nhọn như răng cưa, mình xanh đen, không có vảy, có rún để sinh con ([116][116]).

[16b] Cá nhám (giao sa), có tên nữa là cá xà, da có sạn, thân to lớn đến 3, 4 ôm, dài hơn 1 trượng, mắt đỏ, miệng lớn. Thường thừa khi sóng gió mạnh mẽ, cả bầy đuổi theo ghe thuyền, chực ghe chìm úp đặng nuốt người. Tính nó rất hung dữ, người đi ghe phải bỏ xuống 1 khối đá hay bao gạo mong cho nó nuốt xong no bụng để bỏ đi. Cá nầy cũng có rún đẻ con. Có loại cá xà ở hồ, nhỏ hơn, ăn tươi hay phơi khô để dùng đều được. Vây của nó phơi khô đem bán là loại thức ăn thượng hạng.

Cá chim trắng (bạch điểu ngư) đầu giống đầu chim, mình vuông, rộng nhưng mỏng dẹp, phủ phấn trắng, không có vảy, bề ngang hơn 1 thước ta, thường bay liệng trên mặt nước, vị rất ngon ngọt, chỉ ở hải cảng Đồng Tranh có cá nầy mà thôi. Loại ấy lại có thạch điểu ngư (cá chim đá), mình đen, da nhăn nheo. Tòng điểu ngư (cá chim tòng), phấn điểu ngư (cá chim phấn) đều nhỏ hơn mà vị lạt, nơi biển nào cũng có.

Cá đuối (miết ngư) mình đen, bụng trắng, hình tròn mà dẹp, có rìa thịt như rìa con ba ba, mắt ở trên lưng, miệng ở dưới bụng, [17a] sóng lưng có gai cát nhám dùng để mài đồ vật, đường kính 2,3 thước ta, đuôi như cái roi dài 4, 5 thước ta, ăn tươi hay phơi khô dùng đều tốt. ([117][117])

Cá hường (hồng ngư): mình đỏ hình như cá chép, chúng thường ở chỗ rạn sâu dưới biển. Người làm nghề câu cá nầy vào lúc cuối xuân đầu hạ, chuẩn bị gạo nước trong ghe đủ dùng nửa tháng, cứ theo hướng đông chạy ra, không có cồn đảo gì để làm tiêu chí, chỉ nhớ lấy chỗ có rạn sâu nhận ra chắc chắn địa điểm rồi thả neo. Trước tiên lấy đầu dây neo, cột chặt vào đầu neo gỗ có hai móc ngạnh ([118][118]), rồi đem dây giáp lại đầu cán neo, nơi có đục lỗ, dùng dây nhỏ cột hờ dây neo tại lỗ ấy. Khi về thì dùng sức kéo neo lên tức thì cái dây cột hờ ấy tự dứt, mà neo tự chạy theo đằng đầu móc mà nổi lên. Nếu không làm như vậy thì ngạnh neo mắc trong đá ngầm không thể kéo neo lên được ([119][119]). Xong đâu vào đó rồi thả câu xuống. Cá hồng tính ưa yên tĩnh, chúng thường ẩn ở bên rạn đá ngầm sâu, mồi bỏ xa khỏi rạn cá không ra ăn, bỏ trên đầu rạn cá cũng không trồi lên ăn, phải thả mồi câu sao cho rơi đúng chỗ vực sâu thì câu mới được, vừa câu được là mổ phơi ngay [17b], câu cho đầy mới về, đây là món hàng bán rộng khắp, đạt lợi lớn. Nhưng có khi gặp gió bão thường trôi dạt đến nước khác. Nghề nầy rất gian nan, nguy hiểm, chỉ có cha con truyền nhau mới làm được. Loại cá nầy lại có thứ vảy đen sáng như sao và ngũ sắc thất bát bửu nhưng thịt cứng và lạt, rất vô vị.

Cá thu (thu ngư), lưng xanh không vảy, dài 5, 6 thước ta, ăn gỏi sống rất ngon, làm cá mặn ([120][120]) để dùng được lâu.

Cá ngừ (liên ngư), thịt có từng lớp bao quanh như hoa sen, không có vảy.

Cá mòi (mai ngư) mình hơi dẹp, nhiều xương, thịt ngọt, có hai loại hồng và trắng, dầu cá này thắp đèn được.

Thạch đầu ngư (tục gọi là cá ướp (cá ấp)), trên đầu có xương chẩm bằng đá, vảy nhỏ, thịt nhiều. Cá mòi và cá ướp làm mắm và nước mắm, cả nước đều dùng rất phổ biến.

Mực (Mặc ngư), hình tròn, có 8 râu, da hồng, thịt trắng, có mảnh xương mỏng trong, mỡ có hột gạo, ruột có bọc mực, mình dài 5, 6 tấc ta, [18a] dùng phơi khô. Mực có thứ nhỏ tròn độ 1 tấc ta, như con nhện lớn, thịt cũng ngon ngọt, có thứ tròn mà lớn gọi là ô tặc (mực nang), cùng với thứ dài có cái mai, thịt đều cứng và lạt.

Cá khoai (nhuyễn ngư), thân mềm, không vảy, xương xâu nhau nhiều đốt, miệng sắc như răng cưa, lăn bột chiên tươi hoặc phơi khô đều ngon ([121][121]).

Cá bài đàn: thịt có từng miếng như cây bạch đàn, lớn vầng ôm, có vảy nhỏ, sắc hồng nhạt.

Dự ngư (tục gọi cá rựa): mình dẹp, đầu bằng, bề ngang 4, 5 tấc ta, dài hơn 2 thước ta, nhiều xương, không có vảy.

Vị ngư (tục gọi cá bẹ): mình nghiêng dẹp, nhiều xương, thân dài, vảy lớn, trắng như ngọc, thịt béo ngọt.

Điều ngư: Cá điều, cũng như cá dự (rựa) mà nhỏ hơn, đầu nhọn, răng như răng cưa, mình dài như dây đai.

Y đái ngư (cá hố), kê tỳ ngư (cá mề gà), hải phạn ngư (cá cơm biển: làm khô, làm nước mắm, làm mắm), ngân tai ngư (cá bạc má) đều ngon ngọt.

Thử đầu ngư (cá đầu chuột): đầu như con chuột mà có ngạnh

Chùy ngư (cá dùi): giống con cá hường mà nhỏ hơn, gáy có gai nhọn.

Hải đồn (cá heo); lạp ngư (cá lẹp): giống cá mòi mà mỏng, có 2 loại: hồng và trắng.

Sòng ngư [18b] (cá chẻm): vảy má dài mọc ngang, bén như dao cạo.

Lão ông ngư (cá ông già): lưng khum, miệng hàm trên hơi lồi, hàm dưới lõm vào, như miệng ông già ([122][122]).

Hải mã (cá ngựa) ([123][123]) : mình vuông, vảy cứng chởm chởm, không ăn được.

Thủy mẫu, có tên nữa là chả (trả) ngư (con sứa): thù lù một đống, ngọ nguậy như cái dạ dày con dê, không có đầu, mắt, bụng, tạng, phủ, chân xòe rua mỏng mảnh, thân to như cái quạt lớn, có bầy tép đi phụ theo để nương tựa ([124][124]), sắc trắng nõn, con nào tím lợt thì không nên ăn. Có thứ tròn, nhỏ như cái chén, khi dùng phải ngâm phèn chua và ướp muối, tánh ôn, trừ được chứng lãnh nhiệt (sốt rét), thường dùng ăn sống vào mùa hè.

Loại cá ở sông cũng có cá thu, cá chim phấn, cá mòi, tuy chúng nhỏ con hơn cá ở biển, nhưng mùi vị ngọt hơn.

Đao ngư (cá đao), hồ sa ngư (cá nhám ở hồ): ăn gỏi thì ngon tuyệt.

Giang phạn ngư (cá cơm sông) dùng phơi khô; giang kê tỳ ngư (cá mề gà sông), đều ngon hơn cá biển.

Lý ngư (cá gáy, cá chép), lô ngư (cá vược).

Bao ngư (thân màu hồng lợt, tục gọi cá giảo, miệng to, vảy nhỏ).

Cá bạch lô (tục gọi cá chiết) thịt ngon ngọt.

Thiêu ngư (cá cháy) ([125][125]): vảy lớn [19a] nhiều xương, ăn rất béo ngọt, nên nấu chín, không nên ăn gỏi sống, cá này mùa thu sinh, mùa đông chửa, trứng đầy bụng, nếu ăn nhiều thì bị đi tả. Ở Vĩnh Thanh và Định Tường có rất nhiều cá này, vùng phía bắc không có.

Tra ngư (cá tra): vây và gáy có ngạnh nhọn, không có vảy, mình xanh, bụng trắng, lớn 5, 6 thước ta, rất béo, thịt nó có thể phơi khô, mỡ dùng thắp đèn, trét ghe. Loại mình vàng, nhỏ con hơn gọi là lăng ngư (cá lăng), loại lưng xanh gọi là lô hoa ngư (cá bông lau).

Phức giác ngư: giống như cá lăng, có ngạnh đôi trên lưng.

Úc ngư (cá úc): đầu cứng rắn. Soát ngư (cá xác bụng) mình như cái hạt ([126][126]), giống cá tra mà nhỏ, lưng xanh thịt ngọt béo, nên tục còn gọi là thủy sâm.

Lại có thứ nhỏ hơn nữa gọi là giác ngư (cá chốt) ([127][127]).

Xuy sa ngư (cá bống cát): mình tròn màu vàng, vảy nhỏ, có thứ to bề hoành bằng cườm tay, thứ nhỏ bằng mút đũa, thứ mình có chấm đen, hoặc đen cả mình thì vị không ngon lắm. Giang đồn (cá heo); buôi ngư (cá buôi) hình tròn, vảy lớn, thịt dùng ướp mắm, trứng phơi khô, loại nhỏ hơn gọi là chử ngư (cá chày), thứ nhỏ hơn nữa gọi là đối ngư (cá đối), vi như cánh con ve, bay nhảy trên mặt nước, nên còn gọi là giang thanh đình (cá chuồn chuồn sông). Cá hanh; phàn ngư (cá phèn) có râu dài, phân hai loại vàng trắng (loại vàng mắc tiền). Ngưu thiệt ngư (cá lưỡi trâu), mình như lóc bỏ nửa, trên đen dưới trắng (miệng méo nằm lệch một bên).

Ban tai ngư; văn ngư (hồng viên); ma ngư; phường ngư (cá mè); linh ngư (cá linh); [19b] giang lệ ngư (cá chình); chích mạn ngư (cá lạc); châm đầu ngư (cá lìm kìm); toàn ngư (cá trèn) mình dẹp, béo ngọt, không vảy, trắng nõn như ngọc. Phương ngư (cá thòi lòi) đầu vuông, bằng, mắt giống mắt tôm, vảy chiếu sáng,vây gáy có màu xanh, đỏ, lục, thường nhảy lướt lềnh trên mặt mé nước, có con lớn bằng cổ tay ([128][128]).

Cá ở đầm ao (cá đồng) có hoa lê ngư (cá bông), lê ngư (cá lóc), quá sơn ngư (cá rô) ([129][129]), có nhiều nước nhớt, khi nước cạn chúng dùng xương má lắc đi trên đất, nên gọi là quá sơn ngư (cá qua núi); giác ngư (cá trê) ([130][130]), có râu không vảy, 2 vây có ngạnh như cái sừng; điệp ngư (cá sặc bướm), di thu ngư (cá nheo) đều dùng ăn tươi làm khô, làm mắm dùng không hết, cả nước không đâu sánh kịp. Khô cá bông, mỗi năm thuyền buôn mua đến hơn một triệu cân, còn cá lóc phơi khô chỉ đủ dùng ăn trong nước. Cá lóc trong ruộng nơi nào cũng có, nhưng không nhiều lắm mà vị ngon hơn. Hoa mạn ngư (cá bống kèo) đầu bằng, mình trơn tròn có vằn không vảy, lớn bằng ngón tay, vị béo ngon, lúc có mưa chúng ở trong ruộng tuôn ra, người làm nghề cá chận cái đăng bằng tre ngăn ở hạ lưu dòng sông, dùng cái đó (đó bắt cá) hứng bắt, lệ phải đóng thuế ([131][131]).

[20a] Hoàng thiện (con lươn) trong ruộng đầm đều có.

Loại cá độc ở biển có ngốc ngư (cá nóc). Mình tròn bằng cườm tay, da khô nhám như gai, có đốm bông màu vàng đen, bụng lớn, đuôi nhỏ xíu, ăn nhằm có thể chết người. Người ta cho rằng độc của nó ở tại buồng gan, nếu cắt bỏ đi thì ăn không hại, nhưng nó là vật độc, đừng ăn là hơn.

Ở sông thì có cá mạn xà: hình giống con rắn có râu (con đẻn), không có vảy; người bị nó cắn thì phát bệnh ngủ mê, như bị cắn giờ Dần ngày nay thì đến giờ Dần ngày mai mới tỉnh rồi khỏi, xương của nó đem đốt để trừ sâu bọ hại cây cối; Quỷ diện ngư (cá mặt quỷ) ([132][132]): mình nhỏ độ 1 tấc ta, tròn mà dẹp, có vằn đốm nhiều gai, chích vào người thì bị phù thũng, đau nhức cả ngày sau đó mới bình phục.

Sông Kiến Đăng có thứ ốc gạo, vỏ trắng xoáy tròn, lớn bằng ngón tay, khi nấu chín thì dưới cái yếm của nó lồi ra hạt mỡ trắng như hột gạo, vị thơm ngon; nguyên nó ở dưới sông sâu, tháng 4, 5 bò lên bến cạn, người làm nghề đem thuyền đến cào [20b] chở bán khắp xa gần. Ốc nầy tháng 7 mang thai, tháng 8 trở về sông sâu, vỏ nó có thể đốt thành than làm vôi. Hến ở sông Biên Hòa là ngon thượng hạng. Ở vùng rừng sác gần biển có thứ ốc len dài độ 1 tấc ta, lớn bằng đầu ngón tay, thịt có gân xanh, hấp xào (dừa) có vị béo ngon. Ốc dừa nước nhỏ bằng móng tay, thơm ngọt, ăn có thể say. Sò huyết ở chỗ bùn dưới biển, tròn bằng chén rượu (chung rượu), vỏ sò nhám sịt, nổi khía thành nhiều hàng sâu hoặc cạn, vị ngon ngọt hơn các loại khác, ở các hạt khác không có sò này, nếu có chút đỉnh thì chất huyết béo cũng ít nên vị lạt. Hải kính, tục gọi là điệp biển, ướp thịt làm mắm, thứ có màu vàng đỏ, ngọt và giòn. Trường điệt, tục gọi con đáp đáp (con trùng trục); văn cáp (vọp); ngao (nghêu); sò dọc biển đều có. Ốc xà cừ, ốc tai tượng, thịt để ăn, vỏ dùng khảm đồ vật có sắc sáng long lanh.

Tôm đỏ (tôm he) ở biển, phơi khô bán cho thuyền buôn. Chỉ ở hai trấn Vĩnh Thanh và Hà Tiên là nhiều, một năm có đến 100.000 cân. Có loại tép bạc nhỏ bằng đầu đũa (con ruốc), muối mặn đem giã như bột, sắc hồng vị ngọt, thơm nức mũi ([133][133]). Tôm hùm, vỏ có vằn nhiều gai, [21a] lớn bằng bắp tay, thịt dùng để ăn, vỏ treo chơi. Tôm càng xanh ở sông, vỏ xanh tròn 4, 5 tấc ta, có hai cái càng lớn như ngón tay trỏ, thịt ngọt thơm ngon béo, các hạt ở phía bắc không có - Lại có thứ tôm nhỏ gọi là tép bạc, tôm thẻ, tép đất, ăn cũng ngon miệng.

Cua: lớn bằng cái dĩa, nhiều gạch vàng, giòn ngon, người làm nghề ban đêm đặt cái lọp ở dưới sông, miệng lọp có gài hom tre, bỏ mồi vào trong cho cua vào mà không ra được, sáng ngày lặn xuống đem lọp lên mà bắt đem ra chợ bán. Những đêm không trăng tối trời, cua đã chắc mà lại có nhiều. Ở ruộng, có thứ cua đồng, thân bằng chén rượu, nhỏ gọi là nha tù (con còng), ăn cũng rất ngon, con cáy (ghẹ) ở biển thịt ít, vị nhạt. Con sam vị ngon, trứng có thể dùng làm mắm tương.

Cá sấu: đầu vuông, mỏ nhọn, mi mắt có khía, đuôi chẽ (chẻ), khía răng cưa, răng nanh lởm chởm, không có mang tai, có 4 chân, không vảy, sức mạnh ở đuôi; có loại màu vàng, đen, lớn bằng chiếc xuồng rất hung dữ, thường dùng đuôi đập vào người cho ngã xuống sông để xốc gặm vô miệng rồi bơi dọc sông [21b], tìm những rễ cây cong thấp de ra ([134][134]) gác nạn nhân lên để cắn chơi giỡn mồi, nên có người lỡ bị nó gặm chưa lâu lắm mà thương tích lại nhẹ, thừa lúc nó gác mình lên chảng cây thì leo luôn lên ngọn cây cao, rốt lại thoát nạn. Con cá sấu đã ăn nhiều người có ma trành theo nên có thể tác quái ám người. Con nào ăn nhiều người trong bụng nó thường có thoa xuyến và đồ trang sức bằng vàng bạc. Những con sấu nhỏ tầm thường, người ta có thể câu được, rồi ở nước thì buộc theo bè, trên đất thì nhốt trong chuồng, rồi đem bán cho lò mổ, da dùng phơi khô, răng dùng làm chuôi, làm cán dao.

Loài có mai, vỏ, thì có rùa núi, rùa ở đầm (tục gọi cần đước), ở sông (tục gọi cần thay), có loại nhỏ đường kính một tấc ta, gọi là chủy huề (trắng bông) mai mỏng như vỏ đồi mồi. Miết, tục gọi là cua đinh (con trạnh), con nhỏ gọi là hôn, đầu nhọn, hay cắn, có rìa mai (vè mai) vị ngon giòn, con nhỏ càng ngon hơn, nên ngạn ngữ có câu: qui cân miết lượng [ăn rùa lựa con lớn được một cân, ăn trạnh lựa con nhỏ (con hôn) một lượng]. Phong miết (tục gọi là con ba ba): không có vè mai, mai có lớp da mềm, hình nó tròn vum, như trái núi. Con đồi mồi và con hải miết (con vích) đường kính lớn đến 4, 5 thước ta.

Các loài chim có chim trĩ (con có đủ màu sặc sỡ gọi là cẩm kê) con có mào ở đỉnh đầu màu đỏ, mình có lông xanh trắng gọi là diếu trĩ, tục gọi con trích ([135][135]).

Khổng tước (con công).

Huyền hạc ([136][136]).

Anh võ (két).

Phỉ thúy (chim trả) ([137][137]).

Tần cát liễu (một loại như vẹt) còn gọi là con yểng ([138][138]).

Yến, nhạn.

Bạch nhàn ([139][139]).

Ưng (con bù cắt).

Diên (diều hâu).

Hoàng oanh.

Giá cô (đa đa, gà gô).

Hỷ thước (chim khách).

Tích linh (chim chìa vôi) ([140][140]), tục gọi con choai choai.

Am thuần: (một loại chim giống gà con), tục gọi con chim cút.

Phù (vịt nước, le le).

Lộ (cò).

Sơn kê (gà rừng).

Thủy kê (gà nước).

Thủy âu (tục gọi vịt nước).

Lô tư (con cốc, con cồng cộc, con ô quỷ, con thủy lão nha, tục gọi con chàng cốc).

Gia cáp (bồ câu).

Thổ cáp (cu đất) ([141][141]).

Thanh cáp (cu xanh). Còn một loại cu nhỏ con gọi là cu ngói.

Tước (sẻ).

Giá tước (chim sẻ mía).

Báo triều điểu (bìm bịp) ([142][142]).

Lão ông điểu (nó đi lụm khụm, nên gọi tên chim ông già), trong cổ nó có cái túi bìu đựng cá tôm.

Bồ nông: Khi còn tơ đã lớn bằng con ngỗng, sắc xám, lông cánh kết làm quạt.

Hải nga (ngỗng biển), lông cánh đen, kết lông dùng làm đuôi tên để bắn.

Ngốc thu (sói đầu), tục danh chàng bè.

Trác mộc điểu (gõ kiến).

Trúc kê (chim te te hoành hoạch), tục gọi gà xước.

Hỏa kê (loại này ở Tây dương) ([143][143]).

Xiêm áp (vịt xiêm), mồng đỏ, lông pha vằn xanh trắng.

Nhứ (con chằng nghịch).

Lục anh vũ (két, vẹt).

Thỏ điểu (chim vạc), ban đêm vừa bay vừa kêu để kiếm ăn.

Chi thước (ác là).

Ngưu thước (sáo trâu).

Luyện thước (cà cưỡng).

Linh thước (nhồng): đầu có mào đỏ, vằn vàng bao quanh, chân vàng, cũng có loại chân đỏ, lông cánh đen tuyền, đều biết nói tiếng người, nhưng chỉ có linh thước (con nhồng) là lanh lợi hơn, nói rành rõ hơn cả.

Phục điểu (chim cú).

Hào điểu (chim mèo) khi nhỏ thì đẹp, nhưng khi lớn thì xấu xa, hình giống con gà mái, có vằn, tiếng kêu và con mắt giống như mèo.

Kiêu, tiếng kêu như heo ([144][144]), tục gọi chim heo.

Chim cú, chim mèo, chim heo đều là loại chim dữ, là vật gieo điềm chẳng lành.

[22b] Các loại thú có tê, voi, gấu, cọp, beo, trâu, ngựa, dê, bò, nai, hươu, cheo, linh dương, trâu rừng ([145][145]), ngựa rừng, heo rừng, chồn, thỏ, rái, vượn, khỉ, khỉ mày trắng, khỉ đen (khỉ đột), tinh tinh (đười ươi).

 



([1][1])        Hệ từ (繫辭) là sách do Khổng Tử làm để giải thích thêm quẻ Hệ từ của Văn vương. Trương Án chú: "Đại truyện là thiên Hệ từ của kinh Dịch".

([2][2])        Nguyên văn câu này trong sách Vũ cống là: Lục phủ khổng tu, thứ thổ giao chính, để thận tài phú, tắc quốc hằng túc, nhi sinh dân hàm toại hĩ, nghĩa là: "Đất có chỗ tốt, chỗ xấu không đồng đều, thổ sản có vật chính, vật phụ không thể hạn định như nhau được, cho nên phải cẩn thận việc bắt cống nạp tài sản, thì đồ dùng trong nước thường đủ mà đời sống nhân dân cũng toại lòng". Vũ cống là tên một thiên trong kinh Thư.

