logo

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
    • Thư ngỏ
    • Khái quát về Trung tâm
    • Nhân lực Trung tâm
      • Thành viên Trung tâm
      • Cộng tác viên
    • Giới thiệu Khoa Văn hóa học
      • Khái quát về Khoa
      • Nhân lực của Khoa
  • Tin tức
    • Tin nhà (Trung tâm)
    • Tin ngành
    • Tin liên quan
  • Đào tạo - Huấn luyện
    • Các chương trình
    • Tổ chức và Hiệu quả
    • Đào tạo ở Khoa VHH
      • Chương trình đào tạo
      • Kết quả đào tạo
  • Nghiên cứu
    • Lý luận văn hóa học
      • LLVHH: Những vấn đề chung
      • VHH: Phương pháp nghiên cứu
      • VHH: Các trường phái - trào lưu
      • Loại hình và phổ quát văn hóa
      • Các bình diện của văn hóa
      • Văn hóa học so sánh
      • Vũ trụ quan phương Đông
      • Văn hóa và phát triển
      • VHH và các khoa học giáp ranh
    • Văn hóa Việt Nam
      • VHVN: Những vấn đề chung
      • Văn hóa cổ-trung đại ở Viêt Nam
      • Văn hóa các dân tộc thiểu số
      • Văn hóa Nam Bộ
      • Văn hóa nhận thức
      • Văn hóa tổ chức đời sống tập thể
      • Văn hóa tổ chức đời sống cá nhân
      • Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên
      • Văn hóa ứng xử với môi trường xã hội
    • Văn hóa thế giới
      • VH Phương Đông: Những vấn đề chung
      • VH Phương Tây: Những vấn đề chung
      • Quan hệ văn hóa Đông - Tây
      • Văn hóa Trung Hoa và Đông Bắc Á
      • Văn hóa Đông Nam Á
      • Văn hóa Nam Á và Tây Nam Á
      • Văn hóa châu Âu
      • Văn hóa châu Mỹ
      • Văn hóa châu Phi và châu Úc
    • Văn hóa học ứng dụng
      • VHƯD: Những vấn đề chung
      • VHH nghệ thuật
      • Văn hóa đại chúng
      • Văn hóa giao tiếp
      • Văn hóa du lịch
      • Văn hóa đô thị
      • Văn hóa kinh tế
      • Văn hóa quản trị
      • Văn hóa giáo dục - khoa học
    • Tài liệu phổ cập VHH
      • Văn hóa Việt Nam
      • Văn hóa thế giới
      • VHH ứng dụng
    • Tài liệu tiếng nước ngoài
      • Theory of Culturology
      • Vietnamese Culture
      • Applied Culturology
      • Other Cultures
      • 中文
      • Pусский язык
    • Thư Viện Số (Sách - Ảnh - Video)
      • Tủ sách Văn hoá học
      • Thư viện ảnh
      • Thư viện video
    • Các nhà văn hóa học nổi tiếng
  • Tiện ích
    • Dịch vụ Văn hóa học
    • Dịch vụ ngoài VHH
    • Trợ giúp vi tính
    • Từ điển Văn hóa học
    • Thư viện TT và Khoa
    • Tổng mục lục website
    • Tủ sách VHH Sài Gòn
    • Giải đáp thắc mắc
  • Thư giãn VHH
    • Văn chương Việt Nam
    • Văn chương nước ngoài
    • Nghệ thuật Việt Nam
    • Nghệ thuật thế giới
    • Hình ảnh vui
    • Video vui
  • Diễn đàn
  • Liên hệ
  • Trang chủ
  • Nghiên cứu
  • Văn hóa học ứng dụng
  • Văn hóa du lịch
Friday, 15 April 2016 07:52

Phan Huy Xu – Võ Văn Thành. Bàn về khái niệm “Văn hóa du lịch”

Người post bài:  Lê Thị Ninh

Additional Info

  • Tiêu đề:

    BÀN VỀ KHÁI NIỆM “VĂN HÓA DU LỊCH”

  • Tác giả:

    PGS.TS. Phan Huy Xu

    ThS. Võ Văn Thành(1)


Phan Huy Xu – Võ Văn Thành. Bàn về khái niệm “Văn hóa du lịch”

Du lịch là một ngành công nghiệp đặc biệt, được ví von là “ngành công nghiệp không khói”, “con gà đẻ trứng vàng”. Nhận thức được tầm quan trọng của ngành Du lịch, Đảng, Chính phủ và Nhà nước ta đã đề ra chiến lược để phát triển du lịch trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn. Việc hiểu rõ các thuật ngữ chuyên ngành Du lịch để làm việc hiệu quả là một nhu cầu thiết thực đối với các nhà quản lý du lịch, những người công tác trong ngành Du lịch. Trong bài viết này, chúng tôi nêu ra một số khái niệm về phạm trù văn hóa du lịch của một số nhà nghiên cứu và đồng thời, chúng tôi cũng đưa ra định nghĩa về văn hóa du lịch với những lời bàn theo quan điểm của chúng tôi về phạm trù “văn hóa du lịch”. Mục đích viết bài nghiên cứu này, chúng tôi mong muốn được bàn bạc cụ thể hơn, rộng rãi hơn với các nhà nghiên cứu có quan tâm đến vấn đề văn hóa du lịch.

1. Đặt vấn đề

Hiện nay đã có một số nhà nghiên cứu bàn về thuật ngữ “Văn hóa du lịch” như nhóm tác giả Trần Thúy Anh (2004, 2010), Bùi Thanh Thủy (2009), Dương Văn Sáu (2013) và Nguyễn Thị Thu (2014)...

Theo nhóm tác giả Trần Thúy Anh trong công trình Ứng xử văn hóa trong du lịch, thì văn hóa du lịch tạm hiểu là khái niệm về dân trí và quan trí, về thế ứng xử của người Việt Nam nói chung, ứng xử của các cán bộ công nhân viên ngành Du lịch nói riêng. Khách du lịch họ muốn lòng hiếu khách, chủ nhà hồ hởi đón tiếp khách, tạo cho khách mọi sự dễ dàng, không phiền nhiễu, từ khâu xuất nhập cảnh, đổi tiền, đi lại, ăn ở, dẫn khách tham quan, thuyết minh...(2).

Bài nghiên cứu “Về nội hàm của Văn hóa du lịch” của Bùi Thanh Thủy đăng trên tạp chí Du lịch, số 12/2009 và đăng lại trên website của trường Đại học Văn hóa Hà Nội(3)có dẫn nguyên văn khái niệm văn hóa du lịch của nhóm tác giả Trung Hoa là Đổng Ngọc Minh, Vương Lôi Đình (2001) trong công trình Kinh tế Du lịch và Du lịch học, nhà xuất bản Trẻ ở các trang 325- 326, với nội dung như sau: “Văn hóa du lịch không phải là phép cộng đơn giản giữa văn hóa và du lịch mà là sự kết hợp giữa du lịch và văn hóa, là kết quả tinh thần và vật chất do tác động tương hỗ lẫn nhau giữa 3 loại: nhu cầu văn hóa và tinh thần của chủ thể du lịch (du khách), nội dung và giá trị văn hóa của khách thể du lịch (là tài nguyên du lịch có thể thỏa mãn sự hưởng thụ tinh thần và vật chất của người du lịch), ý thức và tố chất văn hóa của người môi giới phục vụ du lịch (hướng dẫn viên, thuyết minh viên, người thiết kế sản phẩm, nhân viên phục vụ…) sản sinh ra”(4). Bùi Thanh Thủy đồng thuận với nhóm nghiên cứu Đổng Ngọc Minh, Vương Lôi Đình và từ đó bàn thêm về ba thành tố của văn hóa du lịch là khách thể du lịch, chủ thể du lịch và môi giới du lịch(5) như những thành tố kết hợp để trở thành một hệ thống không thể tách rời và đó cũng là nội hàm của văn hóa du lịch: “Bất cứ một trong 3 yếu tố này đều không thể đơn độc tạo thành văn hóa du lịch. Nếu tách khỏi khách thể du lịch, thì du khách sẽ mất đối tượng tham quan thưởng thức, không thực hiện được khát vọng văn hóa. Không có môi giới du lịch thì chủ thể và khách thể du lịch không thể gặp nhau, không thể thực hiện được du lịch, mà không có du lịch thì đương nhiên sẽ không thể nảy sinh ra văn hóa du lịch. Nếu không có du khách và khách thể du lịch thì ngành Du lịch lập ra chỉ có danh, thì không sản sinh ra văn hóa du lịch mới, ngay cả thành phần văn hóa du lịch vốn có cũng không thể thể hiện ra được… Như vậy, văn hóa du lịch tức là nội dung văn hóa do du lịch thể hiện ra - là văn hóa do du khách và người làm công tác du lịch tích lũy và sáng tạo ra trong hoạt động du lịch. Văn hóa du lịch được sinh ra và phát triển lên cùng với hoạt động du lịch”(6). Ở một đoạn sau, Bùi Thanh Thủy tạm kết về nội hàm của Văn hóa du lịch như sau: “Văn hóa du lịch là một phạm trù rộng, thể hiện những giá trị văn hóa của toàn bộ hoạt động du lịch. Tất cả những hoạt động của từng bộ phận, những sản phẩm du lịch trong quá trình tạo dựng đều hướng vào mục đích hình thành nên những nét đặc trư¬ng riêng mang bản sắc văn hóa dân tộc, sẽ giúp hình thành nên một văn hóa du lịch đặc tr¬ưng riêng cho đất nước”(7). Chúng tôi đồng thuận với 3 thành tố trong văn hóa du lịch của tác giả Bùi Thanh Thủy là khách thể du lịch, chủ thể du lịch và môi giới du lịch [chúng tôi gọi là nhà cung ứng dịch vụ du lịch] là các tổ chức và cá nhân kinh doanh du lịch, nhưng theo chúng tôi vẫn chưa đủ. Chúng tôi cho rằng, cần phải thêm hai thành tố quan trọng nữa, có liên quan là cộng đồng dân cư tại các điểm đến (gọi tắt là cộng đồng dân cư hoặc cộng đồng địa phương) với tư cách là chủ thể văn hóa tại chỗ và quản lý Nhà nước với tư cách là thành tố nhạc trưởng giúp quản lý và giám sát mọi hoạt động của các nhóm đối tượng có liên quan trong du lịch. Chính 5 thành tố này tương tác qua lại và hình thành nên văn hóa du lịch.

