logo

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
    • Thư ngỏ
    • Khái quát về Trung tâm
    • Nhân lực Trung tâm
      • Thành viên Trung tâm
      • Cộng tác viên
    • Giới thiệu Khoa Văn hóa học
      • Khái quát về Khoa
      • Nhân lực của Khoa
  • Tin tức
    • Tin nhà (Trung tâm)
    • Tin ngành
    • Tin liên quan
  • Đào tạo - Huấn luyện
    • Các chương trình
    • Tổ chức và Hiệu quả
    • Đào tạo ở Khoa VHH
      • Chương trình đào tạo
      • Kết quả đào tạo
  • Nghiên cứu
    • Lý luận văn hóa học
      • LLVHH: Những vấn đề chung
      • VHH: Phương pháp nghiên cứu
      • VHH: Các trường phái - trào lưu
      • Loại hình và phổ quát văn hóa
      • Các bình diện của văn hóa
      • Văn hóa học so sánh
      • Vũ trụ quan phương Đông
      • Văn hóa và phát triển
      • VHH và các khoa học giáp ranh
    • Văn hóa Việt Nam
      • VHVN: Những vấn đề chung
      • Văn hóa cổ-trung đại ở Viêt Nam
      • Văn hóa các dân tộc thiểu số
      • Văn hóa Nam Bộ
      • Văn hóa nhận thức
      • Văn hóa tổ chức đời sống tập thể
      • Văn hóa tổ chức đời sống cá nhân
      • Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên
      • Văn hóa ứng xử với môi trường xã hội
    • Văn hóa thế giới
      • VH Phương Đông: Những vấn đề chung
      • VH Phương Tây: Những vấn đề chung
      • Quan hệ văn hóa Đông - Tây
      • Văn hóa Trung Hoa và Đông Bắc Á
      • Văn hóa Đông Nam Á
      • Văn hóa Nam Á và Tây Nam Á
      • Văn hóa châu Âu
      • Văn hóa châu Mỹ
      • Văn hóa châu Phi và châu Úc
    • Văn hóa học ứng dụng
      • VHƯD: Những vấn đề chung
      • VHH nghệ thuật
      • Văn hóa đại chúng
      • Văn hóa giao tiếp
      • Văn hóa du lịch
      • Văn hóa đô thị
      • Văn hóa kinh tế
      • Văn hóa quản trị
      • Văn hóa giáo dục - khoa học
    • Tài liệu phổ cập VHH
      • Văn hóa Việt Nam
      • Văn hóa thế giới
      • VHH ứng dụng
    • Tài liệu tiếng nước ngoài
      • Theory of Culturology
      • Vietnamese Culture
      • Applied Culturology
      • Other Cultures
      • 中文
      • Pусский язык
    • Thư Viện Số (Sách - Ảnh - Video)
      • Tủ sách Văn hoá học
      • Thư viện ảnh
      • Thư viện video
    • Các nhà văn hóa học nổi tiếng
  • Tiện ích
    • Dịch vụ Văn hóa học
    • Dịch vụ ngoài VHH
    • Trợ giúp vi tính
    • Từ điển Văn hóa học
    • Thư viện TT và Khoa
    • Tổng mục lục website
    • Tủ sách VHH Sài Gòn
    • Giải đáp thắc mắc
  • Thư giãn VHH
    • Văn chương Việt Nam
    • Văn chương nước ngoài
    • Nghệ thuật Việt Nam
    • Nghệ thuật thế giới
    • Hình ảnh vui
    • Video vui
  • Diễn đàn
  • Liên hệ
  • Trang chủ
  • Nghiên cứu
  • Văn hóa học ứng dụng
  • Văn hóa du lịch
Wednesday, 11 April 2018 08:22

Phạm Ngọc Uyên. Hoạt động tiếp thị và truyền thông của các bảo tàng đối với ngành du lịch

Người post bài:  Nguyễn Thị Tuyết Ngân

Additional Info

  • Tiêu đề:

    HOẠT ĐỘNG TIẾP THỊ VÀ TRUYỀN THÔNG CÓ TRÁCH NHIỆM CỦA CÁC BẢO TÀNG
    ĐỐI VỚI NGÀNH DU LỊCH TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

  • Tác giả:

    Phạm Ngọc Uyên

  • Chức danh:

    Bảo tàng Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh

Phạm Ngọc Uyên. Hoạt động tiếp thị và truyền thông của các bảo tàng đối với ngành du lịch

Khám phá, tìm hiểu về lịch sử, văn hóa và con người của một vùng đất xa lạ trong mỗi chuyến hành trình là trải nghiệm mà khách du lịch quốc tế luôn bị thu hút mạnh mẽ. Và bảo tàng chính là một trong những điểm đến không thể thiếu đối với họ. Bởi qua đó, du khách có được cái nhìn tổng quát nhất về vùng đất mà họ đặt chân đến. Đối với nhiều nước, bảo tàng là địa điểm không thể bỏ qua, trong khi tại Việt Nam, nguồn “tài nguyên” này đang còn bị bỏ phí.