([3][3])        Thị dân như thương (Tả truyện): Thần văn quốc chi hưng dã, thị dân như thương. Mạnh tử, thiên Ly lâu: Văn vương thị dân như thương. Coi dân như kẻ bị thương hàm ý trân trọng nâng niu dân, không dám quấy nhiễu làm tổn thương dân.

([4][4])        Hà Đồ: Con long mã đội đồ trên sông Hà giúp vua Phục Hy đặt ra Bát quái. Lạc Thư: Con rùa thần trên lưng mang 9 số ở sông Lạc giúp vua Vũ phô diễn 9 loại (Nguyễn Tạo chú).

([5][5])        Tức đậu phộng.

([6][6])        Gọi là phân bánh dầu.

([7][7])        Khổ qua (苦瓜) Nhiều người bình dân Nam Bộ đọc trại nhầm lẫn là hủ qua.

([8][8])        Nguyên văn viết Tam ngũ niên tức "3, 5 năm", chúng tôi dịch thoáng là "3, 4 năm".

([9][9])        Theo Tiền Hán thư chép: Đời Hán, Triệu Quá làm Sưu túc Đô úy, chủ trương dời chỗ ruộng cày cấy mỗi năm.

([10][10])      Sau đó ăn được ba bốn mùa tùy theo đất xấu tốt, rồi mới phá gốc, ươm con khóm trở lại. Ngày xưa khóm trổ không đều khó bán mua, nhưng trái ngon, cây thọ ba bốn mùa. Nay đổ khí đá khóm trổ một lượt nhưng ăn không ngon và tuổi thọ cây khóm cũng ngắn ngủi.

([11][11])      Tức làm đường thẻ, đường tán, đường cát mỡ gà màu vàng đục không trắng.

([12][12])      Nay là ấp Thiết Tượng, xóm Cầu Ván, xã An Hòa, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai.

([13][13])      Trong dân gian quen gọi là muối đen. Nói Ba Thắc Vĩnh Thanh nhưng thật ra chủ yếu là ở Bạc Liêu, còn gọi là xứ Muối.

([14][14])      Đại Nam thực lục chính biên chép là Lê, nhưng có bản khác chép là Nguyễn.

([15][15])    Có sách dịch "gọi là thuyền Vẩy Rồng" e không đúng, vì chữ lân trong nguyên văn được viết với bộ Lộc tả + Lân hữu (麟) có nghĩa là con Lân. Chữ lân là vảy cá phải được viết với bộ Ngư bên hữu (鱗), vậy Long Lân (龍麟) phải dịch là rồng và lân hay để nguyên Hán Việt là Long Lân.

([16][16])      Vì lúc nầy muối khan hiếm, không đủ làm tương mặn, mắm mặn.

([17][17])      Có bản chép 30.000.

([18][18])      Còn gọi là súc sa mật, thuộc họ gừng.

([19][19])      Có người cho rằng đây là tinh của cá Ông ngoài biển, thật ra là chất tiêu hóa trong ruột cá Ông được thải ra, tên khoa học là Ambragrisea.

([20][20])      Là tổ chim yến, một thức ăn rất quí hiếm, ta quen gọi là yến sào.

([21][21])      Tức con đồn đột hay đỉa biển.

([22][22])      Huyền làm chuỗi đeo cổ, vòng đeo tay.

([23][23])      Tốt nhất là bong bóng cá hường.

([24][24])      Chất đá dùng làm thuốc súng.

([25][25])      Củ khúc khắc, còn gọi là phục thần, bạch phục linh, tức nấm lỗ.

([26][26])      Còn gọi chính hoài, tức củ mài, khoai mài.

([27][27])      Còn gọi sâm Bố Chính, sâm Thổ Hào, sâm Phú Yên.

([28][28])      Còn gọi là qui nam, tử hoa, tiền hồ, xạ hương thái.

([29][29])      Còn gọi thổ tam thất, tức ngải rét.

([30][30])      Còn gọi hoài ngưu tất, tức cây cỏ xước.

([31][31])      Gồm xuyên phòng phong, thiên phòng phong, vân phòng phong.

([32][32])      Còn gọi kỳ nam, trà hương, gió bầu.

([33][33])      Là vỏ quít.

([34][34])      Vỏ quả bưởi, còn gọi là chỉ thực, xuyên chỉ thực thuộc loài cam quít.

([35][35])      Còn gọi là thông thảo thuộc họ mộc hương và mao lương.

([36][36])      Còn gọi là cây dầu đắng, ô dược nam thuộc họ long não.

([37][37])      Còn gọi là bắc sài hồ, xà diệp sài hồ, thuộc họ hoa tán.

([38][38])      Còn gọi là thiên môn đông, thiên đông tức dây tóc tiên thuộc họ hành tỏi.

([39][39])      Còn gọi là phấn đơn bì, mộc thược dược, phú quí hoa, thuộc họ mao lương.

([40][40])      Cây hoa nở giữa hạ, thuộc bộ ráy.

([41][41])      Sắn dây, còn gọi là nam cát căn, phấn cát căn, thuộc họ cánh bướm.

([42][42])      Tức cây bồ bồ.

([43][43])      Củ gấu, cỏ gấu, cỏ cú thuộc họ cói.

([44][44])      Còn gọi là thạch xương bồ, thủy xương bồ, thuộc họ rái.

([45][45])      Là trái cây chổi đót.

([46][46])      Còn gọi sơn chi tử, tức cây dành dành, thuộc họ cà phê.

([47][47])      Là cây rẻ quạt, thuộc họ lay-ơn.

([48][48])      Còn gọi là tử tô tử, tô ngạnh, là cây tía tô, thuộc họ hoa môi.

([49][49])      Thuộc họ hoa môi.

([50][50])      Còn gọi kinh giới tuệ, giả tô, khương giới, thuộc họ hoa môi.

([51][51])      Còn gọi là quỉ hoắc hương, thổ hoắc hương, thuộc họ hoa môi.

([52][52])      Là hoa cây kim ngân, tức hoa dây bướm bạc thường phơi hay sấy khô.

([53][53])      Củ nghệ, còn gọi là khương hoàng, thuộc họ gừng.

([54][54])      Củ riềng ấm,còn gọi là phong khương thuộc họ gừng.

([55][55])      Còn gọi là qua lâu căn, là rễ cây qua lâu (thao ca) phơi khô.

([56][56])      Hạt mường mường, hạt muồng, hạt đậu ma, hạt giã lục đậu, hạt đậu trời.

([57][57])      Còn gọi là tượng đảm, du thông, nê hội, tức cây lưỡi cọp, cây long tu, thuộc họ hành.

([58][58])      Còn gọi là bạch tật lê, thích tật lê, là cây gai ma vương, gai dầu, gai trống, gai yết hầu.

([59][59])      Hạt máu chó, hạt chùm bao lớn, thuộc họ mùng quân.

([60][60])      Còn gọi là củ chi, là hạt cây mã tiền, thuộc họ mã tiền.

([61][61])      Hạt mã đề, còn gọi mã đề thảo, thuộc họ mã đề.

([62][62])      Còn gọi là sung úy, là cây chóa đèn, thuộc họ hoa môi.

([63][63])      Quả dun, quả nấc, còn gọi sứ quân tử thuộc họ bàng.

([64][64])      Là cỏ đuôi công, còn gọi là cỏ dùi trống, thuộc họ cốc tinh thảo.

([65][65])      Còn gọi là bá tử nhân, thuộc họ trắc bách.

([66][66])      Còn gọi là hy kiểm thảo, là cỏ đĩ, cỏ cứt lợn, thuộc họ cúc.

([67][67])      Còn gọi là hắc sửu, là cây bìm bìm biếc, thuộc họ bìm bìm.

([68][68])      Tầm gởi ở cây dâu, thuộc họ tầm gởi.

([69][69])      Quả xoan, còn gọi quả sầu đâu, khổ luyện.

([70][70])      Còn gọi cây kim bất hoán, nhân sâm tam thất, thuộc họ gia bồ.

([71][71])      Còn gọi là hoàng thường sơn, thục tất, áp niệu thảo, kê niệu thảo.

([72][72])      Còn gọi là kinh tam lăng, thảo tam lăng, kê trảo tam lăng, thạch tam lăng.

([73][73])      Củ ngải xanh, ngải tím, củ nghệ đen, còn gọi là tam Nại, bồng truật.

([74][74])      Cây ké đầu ngựa, thuộc họ cúc.

([75][75])      Hạt gấc, còn gọi mộc tất tử, mộc biệt tử, thổ mộc miết, thuộc họ bầu bí.

([76][76])      Còn gọi là kim thoa thạch hộc, hoàng thảo, thuộc họ lan.

([77][77])      Lông cu ly, còn gọi là cẩu tồn mao, cây lông khỉ.

([78][78])      Vỏ vối rừng.

([79][79])      Còn gọi là bồ thảo, hương bồ thảo là cây cỏ nến thuộc họ hương bồ.

([80][80])      Còn gọi là thạch trường sinh, là cây đuôi chồn, ráng trắc, thuộc họ dương xỉ.

([81][81])      Còn gọi là cát cánh lan, là cây lưỡi đòng, huệ rừng, rẽ quạt, xườn quạt.

([82][82])      Gồm có cam thảo Bắc, cam thảo dây và cam thảo Nam.

([83][83])      Còn gọi là ô hoa xà, một loại như rắn hổ mang.

([84][84])      Vỏ hàu, vỏ hà, hà sông, hàu cửa sông, hàu côn, thuộc họ mẫu lệ.

([85][85])      Còn gọi là thạch quyết minh, cửu khổng loa, ốc khổng, bào ngư.

([86][86])      Là mai mực, còn gọi là ô tặc cốt, thuộc họ cá mực.

([87][87])      Còn gọi là thiên tử phẩn, biên bức phẩn.

([88][88])      Còn gọi là thiên long, bách túc trùng, bách cước trùng thuộc họ ngô công

([89][89])      Còn gọi là yết tử, yết vĩ, toàn trùng, là con bò cạp.

([90][90])      Còn gọi là thiền thoái, thiền xác.

([91][91])      Còn gọi là quy giáp.

([92][92])      Còn gọi là miết xác, giáp ngư, thủy ngư xác.

([93][93])      Nấm mèo, nấm tai mèo, thuộc họ mộc nhĩ.

([94][94])      Rau câu, còn gọi hoa thái, huỳnh chi.

([95][95])      Dùng làm bao.

([96][96])      Dùng làm dây, làm bao.

([97][97])      Dùng kéo lụa, làm thuốc Bắc.

([98][98])      Cúc nụ áo, cúc điểm vàng, bạch cúc, hoàng cúc.

([99][99])      Còn gọi là cây giần sàng, thuộc họ hoa tán.

([100][100])    Quang Hóa: vùng Trảng Bàng, Tây Ninh ngày nay.

([101][101])    Nguyên văn bản VHN lưu trữ và VSH đều chép là mộc khôi (木灰).

([102][102])    Tức còn gọi là dầu chai, chủ yếu trét ghe và làm mồi nhúm lửa.

([103][103])    Khác với cây muồng trâu làm thuốc trị lác.

([104][104])    Tức dầu hắc, ban đầu sản xuất ở Do Thái, còn gọi là Thổ lịch thanh, hay Địa lịch thanh, là khoáng vật ở thể dầu hay thể đặc, hoặc lấy ra từ việc lọc dầu lửa hoặc lấy từ việc đốt cây sam, dùng trộn đá rải đường rất tốt, gặp nóng dễ chảy, đốt lên tỏa khói đen có mùi tanh.

([105][105])    Cây lồng mứt còn dùng làm guốc. Dân bài kha (dân cờ bạc dạo theo các hội chợ) rất thích gỗ cây này vì dùng nó tiện con lắc "bầu cua cá cọp" rất tốt, hột nhảy đều, lâu mòn, mà có gian lận cũng nhạy.

([106][106])    Phép đóng thuyền, ghim cột lái và cây lô trước mũi như lai cột đỡ cây xà của nhà (đòn dong). Sau đó lấy cây tiếp dưới đáy và be đóng ghì vào cây lô và cột lái. Các be được đóng dính chắc nhờ các cây cong như kèo nhà. Cong nhặt (khít) chừng nào thì thuyền chắc chừng đó. Gỗ mù u làm lô và cong thì tốt nhất.

([107][107])    Lá chầm: Róc lá ra rồi lấy lạt cà bắp khô đan xỏ các lá ấy liền lại nguyên tấm lá, bề ngang độ chừng 1 mét (tức đâu lại khoảng 25 lá). Lá tấm: còn gọi theo Khơ me là lá cần đóp. Róc lá ra dùng một sóng bằng bẹ tàu lá chẻ ra làm lõi, gập đôi lá dừa cặp theo cây nòng đan lại thành tấm chừng 2 mét.

([108][108])    Ngoài Bắc gọi mý.

([109][109])    Còn gọi là niệt.

([110][110])    Hạt: Một đơn vị địa lý hành chính ngày xưa.

([111][111])    Tương truyền nhập giống từ Mình Dưới tức Miền Dưới là Mã Lai, Nam Dương (Indonésia).

([112][112])    Nguyên văn viết Anh Ca (鸚哥) nhưng người ta quen gọi là xoài ăng ca, thanh ca hay xoài thanh.

([113][113])    Gọi là "vải chuối" rất rẻ tiền, suốt chỉ từ trong bẹ chuối; như "vải thơm", suốt chỉ từ trong lá thơm (khóm). Các loại vải này rất bở, chỉ trong thời kỳ "Kinh tế đồ khổ" người ta mới phải miễn cưỡng dệt, nay không còn nữa.

([114][114]) Chỉ có ở miền Nam.

([115][115])    Còn gọi là phù tang (扶桑), phật tang (佛桑), châu cận (朱槿), xích cận (赤槿).

([116][116])    Tức loài sinh con qua bào thai, không qua trứng.

([117][117])    Ngạnh độc ở cách cạnh đuôi chừng 2, 3 tấc tây.

([118][118])    Nguyên văn Mộc định a đầu (木椗丫頭) tức mỏ neo lớp cây chẻ ra hai móc ngạnh.

([119][119])    Cách này có cái hay là khi thả xuống, neo chìm xuôi đầu móc vào đất, cán cất lên trên, nhưng khi kéo lên thì đầu neo bật theo dây lên trước, cán neo quay xuống, ngạnh rất dễ bật khỏi đất vì được rút xuôi.

([120][120])    Cá mặn như mắm nhưng ở thể khô dẻo, lại cũng không phải khô cứng như cá khô. Đây là một dạng mắm theo kiểu người Hoa. Người Hoa ít ăn mắm mà chỉ ăn cá mặn. Món hàm dĩ tức hàm ngư là món cá mặn bằm chung với thịt heo, trộn trứng vịt đem chưng cách thủy, khi ăn xịt dấm đỏ vào.

([121][121])    Khô cá khoai chấm nước mắm me.

([122][122])    Tức con cá út mím.

([123][123])    Đây là cá ngựa làm thuốc trị thấp khớp, mình nhám càu, to bằng ngón tay, dài khoảng 2 tấc (Không phải loại cá ngựa hay táp mồi theo bè súc, là loại giống như con cá đỏ đuôi mà to hơn. Cá ngựa này ăn được nhưng không ngon. Nó rất háu ăn, vừa táp mồi vào họng là nuốt ngay, nên câu nó không cần giựt cần và cũng không cần mồi mà chỉ lấy miếng thiếc nhỏ xoi lỗ móc lưỡi câu vào kéo rê theo nước. Cá ngựa thấy miếng thiếc lấp lánh táp ngay nuốt vào hầu liền mắc lưỡi câu).

([124][124])    Nguyên văn thanh tức (聲息) dịch là "báo tin tức" không hợp nghĩa. Từ Nguyên khi chú từ Thủy Mẫu viết Hữu quần hà thê tức (梯息) nghĩa là "có bầy tép theo nương tựa nghỉ ngơi" nghe hợp lý hơn. Có lẽ khắc gỗ nhầm chữ thê (梯) thành thanh (聲).

([125][125])    Cá cháy sống ở sông lớn nước ngọt.

([126][126])    Đây là theo bản in kèm bản Nguyễn Tạo chép soát ngư, như hạch nhi tiểu (刷魚如核而小). Hai bản của VSH và VHN không có chép câu này. Cần có câu này mới diễn tả đúng thân hình con cá xác bụng.

([127][127])    Tên Hán trùng với cá trê.

([128][128])    Cá này lột da kho thơm mùi sữa, ăn rất ngon.

([129][129])    Người Hoa gọi là xa xua hứ (tam sơn ngư) nghĩa là con cá lóc qua được ba ngọn núi bằng ngạnh mang. Cá rô còn có tên chữ khác là phàn (chỉ leo trèo) ngư (樊魚).

([130][130])    Còn gọi là hồ tử ngư vì cá trê có chòm râu (鬍子魚).

([131][131])    Người đóng đáy gặp con nước cá kèo "chạy" phải đổ đụt liên hồi.

([132][132])    Tên chữ là kim cổ ngư (金鼓魚).

([133][133])    Tức mắm ruốc.

([134][134])    Đây là nói rễ cây rừng ngập mặn mọc ra từ thân cây trên mặt nước như cánh tay người chớ không phải rễ dưới đất.

([135][135])    Con trích nầy nuôi chơi thả tự do như gà, tính háu đá. Trẻ con đến gần nó, vỗ tay miệng hô to "trích thùng thùng" là trích ta rượt đá ngay. Tương truyền thịt nó độc, ăn có phong.

([136][136])    Nguyên văn viết nguyên (元) hạc mà không viết huyền (玄) hạc do kỵ húy tên vua Khang Hy nhà Thanh là Huyền Diệp (玄燁).

([137][137])    Một loại có lông đẹp như thằng chài, sa sả.

([138][138])    Miền Cái Nước (Rạch Giá) gọi là con hồng hoàng, cao cát.

([139][139])    Giống như gà rừng, sắc trắng có vằn đen, đuôi dài 3m, móng đỏ.

([140][140])    Kinh Thi có câu: Tích linh tại nguyên, huynh đệ cấp nạn nghĩa là: "con chim chìa vôi ở đồng, anh em khi hoạn nạn vội vàng cứu giúp nhau". Sau dùng chữ linh nguyên để chỉ tình anh em.

([141][141])    Còn gọi là cu cườm, do lông ở cổ có đốm như chùm hột cườm.

([142][142])    Khi nước triều lên (nước lớn) thì nó kêu.

([143][143])    Phàm đà điểu, gà lôi (gà tây), gà sao đều gọi là hỏa kê. Ở Việt Nam trước đây không có điều kiện nuôi đà điểu, vậy hỏa kê nói trong sách này là gà lôi và gà sao có lẽ đưa từ Pháp qua. (Hiện nay ở Việt Nam đã có nơi nuôi đà điểu để bán - Bt).

([144][144])    Con chim kiêu (chim heo) ăn thịt mẹ nó. Con phá kính (破鏡) ăn thịt cha nó. Do đó người ta gọi kẻ bất hiếu chửi cha mắng mẹ là quân kiêu kính (梟鏡).

([145][145])    Về chữ ngưu (牛) trong sách GĐTTC, Trịnh Hoài Đức đã viết theo ngữ khí Việt Nam. Đối với người Hoa, chữ ngưu trơn (牛) có nghĩa là bò, cũng còn gọi là hoàng ngưu (黃牛) hay sơn ngưu (山牛); còn con trâu phải gọi là thủy ngưu (水牛). Thủy ngưu không có nghĩa là trâu nước, như người Việt thường gọi để chỉ con hypopotame mà người Hoa gọi là con hà mã.

 


 

Quyển VI: THÀNH TRÌ CHÍ

[chép về thành trì]

(Phụ chép: công thự, kho tàng, chùa miếu, chợ phố và cầu đường)

 

Truyện nói rằng: Thành là chỗ để ngăn quân bạo ngược, giữ yên cho dân, tất phải có vách cao, hào sâu, phòng sự bất ngờ, ấy là việc lớn tốt vậy.

Gia Định là hùng trấn, là biên thùy cõi Nam, núi sông muôn dặm, thiên nhiên hiểm, địa lợi đủ, làm phên giậu cho nước nhà, vững chắc để khống chế được cả Xiêm La, Đồ Bà (Chà Và) và Ai Lao, thu phục và vỗ yên Cao Miên và man ở núi, nắm giềng mối 5 trấn, tóm giữ được cả vùng then chốt quan trọng. Vì vậy nên công thự ở trấn thành tất phải đẹp đẽ để giữ vẻ oai với người nước ngoài, kho tàng tất phải đầy đủ, để vững bền cội gốc. Cứ xem chùa miếu tôn nghiêm to lớn mà biết có thần linh hiển hách, thấy làng xóm chợ búa nơi nơi thịnh vượng đẹp đẽ mà biết dân vật giàu có sung túc, thấy cầu cống đường sá [1b] chốn chốn được chỉnh tề mà biết cương vực bền vững, đức chính và thế hiểm đều được cùng sửa sang, trong ngoài được yên ổn, há chẳng tốt đẹp ru?