Một chuyên gia trong lĩnh vực du lịch và văn hóa là Dương Văn Sáu, trong hai bài nghiên cứu “Phát triển sản phẩm du lịch trên nền tảng các di sản văn hóa: Công cụ hữu hiệu để quảng bá Việt Nam”, in trong công trình Vấn đề phát triển văn hóa (qua văn kiện qua văn kiện Đại hội Đảng lần XI), Đỗ Ngọc Anh & Đỗ Thị Minh Thúy (cb), NXB. Văn hóa Thông tin (2013) và bài nghiên cứu “Văn hóa du lịch: sản phẩm của văn hóa Việt Nam trong tiến trình hội nhập, toàn cầu hóa hiện nay” đăng trên website của trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật và Du lịch và website của Trung tâm văn hóa: Lý luận và ứng dụng(8). Trong hai bài nghiên cứu này, tác giả đưa ra khái niệm về văn hóa du lịch như sau: “Văn hóa du lịch là một khoa học mà đối tượng nghiên cứu của nó là văn hóa Việt Nam, mục tiêu của nó là đáp ứng và thỏa mãn các nhu cầu khác nhau ngày càng cao, càng văn hóa của du khách trong và ngoài nước. Văn hóa du lịch chính là phương pháp để giải bài toán cung-cầu của du lịch Việt Nam trong tiến trình hội nhập. Do vậy, Văn hóa du lịch chính là sản phẩm của văn hóa Việt Nam trong quá trình hội nhập, toàn cầu hóa hiện nay”(9). Dương Văn Sáu xem văn hóa du lịch là một môn khoa học, có đối tượng nghiên cứu của nó là văn hóa Việt Nam với mục tiêu rõ ràng là đáp ứng và thỏa mãn nhu cầu khác nhau ngày càng cao, càng văn hóa của du khách. Chúng tôi tán thành quan điểm của tác giả khi xem, Văn hóa du lịch là một môn khoa học có đối tượng nghiên cứu, nội dung nghiên cứu và mục đích nghiên cứu của riêng nó.

Ở một đoạn sau của bài nghiên cứu, nhà nghiên cứu Dương Văn Sáu đề cập đến tầm quan trọng của bộ môn Văn hóa du lịch như là một môn khoa học: “Vấn đề quan trọng nhất của Văn hóa du lịch chính là nắm bắt những giá trị vốn có của văn hóa, xếp đặt và tạo dựng những giá trị mới chuyển tải tới các đối tượng du khách bằng những phương cách khác nhau rồi từ đó tạo ra sự cân bằng giữa giá cả và giá trị mới được thiết lập. Tất cả các sản phẩm du lịch đều là sản phẩm văn hóa nhưng không phải sản phẩm văn hóa nào cũng trở thành sản phẩm du lịch”(10). Chúng tôi đồng thuận với cách nghĩ của Dương Văn Sáu khi tác giả cho rằng, Văn hóa du lịch là “nắm bắt những giá trị vốn có của văn hóa”. Thế nhưng, chỉ có giá trị của văn hóa không thôi thì chưa đủ. Văn hóa du lịch còn là mối quan hệ ứng xử giữa các nhóm đối tượng: nhà cung ứng dịch vụ du lịch, du khách, cộng đồng dân cư và quản lý Nhà nước với tài nguyên du lịch nói chung (bao gồm tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn) cũng như là mối tương tác giữa các nhóm đối tượng này trong hoạt động du lịch. Chúng tôi sẽ đề cập thêm quan điểm này ở phần sau (đề xuất và phân tích định nghĩa văn hóa du lịch).

Nguyễn Thị Thu trong bài báo “Du lịch văn hóa và Văn hóa du lịch”(11), cũng có hơi hướng đề cập đến khái niệm “Văn hóa du lịch”, chúng tôi cũng xin nêu ra đây để các nhà nghiên cứu tham khảo: “Văn hóa du lịch là một vấn đề không kém phần quan trọng trong công tác tổ chức du lịch nhưng hầu như nó ít được quan tâm như khi người ta bàn về du lịch văn hóa. Trước tiên, khái niệm này chỉ yếu tố văn hóa trong du lịch, hoàn toàn khác với nghĩa khai thác văn hóa để phục vụ du lịch. Mà nói văn hóa trong du lịch thì có nhiều vấn đề liên quan cần bàn, bao hàm cả thái độ ứng xử (văn hóa ứng xử) của nhà tổ chức du lịch, khách du lịch đối với cảnh quan - môi trường (trong đó có cảnh quan - môi trường văn hóa), của nhà tổ chức du lịch đối với khách du lịch (biểu hiện thông qua thái độ, chất lượng phục vụ, chất lượng sản phẩm du lịch cả về hình thức lẫn nội dung)…”(12). Tác giả chỉ đề cập đến một số khía cạnh của văn hóa du lịch đó là văn hóa ứng xử trong hoạt động du lịch mà chưa đi sâu, bàn về nội hàm của khái niệm văn hóa du lịch cũng như chưa nêu lên được những đặc trưng của phạm trù văn hóa du lịch. Chúng tôi ghi nhận những ý kiến của Nguyễn Thị Thu ở đây để các nhà nghiên cứu cùng tham khảo.

Ngoài định nghĩa về văn hóa du lịch như đã phân tích ở trên, chúng tôi còn tán đồng một số quan niệm về văn hóa du lịch, chẳng hạn như: “Văn hóa du lịch là toàn bộ cách ứng xử của các đối tượng có liên quan trong hoạt động du lịch”.

“Văn hóa du lịch là khoa học nghiên cứu giá trị văn hóa của môi trường du lịch, của khách du lịch và tổ chức kinh doanh du lịch nhằm thỏa mãn nhu cầu về tinh thần và vật chất cho du khách”.

Chúng tôi cho rằng, văn hóa du lịch với mục tiêu quan trọng và cơ bản nhất là bảo tồn, làm giàu và phát huy có hiệu quả các giá trị của tài nguyên du lịch (bao gồm cả tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch văn hóa) nhằm đến mục đích sau cùng là thụ hưởng các giá trị du lịch.

Ở đây, chúng tôi sẽ không bàn thêm một số quan niệm này mà xin phép đi sâu phân tích định nghĩa văn hóa du lịch mà chúng tôi đề xuất.

2. Đề xuất và phân tích định nghĩa văn hóa du lịch

Các nhà nghiên cứu quan tâm đến thuật ngữ “văn hóa du lịch” nêu trên đưa ra khái niệm về văn hóa du lịch hoặc đề xuất hoặc bàn bạc thêm một số khía cạnh của thuật ngữ này. Chúng tôi trên cơ sở kế thừa những quan niệm, khái niệm và định nghĩa của các nhà nghiên cứu đi trước và cố gắng đưa ra một định nghĩa về văn hóa du lịch và phân tích nó một cách cụ thể nhất để chúng ta có một cách tiếp cận tối ưu nhất đối với bộ môn Văn hóa du lịch mà hiện nay nó đang được nghiên cứu và giảng dạy ở các trường đại học, cao đẳng đào tạo về du lịch và văn hóa du lịch trong cả nước.

Như đã trình bày, chúng tôi đồng thuận với cách tiếp cận của nhóm tác giả người nước ngoài (Đổng Ngọc Minh, Vương Lôi Đình) và ý kiến của Bùi Thanh Thủy về 3 thành tố của văn hóa du lịch là khách thể du lịch, chủ thể du lịch và môi giới du lịch (chúng tôi sử dụng thuật ngữ nhà cung ứng dịch vụ du lịch). Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng, có hai thành tố nữa rất quan trọng đó là cộng đồng dân cư tại điểm các đến của du khách (gọi tắt là cộng đồng dân cư) với tư cách là chủ thể văn hóa tại chỗ và quản lý Nhà nước. Thành tố cộng đồng dân cư này có liên hệ chặt chẽ với cả chủ thể du lịch, khách thể du lịch và nhà cung ứng dịch vụ du lịch mà ai cũng có thể nhận thấy. Hoặc văn hóa du lịch gồm bốn thành tố của nhóm tác giả Trần Thúy Anh đó là khách du lịch, nhà cung ứng dịch vụ du lịch, cộng đồng dân cư và Nhà nước(13). Chúng tôi cho rằng nội hàm của định nghĩa văn hóa du lịch bao gồm 5 thành tố đó là tài nguyên du lịch, du khách, nhà cung ứng dịch vụ du lịch, cộng đồng dân cư và quản lý Nhà nước. Chúng tôi xin đưa ra định nghĩa về văn hóa du lịch như sau: “Văn hóa du lịch là một bộ môn khoa học nghiên cứu về mối quan hệ ứng xử của các nhóm đối tượng: du khách, nhà cung ứng dịch vụ du lịch, cộng đồng dân cư và quản lý Nhà nước liên quan đến du lịch thông qua việc tiếp cận, phát huy, thụ hưởng và bảo tồn các giá trị của tài nguyên du lịch”.

Ba nhóm đối tượng đầu của văn hóa du lịch nghiên cứu văn hóa ứng xử của các nhóm đối tượng (du khách, nhà cung ứng dịch vụ du lịch và cộng đồng địa phương) => Nghiên cứu nhận thức, thái độ và hành vi rất cụ thể (cái vi mô). Trong khi đó, quản lý Nhà nước đưa ra các chính sách, chủ trương nhằm định hướng và điều chỉnh hành vi văn hóa (văn hóa ứng xử) trong du lịch sao cho phù hợp với đạo đức của xã hội, luật pháp và hội nhập quốc tế (cái vĩ mô). Tuy nhiên, trong mối tương quan giữa vi mô và vĩ mô, chính cái vĩ mô sẽ tác động nhiều đến cái vi mô và ngược lại. Cụ thể trong trường hợp nghiên cứu văn hóa ứng xử trong du lịch: nội dung nghiên cứu văn hóa du lịch là việc kỳ vọng xây dựng nên giá trị cốt lõi của quốc gia, địa phương và điểm đến nhằm phát triển du lịch một cách bền vững (hướng đến việc cân bằng giữa bảo tồn và phát triển). Điều này hoàn toàn phù hợp với chủ trương, chính sách và định hướng quản lý phát triển du lịch của Nhà nước. Thậm chí, một số chủ trương và chính sách của Nhà nước trở thành những căn cứ để xây dựng bộ quy tắc ứng xử trong phát triển du lịch. Như thế, rõ ràng hệ giá trị (value system) của việc quản lý Nhà nước trong phát triển du lịch có sự gặp gỡ với hệ giá trị trong nghiên cứu văn hóa du lịch. Qua đó có thể nhận thấy văn hóa du lịch hướng đến nghiên cứu những cái cụ thể (cái vi mô) trên cơ sở tham chiếu các quy định chuẩn mang tầm vĩ mô(14).