Trước một thế giới hội nhập và toàn cầu hóa đang là xu thế chung hiện nay, bảo tàng tại Việt Nam với các giá trị lịch sử - văn hóa là nhân tố cơ bản tạo nên một nét đặc sắc cho các sản phẩm du lịch. Bảo tàng là nơi có đầy đủ tiềm năng và thế mạnh riêng để có thể đáp ứng tốt các yêu cầu thỏa mãn nhu cầu văn hóa tinh thần của khách du lịch. Thế nhưng, thực tế là các bảo tàng tại Thành phố Hồ Chí Minh với hàng vạn hiện vật cùng nhiều sưu tập độc đáo vẫn là một kho báu còn ẩn mình đối với hoạt động du lịch.

Với tốc độ phát triển mạnh mẽ của xã hội nói chung và xu hướng phát triển của ngành du lịch nói riêng ngày nay, ngành công nghiệp “không khói” thật sự đã đem lại những lợi ích không nhỏ đối với nền kinh tế, sự thúc đẩy trao đổi, giao lưu văn hóa giữa các khu vực trên thế giới. Cùng những mặt tích cực đó, các tác động tiêu cực về kinh tế, môi trường và xã hội cũng đang là khó khăn, thách thức đối với ngành du lịch của các quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Trước những vấn đề đặt ra như vậy, ngay từ năm 1992, khái niệm “du lịch bền vững” đã ra đời nhưng vẫn còn những tranh luận về phương pháp và cách thức tiến hành và đến năm 2002 với Tuyên bố Cape Town, thuật ngữ “du lịch có trách nhiệm” đã thể hiện rõ hơn cách thức tiến hành để thực sự hướng tới phát triển du lịch bền vững.

Trong chuỗi các yếu tố liên quan đến du lịch có trách nhiệm, thì yếu tố tiếp thị và truyền thông đáng được lưu ý, đặc biệt là đối với hoạt động của các bảo tàng –những điểm đến di sản văn hóa của ngành du lịch tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Báo cáo sẽ bàn về những mặt được và hạn chế cũng như đưa ra một vài suy nghĩ về hoạt động tiếp thị và truyền thông có trách nhiệm của các bảo tàng tại Thành phố Hồ Chí Minh đối với ngành du lịch trong thời gian tới. Với hy vọng để có thể làm tốt hơn trách nhiệm của mình đối với công chúng và cộng đồng trong bối cảnh xã hội đang có nhiều những hoạt động giải trí đầy sức cạnh tranh khác cũng như thay đổi nhận thức, nâng cao trách nhiệm của bảo tàng và cộng đồng trước những nguy cơ từ ngành du lịch đem lại.

  1. 1.Tiếp thị có trách nhiệm

Trong thời gian gần đây, hoạt động tiếp thị đã được các bảo tàng chú trọng và nhận thức rõ ràng cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn.

Suốt hơn một thập niên qua, hoạt động tiếp thị hay vẫn gọi bằng thuật ngữ quen thuộc “marketing” ở các bảo tàng tại Thành phố Hồ Chí Minh đã được thực hiện với sự quan tâm và nhận thức kịp thời, đúng đắn. Đây được xem là một công cụ có tầm quan trọng đặc biệt hữu ích đối với hoạt động phát triển của bảo tàng trong một thế giới mà hội nhập đang là xu thế chung. Tuy nhiên, thực trạng cho thấy hoạt động tiếp thị tại các bảo tàng chỉ dừng lại ở một số những hoạt động còn mang tính thụ động, một chiều, chưa thực sự tạo được sự tương tác giữa bảo tàng và công chúng, chưa tạo được sự lôi cuốn mạnh mẽ công chúng đến với bảo tàng và chưa cung cấp được các dịch vụ đa dạng kèm theo. Điều này cũng đặt ra câu hỏi, các bảo tàng đã thực sự thực hiện hay thấu hiểu hết những trách nhiệm của mình đối với công chúng và cộng đồng.

Cùng sự phát triển không ngừng của nền kinh tế thế giới, hoạt động tiếp thị ngày nay đang thay đổi nhanh chóng. Tuy nhiệm vụ của tiếp thị là bổ sung giá trị và gia tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp, tiếp thị không còn là một bộ phận chức năng thực hiện những công việc vạch sẵn. Đối tượng của tiếp thị cũng không chỉ là sản phẩm, giá cả, phân phối, khuyến mãi như trước đây, mà đã được mở rộng hơn và bao gồm cả trải nghiệm và hành trình tiêu dùng của khách hàng. Cả hai lĩnh vực này đòi hỏi những người làm tiếp thị phải tập trung vào các vấn đề như quy trình, con người, đồng thời cần thấu hiểu khách hàng một cách sâu sắc. Những yếu tố mới này mang lại nhiều cơ hội tuyệt vời để tạo nên sự khác biệt mà tiếp thị văn hóa hay bảo tàng cần thiết phải học tập và ứng dụng [Paul R. Gamble, Alan Tapp, Anthony Marsella, Merlin Stone 2015: 7].

Đối với lĩnh vực bảo tàng nói riêng và ngành du lịch nói chung, hoạt động tiếp thị đều áp dụng mô hình “4Ps” bao gồm: product (sản phẩm), price (giá cả), place (địa điểm), promotion (xúc tiến bán). Trong du lịch, đôi khi chữ “P” thứ năm cũng được đề cập đến – “package” (đóng gói sản phẩm), tức là sự kết hợp của hơn một sản phẩm ví dụ như các chương trình tour bao gồm các điểm tham quan, cơ sở lưu trú và phương tiện đi lại.