TRẤN THÀNH GIA ĐỊNH ([1][1])

Trấn Gia Định xưa có nhiều ao đầm, rừng rú, buổi đầu thời Thái Tông (Nguyễn Phúc Tần, 1648 - 1687), sai tướng vào mở mang bờ cõi, chọn nơi đất bằng rộng rãi, tức chỗ chợ Điều Khiển ngày nay, xây cất đồn dinh làm chỗ cho Thống suất tham mưu trú đóng, lại đặt dinh Phiên Trấn tại lân Tân Thuận ngày nay, làm nha thự cho các quan Giám quân, Cai bạ và Ký lục ở, được trại quân bảo vệ, có rào giậu ngăn cản hạn chế vào ra, ngoài ra thì cho dân trưng chiếm, chia lập ra làng xóm, chợ phố. Nơi đây nhà ở hỗn tạp, đường sá chỗ cong chỗ thẳng, tạm tùy tiện cho dân mà chưa kịp phân chia sửa sang cho ngăn nắp. Chức Khổn súy thay đổi lắm lần cũng để y như vậy. Đến mùa xuân năm Ất Mùi (1775), đời vua Duệ Tông (Nguyễn Phúc Thuần) thứ 11, xa giá phải chạy đến trú ở thôn Tân Khai. Mùa thu năm Mậu Thân (1788) năm thứ 11, buổi đầu đời Thế Tổ (Nguyễn Phúc Ánh) Trung hưng [2a], việc binh còn bề bộn, ngài phải tạm trú nơi đồn cũ của Tây Sơn ở phía đông sông Bình Dương để cho nghỉ quân dưỡng dân. Ngày 4 tháng 2 năm Canh Tuất thứ 13 (1790), tại chỗ gò cao thôn Tân Khai thuộc đất Bình Dương, ngài mới cho đắp thành bát quái như hình hoa sen, mở ra 8 cửa, có 8 con đường ngang dọc, từ đông đến tây là 131 trượng 2 thước ta, từ nam đến bắc cũng như thế, bề cao 13 thước ta ([2][2]), chân dày 7 trượng 5 thước ta, đắp làm ba cấp, tọa ngôi Càn, trông hướng Tốn. Trong thành, phía trước bên tả dựng Thái miếu, giữa làm sở hành tại, bên tả là kho chứa, bên hữu là Cục Chế tạo, xung quanh là các dãy nhà cho quân túc vệ ở. Trước sân dựng ([3][3]) cây cột cờ ba tầng, cao 12 trượng 5 thước ta, trên có làm chòi canh vọng đẩu bát giác tòa, ở bên treo cái thang dây để thường xuyên lên xuống, trên ấy có quân ngồi canh giữ, có điều gì cần cảnh báo thì ban ngày treo cờ hiệu, ban đêm treo đèn hiệu canh gác, các quân cứ trông hiệu đó để tuân theo sự điều động. Hào rộng 10 trượng 5 thước, sâu 14 thước ta, có cầu treo thả ngang qua, bên ngoài đắp lũy đất, chu vi 794 trượng, vừa hiểm trở, vừa kiên cố tráng lệ. Ngoài thành đường sá chợ phố ngang dọc được sắp xếp rất thứ tự, bên trái là đường cái quan [2b] từ cửa Chấn Hanh qua cầu Hòa Mỹ đến sông Bình Đồng tới trấn Biên Hòa; đường cái quan bên phải gặp chỗ nào cong thì giăng dây để uốn thẳng lại, đầu từ cửa Tốn Thuận qua chùa Kim Chương, từ phố Sài Gòn đến cầu Bình An qua gò chùa Tuyên đến sông Thuận An. Bến đò Thủ Đoàn đưa qua sông Hưng Hòa, trải qua gò Trấn Định rồi đến gò Triệu. Đường rộng 6 tầm, hai bên đều trồng cây mù u và cây mít là những thứ cây thích hợp với đất này. Cầu cống thuyền bến đều luôn được tăng gia việc tu bổ, đường rộng suốt phẳng như đá mài, gọi là đường thiên lý phía nam.

Năm Tân Dậu thứ 24 (1801), sau khi thu phục Kinh đô Phú Xuân, vua dụ dỡ nhà Thái Miếu trong trấn thành (Gia Định). Năm Kỷ Tỵ (1809) niên hiệu Gia Long thứ 8, thần là Tổng trấn Nguyễn Văn Nhơn, thần là Trịnh Hoài Đức vâng mạng xây cất tòa vọng cung ở trước sân trong thành, phàm những ngày Nguyên đán, Đoan ngọ và rằm, mùng một, đem thuộc quan văn võ trong thành và trấn Phiên An đến, chiếu theo nghi thức mà làm lễ. Hai bên tả hữu xây lầu chuông trống tám góc, tiếp theo là dựng Hành cung để phòng khi vua đi tuần thú. Phía sau là công thự Tổng trấn, phía phải là công thự Hiệp đốc trấn, phía trái là công thự Phó tổng trấn.

Ở 3 cửa Càn Nguyên, Ly Minh và Tốn Thuận có dựng trại quân mái lợp ngói tô đỏ rất đẹp đẽ nghiêm túc; lại còn sửa soạn vách thành và vọng lâu ở 4 cửa Càn, Ly, Chấn, Tốn; cầu treo gỗ ván ở 4 cửa này lâu ngày hư hỏng, nay cũng xây lại cầu vồng bằng đá tổ ong bắc qua hào, cầu vừa cao vừa rộng bền chắc, dưới có chừa khoảng trống cho nước chảy, trước lũy ở cửa Ly Minh có dựng đình Thân Minh để làm chỗ niêm yết trên bảng những chiếu, cáo, dụ, chỉ.

Cục Chế tạo ở trong thành sau đường Cấn Chỉ và Đoài Duyệt, có 3 dãy nhà ngói đối diện ở trước hai đường ấy. Phía trái là một dãy trại ngói làm nơi để súng, phía phải là một dãy trại ngói là nơi làm việc của thợ rèn, buổi đầu Trung hưng thợ chế tạo đủ ngành tập họp ở đây đồng thời làm chỗ chứa thổ sản hàng hóa. Đầu năm Tân Dậu (1801) lấy lại kinh đô [3b] thì việc ở thành đã giảm bớt; năm Nhâm Tuất (1802) niên hiệu Gia Long năm đầu, bãi bỏ kho hàng lụa, còn sưu thuế sản vật của dân thì đem nạp ở đây; năm Gia Long thứ 10 (1811) ([4][4]) phân bổ lại dân biệt nạp phải nộp sản vật về kho của 5 trấn, từ đó Cục Chế tạo này chỉ thâu chứa sắt mà các quan mua của lái buôn người Xiêm mang đến và chứa giữ đồ vật công cùng những đồ dùng tầm thường mà thôi.

Kho tiền bạc ở phía phải đường Càn Nguyên và Khảm Hiểm ([5][5]) trong thành, lúc đầu lập nội khố chứa đồ quý như vàng, bạc, tơ đoạn, vải lụa, sau bỏ nội khố đổi làm kho Kiên Tín, kho này ở thành gồm 5 gian nhà ngói, thâu các loại thuế và là nơi 5 trấn hội nạp tiền bạc, có đội quân Kiên Tín canh giữ ở đấy.

Kho đồn điền ở bên trái đường Càn Khảm trong thành nguyên thuộc kho chứa dựa. Năm thứ 5 niên hiệu Gia Long, xây hai dãy ngói, mỗi dãy mười gian thâu chứa lúa thóc đồn điền chứa đầy các gian, số còn lại đem chứa ở kho của năm trấn, có đội quân An Hòa canh giữ. Trại súng nằm về phía trước bên trái Cục Chế tạo trong thành, có 15 gian lợp ngói, trên làm gác ván [4a] dùng đặt đồ phụ tùng của súng, trong trại đặt các loại súng lớn bằng đồng, bằng sắt, và súng hỏa xa trụ, tất cả đều có cỗ xe vẽ màu đỏ đen, mỗi năm trang sức tốt đẹp thân súng, phải lau dầu một lần cho khỏi rỉ.

Kho thuốc súng là dãy nhà 12 gian lợp ngói xây gạch ở mặt sau nội thành, thuốc súng đựng trong thùng gỗ để trên sàn gác, cấm tuyệt lửa đuốc, người không phận sự không được ra vào nơi đây.

Xưởng thuyền chiến ở về phía đông thành độ một dặm dọc theo bờ sông Tân Bình quanh qua sông Bình Trị, gác và che thuyền hải đạo (là đồ nghề bén nhọn của thủy chiến nước Nam), chiến hạm, (cách thức như tàu buôn nhưng nhỏ, tục gọi là thuyền), ghe sơn đen, ghe sơn đỏ (thuyền đều gọi là ghe. Ghe chiến cụ, thân lớn và dài, dày và bền, đặt nhiều mái chèo, ngoài sơn dầu đen gọi là ghe đen, sơn đỏ gọi là ghe đỏ) và ghe lê (tức là ghe thuyền được chạm trổ vẽ vời từ đầu đến đuôi) đều là dụng cụ thủy chiến ([6][6]). Xưởng dài đến 3 dặm.

Xưởng voi ở phía ngoài lũy đất cửa Khảm Hiểm, đó là chỗ thường trú, có khi chọn để trong thành, có khi phát tán theo nguồn cỏ nước ở Biên Hòa, tùy lúc không nhất định. Cứ đầu xuân có lệ kỳ nhương, bịnh hoạn [4b] thì quan cấp cho thuốc uống, có bãi nhất định để tắm rửa, uống nước, có chỗ nhất định để chăm nuôi, không cho lén cưỡi đến chỗ đông người ở phố chợ, đồng thời nghiêm cấm vào trong vườn người ta hái những chuối, tre, dưa quả khác.

Nơi chế thuốc súng ở ngoài cửa Khôn Trinh cách chừng 2 dặm, rộng 1 dặm, bốn phía trồng cây có gai, trong đủ dụng cụ chày cối; khi chế tạo thì hết sức cẩn thận đèn lửa, ngăn không cho người ngoài được ra vào lộn xộn.

Khám đường và nhà giam ở ngoài chân lũy đất cửa Khôn Trinh, tháng 4 mùa hạ năm Giáp Tuất, Gia Long thứ 13 (1814), vâng lịnh cất ở mặt trước một tòa ngói làm khám đường, mặt sau cất 3 tòa làm nhà giam, chia ra giam những nam nữ tội đồ nặng nhẹ, trồng cây rào có gai bao quanh bốn phía, đào hào, trồng cây tật lê, phòng thủ nghiêm mật.

Sứ quán ở phía phải trước cửa Ly Minh cách thành chừng 1 dặm, trước sau có hai tòa nhà ngói, mỗi tòa 5 gian, [5a] có đội lính lệ gồm 20 người; phía trước bên phải làm phụ thêm nhà Hải quan để trưng thu thuế khóa thuyền buôn các nước tới.

Học đường, năm Gia Long thứ 4 (1805), vua sai đặt một viên chính Đốc học và 2 viên nhất nhì phó Đốc học. Khi đầu dựng học đường ở phía phải lũy đất ngoài thành, năm thứ 12 (1813) cho làm lên trên nền cũ đồn dinh ở chợ Điều Khiển.

Kho của bốn trấn ở tại nền cũ kho Gian thảo (Cầu Kho), cách phía nam thành 4 dặm rưỡi. Năm Mậu Thân (1788) đầu Trung hưng, mở rộng ra làm kho chung cho cả 4 trấn Phiên An, Biên Hòa, Vĩnh Thanh và Định Tường, để thu chứa thuế khóa, chi cấp lương bổng, còn trấn Hà Tiên trải qua loạn lạc hư hao, đang lo chiêu tập, còn được miễn thuế, còn 2 đạo Long Xuyên và Kiên Giang thì phụ nạp thuế vào kho của trấn Vĩnh Thanh. Mùa xuân năm Ất Sửu, Gia Long thứ 4 (1805), làm 6 dãy kho ngói [5b], ở giữa dựng đền Tư Thương để làm lễ cáo tạ việc trưng thâu, ở mặt trước có 4 cửa, hai bên phải trái và mặt sau đều có một cửa, ngoài trồng rào tre, trước mặt giáp sông xây bờ cừ bằng đá ong, hai bên phải trái và phía sau có sông nhỏ bao quanh dùng làm hào ao. Năm Gia Long thứ 10 (1811), định rằng sản vật biệt nạp và thuế khóa của dân thuộc thành nay ở trấn nào thì nộp ở trấn đó, cứ đến mùa xuân hàng năm, chiếu theo số thuyền Tào chính được lịnh kết tập để chở đi, quan viên văn võ bốn trấn thay nhau mỗi phiên hai viên chuyên chở về kinh, ngoài ra thì lấy những thuộc lại của các phòng bạ ngồi coi việc thâu nạp, còn thuyền bè và biền binh đi theo bảo vệ thì đến phiên của trấn nào thì biền binh trấn ấy bổ sung đi theo.

Trường Diễn võ ở cách phía tây nam thành 10 dặm, nơi đây đất bằng phẳng rộng rãi độ 50 dặm, thường tháng giêng chọn ngày tốt làm lễ tế mã ([7][7]), tế cờ kỳ đạo ([8][8]) và thao diễn trận pháp đều cử hành tại đây.

[6a] Đồn Giác Ngư (Cá Trê) ([9][9]) ở bờ bắc sông Tân Bình thuộc địa giới trấn Biên Hòa, cách thành 7 dặm. Đồn này được khởi công vào ngày 2 tháng 4 năm Kỷ Dậu (1789) buổi đầu Trung hưng, chung quanh trồng cây mù u, đối diện bờ bên kia có đồn Thảo Câu để làm thế nương dựa nhau.

Đồn Thảo Câu ở bờ nam sông Tân Bình, cách thành 6 dặm, thuộc địa giới trấn Phiên An, năm tháng khởi công và thể thức cũng giống như đồn Giác Ngư.

Lũy Bán Bích do đốc chiến Nguyễn Đàm xây đắp, hình giống mặt trăng xếp, chỉ nửa vách lũy thôi. Đồn ở địa giới hai huyện Bình Dương và Tân Long, nay nền cũ vẫn còn (xem rõ hơn ở phần Cương vực chí).

Lũy Hoa Phong ở huyện Bình Dương, cách về phía tây của trấn 62 dặm rưỡi. Năm Canh Thìn đời Hiển Tông thứ 10 (1700) ([10][10]), (Lê Hy Tông, niên hiệu Chính Hòa thứ 21, Đại Thanh Khang Hy năm thứ 39), Thống suất Chưởng cơ Nguyễn Lễ bình định Cao Miên rồi đắp nên, nay nền cũ vẫn còn.

Đồn Tân Châu. Tân Châu là địa đầu trọng yếu kiêm quản cả 3 đạo Tân Châu, Chiến Sai và Hùng (Hồng) Ngự. Đạo chính thức ngày trước thuộc về thành lớn Gia Định [6b] đặt ở giữa sông Doanh Châu, phía đông là đạo Chiến Sai thuộc trấn Vĩnh Thanh, phía tây là đạo Hùng (Hồng) Ngự thuộc trấn Định Tường, hình thế như răng chó kềm nhau, để giữ lấy chỗ hiểm yếu. Năm Gia Long thứ 17 (1818), phụng chỉ dời đạo Tân Châu đến cù lao Long Sơn, dời đạo Chiến Sai đến cửa trên sông Hiệp Ân, dời đạo Hùng (Hồng) Ngự đến cửa dưới sông Hiệp Ân, tháng 12 Khâm mạng Tả quân phó tướng, Trấn thủ trấn Vĩnh Thanh là Nguyễn Văn Xuân đắp đồn vuông Tân Châu, mỗi mặt dài 15 trượng, cao 6 thước 5 tấc ta, chân dày 15 thước ta, đầu thu hẹp 4 thước, có hai cấp; chỗ ngay giữa của 4 mặt đồn đều đắp nhọn ra thành hình bát giác, phía trái và phải gần trước góc nhọn ấy đều có cửa làm chỗ cho biền binh phòng trú. Quy cách đồn Chiến Sai cũng phỏng theo đồn nầy, chỉ đồn Hùng (Hồng) Ngự hơi kém hơn,chỉ để làm nơi tuần tra, chưa xây thành đồn lũy.


[7a] TRẤN PHIÊN AN

Lỵ sở trấn Phiên An ban đầu dựng ở xóm Tân Thuận, tổng Bình Trị, sau vẫn chỗ ấy, đến niên hiệu Gia Long thứ 6 (1807), dời qua dựng ở địa phận thôn Hòa Mỹ, nằm phụ vào phía đông bắc quách ngoài thành Gia Định, mặt trông ra hướng tây nam, lưng dựa vào sông Bình Trị, 3 tòa nhà ngói, ở giữa là công thự Trấn thủ, phía tả là công thự Cai bạ, phía hữu là công thự Ký lục, là công thự của trấn cũng gọi là công dinh, ngang dọc đều 80 tầm, bề ngang chia làm ba phần, chỉ có dinh giữa ([11][11]) rộng hơn 5 tầm. Năm thứ 18 (1819), cách sau trấn thự 6 tầm, phía ngoài đại lộ, lại dựng 5 dãy kho bằng ngói cho 4 trấn, mỗi dãy 31 gian cao rộng đẹp đẽ, đủ dùng để cất giữ, có dựng trại Thừa ty, nằm dọc theo trước sân 3 dinh, khám đường và nhà giam dựng ở phía bắc đường cái quan.

Nha môn huyện Bình Dương giản lược, thuở trước do còn thái hòa, phong tục thuần hậu, chính sự giản lược, toàn hạt Phiên An không đặt huyện trị, chỉ ở địa phương thôn Tân Long thuộc huyện Tân Long có đặt [7b] hai viện Đông - Tây Phủ thừa để kiêm việc trông coi. Đến mùa xuân tháng 3 niên hiệu Gia Long 12 (1813) mới chia đặt huyện nha ở thôn Tân Thới Nhì thuộc đạo Quang Oai, nằm cách phía tây trấn 52 dặm rưỡi, khi ấy phủ nha đều giảm gọn và mọi việc đều do quan trấn trông coi luôn. Ở trước huyện nha dựng vọng cung để làm lễ tết, Đoan dương và rằm mồng một, kế làm một sảnh sự đường và Đông đường, Tây đường mỗi phía một tòa, đặt hai viên Tri huyện, một viên Đề lại, hai viên Thông lại, sáu viên Chánh sai, 50 lính lệ.

Nha môn huyện Tân Long xung yếu, việc công lại bề bộn; nên đặt nha môn ở địa phận thôn Phước Tú, cách trấn 67 dặm về phía nam, quy chế xây dựng cũng giống như huyện Bình Dương.

Nha môn huyện Phước Lộc, do việc công phiền phức khó nhọc, nên đặt nha môn ở địa phận thôn Thới Bình, cách trấn 56 dặm ([12][12]) về phía đông nam, quy cách xây dựng cũng như mấy huyện trước.

Nha môn huyện Thuận An xung yếu, việc công bề bộn, nên đặt nha môn ở địa phận thôn Bình Khuê, cách trấn 92 dặm về phía nam, quy chế xây dựng cũng như mấy huyện trước.

[8a] MIẾU HỘI ĐỒNG

Cách trấn 5 dặm rưỡi về phía nam, ở phía tây của đường cái quan, khi mới mở mang có dựng miếu để thờ linh thần trong cảnh hạt, cột mái cao rộng, án thờ đẹp rực rỡ, nay cũng như vậy. Xuân thu 2 lần tế, lệ có 50 lễ sinh, 25 miếu phu, trước miếu có cây si ([13][13]) sum suê, lớn cỡ hai ôm, hành khách qua lại thường ngồi nghỉ dưới bóng mát đó.

ĐỀN HIỂN TRUNG

Cách trấn 5 dặm về phía nam, ở phía tây đường cái quan. Năm Ất Mão (1795) dựng đền để thờ các vị công thần có công khai sáng trung hưng, năm Giáp Tý niên hiệu Gia Long thứ 3 (1804), phụng chỉ trùng tu, đem thần vị Chưởng hậu quân Bình Tây Tham thặng (thừa) Đại tướng quân truy tặng Thái úy Tánh Quốc công Võ Tánh và Khâm sai Lễ bộ truy tặng Thái tử Thái sư Châu Quận công Ngô Tòng Châu ([14][14]) thờ vào gian chính giữa, còn lại thì theo thứ tự thờ ở 2 bên tả hữu, có chép vào Hội điển của bộ Lễ, mỗi năm 2 lần tế xuân thu, lệ có đặt lệ phu 25 người.

Xét ngài Võ Tánh, người huyện Phước An, trấn Biên Hòa, là người sáng suốt thông đạt, võ nghệ giỏi giang, lúc đầu dấy nghĩa binh [8b] ở huyện Kiến Hòa trấn Định Tường, đánh nhau với Tây Sơn hàng trăm trận, làm nổi tiếng buổi đầu thời Trung hưng. Năm Mậu Thân (1788), lúc đầu được phong chức Tiên phong dinh Chưởng cơ, kế đó kết hôn với trưởng Công chúa ([15][15]), có công lớn trong việc đánh dẹp, nên được gia chức Bình tây Chưởng hậu quân Tham thặng Đại tướng quân, tước Quận công.

Ngô công người huyện Bình Dương, trấn Phiên An, là người liêm khiết trang nghiêm, uyên thâm về lý học. Lúc đầu Trung hưng được cử vào chức Hàn lâm, rồi đến Ký lục trấn Biên Hòa, khá có tiếng tăm, tiếp đó thăng Đường quan ở bộ Lễ. Tháng 4 năm Kỷ Mùi (1799), quan Tư võ Tây Sơn là Trần Tuấn và Binh bộ Nguyễn Phác đem thành Quy Nhơn đầu hàng, vua sai hai ông dùng binh lưu trấn ở lại đấy, còn đại giá trở về Gia Định. Tháng 12, ngụy Thiếu phó Tây Sơn là Nguyễn Diệu ([16][16]) cử binh toàn quốc từ Thuận Hóa đến đánh, Võ công đóng chặt cửa thành chống giữ. Tháng 4 năm Canh Thân (1800), quân vua ra cứu viện, quân địch còn kiên trì nên không đánh phá vòng vây ngay được. Mùa hạ năm Tân Dậu (1801), vua để Chưởng tiền quân Nguyễn Văn Thành, Chưởng hữu quân Nguyễn Hoàng Đức, Chưởng tượng quân Nguyễn Đức Xuyên [9a] ở lại tiếp viện ngoài thành; còn vua điều động thủy quân thừa lúc Phú Xuân không đề phòng kéo thẳng ra đánh lấy; vua lại sai Chưởng tả quân Lê Văn Duyệt, Trung dinh Đô thống chế Tống Công Phước, Ngự lâm đồn Đô thống chế Lê Văn Chất ([17][17]) từ tỉnh Quảng Nam đi theo đường thủy và đường bộ đến đồn trú tại Quảng Ngãi để đánh sau lưng quân Tây Sơn.

Tháng 5, trong thành Quy Nhơn lương thực đã hết mà quân địch tăng gấp mười vây đánh càng gắt. Ngày 27, Võ Công lên lầu bát giác tự thiêu, còn Ngô Công thì uống thuốc độc tự tử, thành bị mất. Tháng 3 năm Nhâm Tuất (1802), quan binh trong ngoài giáp công, ngụy Diệu bỏ chạy, thành Quy Nhơn mới yên. Vua đặc tặng: Võ Công làm Dực vận công thần Phụ quốc Đại tướng quân, Thái úy Tánh Quốc công, thụy là Trung Liệt. Ngô Công được tặng là Tán trị công thần đặc tiến Trụ quốc Kim tử Vinh lộc Đại phu, Thái tử Thái sư Châu Quận công, thụy là Trung Ý. Triều đình nghị tôn hai ông lên bực Trung hưng công thần hạng nhất, ở miếu công thần thì chỗ thờ hai ông ở vị chính giữa, xuân thu hàng năm đều tế.

[9b] MIẾU THÀNH HOÀNG

Ở bờ nam sông Tân Bình, cách trấn về phía đông nam 6 dặm rưỡi, nguyên trước là sân cúng khao tế các vị âm thần. Năm Đinh Mão niên hiệu Gia Long thứ 6 (1807), phụng chỉ dựng nhà ngói làm miếu Thành hoàng trong trấn, xuân thu hai kỳ lễ tế, quan trấn phải thân hành đến tế.