Định nghĩa trên bao gồm 5 thành tố có mối quan hệ biện chứng mà nếu thiếu bất kỳ một thành tố nào trong hệ thống đó sẽ dẫn đến việc hiểu chưa chính xác về bộ môn khoa học Văn hóa du lịch. Năm thành tố của văn hóa du lịch đó là tài nguyên du lịch (còn gọi là khách thể trong hoạt động du lịch, gọi tắt là khách thể du lịch); Du khách (khách chủ thể của hoạt động du lịch, gọi tắt là chủ thể du lịch); Các tổ chức và cá nhân kinh doanh du lịch có liên quan đến việc điều hành, phối hợp và tạo ra các sản phẩm du lịch cụ thể (gọi tắt là nhà cung ứng dịch vụ du lịch); Cộng đồng dân cư với tư cách là chủ thể văn hóa tại chỗ và quản lý Nhà nước với vai trò là quản lý và giám sát mọi hoạt động du lịch.

Mối quan hệ giữa các nhóm đối tượng này sẽ là mối quan tâm của chúng tôi trong bài nghiên cứu. Ứng xử giữa du khách với tài nguyên du lịch, tổ chức cung ứng du lịch và cộng đồng dân cư. Ứng xử giữa cộng đồng dân cư với tài nguyên du lịch, du khách và nhà cung ứng dịch vụ du lịch. Ứng xử giữa nhà cung ứng dịch vụ du lịch với du khách với vai trò là khách hàng, giữa nhà cung ứng dịch vụ du lịch với việc khai thác tài nguyên lịch và mối liên kết với cộng đồng dân cư để tạo ra sản phẩm du lịch hấp dẫn, độc đáo và đặc thù. Hơn thế nữa, sự tương tác giữa các nhóm đối tượng là đa chiều nhằm nhận thức, bảo tồn, làm giàu, khai thác và thụ hưởng các giá trị tài nguyên du lịch. Du khách đạt được mục đích của chuyến đi là thụ hưởng các giá trị tài nguyên du lịch tại các điểm đến. Nhà cung ứng dịch vụ du lịch đạt được mục đích là bán được sản phẩm có chất lượng cao, thu lợi nhuận chính đáng và góp phần tôn tạo tài nguyên du lịch và chia sẻ lợi ích kinh tế, văn hóa, xã hội với cộng đồng địa phương. Cộng đồng địa phương thu được lợi ích kinh tế được trả bằng tiền hoặc hiện vật trực tiếp từ du khách hoặc thông qua nhà cung ứng dịch vụ du lịch và hơn thế nữa, họ còn giao lưu, tiếp biến văn hóa với du khách, góp phần bảo tồn, làm giàu và phát huy các giá trị văn hóa vốn có của họ. Đối với tài nguyên du lịch, cộng đồng địa phương cũng phải có trách nhiệm bảo tồn, tôn tạo để thu hút khách du lịch và khách du lịch cũng phải có trách nhiệm giữ gìn tài nguyên du lịch, tôn trọng cộng đồng cư dân tại các điểm đến cũng như là văn hóa và môi trường sống của họ. Quản lý Nhà nước điều hòa các mối quan hệ giữa các nhóm đối tượng có liên quan trong hoạt động du lịch, quảng bá giá trị di sản văn hóa, thiên nhiên và nâng cao hình ảnh quốc gia trên trường quốc tế. Chúng tôi sẽ bàn cụ thể về mỗi thành tố của văn hóa du lịch bên dưới.

Thành tố đầu tiên là tài nguyên du lịch (còn được gọi là khách thể trong hoạt động du lịch, gọi tắt là khách thể du lịch). Để nêu lên những đặc điểm của tài nguyên du lịch, chúng tôi xin đưa ra hai định nghĩa về tài nguyên du lịch như sau: Theo Luật Du lịch Việt Nam (2005): “Tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên, di tích lịch sử-văn [tr.50] hóa, công trình sáng tạo của con người và các giá trị nhân văn khác có thể được sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ bản để hình thành các khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch”. Theo nhóm tác giả Bùi Thị Hải Yến: “Tài nguyên du lịch là tất cả những gì thuộc về tự nhiên và các giá trị văn hóa do con người sáng tạo ra có sức hấp dẫn du khách, có thể được bảo vệ, tôn tạo và sử dụng cho ngành Du lịch mang lại hiệu quả về kinh tế-xã hội và môi trường”(15).

Trong hai định nghĩa về tài nguyên du lịch vừa trình bày ở trên, định nghĩa của Luật Du lịch Việt Nam (2005) là một định nghĩa mang tính chất liệt kê, vừa thiếu lại vừa thừa, chưa có tính khái quát cao. Mọi định nghĩa liệt kê đều không thể liệt kê, bao quát hết tất cả các thành tố của định nghĩa và do đó nó chưa đầy đủ và nó lại vừa thừa vì dài dòng không cần thiết và chính vì lý do đó, định nghĩa liệt kê chưa có tính khái quát cao(16). Tuy nhiên, chúng ta phải dựa vào định nghĩa này như là căn cứ cơ bản nhất để hiểu về tài nguyên du lịch là gì. Định nghĩa tài nguyên du lịch của nhóm tác giả Bùi Thị Hải Yến mang tính khái quát cao hơn, nêu rõ vấn đề hơn.

Theo quan niệm của chúng tôi, tài nguyên du lịch, cho dù là tài nguyên du lịch tự nhiên, ít nhiều cũng mang giá trị văn hóa. Giá trị văn hóa ở đây được thể hiện qua cộng đồng địa phương nơi có tài nguyên du lịch tự nhiên tồn tại. Chính cộng đồng địa phương (nơi có tài nguyên du lịch) góp phần bảo tồn, tôn tạo, làm giàu, phát huy giá trị của chúng. Chính trên cơ sở này mà Luật Du lịch Việt Nam (2005) đã đưa ra định nghĩa: “Du lịch sinh thái là hình thức du lịch dựa vào thiên nhiên, gắn với bản sắc văn hóa địa phương với sự tham gia của cộng đồng nhằm phát triển bền vững”. Chúng tôi rất tán thành cách hiểu này của Luật Du lịch Việt Nam (2005). Ví dụ, vịnh Hạ Long là di sản thiên nhiên, là thiên tạo trong quá trình kiến tạo của trái đất nhưng cũng có con người góp phần làm cho nó ít nhiều mang tính văn hóa và trở nên huyền thoại bằng cách gắn cho nó những truyền thuyết, tên gọi... Đồng thời chính những cư dân địa phương nơi đây đã và đang góp phần bảo tồn, tôn tạo, làm giàu giá trị của nó và phát huy được các giá trị đó trong du lịch. Nếu cộng đồng địa phương không ý thức được việc giữ gìn, tôn tạo tài nguyên du lịch mà ngược lại họ phá hoại nó do vô tình hay cố ý (ví dụ, đục lấy đá về xây nhà, làm đường, lót sân… hay đơn giản chỉ là hành động phá hoại vô thức của người địa phương hoặc làm ô nhiễm môi trường qua nước thải, rác thải v.v…) thì di sản tự nhiên sẽ xuống cấp, mất đi giá trị vốn có. Đó là lý do vì sao, bàn về khái niệm văn hóa du lịch, chúng tôi còn đề cập đến tài nguyên du lịch chứ không riêng gì tài nguyên du lịch văn hóa (nhân văn). Chúng tôi có thể lấy nhiều ví dụ về sự tác động của cộng đồng địa phương đối với tài nguyên du lịch tự nhiên, họ đóng vai trò quan trọng trong việc bảo tồn, làm giàu và phát huy các giá trị của chúng.