Tiếp thị có trách nhiệm có thể được hiểu là quá trình truyền đạt thông điệp về những ví dụ thực tiễn bền vững trong du lịch với mục tiêu giáo dục và nâng cao ý thức của cộng đồng về tác động của du lịch và lợi ích của những thay đổi tích cực cũng như áp dụng những nguyên tắc bền vững đối với chính hoạt động tiếp thị[1].

Đối với lĩnh vực bảo tàng, du lịch có trách nhiệm thể hiện ở việc tôn trọng, bảo tồn và phát huy tính chân thật trong văn hóa – xã hội, đảm bảo những lợi ích lâu dài và khả thi cho các chủ thể tham gia đó là những người trực tiếp và gián tiếp làm bảo tàng, các tổ chức du lịch và công chúng. Trong quá trình này đòi hỏi các bên phải chủ động tham gia và mang lại những thay đổi có lợi, thông qua các quyết định và triển khai các hoạt động nhằm tối ưu hóa những lợi ích về kinh tế, xã hội và môi trường, giảm thiểu những tác động liên đới mang tính tiêu cực[2].

Với “sản phẩm” mang tính đặc thù của bảo tàng, những năm qua hoạt động tiếp thị bảo tàng đã góp phần không nhỏ trong việc cải thiện, thu hút số lượng khách tham quan đến với bảo tàng đồng thời với ngành du lịch của Thành phố Hồ Chí Minh. Hoạt động này không chỉ dừng lại ở mức độ thực hiện việc quảng cáo để bán các “sản phẩm văn hóa” như: ứng dụng phương tiện truyền thông, ấn phẩm để tuyên truyền, quảng bá về trưng bày và các hoạt động của mình. Các bảo tàng đã chủ động cử những nhân viên đến tận các công ty du lịch trên địa bàn thành phố hay gửi các thư ngỏ đến các trường học, trung tâm văn hóa, nhà thiếu nhi; hoặc nhờ vào những mối quan hệ quen biết cá nhân để đưa các bộ triển lãm lưu động đến các cơ quan, xí nghiệp, nhà máy. Bên cạnh đó, bảo tàng cũng đã cho đăng quảng cáo trên các tạp chí lớn như tạp chí Heritage của Hãng Hàng không Việt Nam (Vietnam Airlines), tạp chí The Guide của Thời báo kinh tế Việt Nam v.v., song, đáng tiếc là không duy trì được thường xuyên vì chi phí khá cao.

Qua quan sát thực tế, có thể thấy rằng, tình trạng phổ biến hiện nay là các bảo tàng tại Thành phố Hồ Chí Minh tập trung tiếp thị vào hoạt động trưng bày, triển lãm trong bảo tàng; phối hợp với các bảo tàng bạn trong nước; phối hợp với các nhà sưu tập tư nhân hay thi công trưng bày cho những tư nhân có nhu cầu giới thiệu bộ sưu tập của mình đến công chúng tại bảo tàng. Hình thức tiếp thị đối với hoạt động này là in áp-phích quảng cáo trước cổng bảo tàng, đưa tin lên trang web bảo tàng, gửi tập gấp đến các công ty du lịch, để tờ rơi tại các bảo tàng khác. Tuy nhiên, rất ít có các hoạt động tiếp thị, quảng cáo chính thức về nội dung cuộc trưng bày để thu hút sự quan tâm của dư luận trước hoặc sau giờ khai mạc. Nghĩa là vai trò của truyền thông cũng chưa phát huy được sức mạnh tối đa của nó.

Đối với hoạt động triển lãm lưu động, hoạt động tiếp thị cũng chưa được mở rộng đến nhiều đối tượng và nhiều vùng miền khác. Khách hàng “quen thuộc” vẫn là các trường học, trung tâm văn hóa, nhà thiếu nhi và một số ít các cơ quan, xí nghiệp, nhà máy. Vì thế mà bảo tàng chưa khai thác được những khách hàng tiềm năng khác.

Bảo tàng cũng chưa quan tâm đến những nơi mà khách du lịch cả trong và ngoài nước lưu trú, cũng như những điểm mà họ thường xuyên lui tới trong hành trình tại Thành phố Hồ Chí Minh. Nếu nắm bắt được những điểm này, bảo tàng có thể gửi những tập gấp, tờ rơi thông tin với chỉ dẫn cụ thể cùng những sản phẩm đặc thù về mình để thu hút sự quan tâm của khách du lịch.

Trên đây là những cách tiếp thị truyền thống mà các bảo tàng đã và đang sử dụng. Trong một thế giới tràn ngập thông tin với các trang thiết bị cầm tay hiện đại như hiện nay, hoạt động tiếp thị cũng buộc phải thay đổi để thích ứng với thời đại. Hình thức tiếp thị điện tử đang được chú ý và đã dần thay thế một số cách thức tiếp thị truyền thống giúp giảm thiểu việc in ấn tốn kém như trước đây.