MIẾU HẢI THẦN Ở CẦN GIỜ

Ở phía đông nam thủ sở, kính thờ thần Nam Hải ([18][18]), các vị thần Hà Bá, Thủy Quan, Ngọc Lân ([19][19]), của hai sông Phước Bình cũng được phối thờ vào đấy. Cột kèo miếu này được chạm trổ tô vẽ nghiêm chỉnh, thường năm vào tháng giêng quan trấn dùng lễ Thái lao (gồm dê, heo, trâu) thân hành đến tế, cầu tất cả cho thuận gió để thuyền vận tải về kinh đi về cho được tiện lợi, tất cả có chép vào Tự điển. Còn những thuyền buôn ra vào cũng sắm lễ vật trọng hậu đến chiêm bái, hương đèn thường ngày thơm tho, sáng rực.

MIẾU HỎA TINH

Ở phía trái của chợ Điều Khiển, thờ nữ thần Hỏa Tinh (bà Hỏa). Vì nước Nam thuộc quẻ Ly, mà Ly là thuộc hỏa, [10a] quẻ Ly ở giữa trống không là âm, đã âm mà ở giữa là nữ nên thần thuộc về nữ giới. Miếu nầy thờ tự rất trang nghiêm và hằng linh ứng, người ở đây cứ đến đầu xuân, trước hết phải đem lễ đến tế, để mong tránh điều chẳng lành, thì cả năm được yên, nếu chậm trễ hay xem thường, thì liền thấy có hỏa tai. Ngày trước ở cửa miếu có đắp hình 2 người nô bộc hình trạng rất cổ quái, đứng mập mờ dưới tàng cây đa trong ánh trăng khuya, khiến người đi qua chợt trông thấy đều rùng mình.

ĐỀN PHI VẬN TƯỚNG QUÂN

Ở địa phận thôn Tân Long, huyện Tân Long, trước đây đền dựng ở phía nam phủ nha, thờ ngài Tòng Giang Văn Trung, rất linh ứng. Thường năm vào 2 mùa xuân thu, quan Tri phủ đến tế. Tế thì dùng lễ Trung lao (gồm heo, dê) đến ngày tế bày biện ve chén mâm cỗ đúng nghi thức, con heo tế thì để sống, bởi vì vị thần này nguyên bị chết dưới lưỡi dao, cho nên heo phải để sống, không nỡ giết, có ý sợ tổn thương lòng thần. Lúc gần sáng, khi làm lễ cho người chạy quanh đàn tế cõng heo, cố ý làm cho heo kêu la như có ý báo cho thần biết con heo còn sống y nguyên. Từ khi loạn lạc, không có phủ nha nên bỏ lễ tế, [10b] nhưng miếu mạo vẫn còn đó, người làng đến dâng nhang đèn không dứt. Nay theo trong Tự điển, thì miếu Hội đồng phải thờ ông đứng đầu.

Xét trong sách Ô Châu cận lục do Dương Văn (An) ([20][20]) soạn có chép rằng: Ông họ Nguyễn tên Phục người xã Tùng Giang, huyện Gia Phúc, đời vua Lê Nhân Tông niên hiệu Thái Hòa, khoa Quý Dậu (1453), ông đậu đệ tam giáp tiến sĩ, làm quan đến Chuyển vận sứ, Hành khiển sứ đạo Thanh Hoa. Thuở vua Thánh Tông chưa làm vua thì ông dạy cho vua học, nên khi vua tức vị, ông được cất nhắc lên chức Hàn lâm Tham chưởng viện sự, 3 lần đi sứ triều Minh, về làm Đại lý tự khanh, lại kiêm chức Tri ([21][21]) Binh chính viện tham nghị rồi làm Thân quân ty Cẩm y vệ Chỉ huy sứ ty Thiêm sự. Khi vua đi đánh Chiêm Thành, ông phụng mệnh làm Phi vận tướng quân Chuyển thâu đội Tán lý, khi đến cửa biển Tư Dung bị sóng to gió lớn trở ngại không đi được, chúng quân đều sợ tội xin đi, ông nói: Thà để một mình ta cam chịu 3 thước gươm, chớ ta không nỡ đem kho gạo lúa hữu hạn và nhân mạng vô tội vất bỏ một cách khinh dễ vào trong chỗ gió cuồng sóng lớn để chôn đầy bụng cá [11a]. Vì vậy mà phải đậu thuyền hoãn đợi. Vua rất giận vì trễ nải, sai bắt trói, lại có cận thần gièm pha, nên vua mới sai xử tử ông. Chúng quân đều thương cảm mới lập đền thờ tại nơi ấy, đền nổi tiếng là linh thiêng, cầu việc gì đều được ứng nghiệm. Niên hiệu Cảnh Thống (1498 - 1504) đời Lê Hiến Tông truy tặng ông làm Thần Văn trung chính nghị, các triều sau cũng gia tặng mỹ hiệu và có chép vào Tự điển.

CHÙA KIM CHƯƠNG

Cách trấn về phía tây nam hơn 4 dặm, ở phía bắc của đường cái quan. Ở giữa là điện thờ Phật, trước sau có đông tây đường, sơn môn, phương trượng, nhà chứa kinh, hương viện và nhà ăn, chạm trổ sơn son thếp vàng, trang nghiêm đẹp đẽ, phía bắc chùa có dòng suối nước ngọt ngầm, bốn mùa chảy rịn thấm ướt cả đường đi. Năm Ất Hợi (1755), đời Thế Tông năm thứ 18 (Nguyễn Phúc Khoát) có nhà sư Đạt Bản từ Quy Nhơn vân du, dừng gậy trụ lại chùa này, được vua ban tấm biển đề là Sắc tứ Kim Chương tự. Khi Đạt Bản viên tịch, truyền giáo pháp lại cho đồ đệ là Quang Triệt. Năm Ất Mùi (1775), Lý tướng quân đạo Hòa Nghĩa tôn lập [11b] Mục vương (Nguyễn Phúc Dương) ([22][22]) tại chùa nầy (xem mục Sơn xuyên chí). Chùa lại được ban sắc một lần nữa. Quang Triệt mất, Quang Trạm kế tục. Quang Trạm mất, Quang Tuệ kế tục theo. Năm Quý Dậu niên hiệu Gia Long 12 (1813), Thần Võ quân Phó tướng Trần Nhân Phụng vâng di chỉ Cao hoàng hậu ban tiền 10.000 quan để trùng tu chùa và sửa sang kinh tạng trống chuông cho thêm phần trang nghiêm. Hiện nay đây là ngôi chùa có tiếng của đất Gia Định.

CHÙA GIÁC LÂM

Ở trên gò Cẩm Sơn, cách lũy Bán Bích về phía tây 3 dặm, gò chùa nầy như đống vàng bỗng nổi lên giữa chỗ đồng bằng trải thẳng cả trăm dặm, giống như tựa bình phong, đội nón, mở trướng, trải thảm, rộng 3 dặm, cây to thành rừng, hoa núi dệt gấm, sớm chiều mây khói bốc lên quấn cuộn, tuy nhỏ nhưng lý thú. Mùa xuân năm Giáp Tý (1744) đời Thế Tông năm thứ 7, người xã Minh Hương là Lý Thụy Long quyên của xây dựng chùa trang nghiêm, cửa thiền u tịch, đến ngày Thanh minh, Trùng cửu nhàn hạ, thi nhân du khách kết đoàn 5, 3 người đến đây mở tiệc thưởng hoa, nâng chén quỳnh mà ngâm vịnh, ngó xuống chợ búa đời thường [12a], bụi bặm xa cách ra ngoài tầm mắt, thật là một nơi đáng du lịch và thưởng ngoạn. Gần đây có Viên Quang đại lão hòa thượng đời thứ 36 thuộc phái Lâm Tế chính tông ([23][23]), mật hạnh kiên trì, trải từ tuổi nhỏ cho đến khi già, kiên trì tu hành ngày càng tinh tấn, lại có tính yêu cảnh sương khói suối khe, ít khi để chân đến chốn thị thành huyên náo. Từ khi ông đến đây dừng trụ trong núi dứt phiền não, dưới rừng lộ chùa chiền ([24][24]). Năm Gia Long thứ 16 (1817) ([25][25]) ông mở đại giới đàn, từ đó thiện nam tín nữ đến quy y rất đông, mà sơn môn lại thêm phần khởi sắc.

CHỢ KHUNG DUNG (CHỢ CÂY ĐA)

Ở về phía nam trấn, dưới chân lũy của thành lớn về phía hữu có cây đa cổ thụ cành rễ chằng chịt, bóng che chừng nửa mẫu, người buôn bán nhóm chợ dưới bóng cây. Đầu canh tư, người ruộng rẫy đốt đuốc gánh những dưa bí rau quả đến nhóm tại đầu chợ phía tây, có người mua mão (4) về để bán lại; đến sáng đầu chợ phía đông đằng nam đằng bắc của đường lớn [12b] mới bày bán đủ thịt cá hàng hóa cho đến hoàng hôn mới tan.

CHỢ BẾN THÀNH

Phố, chợ, nhà cửa rất trù mật, họp chợ dọc ven sông. Ở đầu bến, theo lệ tháng đầu xuân gặp nhằm ngày tế mã, có thao diễn thủy binh. Bến này có đò ngang đón chở khách buôn tàu biển lên bờ. Đầu phía bắc là ngòi Sa Ngư, có bắc cầu ván ngang qua, hai bên nách cầu có phố bằng ngói, tụ tập hàng trăm thức hàng hóa, dọc bến sông thuyền buôn lớn nhỏ đậu nối liền nhau.

CHỢ PHỐ LỊCH TÂN ([26][26]) (BẾN SẠN - BẾN SỎI)

Ở bờ tây sông Bình Dương, phố ngói liền nhau, bến ấy toàn là sạn cát, là bến thường xuyên cho voi ngựa tắm. Đầu phía bắc bến ấy, năm Kỷ Dậu (1789), có bắc cái cầu lớn ngang qua sông thông với đường đến đồn Thảo Câu để khi hữu sự dễ bề ứng tiếp, kế đó sau khi nhung công đại định, vì nước xoi nên cầu bị hỏng, nay không sửa lại; đầu bến phía tây có sở đúc tiền. Năm Bính Thìn (1796), phụng sắc của Thế Tổ Cao hoàng đế đúc tiền Gia Hưng Thông bửu, [13a] xây sở đúc ở đây nên mới có tên gọi thế.

CHỢ ĐIỀU KHIỂN

Cách trấn về phía nam 2 dặm rưỡi, khi xưa chợ họp trước Nha Điều khiển, nên mới có tên đó, đại loại như chợ Cai Bạ, cầu Khâm Sai, chợ Cai Đội ([27][27])... ấy là do người đương thời không dám gọi thẳng tên người tôn trưởng, bèn gọi theo chức quan, nên sau nầy danh tánh mới thất truyền, ấy là tục bắt chước sai lầm. Nay nha trị đã dời đi, nhưng tên chợ còn như cũ, chợ này quán xá trù mật.

CẦU CAO MIÊN

Cách trấn về phía tây bắc 1 dặm rưỡi. Trước đây vua Cao Miên là Keo Hoa Yêm vì già yếu, ủy thác việc nước cho con là Nặc Tha giữ quyền nhiếp chính lỵ sở tại thành La Vách. Ngày 18 tháng 4 mùa hạ năm Tân Hợi (1731) [đời Túc Tông năm thứ 7, Lê phế đế (Duy Phương) - Vĩnh Khánh năm thứ ba, Đại Thanh Ung Chính năm thứ 9], người Lào Sá (Xá) Tốt ([28][28]) khởi loạn tại Cầu Nôm, cùng người Cao Miên ở rừng hoang kéo xuống Gia Định cướp giết dân Việt. Lúc ấy trong nước đang yên ổn nên không phòng bị, khi giặc đến bất thần, quan dân đều hoảng sợ. Quan Điều khiển vội chỉ huy Cai cơ là Đạt Thành hầu đem binh chống giữ ở Bến Lức, vì thế cô không có binh viện, nên bị giặc giết. Thống binh Định Sách hầu [13b] Trần Đại Định bèn đem thuộc tướng Long môn chận đánh ở Vườn Trầu, phá được tiền binh của địch, chận được nhuệ khí hung hãn của chúng; Đại Định cho đắp lũy đất một mặt ở Hoa Phong để chống cự; Thống suất Vĩnh Trường hầu Trương Phúc Vĩnh lại điều động Giám quân Cai đội Triêm Ân hầu Nguyễn Phúc Triêm đến ứng cứu quân ở Bến Lức, giết được giặc Lào và đẩy chúng lui về Vũng Gù. Phúc Vĩnh chia quân đi 3 đường, tự mình cầm thủy quân theo đường Tiền Giang, Phúc Triêm theo đường giữa Bát Chiên, Đại Định theo đường bộ Quang Hóa nhất tề tiến công khiến binh Lào thua chạy trốn vào rừng sâu. Cha con Yêm, Tha sợ lây họa cũng chạy trốn vào phủ Sơn Bô. Đại Định chiếm cứ Cầu Nôm. Nặc Tha gởi thư kể rõ việc người Lào đứng đầu gây ra việc loạn là ở biên giới, khẩn xin đại binh tạm dừng, để y tự dẹp xong và bắt bọn cừ khôi đem đến trước quân trình nạp chịu tội. Đại Định đem việc ấy chuyển báo, nhưng Phúc Vĩnh không nghe theo, muốn truy nã đến cùng. Nặc Tha nghe vậy cả sợ, bèn chạy trốn xa [14a].

Đến tháng 7 gặp kỳ mưa lụt, Phúc Vĩnh vì thế mới chấp thuận, và truyền cho quân 3 đạo trở về Gia Định, còn Nặc Tha trở về La Vách ([29][29]). Khi ấy người Lào như bèo vừa tan tụ tập lại ở Cầu Nôm, rồi đi cướp giết như cũ. Nặc Tha sức yếu không địch nổi, bèn kêu gọi binh các phủ để cùng tấn công. Tháng giêng năm Nhâm Tý (1732), Phúc Vĩnh tiếp được tin ngoài biên báo về, lại đốc binh tiến công, người Lào lại chạy trốn nơi xa, Nặc Tha cũng trốn lên Sơn Bô, đút lót xin hoãn binh, để từ từ tính chuyện giết giặc. Tháng 3, Phúc Vĩnh bèn lưu Đại Định ở lại ứng phó, còn tự mình kéo đại binh về đồn dinh nghỉ ngơi.

Lúc ấy Phúc Vĩnh đã nhiều năm dùng binh mà chưa bắt được tội nhân nên bị triều đình nghiêm trách, ông ta sợ tội bèn đặt điều rằng, việc ấy là do Đại Định năm trước chần chừ trong việc hành quân rồi tư thông việc kết nạp với vua Cao Miên, nay lại lợi dụng việc làm loạn của người Lào để nắm binh quyền lâu, việc tiễu trừ thành bất lực, rồi bí mật tâu lên vua. Trong lúc đó Đại Định đóng binh ở Lò Vẹt, vừa lo tấn công, vừa phủ dụ, Nặc Tha thì dùng mưu kế lừa người Lào mà giết sạch, rồi tự trói mình đến trước quân xin chịu tội [14b].

Đại Định để Nặc Tha ở Lò Vẹt chiêu dụ dân lưu tán, còn ông kéo binh về báo tiệp. Khi Đại Định về đến Gia Định, Phúc Vĩnh nghĩ cần ra tay chế ngự Đại Định trước, nên mới định ngày họp các tướng để vấn nghị việc đó. Đại Định biết mưu ấy, tự nghĩ rằng: Trước đây do Đại soái (chỉ Phúc Vĩnh) điều độ không đúng, đến nỗi Đạt Thành hầu bị quân giặc giết, tiếp đến lại ăn của hối lộ rồi rút quân, tiến thoái bừa bãi, thế mà nay lại đổ tội cho ta, nếu để cho hắn bắt giữ hạch hỏi, thì hắn lấy quyền thế áp đảo thành ra bản án, thì mối oan ở dưới cái chậu úp ([30][30]), lấy ai bộc bạch cho. Chi bằng ta về Kinh để tâu xin cứu xét, có chết cũng cam tâm.

Ông nghĩ thế, bèn nhân đang đêm cùng thuộc hạ cưỡi một chiếc thuyền chiến về kinh. Khi thuyền đến gần núi Bút La có người em chú bác của Đại Định là Thành can rằng: Phúc Vĩnh là người thế thần của nước Nam, trong triều có nhiều người thân thích, nay anh muốn tỏ rõ được sự uẩn khúc thì ai là người biện bạch, chi bằng chạy thẳng về Việt Đông tìm nơi an thân cho khỏi bị người ta giết mổ, băm vằm.

Đại Định nói: Cha ta là Thượng Xuyên công ([31][31]) nhờ [15a] ân dày của triều đình, đã từng được dụ rằng: họ Nguyễn làm vương, họ Trần làm tướng, đời đời không dứt tước công hầu, điều ấy thật quá vinh hạnh. Nay nhất thời viên biên soái (chỉ Phúc Vĩnh) có lòng che lấp riêng tư, nếu mình không về triều đình bày tỏ, tất là có tội phản nghịch, thì sự nghiệp của tổ tông khác gì núi đổ thành hang hốc, chẳng những làm tôi bất trung mà làm con cũng bất hiếu, còn mặt mũi nào đứng giữa trời đất nữa. Nói đoạn bèn quát bắt thuyền phải vô cửa Hàn, Thành cương quyết không nghe, dành lấy tay lái với đà công rồi cho thuyền nhắm thẳng biển Đông mà chạy. Đại Định thấy gió Nam thổi mạnh, sợ khi thuyền đến Quỳnh Hải ([32][32]) thì khó trở buồm quay lại, trong lòng tức bực, gấp gáp bèn rút gươm ra chém Thành, rồi quát người lái thuyền phải quay vào cửa Hàn để thả neo, rồi đem hết chuyện trình lên quan dinh Quảng Nam nhờ đề đạt.

Từ đêm Đại Định trốn đi, thì viên Điều khiển cho là ông đã trốn về Quảng Đông, nên lệnh bắt cả nhà Đại Định, và đem việc ấy tâu lên để thỉnh chỉ, thì ngay hôm ấy tờ tấu của dinh Quảng Nam giúp cho Đại Định cũng đến cùng lúc. Bá quan nghị rằng Trần Đại Định [15b] đã thông với Cao Miên, lại cố ý không tuân tướng lệnh, xin dùng chính pháp để răn những kẻ ngoan cố.

Nhưng thánh đức có lượng khoan hồng, vua nghĩ rằng: Nếu Trần Đại Định có lòng phản quốc, thì lúc hắn như con cá lớn ngoài biển, ai chế ngự được mức liều, nay hắn đến kinh yêu cầu thẩm cứu, qua đó tình lý cũng thấy rõ được. Vua bèn hạ dụ câu lưu Trần Đại Định ở Quảng Nam và sai quan vào Gia Định phúc thẩm, đợi bản án kết thúc xong sẽ định đoạt.

Đại Định ở trong lao suốt ngày không xiết phẫn uất, thổ huyết mấy cân rồi thọ bệnh liên miên, đến 12 đêm sau thì mất ([33][33]).

Kịp khi tờ phúc thẩm tâu lên, có Nguyễn Phúc Triêm làm chứng nói Đại Định không có tình trạng chần chừ khi dừng binh để tư thông cùng Cao Miên. Vì vậy Đại Định được ban ân truy tặng là Đô đốc đồng tri, thụy là Tương Mẫn. Nhân giặc Lào sợ Triêm như sợ cọp, nên Phúc Triêm được thăng chức Cai cơ. Còn Trương Phúc Vĩnh mắc tội để mất cơ nghi, tâu bày không thật, nên bị bãi quyền Thống suất, giáng xuống làm Cai đội, rồi điều Cai cơ Nguyễn Hữu Doãn đến thay việc Điều khiển.

Năm Bính Thìn thứ 13 (1736), [16a] Giao (Keo) Hoa Yêm vương mất, triều đình ta sắc phong cho con hắn là Nặc Tha nối ngôi. Năm ấy Nặc Thâm từ Xiêm La về nước, nhưng không được Nặc Tha dung nạp, nên phải tạm trú ở phủ Lò Khù. Con Thâm là Yếm Chăn và con người em của Thâm là Sô theo Nặc Tha ở thành La Vách thường thường báo tin qua lại. Nặc Tha sinh nghi, bèn tự qua Nam Vang, ngầm phục binh, rình xem bọn Sô động tĩnh thế nào để thừa thế giết đi. Bọn Sô rất sợ, bèn tụ họp đồng đảng vây cánh ở các phủ Lò Vẹt, Cầu Nôm làm phản. Nặc Tha liền chạy sang Gia Định, quan Khổn súy lấy vùng đất trống ở thượng du Nghi Giang về phía bắc đồn dinh cho Nặc Tha ở. Tha vương do chỗ ở này cách sông nên làm cầu ván để thông đường qua lại, người đương thời gọi là cầu Cao Miên.

Bọn tên Sô đã chiếm được toàn cõi Cao Miên, bèn rước Nặc Thâm về lập lên làm vua. Tháng 4 năm Đinh Tỵ (1737), Nặc Thâm sai sứ đến kinh dâng lễ cống. Tháng 11 năm Đinh Mão (1747) đời Thế Tông Nguyễn Phúc Khoát (Lê Hiển Tông niên hiệu Cảnh Hưng thứ 8, Đại Thanh Càn Long năm thứ 12), ở phủ Ba Thắc (Châu Đốc - Hậu Giang) có người Cao Miên tên Sô Liên Tốc đến cướp bóc ở Mỹ Tho và Cà (Kỳ) Hôn. Lúc này Nặc Thâm đã chết, [16b] bè đảng của Thâm lập người con thứ 5 của Thâm là Đuông lên làm vua, nhưng người con thứ 4 của Thâm là Hen tranh quyền rồi cử quân đánh nhau. Vì vậy nên nhà sư Chiêm Hậu cùng bọn Chiêu trùy Yết lại lập con trưởng của Thâm là Yếm, từ đó anh em sát hại nhau, làm cho dân Cao Miên ([34][34]) rất khổ sở. Sô Liên Tốc lợi dụng thời cơ càng hoành hành bướng nghịch. Tháng giêng năm Mậu Thìn (1748), quan Điều khiển Nguyễn Hữu Doãn cho quân ra đốt hết thuyền bè của Sô Liên Tốc ở sông Mỹ Tho, rồi đuổi đến Thiết Lũy, thẳng tiến đến Nam Vang, đánh phá luôn Chiêu trùy Yết, vua ngụy tự lập Yếm chạy qua Xiêm La, còn Hen và Đuông chạy trốn chưa rõ ở đâu. Quân ta thâu nạp Nặc Tha đưa về Cao Miên ở tại dinh La Vách, rồi quan quân mới khải hoàn. Tháng 6, quan Cao la hâm Ốc Đột Lục Mân đem quân Xiêm về đánh Cao Miên, Nặc Tha phải chạy sang Gia Định tạm trú ở chợ Tân Kiểng, rồi bị bệnh mà chết. Con thứ hai của Thâm là Nguyên từ nước Xiêm trở về nối ngôi vua, lo việc triều cống, giữ lễ phiên thần, từ ấy Cao Miên mới hơi yên ổn.