Thành tố thứ hai trong văn hóa du lịch là du khách (chủ thể du lịch). Nói đến vai trò của chủ thể của du khách là muốn nói đến vai trò sáng tạo của nó. Nếu không có vai trò sáng tạo thì nó là khách thể, tức đối tượng tìm hiểu hoặc được sáng tạo của chủ thể. Du khách với vai trò là chủ thể trong hoạt động du lịch (gọi tắt là chủ thể du lịch) là thành tố thứ hai trong văn hóa du lịch. Họ là những người có nhu cầu, tìm kiếm và mong muốn đáp ứng những nhu cầu về vật chất và tinh thần chẳng hạn như: khám phá, tìm hiểu, nâng cao nhận thức về môi trường tự nhiên và văn hóa ngoài nơi họ cư trú thường xuyên (nơi ở của họ). Chủ thể du lịch phát đi các tín hiệu là những nhu cầu nhất định nào đó và chính từ những nhu cầu cần được đáp ứng này để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của họ bên ngoài môi trường sống thường xuyên của họ và bên ngoài môi trường văn hóa vốn có của họ (tức là họ hướng ra các cộng đồng dân cư bên ngoài môi trường sống quen thuộc của họ). Chủ thể du lịch, như chúng tôi đã nói ở trên có vai trò sáng tạo khi tiến hành hoạt động du lịch. Họ cảm nhận và thụ hưởng cái đẹp, cái khác lạ với môi trường sống của họ (về tự nhiên cũng như là văn hóa) và từ đó đời sống vật chất và tinh thần của họ thăng hoa (transcendence), được nâng lên một tầm cao mới. Nếu chủ thể du lịch đến từ những cộng đồng dân cư có nền văn minh cao hơn cộng đồng dân cư thì họ sẽ là những người truyền bá cái mới, cái khác lạ, cái văn minh “cao hơn” cho cộng đồng dân cư tại các điểm đến. Cộng đồng dân cư là chủ thể tại chỗ trong tiếp nhận. Cũng có trường hợp ngược lại là chủ thể du lịch đến từ những cộng đồng dân cư có nền văn minh “thấp hơn” cộng đồng dân cư thì họ sẽ tiếp nhận những cái mới, cái tiến bộ (vì sản phẩm cụ thể của văn hóa là văn minh mang dấu ấn thời đại: nó phản ánh khả năng, trình độ, điều kiện, sự phát triển của xã hội của mỗi cộng đồng người) từ cộng đồng dân cư. Sự tiếp nhận này được chủ thể du lịch tái tạo trong việc áp dụng chúng nhằm nâng cao đời sống cộng đồng, cấu trúc xã hội của họ sau chuyến đi và điều này phổ biến khắp nơi trên thế giới. Chúng ta có thể minh chứng điều này từ những chương trình hợp tác đưa du học sinh (trong chừng mực nào đó, họ cũng là chủ thể của hoạt động du lịch) đến những quốc gia, khu vực có nền văn minh cao để tiếp thu kỹ thuật, văn minh, văn hóa rồi về áp dụng chúng một cách sáng tạo, linh hoạt tùy theo hoàn cảnh cộng đồng, đất nước của họ. Về điểm này, chúng ta có thể xem người Nhật là một trường hợp điển hình. Ở thời Thánh đức Thái tử (Thái tử Shotoku, tương ứng với đời Đường bên Trung Hoa), họ đã tiếp thu văn minh Trung Hoa là nền văn minh phát triển bậc nhất trong khu vực thời bấy giờ. Trường hợp người Nhật dưới thời Minh Trị (Meiji), họ gửi con em họ là những thanh niên ưu tú sang phương Tây để học hỏi và tiếp nhận văn minh phương Tây về canh tân đất nước. Trước và sau chiến tranh thế giới thứ hai, người Nhật tiếp tục gửi đi nhiều con em của họ sang Mỹ để học hỏi nền văn minh Hoa Kỳ(17). Kết quả là hiện nay, Nhật Bản trở thành một trong những cường quốc hàng đầu về kinh tế, kỹ thuật và văn minh trên thế giới.

Thành tố thứ ba của văn hóa du lịch đó là nhà cung ứng dịch vụ du lịch. Đây là một thành tố tuy là trung gian, là chất xúc tác giữa chủ thể du lịch với khách thể du lịch và cộng đồng dân cư, nhưng lại là thành tố rất quan trọng trong việc giải quyết mối quan hệ giữa cung và cầu trong du lịch hay nói cách khác, nhà cung ứng dịch vụ du lịch là điểm gặp gỡ giữa cung và cầu trong hoạt động du lịch. Nhà cung ứng dịch vụ du lịch trước hết có mối liên hệ với chủ thể du lịch. Họ nắm bắt được nhu cầu của chủ thể du lịch. Điều tra tài nguyên du lịch ở cộng đồng dân cư, thông báo cho khách du lịch biết và đồng thời họ cũng đề nghị một sự hợp tác và chia lợi nhuận với cộng đồng dân cư. Nhà cung ứng dịch vụ du lịch sau khi có được tất cả thông tin về nhu cầu, tài nguyên du lịch, cộng đồng dân cư và họ tiến hành sản xuất ra các chương trình du lịch, ký hợp đồng với đối tác cung ứng dịch vụ du lịch và có thể là trực tiếp với chủ thể du lịch(18). Sau khi hợp đồng du lịch có hiệu lực, nhà cung ứng dịch vụ du lịch bắt đầu tổ chức thực hiện chương trình du lịch (hiện thực hóa sản phẩm du lịch từ các chương trình du lịch trên giấy tờ). Họ là cầu nối giữa chủ thể du lịch, khách thể du lịch và cộng đồng dân cư và giúp điều hòa hoặc giải quyết các mối xung đột (nếu có) giữa khách thể du lịch, chủ thể du lịch và cộng đồng dân cư.

Thành tố thứ tư trong văn hóa du lịch là cộng đồng dân cư tại các điểm đến của du khách (gọi tắt là cộng đồng dân cư). Đây là một thành tố quan trọng trong văn hóa du lịch mà chúng ta không thể không đề cập và đó cũng là ý kiến của nhà nghiên cứu Huỳnh Quốc Thắng: “Trong hoạt động du lịch, không chỉ tài nguyên nhân văn mà cả tài nguyên thiên nhiên đều có quan hệ và chịu sự quyết định bởi vai trò chủ nhân, chủ thể của cộng đồng dân cư tại chỗ kết hợp với vai trò chủ trì về quy hoạch, kế hoạch, tổ chức quản lý của Nhà nước và các cơ quan chức năng, vai trò nòng cốt trong đầu tư, tác nghiệp của các doanh nghiệp du lịch…”(19). Chúng tôi cũng cho rằng, cộng đồng dân cư đóng một vai trò rất lớn và mang tính quyết định trong hoạt động du lịch có hiệu quả hay không, hiệu quả đến mức nào. Hiện nay, cộng đồng cân cư tại các điểm đến ở nước ta đang là vấn đề cần phải giải quyết về mặt nhận thức du lịch để nâng cao hiệu quả của hoạt động du lịch tại cộng đồng! Đó là những tồn tại trên nhiều mặt, trong đó có văn hóa ứng xử với du khách, văn hóa kinh doanh, vệ sinh môi trường du lịch v.v…

Khi du khách đến bất kỳ một địa phương nào khác bên ngoài môi trường sống quen thuộc của họ đều có một cộng đồng dân cư nào đó sinh sống cho dù là cộng đồng dân cư địa phương đó có văn minh cao hay thấp hơn so với họ và tất nhiên là có thể có nền văn hóa tương đồng ở một số điểm so với văn hóa của du khách và cũng có những nét văn hóa khác biệt so với văn hóa của họ. Chính những nét văn hóa khác biệt của cộng đồng dân cư làm nên tính hấp dẫn đối với du khách, nó thu hút được du khách đến khám phá, cảm nhận, thụ hưởng, làm giàu (enrich) và đa dạng hóa đời sống vật chất và tinh thần của họ (du khách). Cộng đồng dân cư là chủ thể văn hóa tại chỗ (họ phối hợp với nhà cung ứng dịch vụ du lịch để thỏa mãn nhu cầu của du khách và được trả lợi nhuận kinh tế bằng tiền mặt hoặc vật chất nào đó). Tuy rằng họ là đối tượng tìm hiểu và thỏa mãn nhu cầu về mặt văn hóa của khách du lịch, nhưng chúng ta có thể thấy rằng họ (cộng đồng dân cư) cũng cảm nhận, thụ hưởng và hấp thu những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần do du khách mang lại (là những yếu tố văn hóa khác lạ). Nhiều trường hợp, chính cộng đồng dân cư cũng được thụ hưởng nhiều lợi ích về mặt văn hóa vật chất và tinh thần so với du khách là những người đến từ những nơi có nền văn minh cao hơn, có những yếu tố văn hóa đa dạng hơn về tổ chức (văn hóa tổ chức đời sống cá nhân và văn hóa tổ chức đời sống tập thể(20)). Khi du khách đến những cộng đồng địa phương khác nhau, họ giao lưu văn hóa (tiếp biến văn hóa: acculturation), học hỏi lẫn nhau mà du khách thông thường là những người đến từ các cộng đồng người có đời sống vật chất cao hơn, đời sống văn hóa phong phú hơn vì họ có điều kiện hơn trong đi lại, giao lưu, học hỏi và tích lũy kiến thức văn hóa, văn minh. Do đó, có thể nói rằng văn hóa của du khách đa dạng và phong phú hơn những cộng đồng dân cư địa phương ít có điều kiện giao lưu văn hóa (chúng ta có thể xem trường hợp vùng văn hóa Trường Sơn-Tây Nguyên mà theo nhà nghiên cứu Trần Quốc Vượng là một khu vực ít chịu ảnh hưởng, thậm chí là không bị ảnh hưởng của văn minh Ấn Độ và Trung Hoa mà ông gọi là khu vực phi Ấn, phi Hoa(21). Đời sống văn hóa, lối tổ chức cộng đồng, văn minh ở đây còn khá đơn giản cho đến trước những năm 1945). Cộng đồng dân cư có điều kiện giao lưu, học hỏi những kiến thức văn hóa, văn minh mà họ chưa có từ du khách để từ đó họ có thể tái cấu trúc chính cộng đồng của họ về mặt tổ chức ở một tầm cao mới.

Nói tóm lại, cộng đồng dân cư với vai trò là chủ thể văn hóa tại chỗ, họ vừa phối hợp với nhà cung ứng dịch vụ du lịch để thỏa mãn nhu cầu văn hóa của du khách, vừa giao lưu, tiếp biến văn hóa với du khách. Trong chừng mực nào đó, chúng tôi xem họ là “chủ thể du lịch bị động” trong hoạt động du lịch. Huỳnh Quốc Thắng cũng đề cao vai trò của cộng đồng dân cư trong văn hóa du lịch mà đặc biệt là trong thời đại toàn hóa về du lịch khi ông cho rằng: “Cộng đồng là nhân tố động lực mang tính chủ thể góp phần thúc đẩy quá trình phát triển toàn cầu hóa và địa phương hóa du lịch để quá trình đó trở nên ngày càng có ý nghĩa tích cực đối với chính cộng đồng”(22). Trong thời gian gần đây, thực trạng của văn hóa du lịch ở Việt Nam có nhiều vấn đề cần phải nghiên cứu và giải quyết cho thỏa đáng để giúp ngành Du lịch nước nhà phát triển bền vững trong thời kỳ hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa về du lịch, trong đó có nhiều vấn đề nổi cộm lên thuộc về cộng đồng dân cư, chẳng hạn như an ninh, anh toàn tại các điểm đến, văn hóa ứng xử của cộng đồng địa phương với khách du lịch (đặc biệt là khách du lịch quốc tế) v.v...

Thành tố thứ năm của văn hóa du lịch là quản lý Nhà nước của chính quyền sở tại. Chúng ta thấy rất rõ vai trò quản lý và giám sát các hoạt động du lịch của Nhà nước. Chính Nhà nước xây dựng và đề ra:

Các chiến lược phát triển du lịch trong thời kỳ mới.