Công chúng ngày nay đến với bảo tàng có nhiều mục đích, họ sử dụng bảo tàng với những nhu cầu không giống nhau. Họ có thể yêu cầu thông tin qua điện thoại, thư điện tử hoặc có nhu cầu mua hàng hóa, ấn phẩm từ các cửa hàng trong bảo tàng, họ cũng có thể gặp gỡ bạn bè bên ngoài bảo tàng bởi đó là một địa điểm có ý nghĩa hoặc đơn giản coi đó là một địa điểm đẹp. Nó có thể phục vụ người sử dụng với tính chất tượng trưng để đem đến cho họ một cảm giác về vị thế văn hóa [Timothy Ambrose, Crispin Paine 2000: 46]. Do đó, bảo tàng chưa đẩy mạnh được các dịch vụ khác của mình ngoài hoạt động chính là trưng bày hiện vật, tranh, ảnh.

Các hoạt động dịch vụ mà các bảo tàng có thể phát triển như: khai thác một số lượng sách, tư liệu quý từ thư viện (trường hợp thư viện của Hội Nghiên cứu Đông Dương do Bảo tàng Lịch sử tiếp nhận từ năm 1979 đến nay), mở rộng hoạt động các cửa hàng bán sản phẩm lưu niệm, ấn phẩm bảo tàng, cho thuê mặt bằng phục vụ các sự kiện, cửa hàng giải khát, các dịch vụ quay phim, chụp ảnh, hợp đồng cho các bảo tàng trong và ngoài nước mượn hiện vật trưng bày, thi công và thiết kế trưng bày, bảo quản và phục dựng hiện vật, giám định hiện vật, v.v. tại các bảo tàng trong Khối di sản của Thành phố.

Tất cả phải có những quy định thành văn rõ ràng và ràng buộc để có một số hình ảnh độc đáo của bảo tàng ở một mức độ nhất định phải được xuất hiện trong những hoạt động riêng của họ. Qua đó, bảo tàng có thể tranh thủ các kênh thông tin này để tiếp thị, quảng cáo qua dạng hình ảnh nhằm ghi dấu vào tâm trí khách hàng hay khách tham quan.

Một yếu tố khác mà các bảo tàng chưa thật sự chú trọng, quan tâm đúng mức đến những khía cạnh khác của hoạt động tiếp thị, đó là việc tìm hiểu và nghiên cứu thị trường.

Việc nghiên cứu thị trường, một “điều quan trọng tột bậc để giúp bạn đi đến thành công” [Timothy Ambrose, Crispin Paine 2000: 43] chưa được bảo tàng đặt ra một cách nghiêm túc. Tất cả các bảo tàng hiện nay đều hoạt động trong cơ chế thị trường. Thị trường của nơi này khác với nơi khác, của nước này khác với nước khác. Hiểu và nắm bắt được bản chất và cấu tạo thị trường sẽ giúp bảo tàng xác định được mọi hoạt động đã được nhắm vào những khách hàng sẵn có và khách hàng tiềm năng đúng mức.

Có thể khảo sát số liệu khách tham quan của Bảo tàng Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh, một trong 07 bảo tàng trực thuộc Sở Văn hóa và Thể thao Thành phố Hồ Chí Minh có số lượng khách tham quan đứng thứ 02 tại đây từ năm 2007 – đây là mốc thời gian khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Khảo sát cho thấy, không có sự biến động nhiều so với những năm đầu thế kỷ XXI. Bảng 1 và Biểu đồ 1 thể hiện rõ điều đó và cũng phản ánh lượng khách nước ngoài tham quan bảo tàng chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ so với khách nội địa. Nguyên nhân thì có nhiều nhưng nó cũng phản ánh một phần hoạt động tiếp thị bảo tàng chưa thực sự hiệu quả và đáp ứng kịp thời xu thế mới. Đó là sự thiếu khảo sát, đánh giá và phân loại công chúng cũng như khả năng nắm bắt nhu cầu của công chúng để có thể thực hiện tốt việc nghiên cứu thị trường.

Bảng 1: Số lượng khách tham quan Bảo tàng Lịch sử 2000 – 2016

(Đơn vị: lượt người)

Năm Khách trong nước Khách nước ngoài Tổng cộng Tỷ lệ (%) khách nước ngoài
2000 174.289 46.128 220.417 21
2001 194.867 58.396 253.263 23
2002 274.651 60.742 335.393 18
2003 246.482 50.289 296.771 17
2004 258.555 71.382 329.937 22
2005 311.843 66.052 377.895 17
2006 248.952 74.600 323.552 23
2007 331.411 64.100 395.511 16
2008 329.867 84.924 414.791 20
2009 258.132 67.232 325.364 21
2010 314.242 38.283 352.525 11
2011 283.584 68.081 351.665 19
2012 290.210 65.550 355.760 18
2013 149.791 54.418 204.209 27
2014 186.528 84.119 270.647 31
2015 242.701 93.935 336.636 28
2016 246.297 94.338 340.635 28

Biểu đồ 1: Phân bố khách tham quan Bảo tàng Lịch sử 2000–2016

Tuy nhiên, việc nghiên cứu thị thường ngày nay cũng đã có những thay đổi khác trước. Vẫn còn quan niệm rằng, tiếp thị là cuộc đọ sức giữa các sản phẩm và theo thời gian, sản phẩm thắng thế là sản phẩm tốt nhất. Với suy nghĩ này, những người làm tiếp thị thường chỉ nghĩ đến việc “nghiên cứu” và “thu thập dữ liệu thực tế”. Họ phân tích tình hình để tin chắc rằng mình nhận định đúng. Nhưng, đó chỉ là một ảo tưởng. Không có yếu tố nào là khách quan ở đây cả. Không có dữ liệu thực tế nào cả. Cũng không có sản phẩm nào là sản phẩm tốt nhất! Tất cả những gì tồn tại trong thế giới tiếp thị chỉ là nhận thức – cái tồn tại trong ý thức khách hàng tiềm năng. Nhận thức của khách hàng mới chính là thực tế và quan trọng nhất.