[17a] CHỢ NGUYỄN THỰC

Cách trấn về phía tây 10 dặm. Năm Đinh Mùi (1727) đời Túc Tông (Nguyễn Phúc Chú) (niên hiệu Bảo Thái Lê Dụ Tông nhà Lê thứ 8, Đại Thanh Ung Chính thứ 5), Nguyễn Văn Thực người Quảng Ngãi khai phá rừng hoang lập chợ ở đây, tạo thành một chỗ tụ tập đông đúc ở nơi gò núi.

CHỢ TÂN KIỂNG (TỤC GỌI CHỢ QUÁN)

Cách trấn về phía nam hơn 6 dặm, phố chợ rất đông đúc, thường năm đến ngày Nguyên đán có tổ chức chơi đu tiên vân xa, đáng gọi là một chợ lớn. Từ trước, đến cuối năm thường có chém tù ở đây. Cách sông ở bờ phía đông, ngày trước có người Cao Miên là Nặc Đích theo Nặc Tha đến, cắm dùi sống luôn ở đấy, y bèn làm cầu ngang qua sông để thông đến chợ, gọi là cầu Nặc Đích, sau trải qua loạn lạc nên hư hỏng. Đầu phía tây đường lớn có đồn bắt trộm cướp đóng giữ.

Ngày 25 tháng giêng năm Canh Dần (1770) đời Duệ Tông (Định vương Nguyễn Phúc Thuần), (Lê Hiển Tông Cảnh Hưng năm thứ 31, Đại Thanh Càn Long năm thứ 35), sau khi bình định, có con hổ dữ vào nhà dân ở phía nam chợ, nó gầm rống rất dữ, dân quanh vùng đều hoảng sợ, họ báo với đồn dinh để phái quân vây bắt. Sau phải triệt hạ phòng ốc, làm nhiều lớp hàng rào bao quanh, nhưng con hổ rất dữ, [17b] không ai dám đối đầu. Qua ngày thứ 3, có thầy tu đi vân du là Hồng Ân cùng đồ đệ là Trí Năng xin vào đánh cọp. Hồng Ân cùng hổ quần thảo một hồi, hổ bị côn đánh rát quá, nhảy núp vào lùm tre, Hồng Ân đuổi nà theo, hổ bị dồn ngặt nên cự trở lại với Hồng Ân. Hồng Ân lui chân té xuống mương nhỏ, bị hổ tát thọ thương. Trí Năng tiếp viện đánh trúng đầu, hổ chết dưới làn côn, nhưng Hồng Ân bị thương nặng nên cũng mất liền khi ấy. Người ở chợ cảm nghĩa đem xác Hồng Ân chôn tại chỗ đấy rồi xây tháp, nay vẫn còn.

Tháng 3 mùa xuân năm Đinh Dậu (1777), giặc Tây Sơn tiến quân vào cướp, Gia Định thất thủ, Tham tán Nguyễn Tịnh ẩn tại chỗ nầy rồi bị địch bắt giết đi.

Trước đây, tình hình ở Bắc Hà là vua yếu mà bề tôi lại mạnh, vua Lê Cảnh Hưng chỉ là hư vị, Trịnh Sâm chuyên quyền tự xưng là Tĩnh vương ([35][35]). Nghe tin Tây Sơn Nguyễn Văn Nhạc gây nhiễu loạn ở miền Nam, trước tai họa ấy chúa Trịnh mừng thầm, rồi tháng 5 năm Giáp Ngọ (1774), Trịnh Sâm sai vây cánh đã trí sĩ là Quốc lão Hoàng Ngũ Phúc làm chức Bình Nam Thượng tướng quân. Diệp Quận công ([36][36]) [18a] đem binh các đạo Sơn Nam, Hải Dương, An Quảng, Thanh Hoa (Hóa) và Nghệ An xâm phạm miền Nam, khi quân ấy đi đến Bố Chính ngoại châu, tháng 9 mới có tin báo. Lúc này miền Nam thái bình đã lâu, không sửa sang việc binh bị. Các tướng ra quân đều bại trận. Sau cùng Tôn Thất Chất làm Tiết chế bộ binh, Nguyễn Tịnh làm Tham tán quân vụ ([37][37]) đem quân ra đánh cũng bị thua chạy. Quân Bắc Hà đến chiếm kinh thành Phú Xuân, Tịnh phải ẩn tránh ở Qui Nhơn, Nguyễn Huệ cho người dò tìm được, có ý yêu cầu ra giúp cho Huệ. Tịnh nghĩ nay phải lập công thờ giặc để mưu cho sự sống còn thì không phải là điều người vong quốc nên làm, bèn xin dắt mẹ đi tìm vua cho trọn tiết tháo của một bề tôi. Huệ muốn giết chết ([38][38]), nhưng sợ mang tiếng giết bừa kẻ sĩ nên dằn lòng buông tha cho. Tịnh lặn lội vào Gia Định yết kiến Duệ Tông Định vương Nguyễn Phúc Thuần, được tham gia vào việc bàn mưu tính kế. Năm Đinh Dậu (1777), Gia Định thất thủ, Tịnh theo hộ giá không kịp, phải dắt mẹ lánh ở nhà người dân làng ở Tân Kiểng ([39][39]) rồi bị quân ngụy Tây Sơn bắt được. Huệ hỏi: Ngày trước ngươi rời ta để đi tìm vua, người ý muốn xoay chuyển đất trời theo sự chỉ bảo sai khiến của ngươi, nay thế lực khốn cùng, ấy là mạng trời đã định. Là người tuấn kiệt mà chẳng thức thời thì sao khỏi hối hận về sau, [18b] vậy thì nay ở đi ý ngươi thế nào?. Tịnh đáp: Vua bị nhục, bề tôi phải chịu chết, ấy là phận sự, còn nói gì nữa. Huệ nói: Hãy giúp y thành toàn khí tiết. Rồi sai đem ra chém.

PHỐ CHỢ SÀI GÒN

Cách trấn về phía nam 12 dặm ở hai bên tả hữu đường cái quan, là đường phố lớn, thẳng suốt 3 đường, giáp đến bến sông, một đường ngang ở giữa, một đường đi dọc theo sông. Các đường ấy đan xuyên nhau như chữ điền, phố xá liền mái nhau, người Việt và người Tàu ở chung lộn dài độ 3 dặm. Hàng hóa trong phố bày bán có: gấm, đoạn, đồ sứ, giấy má, châu báu trang sức, hàng sách vở, tiệm thuốc, tiệm trà, tiệm hủ tíu. Hai đầu nam bắc bến sông không gì là không có. Đầu phía bắc đường lớn của bổn phố có miếu Quan Đế và 3 hội quán: Phúc Châu, Quảng Đông, và Triều Châu chia đứng hai bên tả hữu; phía tây ở giữa đường lớn có miếu Thiên Hậu, gần phía tây có hội quán Ôn Lăng, đầu phía nam đường phố lớn về phía tây có hội quán Chương Châu. Gặp ngày tốt, đêm trăng, như Tam nguyên, rằm, mùng một thì treo đèn đặt án [19a], tranh đua kỳ xảo trông như là cây lửa, cầu sao, thành gấm, hội quỳnh, kèn trống huyên náo, nam nữ dập dìu, thật là một phố lớn nơi đô hội náo nhiệt. Trong đường phố lớn có cái giếng xưa, nước ngọt tràn trề, bốn mùa không cạn. Sông nhỏ chảy ngang phố có bắc cầu ván lớn, trên có hai dãy hành lang mái ngói, treo màn che nắng, đường đi râm mát như đi dưới mái nhà cao. Giữa phố về phía đông đường lớn có chợ Bình An bán đủ sản vật quý ở núi biển và thổ sản các nơi, ban đêm còn thắp đèn mua bán.

TẤT KIỀU (CẦU SƠN)

Ở phía bắc trấn 7 dặm, vì sông nơi đây có nhiều cây tất (cây sơn) nên có tên ấy. Khi Đô úy của quân ngụy Tây Sơn Nguyễn Nhạc là Nguyễn Trấn đóng giữ Gia Định, lo sợ những trung thần nghĩa sĩ của ta ẩn náu tông tích rình xem sơ hở để hành động, thật không thiếu chi người, e sợ giữa đất bằng ở liền nhau không có thành trì bảo vệ, thì khó phòng bị khi có biến bất chợt, nên định lấy chỗ Tất Kiều, trên có gò cao nổi lên, giữa có khoảng đồng bằng trải rộng, dưới giáp ruộng cạn, rạch nhỏ ăn thông, hình thế rộng rãi, [19b] chu vi ước hơn trăm dặm, 4 mặt có sông ngòi ngăn cản, có thể đóng binh ở đấy. Năm Bính Ngọ (1786), khởi công dựng dinh trại trên đầu gò cao, chỗ đất bằng thì lập chợ phố, lùa cả dân buôn Sài Gòn đến đó ở. Chỗ này nguyên đất thấp bẩn ngập mặn, nhân dân đến đây đều cho là bất tiện, nhưng do uy lực bắt buộc, nên miễn cưỡng làm theo, cho nên đã mấy năm mà không thành tựu được. Tháng 6 năm ấy, nhân Tây Sơn Nguyễn Huệ đánh chiếm Bắc Hà, khi về lại càng kiêu ngạo. Tháng giêng năm Đinh Mùi (1787), nhân ngày tế cờ khai binh đầu năm, Nguyễn Huệ đem hết quân mình vây đánh anh là Nguyễn Nhạc ở thành Quy Nhơn. Nguyễn Nhạc đóng cửa thành cố thủ rồi cấp báo cho Nguyễn Trấn. Trấn để Tham đốc Trần Tú ở giữ Gia Định, tháng 4, tự đem thủy quân về cứu viện thành Quy Nhơn, nhưng mới đến Tiên Chử địa đầu Phú Yên liền bị quân Nguyễn Huệ đón đánh bắt được. Nguyễn Trấn bị bại nên phố Tất Kiều phải bị bỏ, duy có Trần Tú nhọc nhằn chống chọi. Võ Quốc công (Võ Tánh) ở Định Tường, Nguyễn Văn Tuyết ở Biên Hòa, [20a] Nguyễn Văn Nghĩa ở Hiệp Lâm, các nơi đều dấy nghĩa binh, trong lúc đó thế của quân Tây Sơn càng ngày càng yếu, chỉ có Hãn vân Lê Công Trấn và Lương y Phạm Điền họp quân định ngày đánh úp đồn Bến Nghé, nhưng cơ sự bị tiết lộ, nên bị Trần Tú bắt giết, tuy mưu trung bất thành, nhưng vì nghĩa mà chết, thật đáng thương tiếc thay!

ĐƯỜNG THIÊN LÝ (đi ra Bắc)

Khi mới khai thác thì bắt đầu từ phía bắc Tất Kiều đến Bình Giang, ruộng ao sình lầy, đường bộ chưa đắp, hành khách muốn qua Biên Hòa hoặc lên Thủy Vọt đều phải đi đò dọc. Đến đời Thế Tông năm thứ 11 Mậu Thìn (1748), nhân có việc Cao Miên cảnh báo, quan Điều khiển Nguyễn Hữu Doãn mới đo đạc giăng dây làm đường thẳng, gặp chỗ có kinh ngòi thì bắc cầu, chỗ bùn lầy thì đắp đất và cây gỗ. Từ cửa Cấn Chỉ của thành đến bến đò Bình Đồng dài 17 dặm, bờ phía bắc là địa giới Biên Hòa có đặt trạm Bình Đồng, đi về phía bắc qua núi Châu Thới đến bến đò Bình Tiên rồi qua bến Sa Giang (Rạch Cát) do đường sứ Đồng Tràm xuống Đồng Môn thông [20b] đến Mô Xoài, ấy gọi là đường thiên lý. Trên đường nầy chỗ nào gặp sông lớn theo lệ có đặt đò qua, người chèo đò được miễn sưu dịch khác.

ĐƯỜNG THIÊN LÝ (đi về Tây)

Tháng 10 mùa đông năm Ất Hợi (1815) niên hiệu Gia Long 14, quan Tổng trấn thành Gia Định vâng mạng đo đạc từ cửa Đoài Duyệt phía tây thành từ cầu Tham Lương (Gò Vấp), qua bến đò Thị Sưu, qua đầm Lão Đống giáp ngã ba đường sứ tới Khê Lăng đến đất Kha Pha ([40][40]) Cao Miên, cho đến sông lớn, dài 439 dặm, gặp chỗ có sông, khe thì bắc cầu cống, chỗ đầm lầy thì đắp đất, rừng thì đốn cây, mở làm đường thiên lý, bề ngang 6 tầm, làm thành con đường rộng thông suốt cho người ngựa qua lại được bình yên. Nhưng đất ấy hẻo lánh không có người ở, khi hữu sự sứ giả đi báo tin và hành khách đi lại dừng nghỉ phải theo phép bưu chánh mới được ổn thỏa. Lại từ Kha Pha dọc sông xuống phía nam 194 dặm đến đồn Lò Yêm; còn từ Kha Pha lên phía bắc 49 dặm đến sách trại Chế Lăng cũng là đường trọng yếu khi dùng binh.

[21a] TRẤN BIÊN HÒA

Lỵ sở trấn Biên Hòa khi xưa đặt ở địa phận thôn Phước Lư, huyện Phước Chánh, đất thấp nên hay có lụt. Năm Gia Long 15 (1816) dời lỵ sở qua gò cao thôn Tân Lân, quy hoạch ra làm thành sở, ngang dọc đều 200 tầm, trong chia thành hình chữ tỉnh, giữa dựng Vọng cung, hai bên phải trái có lầu chuông trống, chỗ chính giữa phía sau dựng 3 công dinh, rộng 80 tầm, mà chia ra làm 3 phần, chỉ dinh giữa rộng thêm 5 tầm, dài 60 tầm, 2 con đường phải trái đều 7 tầm, chung quanh xây tường gạch, làm dãy kho chứa gồm 31 gian lợp ngói xây gạch dày chắc, hai bên phải trái làm trại quân thừa ty, chia ra từng khu vực rất chỉnh tề.

LŨY TÂN HOA

Ở thôn Tân Hoa, tổng Chánh Mỹ. Năm Tân Mão (1771), trấn Hà Tiên thất thủ, quan Đốc chiến Nguyễn Đàm đắp lũy để phòng ngự đường tiến của sơn man Thủy Vọt, nền cũ nay vẫn còn.

[21b] LŨY TRÚC GIANG

Ở thượng lưu sông Trúc Giang thuộc tổng Chánh Mỹ, từ khi vùng này mới được mở mang, lũy này đã được đắp lên để chế ngự sơn man, dấu cũ nay vẫn còn.

LŨY TRE ĐÔNG GIANG

Ở phía nam sông Phước Giang thuộc tổng Chánh Mỹ, cách trấn về phía tây nam 50 dặm rưỡi, ngược lên cuối phía nam sông Đông Giang 4 dặm rưỡi, nguyên trước trồng tre gai làm hàng rào để ngăn sơn man, dần dần thành ra rừng tre rậm rạp ken nhau dài đến 10 dặm, đến nay vẫn còn xanh tốt.

LŨY PHƯỚC TỨ

Ở phía đông trạm Hương Phước, ngay giữa đường cái quan. Trước đây Chánh vương Cao Miên là Sô đóng ở thành Vũng Long ([41][41]), Phó vương là Non đóng ở thành Sài Gòn. Con trưởng của Sô là Bô Tâm không được làm vua, bèn giết cha tự lập làm vua, rồi sợ Non không phục sẽ cáo báo lên triều để xin binh hỏi tội mình nên đắp đồn đất Gò Vách, Nam Vang, kết bè nổi, giăng dây sắt để tự vệ, lại xin Xiêm La ứng viện, mưu đánh giết Non. Thế Non lúc bấy giờ rất nguy phải chạy qua [22a] nương tựa dinh Thái Khang ([42][42]), Bô Tâm bèn chiếm cứ Sài Gòn, mà quân Xiêm lại không đến như đã hứa, nên Bô Tâm đắp lũy đất ở vùng địa đầu Mô Xoài. Phía ngoài trồng tre gai, tăng thêm quân và voi để phòng thủ, thế rất vững. Trải hơn một năm thấy quân ta không hề động tĩnh quân lính, Bô Tâm trễ nải việc phòng bị, quân lính tứ tán ra ngoài đồng xa làm ruộng. Tháng giêng năm Giáp Dần (1674) đời Thái Tông thứ 27 (chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần), Trấn thủ dinh Thái Khang là Nguyễn Triều Đắc đem việc trình lên, tháng 2 vua sai tướng của dinh Thái Khang là Nguyễn Dương xuất chinh, cử thêm Nguyễn Diên làm Cai cơ thống lãnh tiên phong và dụ rằng: dùng binh quý là thần tốc, phải mau chóng đi suốt ngày đêm. Tháng 3, Diên Lộc hầu đến trước ở lũy Mô Xoài, nhân khi chúng không phòng bị xông vào đánh úp, chiếm lấy, binh sĩ giáo không hề vấy máu; qua ba ngày bọn chúng tụ họp lại vây đánh rất gắt, Diên Lộc hầu đóng cửa lũy không đánh trả, rồi đại quân của Dương Lâm hầu đến mới hiệp lực ra đánh, quân Cao Miên thua to, chết và bị thương rất đông. Nhân vậy mới gọi là lũy Phước Tứ ([43][43]). Sau đại quân tiến đến Sài Gòn, qua tháng 4 [22b] hai đạo binh thủy lục liên tiếp phá hai đồn Gò Vách và Nam Vang, đốt phá cả bè nổi và dây sắt của quân địch, nghe uy danh của Diên Lộc hầu, quân Cao Miên đều run sợ, Bô Tâm trốn vào rừng sâu, bị đồ đảng bên vợ là bọn Chà Và giết chết, con thứ 2 của Sô là Thu ra đầu hàng, từ ấy Cao Miên mới yên.

Sau đó Diên Lộc hầu vì leo rừng lội suối, trải đủ gian nan hiểm trở, nên bị trọng bệnh rồi mất. Khi ấy báo tiệp và đem hết mọi việc tâu lên, vua sắc phong cho Thu làm Chánh vương, Non làm Phó vương như cũ, tặng cho Diên Lộc hầu chức Chưởng cơ, thụy là Trung Võ, ra lệnh lập đền thờ, cầu khẩn việc gì đều được linh ứng, người Cao Miên qua lại chỗ này đều lo bước vội không dám ngó thẳng vào.

Lũy ấy trải mấy đời đều thế và dùng làm đồn trọng yếu cho đạo Mô Xoài. Nay loạn lạc đã yên, bốn bề không còn thành lũy, tuy thành vách đã hóa ra ruộng vườn, mà bờ tre xưa vẫn xanh tốt, còn nhìn ra được dấu tích của lũy xưa.

[23a] NĂM ĐỒN ĐỒNG MÔN

Cách trấn về phía đông 63 dặm, năm Mậu Ngọ (1798), đầu thời Trung hưng, vâng mệnh đắp ở phía bắc đường lớn 4 đồn, phía nam một đồn, có hình như răng chó cài chế lẫn nhau, để ngăn phòng quân Tây Sơn vào Nam quấy nhiễu, chung quanh đều trồng tre rậm rịt xanh tốt. Năm Gia Long thứ 10 (1811), tre ở các lũy Đồng Môn, Trao Trảo và Ký Giang đều ra trái rồi chết, nay đã mọc lại. Xét sách Hoa kính chép: cây tre trong 60 năm có một lần thay rễ ra trái rồi khô chết, trái ấy rụng xuống đất rồi mọc trở lại, trong 6 năm mới thành ruồng tre, nay tính năm tuy không đúng lắm nhưng cái lý ấy cũng thấy có hiệu nghiệm.

LŨY TRAO TRẢO

Cách trấn về phía đông 80 dặm rưỡi. Năm Canh Tuất (1790), đầu thời Trung hưng, sửa sang việc nội trị, xây đắp thành lũy, đóng thuyền bè, phàm những chỗ trọng yếu trên đường bộ trước hết phải giữ thế hiểm, nên đắp lũy đất này dài độ 3 dặm, nằm ngang trên đường cái, nay vẫn còn.

LŨY SÔNG KÝ

Cách trấn về phía đông 90 dặm rưỡi. Tháng giêng mùa xuân năm Đinh Dậu (1777) đời Duệ Tông( Định vương Nguyễn Phúc Thuần) thứ 13, quân trinh thám báo tin quân Tây Sơn sắp kéo vào. [23b] Khi ấy Quận công Tôn Thất Xuân tới đóng đồn ở Mô Xoài, Chưởng cơ cai trưởng đà Nguyễn Đại Lữ đóng đồn ở núi Nữ Tăng (Thị Vải), Tiết chế Nguyễn Phúc Tuấn đóng đồn ở Ký Giang, Chưởng cơ Nguyễn Phúc Hựu đóng đồn ở Đồng Môn tạo thế dựa nhau. Tháng 3, Mục vương ([44][44]) cử Lý tướng quân đạo Hòa Nghĩa ở giữ đồn Phiên Trấn, còn Vương thì qua dinh Trấn Biên để điều độ việc quân. Ngày 16, bộ binh Nguyễn Huệ từ miền thượng đạo đến bao vây, phá vỡ 2 đồn Ký Giang và Nữ Tăng (Thị Vải), Phúc Tuấn và Đại Lữ đều chết, các đồn đều tan rã thua chạy, Tây Sơn thừa thắng theo đường Bến Than kéo xuống Phiên Trấn, rồi Gia Định cũng không giữ được. Năm Nhâm Tý (1792) thời Trung hưng, đắp sửa lũy ở bờ phía tây, ngang giữa đường lớn, dọc theo bờ sông ra phía bắc, dài 12 dặm rưỡi. Sông ấy chảy ra phía bắc đến suối Đại Tuyền rồi chảy quanh về nam rồi hợp lưu với sông Đảo Thủy ([45][45]), lấy sông dài làm hào để giữ lấy nơi hiểm yếu.

HUYỆN PHƯỚC CHÁNH

Công việc đơn giản, lỵ sở ở thôn Tân Hòa, chợ Sứ Lộ ([46][46]), tổng Chánh Mỹ, quy mô cũng như các huyện ở Phiên An.

HUYỆN BÌNH AN

Công việc đơn giản, lỵ sở ở ấp Phước Lợi, tổng Bình Chánh, quy mô như huyện trước.

[24a] HUYỆN LONG THÀNH

Công việc đơn giản, lỵ sở ở ấp Phước Lộc, tổng Thành Tuy, quy mô như các huyện trước.

HUYỆN PHƯỚC AN

Công việc xung yếu bề bộn hơn, lỵ sở ở thôn Long Điền, tổng Phú An, quy mô như các huyện trước.