Chiến lược chất lượng từ sản phẩm, dịch vụ và điểm đến được chuyển hóa thành chiến lược hành động của từng lĩnh vực: marketing, dịch vụ, quy hoạch, phát triển nguồn nhân lực, phát triển cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật, kinh doanh du lịch, quản lý điểm đến, chính sách... nhằm đưa du lịch Việt Nam trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn.

Trong hoạt động du lịch, vai trò Nhà nước rất quan trọng nhưng không làm thay, mà cần phát huy tinh thần tự chủ, sáng tạo của các thành tố du lịch khác như du khách, nhà cung ứng dịch vụ du lịch và cộng đồng dân cư. Nhà nước cần có biện pháp như thế nào nhằm nâng cao nhận thức và tư duy để các nhóm đối tượng còn lại chủ động thực hiện văn hóa du lịch. Nhà nước giữ vai trò quản lý và giám sát để thực hiện tốt văn hóa du lịch chứ không phải làm thay cho các nhóm đối tượng khác.

Gần đây, Nhà nước ta liên tục đưa ra các chủ trương, chính sách hỗ trợ phát triển du lịch. Quyết định số 2473/QĐ-TTg ngày 30/12/2011 của Thủ tướng Chính phủ về “Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam” và Nghị quyết số 92/NQ-CP ngày 08/12/2014 của Thủ tướng Chính phủ về “Một số giải pháp đẩy mạnh phát triển du lịch Việt Nam trong thời kỳ mới” đề cập đến những vấn đề then chốt để phát triển du lịch Việt Nam. Chỉ có Nhà nước mới có thể làm được những công việc ở tầm vĩ mô như quy hoạch du lịch, điều hòa, hợp tác du lịch ở tầm quốc tế v.v...

Nhà nước có chủ trương phát triển hợp tác quốc tế về du lịch, chẳng hạn như năm 1981, Việt Nam trở thành thành viên của Tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO); Năm 1989 Việt Nam trở thành thành viên của Hiệp hội Du lịch Châu Á Thái Bình Dương (PATA); Nhà nước Việt Nam đã ký 12 hiệp định hợp tác du lịch với các nước Đông Nam Á, Trung Quốc, Pháp, Uzebekistan, Israel... giúp cho các doanh nghiệp du lịch Việt Nam có quan hệ hợp tác với hơn 800 doanh nghiệp của 50 nước.

Nhà nước mở rộng chính sách đầu tư, cải thiện môi trường cạnh tranh du lịch.

Nhà nước có chính sách về đất đai, đầu tư hạ tầng cơ sở giao thông v.v... tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước kinh doanh du lịch hợp pháp tại Việt Nam.

Nhà nước giúp mở rộng quan hệ cho các công ty tư nhân như Vingroup, Sungroup...

Nhà nước đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch, cơ sở hạ tầng lưu trú tăng. Hiện nay, ngành Du lịch chúng ta có khoảng 14.200 cơ sở lưu trú với hơn 320.000 buồng.

Nhà nước tăng cường hợp tác với nước ngoài, với các tập đoàn đầu tư lớn trên thế giới như Intercontinenal, New World, Novotel, Sheraton...

Nhà nước xây dựng môi trường du lịch an toàn(23): năm 2014, Việt Nam đứng thứ 10/22 các quốc gia có điểm đến an toàn nhất thế giới.

Nhà nước điều phối và liên kết vùng du lịch để tạo ra sản phẩm đa dạng, thu hút được nhiều du khách.

Nhà nước đào tạo nguồn nhân lực du lịch: nâng cao năng lực kiểm soát hành vi ứng xử, mở trường, tập huấn về du lịch, xây dựng bộ quy tắc ứng xử trong du lịch, quản lý về du lịch, định hướng phát triển du lịch Việt Nam, quy hoạch du lịch, quảng bá du lịch ra nước ngoài, cấp hộ chiếu cho công dân Việt Nam đi du lịch nước ngoài, cấp Visa cho công dân các nước vào Việt Nam du lịch v.v...

Theo nhà Du lịch học người Áo, ông Egon Smeral trong cuộc họp UNWTO, phân bộ Châu Âu vào 4/1997 cho rằng chỉ có Nhà nước mới có thể làm được các điều sau đây để phát triển một điểm đến (destination):

- Xây dựng một môi trường thân thiện.

- Đóng vai “chất xúc tác” cho công việc marketing.

- Thường xuyên nâng cấp sản phẩm du lịch.

- Xây dựng và bảo vệ thương hiệu của điểm đến(24).

Nói tóm lại, định nghĩa văn hóa du lịch của chúng tôi với 5 thành tố có mối quan hệ biện chứng: khách thể du lịch (tài nguyên du lịch), du khách (chủ thể của hoạt động du lịch), nhà cung ứng dịch vụ du lịch, cộng đồng dân cư và quản lý Nhà nước. Văn hóa du lịch với tư cách là một môn khoa học, nó có đối tượng nghiên cứu của nó là tài nguyên du lịch (gồm cả tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn còn gọi là tài nguyên du lịch văn hóa chứ không phải chỉ là đối tượng văn hóa mà thôi). Tài nguyên du lịch tự nhiên, dù là do thiên nhiên tạo nên nhưng nó cũng có dấu ấn cộng đồng dân cư trong việc bảo tồn, làm giàu và phát huy các giá trị vốn có của nó. Thêm vào đó, chủ thể du lịch cũng góp phần bảo tồn, tôn tạo tài nguyên du lịch tự nhiên hay hủy hoại nó thông qua các hành vi ứng xử của họ với môi trường sinh thái du lịch tại các điểm đến. Ngoài ra, tài nguyên du lịch tự nhiên cũng mang dấu ấn những nhà quản lý và khai thác chúng. Do đó, nó cũng bao chứa chất văn hóa, nhân văn trong nó(25).

Trong chừng mực nào đó, chúng tôi có thể phát biểu Văn hóa du lịch ở một khía cạnh khác: “Văn hóa du lịch là tổng hòa của nhiều loại hình văn hóa: văn hóa đón tiếp, văn hóa giao thông, văn hóa lưu trú, văn hóa lữ hành, văn hóa cộng đồng, văn hóa kinh doanh…”.

3. Diễn giải thêm mối quan hệ giữa các thành tố trong văn hóa du lịch

Văn hóa du lịch, như chúng tôi đã trình bày gồm 5 thành tố tài nguyên du lịch, du khách, nhà cung ứng dịch vụ du lịch, cộng đồng dân cư và quản lý Nhà nước. Chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau, mà nếu thiếu bất kì một thành tố nào trong hệ thống này sẽ dẫn đến việc hiểu chưa chính xác về văn hóa du lịch. Đây là 5 thành tố trong văn hóa du lịch mà thành tố quản lý Nhà nước với chức năng quản lý và giám sát, điều hòa và giải quyết những xung đột giữa các nhóm đối tượng đã nêu trên như một vị nhạc trưởng.

Một là, tài nguyên du lịch (khách thể du lịch) nằm dưới dạng thô được phát hiện, nghiên cứu, quy hoạch và đưa vào khai thác (các giá trị) bởi nhà cung ứng dịch vụ du lịch và cộng đồng địa phương. Tài nguyên du lịch nằm ở dạng thô, chúng tồn tại và tự thân có giá trị nhất định. Du lịch sẽ làm gia tăng giá trị của tài nguyên du lịch lên nhiều lần.

Nhà cung ứng dịch vụ du lịch nhận diện giá trị của tài nguyên du lịch; khai thác và bảo tồn chúng để có thể phát triển du lịch bền vững (sử dụng lâu dài, giữ gìn cho các thế hệ tương lai). Mối quan hệ giữa nhà cung ứng dịch vụ du lịch với tài nguyên du lịch cần có sự điều hòa của Nhà nước với vai trò là quản lý tài nguyên sao cho các nhà cung ứng dịch vụ du lịch phải nhận thức được tầm quan trọng của tài nguyên du lịch, quy hoạch, phát huy (khai thác) các giá trị của chúng trong chừng mực và có chính sách bảo tồn để không làm chúng xuống cấp, hư hại hoặc bị biến mất vĩnh viễn nhằm mục đích khai thác lâu dài, bền vững. Tài nguyên du lịch được nhà cung ứng dịch vụ du lịch đưa vào khai thác và phát huy các giá trị nhằm tạo ra các sản phẩm du lịch đặc thù để cung cấp cho du khách.

Hai là, nhà cung ứng dịch vụ du lịch phải có văn hóa kinh doanh, một mặt là để có thể khai thác tốt các giá trị của tài nguyên du lịch, tạo ra sản phẩm du lịch và đồng thời văn hóa kinh doanh giúp cho nhà cung ứng dịch vụ du lịch ứng xử tốt với khách hàng hiện tại và tiềm năng để thu về lợi ích chính đáng thông qua những sản phẩm và dịch vụ du lịch bán cho du khách. Nhà cung ứng dịch vụ du lịch cần ứng xử với du khách, tài nguyên du lịch và cộng đồng dân cư xoay quanh quy luật cung-cầu trong kinh tế để đáp ứng được nhu cầu hợp lý của du khách và bảo tồn tài nguyên du lịch và nâng cao giá trị cộng đồng địa phương. Nhà cung ứng dịch vụ du lịch và du khách gặp nhau ở quy luật cung-cầu và phải tuân theo quy luật cung-cầu. Nếu không theo quy luật cung-cầu thì mối quan hệ giữa nhà cung ứng dịch vụ du lịch, du khách và cộng đồng dân cư trở nên hỗn độn dẫn đến việc khai thác quá mức tài nguyên du lịch hoặc đáp ứng không đủ nhu cầu cho du khách. Và trong bất kỳ trường hợp nào cũng sẽ không phát huy được tối ưu giá trị của tài nguyên du lịch và vai trò của cộng đồng dân cư trong hoạt động du lịch. Ngoài ra, nhà cung ứng dịch vụ du lịch có mối liên hệ mật thế với cộng đồng dân cư với tư cách là đối tác tham gia vào hoạt động cung ứng dịch và thực hiện vụ du lịch với du khách và đồng thời chia sẻ lợi ích kinh tế được trả bằng tiền hoặc vật chất trực tiếp hoặc qua du khách (chúng ta sẽ thấy rõ điều này khi xem Sơ đồ diễn giải mối quan hệ giữa các thành tố cầu thành văn hóa du lịch bên dưới).