Chỉ có thông qua việc nghiên cứu cơ chế hình thành nhận thức khách hàng và tập trung tất cả các chương trình tiếp thị vào nhận thức ấy, thì bạn mới có thể chiến thắng được những hình thức tiếp thị theo lối mòn trước đây. Tiếp thị chính là nghệ thuật xử lý những quan niệm, những nhận thức đó [Al Ries, Jack Trout 2015: 35-37]. Điều này cũng có nghĩa chúng ta sẽ nắm bắt được phân khúc thị trường khách tham quan để có thể đưa ra những thông điệp truyền thông về du lịch có trách nhiệm.

  1. 2.Truyền thông có trách nhiệm

Từ việc chú trọng nghiên cứu thị trường, truyền thông là một yếu tố đóng vai trò vô cùng quan trọng. Sử dụng những thông điệp và kênh tuyên truyền phù hợp để đem đến cho công chúng những trải nghiệm thú vị trong hành trình của mình là một điều cần được đầu tư nghiêm túc. Bên cạnh hoạt động trưng bày thường được giới thiệu qua các trang thông tin điện tử hay trang mạng xã hội với những thông điệp gắn liền với nội dung các cuộc trưng bày về gìn giữ, bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa truyền thống thì việc tuyên truyền để khách tham quan tham gia góp phần bảo vệ môi trường, cảnh quan thông qua sử dụng tiết kiệm tập gấp; tiết kiệm điện, nước, giấy khi sử dụng nhà vệ sinh; bỏ rác và phân loại rác thải đúng quy định; v.v. cần chú ý, cẩn trọng đến cách sử dụng từ ngữ chọn lọc để công chúng không cảm thấy bị lên lớp và giảm lòng tin như cách mà Bảo tàng Lịch sử đã thực hiện.

Các bảo tàng có thể tranh thủ các kênh tuyên truyền hiệu quả như trưng bày các chứng nhận về du lịch bền vững chẳng hạn như: “Thành phố Hồ Chí Minh – 100 điều thú vị”, chứng nhận của TripAdvisor – một trang mạng thông tin điện tử du lịch lớn nhất thế giới hay trưng bày logo tại các lối vào, lối ra, sảnh; nơi ghi cảm tưởng, góp ý; trang web; tờ rơi, v.v. Có thể nói, đối với mảng truyền thông có trách nhiệm ở bảo tàng, Bảo tàng Chứng tích chiến tranh là một đơn vị đã áp dụng tốt điều này.

Việc ứng dụng công nghệ thông tin cũng đã được các bảo tàng quan tâm và thực hiện như: xây dựng trang mạng thông tin điện tử (website), mạng xã hội (social network), liên kết với các ứng dụng khác như TripAdvisor, Like a local, v.v. để đưa thông tin, hình ảnh cùng những bình luận, phản hồi về các sản phẩm, dịch vụ của bảo tàng đến nhiều đối tượng khách tham quan.

Ngoài ra, các bảo tàng cần thu hút sự quan tâm của giới truyền thông và xuất hiện trong các tạp chí, trang web, đính kèm các bài báo đã xuất bản đề cập đến việc phát triển du lịch bền vững mang lại lợi ích cho cộng đồng. Nội dung của bài báo có thể được đăng trên trang web của bảo tàng hoặc trưng bày trong khung treo trên tường để thu hút sự chú ý của công chúng. Đồng thời trên trang web, phương tiện truyền thông xã hội, truyền thống in ấn là nơi để các bảo tàng tuyên truyền các thông điệp về du lịch có trách nhiệm trong mối liên hệ với lợi ích của công chúng.

  1. 3.Mối liên hệ giữa tiếp thị và truyền thông có trách nhiệm đối với ngành du lịch tại các bảo tàng

Tiếp thị và truyền thông có trách nhiệm tại các bảo tàng nói riêng là quá trình truyền đạt thông tin về các “sản phẩm” đặc thù của bảo tàng đến khách tham quan, xem xét phản hồi của khách tham quan thông qua thái độ và hành vi ứng xử của khách tham quan thông qua các công cụ tiếp thị trong văn hóa hay du lịch (4Ps).

Tiếp thị và truyền thông có trách nhiệm tại các bảo tàng dựa trên các “sản phẩm” và dịch vụ không phải được tạo ra vì mục tiêu lợi nhuận mà phải đem đến những giá trị về mặt văn hóa - xã hội, và môi trường gắn với lợi ích chung của cộng đồng.