DỤC TƯỢNG TRÌ (AO TẮM VOI)

Tục gọi là Bàu Thành, ở phía bắc lũy Phước Tứ, tổng Phước Hưng, huyện Phước An. Khi xưa là chỗ đồn binh của người Cao Miên Bô Tâm tắm voi, chung quanh đắp đê bằng đất, nay dấu cũ vẫn còn.

XƯỞNG THUYỀN

Khi trước ở chỗ bờ nam sông Phước Giang, trên khoảng đất rộng nhìn ra sông, có quan Kiên thủy đóng ở đó để phòng thủ, sau vì loạn lạc xưởng bỏ không, nay sửa đổi dựng xưởng mới ở thôn Phước Lư, là chỗ đất trấn thự cũ.

VĂN MIẾU

Ở địa phận hai thôn Bình Thành và Tân Lại huyện Phước Chánh, cách trấn về phía tây 2 dặm rưỡi. Đời vua Hiển Tông năm Ất Mùi thứ 25 (1715), (Lê Dụ Tông niên hiệu Vĩnh Thạnh năm thứ 11, Đại Thanh Khang Hy năm thứ 54), Trấn thủ dinh Trấn Biên là Nguyễn Phàn Long, Ký lục Phạm Khánh Đức chọn chỗ đất dựng lên ban đầu, phía nam nhìn ra sông Phước Giang, phía bắc [24b] dựa núi Long Sơn, núi sông đẹp đẽ, cỏ cây tươi tốt. Năm Giáp Dần thời Trung hưng (1794), Lễ bộ Nguyễn Hồng Đô vâng mạng làm Giám đốc trùng tu, giữa làm điện Đại Thành và cửa Đại Thành, phía đông làm miếu Thần ([47][47]), phía tây làm đền Dục Thánh, trước xây tường ngang, phía tả có cửa Kim Thanh, phía hữu có cửa Ngọc Chấn, chính giữa sân trước dựng gác Khuê Văn treo trống chuông trên đó, phía tả có nhà Sùng Văn, phía hữu có nhà Dị Lễ ([48][48]), mặt ngoài chung quanh xây thành vuông, mặt tiền làm cửa Văn Miếu, phía tả phía hữu có hai cửa Nghi Môn, rường cột chạm trổ thể chế rất tinh xảo, đồ thờ có những thần bài, khám vàng, bình vàng, chén lôi, mâm phủ quỹ đựng xôi, tộ đựng heo cúng, khay đựng dưa xổi, đều chỉnh tề và sạch đẹp ([49][49]). Trong vòng thành trăm hoa tươi đẹp nào là: thông, tùng, quít, bưởi, hoa sứ, mít, xoài, chuối, hồng xiêm, cành nhánh liền nhau rợp bóng, thân tàng to lớn sum suê. Thường năm chọn ngày Đinh hai mùa xuân và thu, vâng mạng vua, quan Tổng trấn chia phiên hành lễ, phân hiến hai bên thì dùng Trấn quan và Đốc học, ngoài ra đều là bồi tế, lệ đặt 50 lễ sinh và 50 miếu phu, tất cả đều lo làm phận sự.

[25a] MIẾU HỘI ĐỒNG

Nguyên trước miếu ở góc tây bắc của thành, mùa hạ năm Gia Long thứ 18 (1819) mới dời qua phía tây nam trước thành, nhà miếu đẹp đẽ, đồ thờ tự rất tề chỉnh tinh khiết, thường năm có lệ tế xuân thu và có chép vào Tự điển.

ĐỀN LỄ CÔNG

Ở phía nam cù lao Đại Phố, phụng thờ quan Khâm sai Thống suất Chưởng cơ Lễ Thành hầu Nguyễn Phúc Lễ ([50][50]), miếu vũ trang nghiêm, mặt trông ra Phước Giang, lấy tảng đá lớn làm thủy thành, dưới đấy có con cá chép to, đớp gió đùa sóng, bơi lượn khi ẩn khi hiện, lúc gió mưa nước vỗ vào tảng đá nghe ầm ầm, sóng cuộn ào ạt, càng thêm vẻ oai linh làm cho người nghe phải kính sợ. Từ loạn Tây Sơn, hương tàn khói lạnh, có người thuộc giới sĩ lâm trong trấn tên là Tấn qua đấy nhân cảm xúc mà đề bài thơ như sau:

PHIÊN ÂM:

Bạch thảo thê thê cổ tái trần,

Hoang thành duy ([51][51]) kiến dã hoa tân.

Thiên tương sự nghiệp quy tiền đại,

Địa dĩ sơn hà chúc hậu nhân.

Phong vũ vị khôi chinh chiến cốt,

Tử tôn trường thác loạn ly thân.

Bình sinh nhất trích tầm thường lệ,

Bất khốc trung thần khốc loạn thần ([52][52]).

DỊCH NGHĨA:

Cỏ bạc màu ủ ê giữa đám bụi nơi biên tái cũ,

Nơi thành hoang chỉ thấy hoa dại nở.

Trời đem sự nghiệp giao cho đời trước,

Đất lấy núi sông phó thác cho người đời sau.

Gió mưa chưa làm cho xương người chinh chiến thành tro,

Con cháu chịu gởi thân mãi cảnh ly loạn.

Giọt lệ tầm thường của đời người,

Không khóc vì bậc trung thần mà khóc vì kẻ trị yên nước.

TẠM DỊCH VẦN:

Ải cũ bụi bay cỏ bạc màu,

Thành hoang hoa tạp trổ xen nhau.

Trời đem sự nghiệp trao đời trước,

Đất lấy san hà gởi lớp sau.

Mưa gió chưa tàn xương chiến sĩ,

Cháu con lại vướng nạn binh đao.

Bình sinh giọt lệ tầm thường ấy,

Chẳng khóc trung cang, khóc công thần.

[25b] MIẾU QUAN ĐẾ

Nằm về phía nam cù lao Đại Phố, phía đông ngã ba đường, mặt trông ra Phước Giang, điện vũ nguy nga, tượng đắp cao hơn một trượng, phía sau là điện quán ([53][53]) Quan Âm, phía ngoài có tường gạch bao quanh, bốn góc có 4 con lân bằng đá ngồi xổm. Cùng với hội quán Phúc Châu đầu phía tây đường lớn và hội quán Quảng Đông ở dưới phía đông là 3 cái đền lớn. Từ loạn Tây Sơn nhân dân ly tán, 2 đền kia bị hoang phế, duy miếu nầy là của chung phố nên riêng được giữ gìn tồn tại. Nhưng đến mùa thu năm Kỷ Mùi (1799) Thế Tổ thứ 22 ([54][54]), ở Trấn Biên có lụt lớn, tượng bị nước ngâm rã mà rường cột và mái ngói trải lâu năm nên cũng đã hư mục. Năm Đinh Sửu (1817) niên hiệu Gia Long thứ 16, người làng họp bàn trùng tu nhưng không đủ sức, nhờ tôi thần đây ([55][55]) đứng ra làm chủ việc ấy, vì cho thần là người sở tại của bản quán này. Ban đầu tôi thần cũng vì người mà miễn cưỡng nhận lời cho họ vui lòng, mà lòng thì vẫn chưa quả quyết. Đến khi dỡ miếu, trên cây đòn dông chính có đóng phụ vào một tấm ván, tuy mối mọt đã ăn mòn nhưng chữ khắc vẫn còn rõ, chỉ vì muội khói hương đèn lâu ngày làm tối mờ [26a]. Bảo nhẹ tay chùi rửa rồi xem kỹ, thì thấy nước sơn vẫn dày dặn bền bỉ, nét chữ rõ ràng, mặt trước kê tên 8 người chủ hội, trong ấy có tên họ ông nội của tôi thần, kỳ dư còn tên nhiều người nữa, đều không biết đó là ai, mặt sau khắc: ngày tốt tháng 4 năm Giáp Tý, niên hiệu Chính Hòa thứ 5 (1684). Cây đòn dông bên trái có một tấm ván khắc tên 11 người chủ hội, trong ấy có tên họ cha tôi thần, mặt sau khắc: ngày tốt tháng 2 năm Quý Hợi niên hiệu Cảnh Hưng thứ 4 (1743) nên tôi thần bàng hoàng hồi lâu, trong lúc đó có đông người dành xem, rốt lại tấm ván ấy liền tự rã ra, tôi thần đem tới trước miếu khấn vái rồi đốt đi. Tôi thần chạnh nghĩ rằng: thần linh với nhà tôi thần đã 3 đời có túc duyên, tôi thần này đâu dám không hoàn thành ước nguyện tha thiết của đời trước? Nên tôi thần cố kêu gọi mọi người cùng làm, sửa mới đắp lại pho tượng, sửa sang đồ thờ phụng, nay cũng đã tạm đầy đủ. Vậy xin ghi vào đây.

ĐỀN LONG VƯƠNG

Ở bờ nam sông Phước Giang cách thành về phía đông 15 dặm. Đời vua Hiển Tông (1691 - 1725), Chánh thống suất Nguyễn Vân đi đánh Cao Miên [26b], khi quân đến đây thấy có vực sâu hiểm, dưới lòng sông có đá ngầm, nước xoáy mạnh, sóng dữ, bỗng gió to, mưa lớn, rất nguy cấp, chiến thuyền hầu như khó an toàn. Bỗng thấy thấp thoáng có ngôi đền tranh nhỏ vắng vẻ trong lùm cây bên bờ sông, hỏi ra mới biết đó là đền thờ thần Long vương, Vân Thống suất bèn cầu đảo thầm, trong chốc lát trời lại tạnh sáng, thuyền đi qua đều yên ổn, lần đi nầy chỉ một trận là thành, nên ngày khải hoàn ngài cho tu bổ lớn lao để đền ơn, nay đền vẫn còn nguy nga, trông rất oai nghiêm.

ĐỀN DIÊN CÔNG

Ở tổng Phước Hưng, huyện Phước An, thờ Khai Biên (Trấn Biên) công thần Chưởng cơ Diên Lộc hầu Nguyễn công ([56][56]), có chép vào Tự điển.

ĐỀN GIÁP CÔNG

Ở trên đất Xích Ram, tổng Phước Hưng, huyện Phước An, thờ vị an biên công thần Ký lục kiêm Cai cơ Giáp Lãnh hầu của triều trước, tên có chép vào Tự điển nhưng sự tích và họ chưa được rõ.

ĐỀN NAM HẢI TƯỚNG QUÂN

Thần là loại cá voi nhân từ, không có vảy, đầu tròn trơn láng, đỉnh trán có lỗ phun nước ra như mưa, [27a] môi voi, đuôi tôm, dài đến 2, 3 trượng, ưa nhào lộn trên mặt biển, khi người dân thả lưới đánh cá, thường gọi thần mà cầu đảo, thì thần giúp đuổi bầy cá chạy cả vào lưới, mọi người rất biết ơn đức, có khi thần đi lầm vào lưới thì người đánh cá mở một mặt lưới mà kêu gọi dẫn ra, thần liền theo cửa lưới ấy mà ra biển cả! Những khi thuyền bè gặp sóng gió nguy hiểm, thường thấy thần dìu đỡ mạn thuyền bảo vệ người yên ổn. Hoặc thuyền bị chìm đắm, trong cơn sóng gió thần cũng đưa người vào bờ, sự cứu giúp ấy rất rõ. Chỉ nước Nam ta từ Linh Giang đến Hà Tiên mới có việc ấy và rất linh nghiệm, còn các biển khác thì không có. Có lẽ vì núi biển phương Nam thiêng liêng nhiều âm đức để cứu giúp sinh dân chăng? Thần từng được phong tặng Nam hải tướng quân Ngọc Lân tôn thần, chép vào Tự điển. Cá này nếu bị các loài cá dữ đánh bị thương rồi chết nổi trên bãi bể, thì dân miền biển gom góp tiền mua vải, quan quách để liệm, rồi lựa một người lớn tuổi trong làng chài (trùm làng chài) đứng làm hiếu chủ mặc tang phục lo chôn cất và dựng đền [27b] ngay bên mộ. Những chỗ có mộ cá ấy thì dân nơi đó được nhiều lợi, còn chỗ tuy không có mộ cũng lập đền thờ, dọc miền biển đều như thế.

ĐỀN NGŨ CÔNG

Ở đầu nguồn Thủy Vọt, đền thờ: Tà Mã Quốc công, Tà môn Quận công, Tà Nông Quận công, Tà Vẹt Quận công, Tà Khuông Quận công ([57][57]). Đền có tiếng là linh dị, những người đi qua đây đều phải sắm lễ vật cúng bái, ắt được yên lành. Những thần ấy là do lấy tên 5 cái thác hiểm theo tiếng Man để gọi, còn tôn hiệu phong tặng thì chẳng biết có từ thời nào. Nay cứ để như thế rồi sẽ khảo cứu sau.

CHÙA SẮC TỨ

Ở bờ nam Phước Giang, cách trấn về phía đông 8 dặm, do Chánh thống suất Nguyễn Vân kiến lập. Năm Giáp Dần đời Túc Tông Hiếu Ninh hoàng đế thứ 10 (Ninh vương Nguyễn Phúc Chú) (1734) (Lê Thuần Tông niên hiệu Long Đức thứ 3, Đại Thanh Ung Chính thứ 12), ngự ban biển ngạch chữ vàng, đề chữ: Sắc tứ Hộ Quốc tự ([58][58]), bên trái khắc: Long Đức tam niên. Tuế thứ Giáp Dần trọng thu. Bên phải khắc: Vân Tuyền Đạo nhân viết. [28a] Nét chữ mạnh mẽ; cảnh chùa trang nghiêm, cửa thiền thanh tịnh, thật là nơi lạc thổ của Nam tông (do Lục tổ Huệ Năng sáng lập). Sau bị Tây Sơn phá hủy tượng Phật, cột mái đều hư hỏng, nay làm nhỏ lại và lợp tranh, vẫn còn di tích.

PHỐ LỚN NÔNG NẠI

Ở đầu phía tây của cù lao Đại Phố, lúc mới mở mang, Trần Thượng Xuyên chiêu tập người thương buôn nước Trung Quốc đến lập ra phố xá, mái ngói tường vôi, lầu quán cao ngất, dòng sông rực rỡ, ánh nhật huy hoàng, liền nhau tới 5 dặm, chia làm 3 đường phố, đường phố lớn lát đá trắng, đường phố ngang lót đá ong, đường phố nhỏ lót đá xanh, toàn thể đường bằng phẳng như đá mài, kẻ buôn tụ tập, thuyền đi biển, đi sông đều đến cuốn buồm neo đậu, đầu đuôi thuyền đậu kế tiếp nhau, thật là một chỗ đô hội. Các nhà phú thương buôn to bán lớn chỉ ở đây là nhiều hơn, có người mà cả nước đều biết tiếng, như ông ngoại kẻ tôi thần là Lâm Tổ Quan, tên tự của ông tiếng Hoa ( Phước Kiến) đọc là Nại cho nên tục gọi là ông Nái (Nại). Ông người huyện Tấn Giang, phủ Tuyền Châu, tỉnh Phúc Kiến, gặp lúc Thế Tông (1738 - 1765) ( Võ vương Nguyễn Phúc Khoát) ban lệnh đổi sắc phục, vì hâm mộ vinh dự của áo mão (làm quan), nên cha con [28b] ba người cùng ngày dâng vàng xin làm Nội viện thị hàn, tiếng tăm đến tai vua, ngự khen là nhà phú hào; còn ông nội của tôi thần là Sư Khổng, người huyện Trường Lạc, Phúc Châu, bà nội tôi thần là Vương Thị Nghi tục gọi là Bà Nghi, cùng người họ Chu ở phủ Tứ Phong đều được xem là cự phách. Từ sau năm Bính Thân (1776), Tây Sơn vào chiếm, họ dỡ lấy phòng ốc, gạch đá, của cải chở về phủ Quy Nhơn, đất nầy trở thành vườn gò hoang. Sau khi Trung hưng tuy có người trở về, nhưng chưa bằng một phần trăm (mười phần ngàn) lúc trước.

KHO ĐIỀN TÔ (kho thóc thuế)

Ở bờ bắc Hậu Giang, kho làm dựa vào núi, ngày trước làm chỗ thu thuế trong hạt, đã được thay đổi, nay nền cũ vẫn còn.

BA KHO THUẾ BIỆT NẠP TÂN THẠNH, CẢNH DƯƠNG VÀ THIÊN MỤ

Ngày xưa đặt làm chỗ cho dinh Trấn Biên trưng thu tô thuế để chuyển về kinh, kho này ở bờ đông Tam Giang Nhà Bè. Từ năm Ất Mùi (1775) vua Duệ Tông (Định vương Nguyễn Phúc Thuần) lánh vào Gia Định thì bỏ 3 kho này, tất cả đều nạp vào kho chung Gian Thảo ([59][59]) để tiện việc chuyên chở cấp phát lương hướng. Còn các ngạch thuế của dân [29a] thì vẫn giữ nguyên để bảo tồn lệ cũ.

CHỢ NGƯ TÂN (CHỢ BẾN CÁ)

Còn gọi là chợ Bình Thảo, ở tổng Phước Vinh, khách buôn đông đúc, cả đường thủy và đường bộ đều thông suốt tới bến, hàng nước ngoài, thổ sản địa phương, sơn hào, hải vị không gì là không có, là một chợ miền núi rất đông đúc.

CHỢ THỦY VỌT

Ở tổng Bình Chánh, nhà cửa đông đúc, thuyền bè đến tận bến chợ, có nhiều sản vật ở núi rừng.

CHỢ BÀ LỊA (CHỢ BÀ RỊA)

Tục gọi Bà Địa, lại có tên là chợ Long Thạnh, nhà cửa liền nhau, đường thủy và đường bộ đều giao nhau, là một chợ lớn nơi miền biển đầm.

CHỢ BÌNH QUỚI (CHỢ THỦ THIÊM)

Thuộc huyện Bình An, là vùng ở tận phía nam của trấn nầy, mặt trông ra Bình Giang (sông Sài Gòn), đối diện trước thành Gia Định, thuyền bè đường sông biển đậu nối đuôi nhau, người ở đây sắm các loại ghe dài ngắn theo dòng nước đi bán cá thịt, đồ dưa quả và đồ ăn.

TRANG THUYỀN TỤ (XÓM SỬA GHE)

Ở bờ tây Tam Giang Nhà Bè. Khi xưa thuyền bè ở Trung Quốc ([60][60]) đến buôn bán mà bị hư hỏng rò rỉ, cần phải sửa sang hoặc đóng thuyền mới đều phải đến đây, tụ họp riết thành thôn xóm. Từ khi Tây Sơn kéo vào cướp phá mọi người dời đi chỗ khác, nay thành đất hoang.

QUÁN BÌNH ĐỒNG ([61][61]) (XỨ ĐỒNG CHÁY)

Ngày trước ở đây có trạm thôn Bình Đồng, nay đã dời đi nơi khác.

SƠN KHƯ NGỌ THỊ (CHỢ TRƯA GÒ NÚI) ([62][62])

Cách trấn về phía nam 37 dặm, lại đi về hướng nam một dặm nữa đến đầu bến đò Bình Giang, đây là vùng giáp giới của trấn Phiên An.

QUÁN BÌNH ĐÁN (XỨ BÌNH ĐÁN)

Tục gọi quán Mít, cách trấn về phía nam 21 dặm, quán chợ ít người, có bán điểm tâm.

THẠCH KIỀU (CẦU ĐÁ)

Ở phía tây bắc cách trấn nửa dặm, cầu xây bằng những tảng đá ong dài lớn chồng cài nhau gác ngang trên ruộng, dưới mở 3 cửa trống thông nước. Cầu dài 25 trượng, do thuộc trấn Trung bộ Cai cơ đội Lê Văn Hòa xây cất vào thời Thế Tông (Võ vương Nguyễn Phúc Khoát).

TÂN BẢN KIỀU (CẦU VÁN MỚI)

Ở thượng lưu Lộ Khê, tổng An Thủy, huyện Bình An, cách trấn về phía nam chừng 9 dặm. Tháng 6 năm Bính Thân (1776) đời Duệ Tông thứ 12( Định vương Nguyễn Phúc Thuần), Hữu phủ Kính quốc công Tống Phước Hợp qua đời, Lý tướng quân đạo Hòa Nghĩa mất người [30a] nương tựa, lại bị binh tướng Đông Sơn chèn ép kiếm chuyện, không dằn nổi phẫn uất, liền đem binh phản lại, họp thêm người Hoa trong hạt sung vào 8 đội ngũ được hơn 8.000 người, chia ra làm 4 sắc cờ: Lý Hiền tướng quân lãnh cờ vàng, Vương Nam tướng quân lãnh cờ trắng, Lý Lâm tướng quân lãnh cờ hồng và Trần Hổ tướng quân lãnh cờ lam. Lại còn mộ bắt người Minh Hương, Thanh Hà ([63][63]) cùng bọn côn đồ vô lại xưng hiệu là quân Trung Đạo chiếm cứ huyện Bình An, tha hồ cướp phá, bắt giết được người nào thì quân Trung Đạo mổ bụng ăn gan và ăn cả thịt, hung ác không đâu sánh kịp. Tháng 8, Đông Sơn Thượng tướng quân Đỗ Thanh Nhơn điều 5 tướng là Đỗ Hoành, Đỗ Kỵ, Đỗ Bố, Đỗ Bảng, Đỗ Nhàn đến đánh, quân họ Lý lui về dựa thế hiểm yếu ở núi Châu Thới. Thuở ấy binh Hòa Nghĩa dùng mác 8 thước ta, lưỡi như dao ở đầu cá đao vừa chém vừa đâm đều được, lại dùng dao lá bài, súng điểu thương làm môn sở trường, khi ra trận thì cột giấy vàng bạc và giấy tiền vào đầu, ý ắt chết. Quân Đông Sơn thì lấy [30b] thuốc vẽ năm màu ([64][64]) bôi mặt, cầm đuốc dầu rái và cán sào cột dây mây có cục gai vào đầu sào rủ xuống như đuôi chim trĩ, dùng đao dài dao ngắn làm món sở trường. Họ giao chiến ở chợ Bình Tiên, quân Hòa Nghĩa giả thua dụ quân Đông Sơn đến núi Châu Thới, phục binh ở cầu Ván Mới bất thình lình nổi dậy đánh giết, binh tướng Đông Sơn chết và bị thương không xiết kể, cả thầy dạy võ là Nguyễn Liễu Cửu cũng bị giặc giết. Bọn Đỗ Hoành sợ chạy về Sài Gòn, quân Hòa Nghĩa tới đóng tại chợ Thủy Vọt, tính kế vượt sông đánh úp dinh Phiên Trấn, gặp khi Mục vương từ Quy Nhơn chạy vào Gia Định, ra lệnh cho Tham mưu Nguyễn Khoáng đến báo tin, từ ấy quân họ Lý thừa thế thẳng xuống Phiên Trấn, bèn gây nên mối họa bức vua nhường ngôi, cùng tự chuyên lập vua khác.