Ba là, du khách với vai trò là chủ thể của hoạt động du lịch. Họ có nhu cầu thụ hưởng các giá trị của tài nguyên du lịch thông qua nhà cung ứng dịch vụ du lịch. Trong quá trình chọn lựa và tiêu thụ sản phẩm và dịch vụ du lịch, du khách cần có văn hóa tiêu thụ (tiêu dùng). Họ là người bỏ tiền bạc, vật chất để mua dịch vụ du lịch, nhưng cũng phải có văn hóa trong việc tiêu thụ sản phẩm du lịch và dịch vụ, có thể gọi là văn hóa tiêu dùng trong du lịch. Du khách tác động lên các nhà cung ứng dịch vụ du lịch xoay quanh quy luật cung-cầu để mua được sản phẩm du lịch tốt nhất, ưng ý nhất. Họ tác động lên tài nguyên du lịch thông qua việc thụ hưởng, cảm nhận, nâng cao ý thức bảo vệ, tôn tạo tài nguyên du lịch và đồng thời họ cũng tác động lên cộng đồng cư dân tại các điểm đến như là đối tượng của hoạt động du lịch trong suốt chuyến đi của họ khi họ tạm thời cư trú trong cộng đồng đó. Do đó, du khách cũng rất cần đến văn hóa tiêu thụ (cụ thể là văn hóa tiêu dùng trong du lịch). Không phải du khách bỏ tiền ra mua sản phẩm và dịch vụ du lịch thì họ thích làm gì thì làm đối với tài nguyên du lịch và cộng đồng dân cư. Nếu du khách không có văn hóa ứng xử tốt, họ sẽ bị cộng đồng dân cư tẩy chay.

Du khách trong quá trình hoạt động du lịch, họ cũng phải có văn hóa ứng xử phù hợp với những chuẩn mực đạo đức nói chung của nhân loại và đồng thời họ cũng phải tuân thủ, ứng xử phù hợp với những đặc thù văn hóa, môi trường và quy định pháp luật cộng đồng cư dân tại các điểm đến như tinh thần của Bộ Quy tắc ứng xử toàn cầu về đạo đức trong du lịch(26) của UNWTO đã khuyến cáo. Vừa qua, UBND thành phố Đà Nẵng và Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch TP. Đà Nẵng đã ban hành Bộ Quy tắc ứng xử trong hoạt động du lịch trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, trong đó có nêu lên những quy tắc ứng xử của du khách khi du lịch đến Đà Nẵng như:

Trang phục lịch sự và phù hợp với điểm tham quan du lịch, nhất là khi đến những nơi tôn nghiêm như nhà thờ, đền, miếu, nghĩa trang liệt sĩ, lễ hội truyền thống…

Tôn trọng truyền thống văn hóa, phong tục tập quán của người địa phương; có ý thức giữ gìn an ninh trật tự, bảo vệ tài sản công cộng; tôn trọng, giúp đỡ và ưu tiên người lớn tuổi, người tàn tật, trẻ em, phụ nữ; xếp hàng nghiêm túc khi sử dụng các dịch vụ hoặc tham gia vào các hoạt động tại nơi cộng đồng; sử dụng có kiểm soát rượu, bia và các loại đồ uống có cồn; lấy thức ăn vừa đủ dùng, tránh lãng phí; tiết kiệm điện, nước, bảo quản các đồ dùng, vật dụng khi sử dụng các dịch vụ; không gây ồn ào, mất trật tự hoặc nói chuyện quá lớn làm ảnh hưởng đến những người xung quanh; không viết, vẽ, khắc lên tường, tượng, bia đá, cây xanh; có ý thức và trách nhiệm bảo vệ cảnh quan và môi trường tự nhiên; không vứt rác hoặc khạc nhổ bừa bãi, đi vệ sinh đúng nơi quy định; không hái hoa, bẻ cành, dẫm đạp lên bãi cỏ, chọc ghẹo thú nuôi tại các khu, điểm du lịch và nơi công cộng(27). Đây là một nổ lực tích cực, cần phát huy tại các địa phương khác ở Việt Nam để nâng cao văn hóa ứng xử trong hoạt động du lịch. Chúng ta thấy nhiều trường hợp du khách ứng xử chưa hài hòa với cộng đồng địa phương, thiếu những thấu hiểu, thông cảm với cộng đồng địa phương khiến họ bất bình, thậm chí là tẩy chay, bất hợp tác.

Bốn là, cộng đồng dân cư với tư cách là chủ thể sáng tạo tại chỗ liên kết với nhà cung ứng dịch vụ du lịch để làm dịch vụ du lịch, đón tiếp khách du lịch, đồng thời họ cũng phải ứng xử có văn hóa với tài nguyên du lịch thông qua các hoạt động tôn tạo, bảo tồn, làm giàu và khai thác chúng có hiệu quả và lâu dài.

Cộng đồng dân cư là chủ thể của tài nguyên du lịch tại cộng đồng, có thể là các thắng cảnh, di sản thế giới, di sản cấp quốc gia, công trình di tích lịch sử, nghệ thuật đặc sắc v.v... Họ là chủ thể tại chỗ vừa nhận thức được các giá trị của tài nguyên du lịch, vừa bảo tồn, làm giàu, thụ hưởng và phát huy các giá trị của chúng trong đời sống và đặc biệt hơn là trong hoạt động du lịch. Quan điểm của chúng tôi là, tài nguyên du lịch dù là tự nhiên cũng mang dấu ấn văn hóa của cộng đồng dân cư địa phương như chúng tôi có điểm qua trong phần đề xuất và phân tích khái niệm văn hóa du lịch ở trên. Cộng đồng địa phương có mối liên hệ mật thiết với nhà cung ứng dịch vụ du lịch với tư cách là đối tác phối hợp thực hiện sản phẩm du lịch, đón tiếp du khách trong suốt chuyến tham quan của họ tại cộng đồng. Do đó, đã là đối tác thì họ được chia sẻ lợi ích kinh tế được tính giá trị bằng tiền đồng hoặc vật chất tương xứng do nhà cung ứng dịch vụ du lịch trả qua phí, vé tham quan, qua dịch vụ của người địa phương cung cấp (ăn, ở, nhân lực phục vụ du khách). Một phần tài chính thu được từ du khách được dùng để trùng tu, tôn tạo các di sản nói riêng, tài nguyên du lịch tại địa phương có liên quan nói chung như tinh thần của Bộ quy tắc ứng xử toàn cầu về đạo đức trong du lịch đã nêu: “Nguồn tài chính có nguồn gốc từ các chuyến thăm tới các điểm văn hóa và di tích, ít nhất là một phần, được sử dụng cho việc bảo trì, bảo vệ, phát triển và tôn tạo các di sản này”(28). Đã là đối tác thì họ, tức là cộng đồng dân cư có quyền đòi hỏi nhà cung ứng dịch vụ du lịch trả lợi ích kinh tế tương xứng và sòng phẳng với những giá trị của tài nguyên du lịch và nhân lực phục vụ du khách tại cộng đồng và như đã thỏa thuận từ trước. Nhà cung ứng dịch vụ du lịch phải thực hiện cam kết với cộng đồng dân cư. Cộng đồng cư dân tại các điểm đến cũng không được quyền đòi hỏi lợi ích quá mức so với giá trị của tài nguyên du lịch, sản phẩm du lịch và dịch vụ thực tế đã cung cấp. Trong trường hợp có sự xung đột lợi ích giữa nhà cung ứng dịch vụ du lịch và cộng đồng dân cư thì đã có vai trò trung gian hòa giải, điều hòa của Nhà nước.

Ngoài ra, cộng đồng địa phương còn có mối liên hệ với du khách, với tư cách là chủ thể tại chỗ (có thể tạm gọi là chủ thể bị động trong hoạt động du lịch). Khi du khách được đưa đến nơi có tài nguyên du lịch và cộng đồng địa phương để tham quan, thẩm nhận, trải nghiệm các giá trị, họ phải hợp tác chặt chẽ và hài hòa với nhà cung ứng dịch vụ du lịch và cộng đồng dân cư. Tránh trường hợp xấu là cộng đồng địa phương từ chối đón tiếp du khách một cách tiêu cực do không dung hòa được lợi ích với nhà cung ứng dịch vụ du lịch và du khách. Theo Bộ Quy tắc ứng xử toàn cầu về đạo đức trong du lịch của UNWTO năm 1999, du khách có quyền tiếp cận tất cả các điểm tham quan du lịch có tài nguyên hấp dẫn theo sự hướng dẫn của người địa phương và tuân thủ những quy định, luật pháp của nước sở tại. Hơn thế nữa, trong quá trình giao lưu, tiếp biến văn hóa với du khách (acculturation), cộng đồng dân cư còn thu được lợi ích về mặt tinh thần đó là văn hóa, kinh nghiệm ứng xử, nếu sống văn minh, sự khác lạ về văn hóa mà du khách mang đến như chúng tôi đã đề cập ở phần đề xuất và phân tích định nghĩa văn hóa du lịch ở trên.

Phan Huy Xu & Võ Văn Thành 2015: Sơ đồ diễn giải mối quan hệ giữa các thành tố cấu thành văn hóa du lịch

4. Kết luận

Từ ngày đổi mới từ năm 1986 đến nay, du lịch nước ta đang từng bước phát triển đáng khích lệ. Về doanh thu, lượng khách, nhiều người nước ngoài biết đến Việt Nam là một đất nước có nhiều danh lam thắng cảnh, có nền văn hóa lâu đời, con người hiếu khách và thân thiện, giúp nâng cao vị thế nước ta trên trường quốc tế. Tiềm năng du lịch lớn, nhiều danh lam thắng cảnh, nhiều di sản văn hóa mang tầm cỡ thế giới, dân tộc Việt Nam thân thiện, mến khách nhưng hiện nay ngành Du lịch nước ta phát triển chưa tương xứng với tiềm năng và cho đến nay ngành Du lịch Việt Nam chưa trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn như được kỳ vọng. Hơn nữa, so với các nước trong khu vực, thì du lịch Việt Nam có số lượng khách tăng chậm, doanh thu chưa cao, du khách nước ngoài ít trở lại Việt Nam.