Từ những nhận thức như vậy để nắm được chìa khóa cho sự thành công trong du lịch có trách nhiệm, trước hết là trách nhiệm của tất cả các bên tham gia. Tổ chức quản lý bảo tàng, bảo tàng, các công ty du lịch và khách du lịch. Mỗi một quyết định mà chúng ta thực hiện hằng ngày có thể có tác động đến con người và môi trường xung quanh. Để có thể thực hiện du lịch có trách nhiệm yêu cầu chúng ta phải được dẫn dắt bởi chính lương tâm, đạo đức và pháp luật trong xã hội chúng ta để đưa ra những quyết định có lợi cho nhà cung cấp lẫn người tiêu dùng du lịch đối với con người và môi trường xung quanh[3].

Và như vậy rõ ràng việc nhận diện thương hiệu bảo tàng cũng sẽ có cơ hội để phát triển một cách đúng hướng. Mục đích của thương hiệu là sử dụng giá trị được công chúng nhận biết, có được thông qua hoạt động tiếp thị và truyền thông, để duy trì doanh thu và có mức lợi nhuận cao hơn so với thị trường trong dài hạn.

Mục tiêu của mọi thương hiệu là làm tăng số lượng những sản phẩm và dịch vụ của bảo tàng mà khách hàng sẵn sàng chi trả, thúc đẩy công chúng đánh giá bảo tàng cao hơn so với khi không có thương hiệu. Cho dù trong bối cảnh nền kinh tế đang phát triển hay suy thoái thì mục tiêu của thương hiệu vẫn giữ nguyên.

Thương hiệu giúp nói lên mối quan hệ giữa sản phẩm và khách hàng. Nó hàm chứa một tập hợp các chất lượng và dịch vụ mà khách hàng mong đợi. Sự trung thành của khách hàng đối với thương hiệu có được là nhờ vào việc đáp ứng các kỳ vọng của khách hàng, hoặc thậm chí còn tốt hơn, vượt quá mong đợi của họ, đem đến cho khách hàng “sự thích thú” [Philip Kotler 2015: 139]. Đây chính là điểm thể hiện du lịch có trách nhiệm ở khía cạnh bảo tàng.

Cho đến nay, thực tế việc xây dựng thương hiệu của các bảo tàng tại Thành phố Hồ Chí Minh vẫn chưa thực hiện được một cách hệ thống và đồng bộ. Dù có đi chăng nữa thì công chúng biết đến bảo tàng mới ở dạng “tiếng lành đồn xa”.

Nhìn vào thực trạng hiện nay, các bảo tàng nhất thiết cần tập trung đầu tư công sức thỏa đáng vào việc đổi mới, sáng tạo các sản phẩm, các dịch vụ của bảo tàng. Đó là không ngừng làm mới hệ thống trưng bày; ứng dụng công nghệ thông tin vào mọi hoạt động quản lý, trong đó chú trọng tiếp thị điện tử; đa dạng hóa các dịch vụ như: khu khám phá, sáng tạo, rạp chiếu phim, quầy giải khát hay tổ chức diễn thuyết và các buổi biểu diễn; chú trọng xây dựngcơ sở hạ tầng đạt chuẩn, phù hợp thông lệ quốc tế với chỉ dẫn dễ hiểu: khu vực đậu xe, điểm xuống, điểm đến, nhà vệ sinh, điểm nghỉ chân, lối thoát hiểm, hệ thống chỉ dẫn ở cả hình thức văn bản và âm thanh, thùng rác, v.v. trong đó lưu ý đến đối tượng là người khuyết tật; mức độ an toàn; tập huấn nâng cao khả năng phục vụ của nhân viên; thay đổi thái độ làm việc, phục vụ từ đội ngũ lãnh đạo đến nhân viên để tạo ấn tượng tốt đẹp đầu tiên đối với công chúng và dần thay đổi nhận thức của họ về bảo tàng. Đồng thời, chúng ta cần phải mạnh dạn xây dựng một đội ngũ nhân lực có đủ trình độ chuyên môn và chuyên trách về tiếp thị, xây dựng thương hiệu, quảng cáo, quan hệ công chúng (PR), v.v. để có thể hoạch định những chiến lược tiếp thị và truyền thông, giúp cho việc xây dựng hình ảnh, diện mạo mới cho bảo tàng.

Vì thương hiệu chính là cảm nhận của công chúng về các sản phẩm, dịch vụ của bảo tàng và cảm nhận đó hình thành theo thời gian. Như thế, cũng có nghĩa chúng ta đang “tiếp thị sự trải nghiệm” thay vì tiếp thị một loại sản phẩm cụ thể như trước kia.

Có thể thấy, “cảm xúc” luôn chứa đựng một yếu tố vô cùng quan trọng. Đây chính là yếu tố thuyết phục khách hàng một cách hiệu quả nhất. Điều này có thể nằm trong tầm nhìn, cá tính, định vị thương hiệu hoặc trong quá trình cung cấp sản phẩm hoặc dịch vụ. Rõ ràng cảm xúc là một trong những thành phần thiết yếu để xây dựng một thương hiệu mạnh [Paul Temporal 2007: 253]. Việc đáp ứng tốt những yêu cầu cơ bản trước mắt trên, sẽ tạo những bước đệm vững chắc cho việc khẳng định một thương hiệu bảo tàng trong tương lai không xa.