TRẤN ĐỊNH TƯỜNG

Lỵ sở trấn Định Tường ở đất thôn Mỹ Chánh, tổng Kiến Thạnh, huyện Kiến Hòa. Ngày 18 tháng 2 mùa xuân năm Kỷ Mùi (1679) đời Thái Tông năm thứ 32 [31a] (Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần), tướng Long Môn là Dương Ngạn Địch từ nước Đại Minh sang kinh xin quy phụ. Vua sai Xá sai là Văn Trinh, Tướng thần lại là Văn Chiêu đưa dụ văn sang vua Cao Miên là Nặc Thu, bảo chia đất này cho đoàn Dương Ngạn Địch ở. Tháng 5, Văn Trinh dẫn cả binh biền Long Môn và thuyền bè đến đóng ở vùng Mỹ Tho, rồi xây dựng nhà cửa, qui tụ người Việt, người Thổ kết thành thôn xóm. Đến đời Hiển Tông (Nguyễn Phúc Chu) lập ra phủ trị ở phía bắc chợ, lệ thuộc vào dinh Phiên Trấn. Đời Duệ Tông (Nguyễn Phúc Thuần) cải đặt làm đạo Trường Đồn có một viên Cai cơ hoặc Cai đội và một Thư ký ở làm việc, sau nầy mới lập dinh trấn (xin xem rõ trong Cương vực chí), ấy là tùy thời mà dời đổi, hoặc nam hoặc bắc, hoặc tới hoặc lui cũng chẳng ngoài cuộc đất ấy, nhưng thành trì thì chưa đắp. Phía nam lỵ sở là chợ phố lớn Mỹ Tho, mái ngói cột chạm phủ, đình cao, nha thự ([65][65]) rộng, thuyền bè sông biển ra vào, buồm thuyền trông như mắc cửi, thật là nơi đô hội lớn phồn hoa huyên náo. Từ khi Tây Sơn chiếm cướp, nơi đây thành chiến trường, [31b] đốt phá gần hết. Từ năm Mậu Thân (1788) Trung hưng tới nay, người ta dần dần trở về, tuy nói trù mật, nhưng so với xưa thì chưa được phân nửa. Năm Nhâm Tý (1792), xây cầu bằng cây kè ngang qua sông để thông với đồn Kiến Định, năm Tân Dậu (1801) thì bị hỏng, nhưng lúc ấy loạn lạc đã yên, trong vùng không có việc khẩn cấp, mà dòng sông lại sâu, nước chảy xoáy mạnh nên không làm cầu lại, nay qua phải dùng đò ngang.

ĐỒN MỸ THO

Ở phía nam trấn chừng một dặm, trước kia đây là rừng hoang, là hang ổ của hùm beo. Năm Nhâm Tý (1792) thời Trung hưng mới đắp đồn vuông, chu vi 998 tầm, có mở 2 cái cửa bên phải và trái, ở cửa có cầu treo bắc ngang, hào rộng 8 tầm, sâu 1 tầm, bốn mùa nước đều ngọt, có nhiều cá tôm, dưới cầu có dòng nhỏ để thông với sông lớn Mỹ Tho, ngoài hào có đắp lũy đất có cạnh góc lồi lõm như hình hoa mai, mặt trước chân lũy ra 30 tầm đến sông Lớn. Trong đồn có kho gạo, kho thuốc súng, trại quân và súng lớn, tích trữ đầy đủ nghiêm túc. Mặt sông rộng lớn; năm Giáp Dần (1794) trên đồn đặt súng lớn, có bắn thử qua bờ sông bên kia [32a], cách xa 10 dặm mà cây cành trong rừng đều bị trốc gẫy, ấy là do đường đạn đi mạnh thế ([66][66]).

HUYỆN KIẾN HÒA

Công việc nhiều, trị sở ở thôn Mỹ Hóa, tổng Kiến Thạnh, ấy là chỗ huyện lỵ xưa, cách trấn 20 dặm rưỡi, nơi ấy gọi là Lương Quán, có chợ nhỏ. Từ khi Tây Sơn chiếm cướp, huyện bị hoang phế rất lâu, năm Gia Long thứ 19 (1820) ([67][67]) mới lập huyện lại ngay chỗ đất cũ, quy chế giống huyện ở Phiên An.

HUYỆN KIẾN ĐĂNG

Công việc nhiều và khó nhọc, trị sở ở thôn Mỹ Đức Đông, vùng sông Thi Giang, quy mô như huyện trên.

HUYỆN KIẾN HƯNG

Trị sở ở địa phận thôn Tân Lý Tây, chỗ đồn cũ Kiến Định, quy mô cũng giống các huyện trên.

CHỢ LƯƠNG PHÚ (CHỢ BẾN TRANH)

Cách trấn về phía đông hơn 14 dặm, quán xá đông đúc. Bánh tráng ở chợ nầy dày, lớn, thơm, giòn mà giá rẻ, người qua lại đây thường mua đem đi làm quà tặng nhau, có tiếng khắp xa gần. Đầu chợ phía đông có Bến Chùa, ở đó đều là những nhà bán lúa gạo, thuyền bè đi mua gạo do đó thường đậu chùm nhum ở đây, cũng gọi là một chợ lớn.

[32b] CHỢ HƯNG LỢI (CHỢ VŨNG GÙ)

Ở phía nam sông Bảo Định, phố xá liền nhau như vẩy cá. Chợ trông ra sông lớn, kẻ qua lại thường đậu thuyền ở đây đợi con nước lên rồi theo dòng nước đi xuống đông hay là lên tây, cho nên trên sông có nhiều xuồng chở bán đồ ăn, trong ấy có người bán thịt lợn luộc chín gọi là thịt Bái Đáp, vì làng Bái Đáp thuộc huyện Quảng Điền, kinh đô Phú Xuân chuyên nghề làm heo bán thịt mà có cách luộc ăn rất ngon béo, người ở chợ nầy bắt chước làm theo, cũng gọi là thịt Bái Đáp.


TRẤN VĨNH THANH (S
ự thay đổi xin xem rõ ở Cương vực chí)

Vào tháng 2 năm Quý Dậu niên hiệu Gia Long 12 (1813), khâm mạng, Trấn thủ Lưu Phước Tường đắp thành đất. Lưng hướng Kiền (hướng tây bắc), mặt hướng Tốn (hướng đông nam), từ phía nam qua phía bắc cách 200 tầm, từ đông qua tây cũng vậy, chỗ giữa của bốn mặt thành lõm vào, phía ngoài có thành cong bao vòng chỗ cửa hình như đầu cái khuê ([68][68]), bốn góc thành có sừng nhọn như hình kim quy, hay như hình hoa mai. Trong thành có 2 con đường dọc, 3 con đường ngang, trước [33a] dựng hành cung, ở giữa là 3 công thự, sau có kho chứa, trại quân và nhà thừa ty đều ở hai bên phải và trái. Hào rộng 10 tầm, phía trái thành là sông Long Hồ, phía phải là Ngư Câu (Rạch Cá), mặt sau là dòng sông lớn Tiền Giang, mặt trước thành có đào ngòi cừ sâu, dài 425 tầm, bề ngang 40 tầm thông với sông Long Hồ và Ngư Câu (Rạch Cá) để làm hào ngoài thành. Góc thành phía đông có đường cái quan dọc theo sông, phía trái là sứ quán, phía phải là chợ Vĩnh Thành, ngòi chảy ngang đầu đường cái quan, bắc cầu dài, đi ngang lỵ sở cũ, qua cầu sông lớn Long Hồ, đến chợ Long Hồ. Ở ngoài bờ ngòi góc phía nam là xưởng thủy quân, bên ngoài có đồn nhọn góc ba mặt bao theo, góc phía tây nam ngòi có bắc cầu thông qua, mặt sau giáp sông, có nhà cửa tiệm quán, thật là nơi trọng yếu bề thế đẹp đẽ.

ĐỒN CHÂU ĐỐC

Ở phía đông sông Vĩnh Tế thuộc Hậu Giang, cách trấn về phía tây 326 tầm. Niên hiệu Gia Long 14 (1815), Trấn thủ Vĩnh Thanh là Lưu Phước Tường phụng sắc điều quân dân trong trấn hạt gồm 3.000 người, mỗi tháng cấp cho mỗi người 2 quan tiền và một vuông rưỡi gạo. [33b] Ngày 4 tháng 12 khởi công đắp đồn dài hình lục giác, từ trước đến sau 324 tầm, từ trái qua phải 164 tầm, hai bên phải trái đều có hai cửa, mặt sau một cửa, bề cao 7 thước ta, chân dày 6 tầm, ngọn túm bớt 5 thước ta, có hai bậc, lưng tựa hướng Kiền, mặt hướng Tốn, phía phải giáp sông lớn, 3 phía trước sau và trái có hào rộng 20 tầm, sâu 11 thước ta, thông với sông cái. Trong đồn có phòng lính ở, kho chứa, súng lớn và quân khí đầy đủ, lấy quân trong 4 trấn và đồn Oai Viễn mỗi phiên 500 người đến đóng giữ, nằm ngang đối diện có đồn Tân Châu ở Tiền Giang cách về phía đông 32 dặm rưỡi, phía tây cách trấn Hà Tiên hơn 203 dặm, phía bắc cách thành Nam Vang 244 dặm rưỡi, thật là một nơi biên phòng trọng yếu vậy.

ĐỒN CHÂU GIANG

Trước là thủ sở Châu Đốc, ở đầu mõm cồn là vùng đất bị nước vỗ chụp, thường bị nước lụt xoáy mạnh sụt lở, mà lại sóng gió ì ầm, thương thuyền đến dừng nghỉ không tiện. Mùa xuân niên hiệu Gia Long thứ 17 (1818), vua ban chỉ cho Trấn thủ trấn Vĩnh Thanh là Nguyễn Văn Xuân xem xét địa điểm, dời lên vùng thượng lưu cách chỗ cũ một dặm, đắp đồn đất vuông, tựa [34a] hướng Quý (hướng bắc) mặt trông đến hướng Đinh (hướng nam), mỗi mặt 30 tầm, cao 6 thước 5 tấc ta, chân dày 3 tầm, ngọn túm bớt 4 thước ta, chỗ chính giữa mặt đồn đều đắp nhọn ra như hình bát giác. Mặt phải mặt trái chỗ gần góc mặt tiền đều mở một cửa, hào rộng 3 tầm, có lũy dài 4 tầm, mặt trước bên phải cách sông 35 tầm, đổi tên lại là đồn Châu Giang, làm chỗ đóng quân để phòng thủ.

HUYỆN TÂN AN

Công việc nhiều và khó nhọc, ở địa phận thôn Phước Hạnh xứ Ba Vát cách trấn về phía đông 121 dăm, trông ra sông. Chợ Ba Vát phố xá đông đúc, quy mô huyện nầy cũng như các huyện ở Phiên An. Trước đây vào tháng 3 năm Đinh Dậu (1777), Tây Sơn vào cướp; tháng 7, Mục vương chạy đến đây, Tây Sơn vây chặt mấy lớp, lúc ấy Quận công Tôn Thất Chất, Nội tả chưởng dinh Nguyễn Mẫn, Chưởng cơ Tống Phước Hựu đều bị bệnh mất cả, duy còn Điều khiển Tống Phước Hòa một mình chống giữ, nhiều phen phá được quân địch, quân thanh khá chấn động, nhưng ngặt nỗi 4 mặt đều có quân địch, thế cô không người tiếp viện. Đến tháng 8, địch thêm quân đánh rát, quan quân đuối sức, Mục vương bị địch bắt đi, Tống Phước Hòa phải chết vì quốc nạn, thật đáng thương thay!

[34b] HUYỆN VĨNH AN

Công việc nhiều và khó nhọc, trị sở ở thôn Vĩnh Phước, chợ Sa Đéc, quy mô như huyện trước.

HUYỆN VĨNH BÌNH

Công việc nhiều và khó nhọc, trị sở ở đất hai thôn Tân Hiệp và Phú An, xứ Mân Thít, quy mô như các huyện trước.

HUYỆN VĨNH ĐỊNH

Công việc khó khăn, trị sở tại đất thôn Tân An, xứ Cần Thơ, quy chế như các huyện trước.

MIẾU HỘI ĐỒNG

Ở địa phận phường Sùng Văn, huyện Vĩnh An, rường cột bằng gỗ thông, gỗ đàn, hiên vách đều sơn chạm trang trí tốt đẹp, dùng làm đàn tế lễ, hàng năm có 2 lần tế xuân và thu, trấn quan chiếu theo nghi thức để hành lễ, có chép vào Tự điển.

ĐỀN LỄ CÔNG

Ở trên cù lao lớn sông Hậu Giang, tháng 7 năm Kỷ Mão (1699) đời Hiển Tông thứ 9 (Quốc chúa Nguyễn Phúc Chu), (năm thứ 20 niên hiệu Chính Hòa đời Lê Hy Tông, năm thứ 36 Đại Thanh Càn Long), Nặc Thu người nước Cao Miên đắp lũy Gò Vách, Nam Vang và Cầu Nôm, rồi cướp bóc dân buôn. Tướng Long Môn là Thống binh Thắng Tài hầu Trần Thượng Xuyên đang giữ Doanh Châu đem việc ấy báo lên. Tháng 11, Chưởng cơ Lễ Thành hầu Nguyễn công ([69][69]) và Tham mưu Cẩm Long hầu Phạm công điều động Lưu thủ dinh Trấn Biên là Nguyễn Hữu Khánh và biền binh 2 dinh Quảng Nam, Bình Khang cùng tướng sĩ Long Môn [35a] đến đóng ở Tân Châu để dò xem tình hình giặc hư thật thế nào, rồi tháng 3 năm Canh Thìn (1700) kéo quân thẳng đến lũy Nam Vang. Quân địch bày trận chờ đợi, Lễ công đứng đầu thuyền rút gươm chỉ huy ba quân tiến vào, tiếng súng đại bác nổ vang như sấm. Do Nặc Thu lui trước nên quân Cao Miên không đánh mà tự tan, quan quân phá luôn lũy Gò Vách, Nặc Yêm ra đầu hàng. Lễ công vào đồn vỗ yên nhân dân. Tháng 4, Nặc Thu đến trước quân dinh xin chịu tội, Lễ công lấy lời thành thực an ủi, lịnh cho Thu về lại La Vách chiêu tập dân lưu tán, Lễ công kéo quân về cù lao Cây Sao (cù lao này xưa có nhiều cây sao, tức nay là cù lao Ông Chưởng) làm tờ báo tiệp và chờ lệnh.

Đêm 26 tháng ấy bỗng có gió mưa tầm tã, đất đầu cù lao bị sụt lở, tiếng vang như sấm lớn. Đêm ấy Lễ công nằm mộng thấy một người cao lớn mặc áo gấm, tay cầm cái búa Việt màu vàng, mặt đỏ như son, mày râu bạc trắng, đến trước ông bảo rằng: Tướng quân hãy kéo quân về sớm, không nên ở lâu nơi ác địa nầy. Công thức dậy, cảm thấy dã dượi nhưng vì việc ngoài biên chưa xong, bọn yêu nghiệt còn ẩn núp chốn núi rừng. [35b] Công đang trù trừ chưa quyết định thì ba quân bỗng bị phát bệnh dịch mà chính Công cũng bị nhiễm nhẹ, dần dần hai chân mất hẳn cảm giác, không ăn uống được. Gặp ngày Đoan ngọ (ngày 5 tháng 5), Công miễn cưỡng ra dự tiệc để khen lao tướng sĩ, rồi bị trúng gió mà thổ huyết, bệnh tình càng trầm trọng. Ngày 14, Công kéo binh về, ngày 16 đến Sầm Giang (Rạch Gầm) thì than ôi! Công từ trần. Quan quân chở quan tài về dinh Trấn Biên tạm quàn ở đấy ([70][70]), tâu trình sự việc lên vua. Vua nghe tin lấy làm thương tiếc than thở hồi lâu sắc tặng là Hiệp tán Công thần đặc tiến Chưởng dinh, thụy là Trung Cần, thọ được 51 tuổi. Người Cao Miên lập miếu thờ Công ở đầu cù lao Nam Vang. Cù lao nơi Công dừng binh, nhân dân cũng lập đền thờ và gọi tên cù lao ấy là cù lao Ông Lễ, còn chỗ dừng quan tài ở dinh Trấn Biên cũng lập miếu thờ, các miếu ấy đều rất linh ứng. Phải chăng do lòng trung thành chính khí của Công cùng trời đất bàng bạc khắp nơi vậy.

Còn Trần tướng quân nhiều phen giao chiến làm cho quân địch phải kiêng sợ, sau cũng được lập đền thờ ở đó và ở xã Tân An dinh Phiên Trấn. [36a] Tại thôn Tân Lân, dinh Trấn Biên mọi người đều ngưỡng mộ công khai khẩn của Lễ công nên hương khói không bao giờ dứt.

CHỢ LONG HỒ

Cách trấn về phía đông 1 dặm, hai mặt giáp sông, chợ lập ra vào năm Nhâm Tý đời Túc Tông (Đỉnh Quốc công Nguyễn Phúc Chú) ([71][71]) năm thứ 8 (1732), phố xá liền nhau, hàng hóa tụ tập đủ cả trăm món, dài đến 5 dặm, ghe thuyền đậu đầy bến, miếu thần, đình làng mọc lên, đàn hát náo nhiệt, là phố chợ lớn trong trấn.

CHỢ SA ĐÉC

Ở về phía đông phố huyện Vĩnh An. Phố chợ nằm dọc theo bờ sông, nhà cửa nối nóc chọi mái nhau san sát như vảy cá kéo dài đến 5 dặm, dưới sông có những be tre, gác làm phòng ốc, đậu sát thành hàng, hoặc bán hàng tơ đoạn cùng đồ dùng từ nam bắc chở đến, hoặc bán các thứ dầu rái, than, mây, tre, khô, mắm v.v... trên bờ dưới sông có trăm thứ hàng hóa tốt đẹp, thật là nơi phồn hoa tráng lệ, nhìn lóa mắt thỏa lòng.


[38b] TRẤN HÀ TIÊN

Trấn thự Hà Tiên, nằm hướng Kiền (tây bắc) trông ra hướng Tốn (đông nam) lấy núi Bình Sơn làm gối, Tô Châu làm tiền án, biển cả Minh Hải làm hào phía nam, Đông Hồ làm hào phía trước, ba mặt có lũy đất từ Dương Chử đến cửa hữu dài 112 trượng rưỡi, từ cửa hữu đến cửa tả dài 153 trượng rưỡi, từ cửa tả đến xưởng Thuyền ra Đông Hồ 308 trượng rưỡi, các lũy nầy đều cao 4 thước ta, dày 7 thước ta, hào rộng 10 thước ta. Ở giữa làm công thự, vọng cung, lại ở trước công thự, hai bên đặt dãy trại quân, trước sân có cầu Bến Đá, phía trái có sứ quán, phía phải có công khố. Dinh Hiệp trấn ở chân núi Ngũ Hổ, ngoài vọng cung về phía trái có chợ trấn, phía trái công thự có đền Quan Thánh, sau thự có chùa Tam Bảo. Bên trái chùa có đền thờ Mạc công. Chợ trấn trông về đông là bến hồ, ở đó có trại cá, phía bắc công khố là miếu Hội Đồng, phía bắc miếu có xưởng sửa thuyền, chia thành khu ngang dọc, lấy đường lớn làm ranh; phía tả miếu Quan Thánh là phố Điếu Kiều, đầu [37a] bến có bắc cầu ván thông ra biển tiếp với hòn Đại Kim, phía đông phố Điếu Kiều là phố chợ cũ, qua phía đông chợ này là phố chợ Tổ Sư, kế nữa là phố lớn, tất cả đều do Mạc Tông gầy dựng từ trước. Đường sá giao nhau, phố xá nối liền, người Việt, người Tàu, người Cao Miên, người Chà Và đều họp nhau sinh sống, ghe thuyền ở sông biển qua lại nơi đây như mắc cửi, thật là nơi đại đô hội ở dọi biển vậy.

ĐẠO LONG XUYÊN (CÀ MAU)

Lỵ sở ở phía bờ đông trấn thự, giáp biển cả. Biển có nhiều thứ cá lớn, ở sông có nhiều cá sấu. Vốn là đất cũ của Cao Miên gọi là Tứk Kha Mâu ([72][72]), người Hoa gọi là Hắc Thủy, đất ở đây thường ẩm thấp phải gác gỗ để ở (nhà sàn). Ban đầu Mạc Cửu đặt làm đạo. Niên hiệu Gia Long thứ 7 (1808) mới đặt làm huyện, chia làm hai tổng cũng trực thuộc về đạo. Quan viên đặt một văn, một võ. Về võ thì có Cai cơ hoặc Cai đội, còn văn thì có Tham luận hoặc Thư ký cùng nhau giữ gìn đạo. Quản lý việc thu thuế và xử lý việc ngục tụng thì có các thuộc lại được đội Long Quang tùng sự. Phía trước lỵ sở của đạo là phố chợ, người Việt, người Tàu và người Cao Miên tụ tập đông đúc, tàu Xiêm La thường đến mua bán, đổi chác hàng hóa. Về phần đem sức ra mà khẩn đất hoang thì người Tàu là cần mẫn nhất, mà cả việc đánh lưới biển, chận đăng sông, cùng buôn bán quan trọng cũng do người Tàu chủ trì.

ĐẠO KIÊN GIANG

Tại phía đông trấn, tục gọi là Đầm Cùng (Cùng Đàm), phía nam thông với cảng Lịch Giang (Rạch Sỏi), trước là chỗ hoang vắng, nay quan binh trú đóng, thương lữ hội tập, đặt một huyện, hai tổng, lãnh đạo bởi một quan văn và một quan võ, còn việc thu thuế và xử án thì có các thuộc lại được quân Kiên Nghị tùng sự, là đất phồn thịnh, các công sai phòng hải, cùng sứ giả Xiêm La luôn tới lui.

MIẾU HỘI ĐỒNG

Ở bên cạnh lỵ sở đạo Long Xuyên, các thứ như bảng vàng, tú bình ([73][73]), cửa son, phòng kín, đều màu sắc đẹp đẽ thanh khiết, phụng sự linh thần trong tam giới, thật là linh ứng được ghi trong tự điển.

MIẾU HẢI LINH

Ở trên núi Bạch Thạch thuộc đạo Long Xuyên, mặt trông ra vũng biển, vách rồng đàn phượng ([74][74]) rất nguy nga rực rỡ, thờ linh thần sông biển, dân địa phương sùng bái kính cẩn, thường được linh ứng.