Nguyên nhân thì có nhiều, nhưng một nguyên nhân chủ yếu là văn hóa ứng xử trong du lịch còn nhiều bất cập. Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đã đề cập đến 6 điều đáng sợ với du khách khi đến Việt Nam, đó là tình trạng “làm giá, chặt chém”, giao thông Việt Nam không an toàn, tình trạng ăn xin, ăn cắp vặt, vệ sinh an toàn thực phẩm kém, vệ sinh môi trường bẩn(29). Suy đến cùng, đó là văn hóa du lịch của chúng ta còn nhiều vấn đề bất cập đã ảnh hưởng đến sự phát triển du lịch Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế.

Hơn nữa, ngày nay du lịch không chỉ còn “ngắm cảnh” hoặc “viếng thăm” mà du khách đến Việt Nam cần tìm hiểu sâu và thụ hưởng những giá trị văn hóa đặc sắc của dân tộc Việt Nam. Du lịch Việt Nam trước đây nặng về khai thác tài nguyên du lịch sẵn có nhưng với tình hình hội nhập quốc tế hiện nay, du lịch Việt Nam phải có bước “đột phá” về chất lượng, nâng cao giá trị sản phẩm và dịch vụ du lịch, đậm tính văn hóa. Mọi mục đích của du lịch đều hàm chứa yếu tố văn hóa, nếu không muốn nói là rất văn hóa vì: mục đích trí tuệ (hiểu biết), mục đích tinh thần (vui vẻ, sản khoái, tận hưởng), mục đích tình cảm, mục đích nhân bản (yêu con người, yêu thiên nhiên, yêu hòa bình, đoàn kết hữu nghị các dân tộc...), mục đích vì sức khỏe v.v... Ứng xử là một yếu tố cấu thành bản sắc văn hóa dân tộc. Bất cứ dân tộc nào cũng có hiện tượng tiếp nhận nhiều yếu tố văn hóa ngoại sinh nhưng vẫn có bản sắc riêng phong phú. Nhờ bản sắc đó mà hình thành sự khác biệt giữa văn hóa dân tộc này và văn hóa dân tộc khác”(30).

Chúng tôi đưa ra định nghĩa văn hóa du lịch như đã trình bày trên với mong muốn được các nhà nghiên cứu bàn bạc, mổ xẻ thêm để chúng ta có một nhận thức luận (epistemology) hợp lý nhất về phạm trù văn hóa du lịch và cách tiếp cận mà đằng sau nó là cả bộ môn khoa học và các vấn đề nghiên cứu có liên quan khác nhằm giải quyết tốt mối quan hệ giữa khách thể du lịch, du khách, nhà cung ứng dịch vụ du lịch, cộng đồng dân cư và quản lý Nhà nước. Về giao lưu văn hóa giữa các cộng đồng trong hoạt động du lịch ở trên chúng tôi đề cập là những khía cạnh tích cực của nó mà các cộng đồng khi đến giao lưu đều được hưởng lợi.



(1) PGS.TS. Phan Huy Xu,  Đại học Quốc tế Hồng Bàng

       ThS. Võ Văn Thành, NCS. tại Khoa Văn hóa học, trường ĐH KHXH&NV, ĐHQG. TP. HCM.

(2)Trần Thúy Anh (cb) 2010: Ứng xử văn hóa trong du lịch, NXB. Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 22;19.

(3) Xem thêm bài viết của tác giả tại địa chỉ: http://huc.edu.vn.

(4)Bùi Thanh Thủy trích dẫn từ Đổng Ngọc Minh, Vương Lôi Đình (2001): Kinh tế Du lịch và Du lịch học, NXB. Trẻ, tr. 325- 326.

(5)Theo quan điểm của chúng tôi, nên dùng thuật ngữ: nhà cung ứng du lịch thay cho môi giới du lịch.

(6)Bùi Thanh Thủy 2009: “Bàn về nội hàm Văn hóa du lịch”, Tạp chí Du lịch, số 12/2009, đăng lại trên website của trường Đại học Văn hóa Hà Nội tại địa chỉ: http://huc.edu.vn/.

(7)Bùi Thanh Thủy 2009: “Bàn về nội hàm Văn hóa du lịch”, Tạp chí Du lịch, số 12/2009, đăng lại trên website của trường Đại học Văn hóa Hà Nội tại địa chỉ: http://huc.edu.vn/.

(8)Dương Văn Sáu “Văn hóa du lịch: Sản phẩm của Văn hóa Việt Nam trong tiến trình hội nhập, toàn cầu hóa hiện nay” đăng trên website: dulichsaigonact.vn và website: Văn hóa học.

(9)Dương Văn Sáu “Văn hóa du lịch: Sản phẩm của Văn hóa Việt Nam trong tiến trình hội nhập, toàn cầu hóa hiện nay” đăng trên website: dulichsaigonact.vn và website: Văn hóa học.

(10)Dương Văn Sáu “Văn hóa du lịch: Sản phẩm của Văn hóa Việt Nam trong tiến trình hội nhập, toàn cầu hóa hiện nay” đăng trên website: dulichsaigonact.vn và website: Văn hóa học.

(11)Nguyễn Thị Thu 2014: “Du lịch văn hóa và Văn hóa du lịch”, đăng trên website: Ninh Thuận Online, truy cập ngày 29/04/2014.

(12)Nguyễn Thị Thu 2014: “Du lịch văn hóa và Văn hóa du lịch”, đăng trên website: Ninh Thuận Online, truy cập ngày 29/04/2014.

(13)Trần Thúy Anh (cb) 2010: Ứng xử văn hóa trong du lịch, NXB. Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 22;19.

(14)Có sự tham gia, đóng góp ý kiến của ThS. Tạ Duy Linh, Giám đốc Tài chính và Marketing công ty Toho Engineering Vietnam.

(15)Bùi Thị Hải Yến (cb) 2011: Tài nguyên du lịch, NXB. Giáo dục Việt Nam, tr. 20.

(16) Đây cũng là quan điểm của nhà nghiên cứu Trần Ngọc Thêm.

(17) Xem thêm thông tin ở bài của Nguyễn Tiến Lực 2010: “Về cách thức tiếp nhận văn minh bên ngoài của Nhật Bản”, dẫn lại ý kiến quan trọng của GS. Vĩnh Sính “Có thể nói rằng không có dân tộc nào nhạy bén về văn hóa nước ngoài cho bằng người Nhật. Họ không ngừng theo dõi những diễn tiến trên thế giới bên ngoài, đánh giá và cân nhắc ảnh hưởng của những trào lưu và xu hướng chính đối với Nhật Bản. Một điều đáng chú ý khác là khi họ biết trào lưu nào đang thắng thế thì họ có khuynh hướng chấp nhận, học hỏi, nghiên cứu để bắt kịp trào lưu đó, không để mất thời cơ” [http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn].

(18) Nhiều trường hợp, nhà cung ứng dịch vụ du lịch tiến hành sản xuất ra các chương trình du lịch trước rồi quảng bá đến khách hàng tiềm năng và điều chỉnh sản phẩm du lịch trên thực tế khi chủ thể du lịch đã đồng ý ký kết hợp đồng. Trên thực tế, cũng có nhiều chương trình du lịch phải tiếp tục điều chỉnh do yêu cầu của chủ thể du lịch hoặc do sự cố xảy ra hoặc thiên tai và thậm chí có nhiều chương trình du lịch bị hủy vì không thực hiện được do điều kiện khách quan hoặc chủ quan.

(19) Huỳnh Quốc Thắng “Địa danh với toàn cầu hóa và địa phương hóa du lịch”, in trong Toàn cầu hóa du lịch và Địa phương hóa du lịch, NXB. Đại học Quốc gia 2015, tr. 291.

(20) Thuật ngữ của nhà nghiên cứu văn hóa Trần Ngọc Thêm.

(21) Từ của nhà sử học Trần Quốc Vượng.

(22) Huỳnh Quốc Thắng “Địa danh với toàn cầu hóa và địa phương hóa du lịch”, in trong Toàn cầu hóa du lịch và Địa phương hóa du lịch, NXB. Đại học Quốc gia 2015, tr. 291.

(23) Bà Grace Agatep, Giám đốc kinh doanh và tiếp thị khách sạn Pullman Saigon Center đánh giá rất cao môi trường an ninh, an toàn của Việt Nam: “Các bạn đang có thế mạnh là Việt Nam vẫn là điểm đến an toàn. Du khách đến Việt Nam không lo chuyện an ninh, súng đạn như ở Philippines, đất nước tôi. Du khách cũng không phải đối diện việc phải bị xét giỏ xách, đi qua cổng từ kiểm tra an ninh trước khi bước vào khách sạn, trung tâm thương mại như một số nước trong khu vực… Chỉ riêng điểm đó thôi các bạn đã hơn hẳn các nước khác, tạo cho du khách cảm giác an toàn. Hãy tìm những điểm mạnh của mình và tận dụng tối đa nó cho việc gia tăng khả năng cạnh tranh của du lịch Việt Nam với các quốc gia trong khu vực” [Lê Nam ghi, báo Tuổi Trẻ 27/09/2015].

(24)Dẫn lại Sơn Hồng Đức 2011: Đường vào kinh doanh du lịch MICE, NXB. Lao động Xã hội, tr. 211.

(25)Mai Hà Phương trong bài “Glocalization – Xu thế phát triển tất yếu của du lịch Việt Nam trong thời kỳ hội nhập” đăng trên tạp chí Văn hóa và Nguồn lực, số 3, cũng có nhận định tương tự khi tác giả nói rằng: “Mọi hoạt động du lịch đều bắt nguồn từ văn hóa, dựa vào văn hóa, có bản chất văn hóa và mang đặc trưng văn hóa sâu sắc. Ngay cả trong hoạt động du lịch tự nhiên, việc khai thác tài nguyên du lịch tự nhiên để tạo ra các sản phẩm du lịch cũng hàm chứa trong đó nhiều giá trị văn hóa địa phương của điểm đến” tạp chí Văn hóa và Nguồn lực số 3-2015, tr.114.