Những sản phẩm được chứng nhận là “bền vững” hay có trách nhiệm sẽ có lợi thế hơn trong cuộc cạnh tranh vì được công chúng đánh giá cao hơn và họ sẵn sàng chi phí cho sản phẩm này. Tiếp thị có trách nhiệm là chiến lược trong kinh doanh nói chung và trong hoạt động bảo tàng nói riêng vì nó không chỉ giúp mở rộng nguồn khách mà còn khiến họ gắn bó lâu dài với các sản phẩm của bảo tàng, có thể khuyến khích khách hàng sử dụng lại các sản phẩm đó trong tương lai.

Qua đó bảo tàng thể hiện ngày càng tốt hơn vai trò định hướng của mình trong việc tác động đến nhận thức, thái độ và hành vi của công chúng, giúp xây dựng một cộng đồng sống có trách nhiệm vì một thế giới phát triển bền vững. Đồng thời vì một ngành du lịch bền vững để cùng hòa nhịp trong xu thế phát triển chung của thời đại.

KẾT LUẬN

Ngành du lịch Thành phố Hồ Chí Minh có thể có những bước phát triển vượt bậc với việc khai thác các giá trị văn hóa truyền thống phong phú và đặc sắc từ hệ thống các bảo tàng thông qua việc kết hợp tiếp thị và truyền thông có trách nhiệm. Đây là cách phát triển du lịch quen thuộc ở nhiều quốc gia trên thế giới nhưng ở Việt Nam hay Thành phố Hồ Chí Minh vẫn còn những hạn chế.

Dù trước mắt các bảo tàng chưa thể thay đổi một cách toàn diện nhưng với tiềm năng cùng những cơ chế phù hợp từ các nhà quản lý trong thời gian tới, chúng ta có thể hy vọng các bảo tàng tại Thành phố Hồ Chí Minh sẽ là những cái tên xuất hiện thường xuyên, không thể bỏ qua trong các tour du lịch trong và ngoài nước. Và ngược lại du lịch Thành phố Hồ Chí Minh sẽ phát triển nhanh, mạnh thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, từ đó tái đầu tư phát triển các hoạt động bảo tàng.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Al Ries, Jack Trout, 2015 (Người dịch: Phạm Đoan Trang, Lê Khánh Vy), 22 quy luật bất biến trong marketing, NXB Tổng hợp TP HCM.
  2. Chương trình Phát triển Năng lực du lịch có trách nhiệm với Môi trường và Xã hội (ESRT), 2013, Bộ công cụ du lịch có trách nhiệm tại Việt Nam, Tài liệu của Dự án EU do Liên minh châu Âu tài trợ.
  3. Paul R Gamble, Alan Tapp, Anthony Marsella, Merlin Stone, 2015 (Người dịch: Bích Liễu, Thu Hà), Marketing đột phá, NXB Trẻ.
  4. Paul Temporal, 2007 (Người dịch: Nguyễn Trung An, Vương Bảo Long), Bí quyết thành công những thương hiệu hàng đầu châu Á, NXB Trẻ.
  5. Philip Kotler, 2015 (Người dịch: Vũ Tiến Phúc), Kotler bàn về tiếp thị làm thế nào để tạo lập, giành được và thống lĩnh thị trường, Tái bản lần thứ sáu, NXB Trẻ.
  6. Timothy Ambrose, Crispin Paine, 2000 (Người dịch: Lê Thúy Hoàn), Cơ sở Bảo tàng, Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, Hà Nội.

 


[1]     Chương trình Phát triển năng lực du lịch có trách nhiệm với môi trường và xã hội (ESRT) 2013, Bộ công cụ du lịch có trách nhiệm tại Việt Nam, Tài liệu của Dự án EU do Liên minh châu Âu tài trợ.

[2]     Chương trình Phát triển năng lực du lịch có trách nhiệm với môi trường và xã hội (ESRT) 2013, Bộ công cụ du lịch có trách nhiệm tại Việt Nam, Tài liệu của Dự án EU do Liên minh châu Âu tài trợ.

[3]     Chương trình Phát triển năng lực du lịch có trách nhiệm với môi trường và xã hội (ESRT) 2013, Bộ công cụ du lịch có trách nhiệm tại Việt Nam, Tài liệu của Dự án EU do Liên minh châu Âu tài trợ.

Nguồn: Sách “Quản lý và khai thác di sản văn hóa trong thời kỳ hội nhập”

Lên trên

Cùng chủ đề

  • Nguyễn Phúc Lưu. Giải pháp phát triển du lịch di sản văn hóa

  • Misha Ketchell. Doanh thu của ngành công nghiệp du lịch sụt giảm 50% do dịch bệnh

  • Trần Hồng Cơ. Phát triển du lịch có bảo tồn được di sản văn hóa?