CHÙA TAM BẢO

[37b] Chùa Tam Bảo ở sau trấn thự, cảnh chùa rộng rãi, tượng Phật to lớn, chùa do Thống binh Mạc Cửu dựng lên từ buổi đầu. Thân mẫu Mạc Cửu là Thái phu nhân tuổi ngoài 80 tựa cửa nhớ con tha thiết, từ Lôi Châu cưỡi thuyền vượt biển đến, Mạc Cửu giữ mẹ lại phụng dưỡng. Phu nhân vốn mộ đạo Phật, lòng rất thành kính, nhân ngày lễ tắm Phật, phu nhân vào chùa cúng dường chiêm bái, trong khoảnh khắc bỗng hóa ([75][75]) trước điện Phật. Mạc Cửu theo lễ chôn cất tại núi Bình Sơn, rồi đúc tượng mẹ bằng đồng thờ tại chùa này ([76][76]) nay tượng vẫn còn.

AO THỔ VŨ

Ở sau miếu Quan Thánh trong trấn thành, diện tích rộng sâu hơn một mẫu, vườn rau ở phía nam, nước tưới được dẫn từ đây đến đầy dẫy, trong ao có nhiều cá.

 

 


([1][1])        Không chỉ toàn bộ vùng đất Nam Bộ

([2][2])        Bản in kèm bản dịch VSH chép "cao 10 thước ta" (高十尺). Bản VHN lưu trữ đều chép cao 13 thước ta.

([3][3])       Bản Nguyễn Tạo và VSH viết chữ 樹. Bản của VHN viết chữ ¸. Cả hai chữ đều đọc là thụ và đều có nghĩa là "dựng lên".

([4][4])        Bản dịch của VSH chép là "Năm Gia Long thứ 6 (1807)" (Bt).

([5][5])        Bản in kèm bản dịch VSH chép Càn Khảm hiểm lộ, không có chữ Nguyên.

([6][6])        Thuyền thật lớn là tàu. Trong Nam gọi thuyền lớn là ghe, thuyền nhỏ là xuồng.

([7][7])        Tế mã (祭禡): Khi đoàn quân dừng tại đâu, sợ xúc phạm đến thần nơi đó, nên phải cúng tế gọi là mã (禡). Thiên Vương chế ở sách Lễ chép: "Tế mã nơi chỗ quân chinh phạt".

([8][8])        Kỳ đạo tế (旗纛祭): Kỳ đạo là cờ tiết mao, là cờ cái cắm ở trung quân, cũng đọc là kỳ độc. Kỳ đạo tế là lễ cúng cờ cái trước hàng quân khi xuất chinh.

([9][9])        Giác Ngư đồn (角魚屯): Giác ngư là con cá trê. Chữ giác (角) không phải có nghĩa sừng mà là ngạnh. Con cá trê có hai cái ngạnh nên gọi là giác ngư. Đồn Giác Ngư là đồn Cá Trê.

([10][10])      Tức đời Chúa Nguyễn Phúc Chu.

([11][11])      Trung dinh tức dinh của Trấn thủ.

([12][12])      Bản kèm bản dịch Nguyễn Tạo chép 65 dặm (六十五里). Bản kèm bản dịch VSH lại chép 5, 6 chục dặm (五,六十里)

([13][13])      Cây si, tên chữ là dong thọ, cũng gọi là cây đa, cây da.

([14][14])      Võ Tánh và Ngô Tùng (Tòng) Châu là hai đại thần tuẫn tiết chết theo thành khi thành Qui Nhơn thất thủ.

([15][15])      Tức Công chúa Ngọc Du, em gái của Gia Long (Bt).

([16][16])      Tức Trần Quang Diệu, võ tướng của Tây Sơn.

([17][17])      Cả hai bản nguyên văn của VHN và VSH đều chép nhầm là Lê Tông Chất (黎宗質) nhưng bản Nguyễn Tạo chép Lê Văn Chất và qua sử sách xác định là Lê Văn Chất (黎文質), vậy xin dịch Lê Văn Chất.

([18][18])      Thần Nam Hải tức thần cá voi, còn gọi là cá Ông.

([19][19])      Hà Bá, Thủy Quan, Ngọc Lân là các thần sông gốc thủy tộc ở triều đình Long vương theo tín ngưỡng dân gian.

([20][20])      Cả ba bản nguyên văn đều chỉ viết Dương Văn soạn (楊文撰), nhưng sử sách xác định sách này do Dương Văn An soạn.

([21][21])      Chữ Tri (知) trong ngữ cảnh này có nghĩa là chủ, là người chỉ huy. Vậy Tri Binh chính viện là làm Trưởng viện Binh chính cũng như Tri huyện là làm trưởng một huyện, tức quan đầu huyện.

([22][22])      Tướng người Hoa Lý Tài - Nghĩa Hòa đoàn ép Định vương làm Thái Thượng vương nhường ngôi cho Mục vương Nguyễn Phúc Dương lên ngôi làm Tân Chánh vương.

([23][23])      Trong Thiền tông ngũ gia là "Qui Ngưỡng, Lâm Tế, Tào Động, Vân Môn và Pháp Nhãn" thì tông Lâm Tế truyền ra nước ngoài sâu rộng nhất. Riêng ở Đồng Nai thì ảnh hưởng của hai tông Lâm Tế và Tào Động đến nay hãy còn sâu đậm.

([24][24])      Nguyên văn: Già Lam, là từ gọi tắt tiếng Phạn Tăng già lam ma, dịch nghĩa là "chúng viên", tức khu vườn nơi tăng chúng tụ lại tu học. Sau gọi chùa chiền là Già lam.

([25][25])      Bản dịch của VSH chép: "Năm Gia Long thứ 15 (1816)" (Bt).

(4) Mua mão: Tức mua sỉ, mua trọn.

([26][26])      Chữ (礫) có nghĩa là sạn, hay sỏi. Vì chưa có điều kiện đi tới địa phương này để xác định người nơi ấy xưa kia gọi đây là bến Sạn hay Sỏi. Nay xin ghi cả hai tên.

([27][27])      Ngược lại, có một số địa phương ở Nam bộ còn giữ được tên như sông Đốc Vàng, sông Bà Kí, chợ Bà Hom, chợ Bà Quẹo, chợ Bà Chiểu, và trại Ông Yệm! v.v... Bổ sung thêm một số địa phương chỉ còn tên chức vụ như cầu Ông Lãnh, cù lao Ông Chưởng, cảng Ông Đốc.

([28][28])      Nguyên văn viết (詑). Đây là chữ Nôm, có thể đọc sá hay xá.

([29][29])      Phải chăng La Vách là Lovek ở phía bắc Oudong? Từ La Vách cũng chỉ vùng Long Hồ, Long Xuyên, nhưng đọc toàn mạch văn tiếp theo đoạn nói về cầu Cao Miên thì có lẽ thành La Vách là Lovek ở phía bắc Nam Vang.

([30][30])      Lời xưa rằng: mặt trời mặt trăng tuy sáng, khó soi thấu dưới lòng cái chậu úp (Nhật nguyệt tuy minh, nan chiếu phúc bồn chi hạ日月雖明難照覆盆之下)

([31][31])      Tức Trần Thượng Xuyên.

([32][32])      Tức đảo Hải Nam, Trung Quốc.

([33][33])      Cả hai bản nguyên văn của VSH và bản của Nguyễn Tạo đều chép đến tháng 12 thì mất (十二月) e không chính xác vì khi chỉ tháng 12 (tháng chạp) người ta thường viết là lạp nguyệt (臘月).

([34][34])      Nguyên văn viết Phiên dân (藩民) nghĩa là dân nước Phiên thuộc, tức chỉ dân Cao Miên vì Cao Miên lúc này là Phiên thần của Việt Nam.

([35][35])      Tức Tĩnh Đô vương.

([36][36])      Tức Hoàng Ngũ Phúc.

([37][37])      Tịnh là con dòng chính của Nguyễn Siêu Quần, người huyện Phù Ly. Siêu Quần tự là Thuần Nhất, biệt danh Bất Nhị, rất nổi tiếng lý học, thông thạo thuật dùng binh, môn nhân gọi là Siêu Quần tiên sinh.

([38][38])      Nguyên văn: Huệ tương cam tâm, nếu mà dịch là "Huệ phải đành lòng": là hiểu thành ngữ này theo ngữ khí Việt Nam. Thành ngữ Tương cam tâm ở Hán văn không có nghĩa "phải đành lòng" như người Việt mình thường hiểu nhầm mà có nghĩa là "muốn giết chết". Thành ngữ này trong Liêu Trai chí dị, Bồ Tùng Linh dùng rất nhiều, và đa phần dịch giả Việt Nam mình đều dịch là "Mới vừa lòng, mới hả dạ".

([39][39])      Chữ境trong Nam quen đọc Kiểng, ngoài Bắc đọc Cảnh.

([40][40])      Chữ Nôm ở nguyên văn viết哥啵, bản VSH dịch là Cà Rá nhưng chữ Nôm Cà Rá lại viết là ¹鋁. Vậy tạm dịch là Kha Pha.

([41][41])      Nguyên văn viết Vũng Long nhưng phải đọc là Vũng Luông.

([42][42])      Thái Khang dinh nay là đất Khánh Hòa (Nha Trang - Phú Yên).

([43][43])      Phước Tứ: ý được ban phước, tức không đánh đổ máu mà được, ta có thể dịch thoáng là "lũy trời cho" (福賜).

([44][44])      Mục vương Nguyễn Phúc Dương là con của Tuyên vương Nguyễn Phúc Hiệu.

([45][45])      Theo Trương Vĩnh Ký trong PCGBC thì sông này là sông Nước Lộn, tên chữ là Thủy Hiệp giang. Trịnh Hoài Đức viết Đảo Thủy là dịch ý Nước Lộn.

([46][46])      Sứ lộ (使路) tức đường Sứ giả, viết theo Nôm là塘使.

([47][47])      Nguyên văn cả hai bản VSH và VHN đều chép nhầm là Thần khố (神庫) thay vì Thần miếu (神廟)

([48][48])      Dị lễ (肄禮): Là học tập lễ nghi. Dị nghiệp là học tập nghề nghiệp.

([49][49])      Nguyên văn: thần bài (bài vị ghi danh tước thần). Kim khám (trang thờ thần). Tôn (bình giềng vàng). Lôi (chén uống nước có vẽ hình mây sấm). Phủ quỹ (mâm đựng xôi cúng thần). Biên (tộ đựng muông sinh cúng thần). Đậu (khay đựng dưa xổi cúng thần).

([50][50])      Khâm sai Thống suất Chưởng cơ Lễ Thành hầu Nguyễn Phúc Lễ là Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh (Kính). Phúc Lễ là tên tục của ngài!

([51][51])      Nguyên văn bản in kèm bản dịch Nguyễn Tạo chép duy kiến惟見. Hai bản của VSH và VHN đều chép di kiến遺見. Cả hai chữ duy (惟) và di (遺) đều hợp nghĩa.

([52][52])      Loạn thần (亂臣): chữ loạn ở từ đôi này có nghĩa là "trị yên" chớ không phải là "làm loạn", như câu Võ vương hữu loạn thần thập nhân (武王有亂臣十人) là: vua Võ có mười bầy tôi có tài trị yên nước.

([53][53])      Nguyên văn Hậu Quan Âm quán (後觀音觀) có nghĩa là phía sau có điện quán Quan Âm, tức chùa Quan Âm.

([54][54])      Nguyễn Ánh lên ngôi tại Gia Định năm 1778 nên Thế Tổ Cao Hoàng năm thứ 22 là năm1799.

([55][55])      Chỉ tác giả sách này là Trịnh Hoài Đức.

([56][56])      Diên Lộc hầu tức Cai cơ Nguyễn Diên có công đánh chiếm lũy Phước Tứ.

([57][57])      Tiếng Khơ me gọi người lớn tuổi là Tà, các bậc thần cũng gọi là Tà như miếu ông Tà chẳng hạn. Tiếng Khơ me gọi đủ là Nặc Tà (Nec Ta) nghĩa là Tà thần. Người Khơ me thờ ba tôn vị, đó là Préa (Phật Đà, tức đức Thích Ca Mâu Ni), Nec Ta tức Tà thần vừa nói ở trên và Á Rặc (tức Ma quỷ). Xây Á Rặc là kiểu lên đồng của Khơ me, cấm người lấy ống lá đu đủ xoi vách xem lén qua lỗ cuống lá.

([58][58])      Chùa này nay ở giữa Tân Vạn và Chợ Đồn, bên cạnh bờ sông Đồng Nai với biển hiệu đề bằng chữ Hán là Sắc Tứ Hộ Quốc Quán Tự (敕賜護國觀寺) và bằng chữ quốc ngữ là "Chùa Sắc Tứ Hộ Quốc Quan".

([59][59])      Kho Gian Thảo là kho chỗ Cầu Kho của trấn Phiên An.

([60][60])      Nguyên văn Bắc thuyền (北船) không thể dịch "Thuyền ngoài Bắc Hà" được vì thời đó Nam - Bắc nước ta không thông thương nhau.

([61][61])      Quán Bình Đồng, quán Bình Đán: Chữ quán (館) nầy nằm trong ngữ cảnh hai đoạn nói về Bình Đồng và Bình Đán, không có nghĩa là "Cái quán ăn", "Cái quán nước" hay "Cái quán bán đồ vật" mà có nghĩa là "cái xứ, cái xóm chợ nho nhỏ". Nguyên văn viết: "Xưa ở Bình Đồng Quán cô thôn Bình Đồng". Nếu là cái quán ăn thì không thể có cái thôn Bình Đồng được.

([62][62])      Đây là gò núi có chợ nhóm vào buổi trưa.

([63][63])      Minh Hương (明香) là tên làng người Hoa ở trấn Phiên An. Thanh Hà (清河) là tên làng người Hoa ở Trấn Biên.

([64][64])      Nguyên văn: Ngũ sắc nhan liệu tức thuốc vẽ năm màu, chủ yếu là hùng hoàng, chu sa.

([65][65])      Nguyên văn: Cao đình quảng tự (高庭廣寺). Đình (庭) có nghĩa là chỗ quan làm việc, tự (寺) không phải cái chùa mà là nha thự chỗ quan cư ngụ.

([66][66])      Chỗ này có lẽ tác giả hơi cường điệu vì 10 dặm xa hơn 6 km, đạn đại bác thời đó (1794) không thể bắn đi xa như vậy.

([67][67])      Bản của VSH chép là: "Năm Gia Long thứ 12 (1813)" (Bt).

([68][68])      Một dụng cụ dùng để đong ngày xưa, cũng có nghĩa là ngọc khuê, chưa rõ tác giả muốn ví với cái nào?

([69][69])      Tức Nguyễn Hữu Cảnh.

([70][70])      Quyền thố (權厝). Nguyên văn viết: Tải cửu hồi Trấn Biên dinh, quyền thố cụ dĩ sự văn (載柩回鎮邊營權厝具以事聞) nghĩa là: "chở quan tài về đến dinh Trấn Biên tạm quàn, tâu bày sự việc lên vua". Bản của VSH dịch là "Chở quan tài ông về dinh Trấn Biên tạm chôn rồi đem việc tâu lên", e không ổn: vì về mặt ngữ nghĩa ở thư tịch, chữ thố (厝) này Từ Nguyên chú một nghĩa duy nhất là "Quàn quan tài chờ chôn cất" (Đình cửu viết thố. Vị táng nhi dĩ đãi táng kỳ dã). Từ điển Từ Hải chú giải chữ Thố có hai nghĩa là Chôn và Quàn - (1- Thố, trí dã, vị an trí, cửu ư triệu huyệt nhi táng chi dã; 2- Kim đình cửu đãi táng giả diệc viết thố). Muốn chỉ rõ là chôn cất người ta thường nói đủ là an thố. Muốn chỉ rõ tạm quàn người ta nói đủ là quyền thố.

([71][71])      Tức Ninh Vương. Việt sử xứ đàng Trong của Phan Khoang ghi là Nguyễn Phúc Trú (Bt).

([72][72])      Cà Mau là Tức Kha Mau, cũng viết Tưk Kha Mâu, là kinh Nước Đen.

([73][73])      Tức bình phong ngũ sắc.

([74][74])      Nguyên văn: hạc đàn, long bích (鶴垓 , 竜壁) nghĩa là đàn tế vẽ hạc, vách điện vẽ rồng.

([75][75])      Chữ hóa (化) hay tọa hóa (坐化) chỉ người theo đạo Phật qua đời, thường thì chỉ các tăng ni qua đời.

([76][76])      Nguyên văn: phục phạm đồng vi tượng, tự vu kỳ tự (祀于其寺) nghĩa là: "lại đúc đồng làm tượng mẹ thờ tại chùa nầy". Chữ tự (祀) xác định tượng thờ là tượng của phu nhân chớ không phải tượng Phật, vì chữ tự (祀) chỉ sự thờ phụng mẹ cha hay thần thánh chớ không phải thờ Phật.

 

 

Lên trên

Cùng chủ đề

  • Sách “Di sản Ấn Độ trong văn hóa Việt Nam”

  • Nguyễn Văn Bốn. Tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt ở Khánh Hòa

  • Sách: Quản lý và khai thác di sản văn hóa trong thời kỳ hội nhập

  • Hồ Sĩ Quý. Con người và phát triển con người

  • Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 3

Thông báo

Tư vấn khoa học và kỹ năng nghiên cứu…

Tủ sách văn hoá học Sài Gòn

  • Thư viện ảnh
  • Thư viện video
  • Tủ sách VHH

Phóng sự ảnh: Toạ đàm khoa học: Xây dựng…

Hình ảnh văn hóa Tết xưa (sưu tầm)

Phóng sự ảnh: Lễ hội truyền thống VHH 2011

Phóng sự ảnh Lễ hội truyền thống VHH 2010

Thành phố Sankt-Peterburg, Nga

Bộ ảnh: Việt Nam quê hương tôi 2

Tranh Bùi Xuân Phái

Bộ tem tượng Phật chùa Tây Phương

Bộ ảnh: Đá cổ Sapa

Bộ ảnh: Phong cảnh thiên nhiên

Bộ ảnh: Việt Nam quê hương tôi

"Biển, đảo Việt Nam - Nguồn cội tự bao đời":…

Con dê trong văn hóa và văn hóa Việt Nam

Văn hóa Tết ở Tp.HCM (Chương trình truyền…

Văn hóa Tp. HCM: Một năm nhìn lại và động…

Phong tục Tết cổ truyền của người Nam Bộ

Bánh tét và Tết phương Nam

Con ngựa trong văn hóa và văn hóa Việt Nam

Điện Biên Phủ - Cuộc chiến giữa hổ và voi

Nhìn lại toàn cảnh thế giới từ 1911-2011…

Tọa độ chết - một bộ phim Xô-Việt xúc động…

Video: Lễ hội dân gian Việt Nam

Văn hoá Việt từ phong tục chúc Tết

Văn hoá Tết Việt qua video

Tết ông Táo từ góc nhìn văn hoá học

“Nếp nhà Hà Nội” trên “Nhịp cầu vàng”: tòa…

Văn hóa Thăng Long - Hà Nội qua video: từ…

Hướng về 1000 năm TL-HN: Xem phim “Tử Cấm…

Hướng về 1000 năm TL-HN: Người Thăng Long…

Phim "Chuyện tử tế" – tập 2 (?!) của “Hà…

Default Image

Hướng về 1000 năm TL-HN: "Chuyện tử tế" -…

Sách “Di sản Ấn Độ trong văn hóa Việt Nam”

Nguyễn Văn Bốn. Tín ngưỡng thờ Mẫu của người…

Sách: Quản lý và khai thác di sản văn hóa…

Hồ Sĩ Quý. Con người và phát triển con người

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 3

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 2

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 1

Hồ Sỹ Quý. Tiến bộ xã hội: một số vấn đề về…

Hồ Sỹ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á (Phụ…

Hồ Sỹ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á…

Hồ Sĩ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á…

Sách: Chuyên đề Văn hoá học

Sách: Một số vấn đề về hệ giá trị Việt Nam…

FitzGerald. Sự bành trướng của Trung Hoa…

Hữu Đạt. Đặc trưng ngôn ngữ và văn hoá giao…

Sống chụ son sao (Tiễn dặn người yêu)

Gs. Mai Ngọc Chừ. Số phận & Tâm linh

Trần Văn Cơ. Những khái niệm ngôn ngữ học…

Đoàn Văn Chúc. Văn hóa học (Phần 3 - hết)

Đoàn Văn Chúc. Văn hóa học (Phần 2)

Các nhà VHH nổi tiếng

Julian Haynes Steward

Wen Yi'duo (Văn Nhất Đa)

Leslie Alvin White

Huang Wen'shan (Hoàng Văn Sơn)

Radcliff-Brown, Alfred Reginald

Sapir, Edward

Margaret Mead

Thăm dò ý kiến

Bạn thích cuốn "Cơ sở văn hoá VN" của tác giả nào nhất?

Chu Xuân Diên - 4.8%
Lê Văn Chưởng - 0.9%
Trần Diễm Thuý - 1%
Trần Ngọc Thêm - 37.4%
Trần Quốc Vượng - 53%
The voting for this poll has ended on: 26 06, 2020

Tổng mục lục website

tong muc luc

Tủ sách VHH Sài Gòn

tu sach VHH SG

Thống kê truy cập

  • Đang online :
  • 798
  • Tổng :
  • 3 7 8 2 8 0 6 9
  • Đại học quốc gia TPHCM
  • Đại học KHXH&NV
  • Tran Ngoc Them
  • T.c Văn hóa-Nghệ thuật
  • Tc VHDG
  • Viện NCCN
  • Khoa Văn hóa học
  • Khoa Đông phương học
  • Phòng QLKH
  • Khoa Việt Nam học
  • Khoa Hàn Quốc học
  • BM Nhật Bản học
  • Khoa Văn học - Ngôn ngữ
  • Khoa triết học
  • Khoa Quan hệ quốc tế
  • Khoa Xã hội học
  • Bảo tàng Lịch sử - Văn hóa
  • viettems.com
  • myfaifo.com
Previous Next Play Pause

vanhoahoc.vn (các tên miền phụ: vanhoahoc.edu.vn ; vanhoahoc.net)
© Copyright 2007-2015. Bản quyền thuộc Trung tâm Văn hóa học Lý luận và Ứng dụng, Trường Đại học KHXH & NV - ĐHQG Tp. HCM
ĐT (028) 39104078; Email: ttvanhoahoc@hcmussh.edu.vn; ttvanhoahoc@gmail.com. Giấy phép: số 526/GP-BC, do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 27-11-2007
Ghi rõ nguồn vanhoahoc.vn khi phát hành lại các thông tin từ website này.

Website được phát triển bởi Nhà đăng ký tên miền chính thức Việt Nam trực thuộc Trung Tâm Internet VNNIC.

Tủ sách Văn hoá học