(26) UNWTO 1999: Global code of Ethics for Toursim.

(27) Trích Điều 8, Bộ Quy tắc ứng xử trong hoạt động du lịch trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, 2015.

(28) UNWTO 1999: Global code of Ethics for Toursim.

(29)Mạnh Quân (đưa tin) 2015: “Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam: 6 điều du khách rất sợ khi tới Việt Nam”, Thanh Niên Online, 11/06/2015.

(30)Trần Thúy Anh (cb) 2010: Ứng xử văn hóa trong du lịch, NXB. Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 22;19.

 

 

Tài liệu tham khảo

1. Luật Du lịch 2005 & Văn bản hướng dẫn thi hành, Nxb Chính trị Quốc gia 2013.

2. Nguyễn Tiến Lực (2010), “Về cách thức tiếp nhận văn minh bên ngoài của Nhật Bản”, đăng trên website của khoa Văn học-Ngôn ngữ của trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn – Đại học Quốc gia TP. HCM tại địa chỉ: http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn

3. Mai Hà Phương (2015), “Glocalization – Xu thế phát triển tất yếu của du lịch Việt Nam trong thời kỳ hội nhập”, tạp chí Văn hóa & Nguồn lực, số 3-2015.

4. Dương Văn Sáu (2011), “Văn hóa Du lịch: Sản phẩm của văn hóa Việt Nam trong tiến trình hội nhập, toàn cầu hóa hiện nay” [dulichsaigonact.vn].

5. Dương Văn Sáu (2013), “Phát triển sản phẩm du lịch trên nền tảng các di sản văn hóa: Công cụ hữu hiệu để quảng bá Văn hóa Việt Nam”, in trong Đỗ Ngọc Anh & Đỗ Thị Minh Thúy chủ biên (2013), Vấn đề phát triển văn hóa (qua văn kiện Đại hội Đảng lần thứ 11), Nxb Văn hóa Thông tin.

6. Nguyễn Thị Thu (2014), “Du lịch văn hóa và Văn hóa du lịch”, đăng trên website:http://baoninhthuan.com.vn/news.

7. Bùi Thanh Thủy (2009), “Bàn về nội hàm Văn hóa du lịch”, Tạp chí Du lịch, số 12/2009, đăng lại trên website của trường Đại học Văn hóa Hà Nội tại địa chỉ: http://huc.edu.vn/.

8. Trường Cao đẳng Văn hóa, Nghệ thuật và Du lịch Sài Gòn & Trường Đại học Charles De Gaulle Lille 3 2015: Kỷ yếu hội thảo khoa học Quốc tế Toàn cầu hóa du lịch và địa phương hóa du lịch, Nxb Đại học quốc gia TP. HCM.

9. Trần Quốc Vượng (2003), Văn hóa Việt Nam-Tìm tòi và suy ngẫm, Nxb Văn học.

10. Trần Thúy Anh (cb) 2004, 2010: Ứng xử văn hóa trong du lịch, Nxb. ĐHQG Hà Nội.

11. Trần Ngọc Thêm 2004: Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Tổng hợp Hồ Chí Minh

12. Bùi Thị Hải Yến chủ biên (2011), Tài nguyên du lịch, Nxb Giáo dục Việt Nam.

13. Sơn Hồng Đức 2011: Đường vào kinh doanh du lịch MICE, Nxb Lao động Xã hội.

14. UBND TP. Đà Nẵng & Sở VHTTDL TP. Đà Nẵng 2015: Bộ quy tắc ứng xử trong hoạt động du lịch trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.

15. UNWTO 1999: Global code of Ethics for Tourism

16. Mạnh Quân (đưa tin) 2015: “Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam: 6 điều du khách rất sợ khi tới Việt Nam”, Thanh Niên Online, 11/06/2015.

Nguồn: Tác giả và Tạp chí Văn hóa & Nguồn lực, số 5/2016.

Lên trên

Cùng chủ đề

  • Nguyễn Phúc Lưu. Giải pháp phát triển du lịch di sản văn hóa

  • Misha Ketchell. Doanh thu của ngành công nghiệp du lịch sụt giảm 50% do dịch bệnh

  • Trần Hồng Cơ. Phát triển du lịch có bảo tồn được di sản văn hóa?

  • Ban Quản lý Di tích Lịch sử - Văn hóa Lăng Lê Văn Duyệt. Công tác quản lý và khai thác di sản văn hóa trong phát triển du lịch

  • Võ Văn Thành. Di sản văn hóa thế giới tại Việt Nam trong du lịch

Thông báo

Tư vấn khoa học và kỹ năng nghiên cứu…

Tủ sách văn hoá học Sài Gòn

  • Thư viện ảnh
  • Thư viện video
  • Tủ sách VHH

Phóng sự ảnh: Toạ đàm khoa học: Xây dựng…

Hình ảnh văn hóa Tết xưa (sưu tầm)

Phóng sự ảnh: Lễ hội truyền thống VHH 2011

Phóng sự ảnh Lễ hội truyền thống VHH 2010

Thành phố Sankt-Peterburg, Nga

Bộ ảnh: Việt Nam quê hương tôi 2

Tranh Bùi Xuân Phái

Bộ tem tượng Phật chùa Tây Phương

Bộ ảnh: Đá cổ Sapa

Bộ ảnh: Phong cảnh thiên nhiên

Bộ ảnh: Việt Nam quê hương tôi

"Biển, đảo Việt Nam - Nguồn cội tự bao đời":…

Con dê trong văn hóa và văn hóa Việt Nam

Văn hóa Tết ở Tp.HCM (Chương trình truyền…

Văn hóa Tp. HCM: Một năm nhìn lại và động…

Phong tục Tết cổ truyền của người Nam Bộ

Bánh tét và Tết phương Nam

Con ngựa trong văn hóa và văn hóa Việt Nam

Điện Biên Phủ - Cuộc chiến giữa hổ và voi

Nhìn lại toàn cảnh thế giới từ 1911-2011…

Tọa độ chết - một bộ phim Xô-Việt xúc động…

Video: Lễ hội dân gian Việt Nam

Văn hoá Việt từ phong tục chúc Tết

Văn hoá Tết Việt qua video

Tết ông Táo từ góc nhìn văn hoá học

“Nếp nhà Hà Nội” trên “Nhịp cầu vàng”: tòa…

Văn hóa Thăng Long - Hà Nội qua video: từ…

Hướng về 1000 năm TL-HN: Xem phim “Tử Cấm…

Hướng về 1000 năm TL-HN: Người Thăng Long…

Phim "Chuyện tử tế" – tập 2 (?!) của “Hà…

Default Image

Hướng về 1000 năm TL-HN: "Chuyện tử tế" -…

Sách “Di sản Ấn Độ trong văn hóa Việt Nam”

Nguyễn Văn Bốn. Tín ngưỡng thờ Mẫu của người…

Sách: Quản lý và khai thác di sản văn hóa…

Hồ Sĩ Quý. Con người và phát triển con người

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 3

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 2

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 1

Hồ Sỹ Quý. Tiến bộ xã hội: một số vấn đề về…

Hồ Sỹ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á (Phụ…

Hồ Sỹ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á…

Hồ Sĩ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á…

Sách: Chuyên đề Văn hoá học

Sách: Một số vấn đề về hệ giá trị Việt Nam…

FitzGerald. Sự bành trướng của Trung Hoa…

Hữu Đạt. Đặc trưng ngôn ngữ và văn hoá giao…

Sống chụ son sao (Tiễn dặn người yêu)

Gs. Mai Ngọc Chừ. Số phận & Tâm linh

Trần Văn Cơ. Những khái niệm ngôn ngữ học…

Đoàn Văn Chúc. Văn hóa học (Phần 3 - hết)

Đoàn Văn Chúc. Văn hóa học (Phần 2)

Các nhà VHH nổi tiếng

Julian Haynes Steward

Wen Yi'duo (Văn Nhất Đa)

Leslie Alvin White

Huang Wen'shan (Hoàng Văn Sơn)

Radcliff-Brown, Alfred Reginald

Sapir, Edward

Margaret Mead

Thăm dò ý kiến

Bạn thích cuốn "Cơ sở văn hoá VN" của tác giả nào nhất?

Chu Xuân Diên - 4.8%
Lê Văn Chưởng - 0.9%
Trần Diễm Thuý - 1%
Trần Ngọc Thêm - 37.4%
Trần Quốc Vượng - 53%
The voting for this poll has ended on: 26 06, 2020

Tổng mục lục website

tong muc luc

Tủ sách VHH Sài Gòn

tu sach VHH SG

Thống kê truy cập

  • Đang online :
  • 462
  • Tổng :
  • 3 7 7 3 3 2 0 8
  • Đại học quốc gia TPHCM
  • Đại học KHXH&NV
  • Tran Ngoc Them
  • T.c Văn hóa-Nghệ thuật
  • Tc VHDG
  • Viện NCCN
  • Khoa Văn hóa học
  • Khoa Đông phương học
  • Phòng QLKH
  • Khoa Việt Nam học
  • Khoa Hàn Quốc học
  • BM Nhật Bản học
  • Khoa Văn học - Ngôn ngữ
  • Khoa triết học
  • Khoa Quan hệ quốc tế
  • Khoa Xã hội học
  • Bảo tàng Lịch sử - Văn hóa
  • viettems.com
  • myfaifo.com
Previous Next Play Pause

vanhoahoc.vn (các tên miền phụ: vanhoahoc.edu.vn ; vanhoahoc.net)
© Copyright 2007-2015. Bản quyền thuộc Trung tâm Văn hóa học Lý luận và Ứng dụng, Trường Đại học KHXH & NV - ĐHQG Tp. HCM
ĐT (028) 39104078; Email: ttvanhoahoc@hcmussh.edu.vn; ttvanhoahoc@gmail.com. Giấy phép: số 526/GP-BC, do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 27-11-2007
Ghi rõ nguồn vanhoahoc.vn khi phát hành lại các thông tin từ website này.

Website được phát triển bởi Nhà đăng ký tên miền chính thức Việt Nam trực thuộc Trung Tâm Internet VNNIC.

Văn hóa du lịch