  • Ban Quản lý Di tích Lịch sử - Văn hóa Lăng Lê Văn Duyệt. Công tác quản lý và khai thác di sản văn hóa trong phát triển du lịch

  • Võ Văn Thành. Di sản văn hóa thế giới tại Việt Nam trong du lịch

Thông báo

Tư vấn khoa học và kỹ năng nghiên cứu…

Tủ sách văn hoá học Sài Gòn

  • Thư viện ảnh
  • Thư viện video
  • Tủ sách VHH

Phóng sự ảnh: Toạ đàm khoa học: Xây dựng…

Hình ảnh văn hóa Tết xưa (sưu tầm)

Phóng sự ảnh: Lễ hội truyền thống VHH 2011

Phóng sự ảnh Lễ hội truyền thống VHH 2010

Thành phố Sankt-Peterburg, Nga

Bộ ảnh: Việt Nam quê hương tôi 2

Tranh Bùi Xuân Phái

Bộ tem tượng Phật chùa Tây Phương

Bộ ảnh: Đá cổ Sapa

Bộ ảnh: Phong cảnh thiên nhiên

Bộ ảnh: Việt Nam quê hương tôi

"Biển, đảo Việt Nam - Nguồn cội tự bao đời":…

Con dê trong văn hóa và văn hóa Việt Nam

Văn hóa Tết ở Tp.HCM (Chương trình truyền…

Văn hóa Tp. HCM: Một năm nhìn lại và động…

Phong tục Tết cổ truyền của người Nam Bộ

Bánh tét và Tết phương Nam

Con ngựa trong văn hóa và văn hóa Việt Nam

Điện Biên Phủ - Cuộc chiến giữa hổ và voi

Nhìn lại toàn cảnh thế giới từ 1911-2011…

Tọa độ chết - một bộ phim Xô-Việt xúc động…

Video: Lễ hội dân gian Việt Nam

Văn hoá Việt từ phong tục chúc Tết

Văn hoá Tết Việt qua video

Tết ông Táo từ góc nhìn văn hoá học

“Nếp nhà Hà Nội” trên “Nhịp cầu vàng”: tòa…

Văn hóa Thăng Long - Hà Nội qua video: từ…

Hướng về 1000 năm TL-HN: Xem phim “Tử Cấm…

Hướng về 1000 năm TL-HN: Người Thăng Long…

Phim "Chuyện tử tế" – tập 2 (?!) của “Hà…

Default Image

Hướng về 1000 năm TL-HN: "Chuyện tử tế" -…

Sách “Di sản Ấn Độ trong văn hóa Việt Nam”

Nguyễn Văn Bốn. Tín ngưỡng thờ Mẫu của người…

Sách: Quản lý và khai thác di sản văn hóa…

Hồ Sĩ Quý. Con người và phát triển con người

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 3

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 2

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 1

Hồ Sỹ Quý. Tiến bộ xã hội: một số vấn đề về…

Hồ Sỹ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á (Phụ…

Hồ Sỹ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á…

Hồ Sĩ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á…

Sách: Chuyên đề Văn hoá học

Sách: Một số vấn đề về hệ giá trị Việt Nam…

FitzGerald. Sự bành trướng của Trung Hoa…

Hữu Đạt. Đặc trưng ngôn ngữ và văn hoá giao…

Sống chụ son sao (Tiễn dặn người yêu)

Gs. Mai Ngọc Chừ. Số phận & Tâm linh

Trần Văn Cơ. Những khái niệm ngôn ngữ học…

Đoàn Văn Chúc. Văn hóa học (Phần 3 - hết)

Đoàn Văn Chúc. Văn hóa học (Phần 2)

Các nhà VHH nổi tiếng

Julian Haynes Steward

Wen Yi'duo (Văn Nhất Đa)

Leslie Alvin White

Huang Wen'shan (Hoàng Văn Sơn)

Radcliff-Brown, Alfred Reginald

Sapir, Edward

Margaret Mead

Thăm dò ý kiến

Bạn thích cuốn "Cơ sở văn hoá VN" của tác giả nào nhất?

Chu Xuân Diên - 4.8%
Lê Văn Chưởng - 0.9%
Trần Diễm Thuý - 1%
Trần Ngọc Thêm - 37.4%
Trần Quốc Vượng - 53%
The voting for this poll has ended on: 26 06, 2020

Tổng mục lục website

tong muc luc

Tủ sách VHH Sài Gòn

tu sach VHH SG

Thống kê truy cập

  • Đang online :
  • 477
  • Tổng :
  • 3 7 7 2 6 6 4 2
  • Đại học quốc gia TPHCM
  • Đại học KHXH&NV
  • Tran Ngoc Them
  • T.c Văn hóa-Nghệ thuật
  • Tc VHDG
  • Viện NCCN
  • Khoa Văn hóa học
  • Khoa Đông phương học
  • Phòng QLKH
  • Khoa Việt Nam học
  • Khoa Hàn Quốc học
  • BM Nhật Bản học
  • Khoa Văn học - Ngôn ngữ
  • Khoa triết học
  • Khoa Quan hệ quốc tế
  • Khoa Xã hội học
  • Bảo tàng Lịch sử - Văn hóa
  • viettems.com
  • myfaifo.com
Previous Next Play Pause

vanhoahoc.vn (các tên miền phụ: vanhoahoc.edu.vn ; vanhoahoc.net)
© Copyright 2007-2015. Bản quyền thuộc Trung tâm Văn hóa học Lý luận và Ứng dụng, Trường Đại học KHXH & NV - ĐHQG Tp. HCM
ĐT (028) 39104078; Email: ttvanhoahoc@hcmussh.edu.vn; ttvanhoahoc@gmail.com. Giấy phép: số 526/GP-BC, do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 27-11-2007
Ghi rõ nguồn vanhoahoc.vn khi phát hành lại các thông tin từ website này.

Website được phát triển bởi Nhà đăng ký tên miền chính thức Việt Nam trực thuộc Trung Tâm Internet VNNIC.

Văn hóa du lịch