logo

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
    • Thư ngỏ
    • Khái quát về Trung tâm
    • Nhân lực Trung tâm
      • Thành viên Trung tâm
      • Cộng tác viên
    • Giới thiệu Khoa Văn hóa học
      • Khái quát về Khoa
      • Nhân lực của Khoa
  • Tin tức
    • Tin nhà (Trung tâm)
    • Tin ngành
    • Tin liên quan
  • Đào tạo - Huấn luyện
    • Các chương trình
    • Tổ chức và Hiệu quả
    • Đào tạo ở Khoa VHH
      • Chương trình đào tạo
      • Kết quả đào tạo
  • Nghiên cứu
    • Lý luận văn hóa học
      • LLVHH: Những vấn đề chung
      • VHH: Phương pháp nghiên cứu
      • VHH: Các trường phái - trào lưu
      • Loại hình và phổ quát văn hóa
      • Các bình diện của văn hóa
      • Văn hóa học so sánh
      • Vũ trụ quan phương Đông
      • Văn hóa và phát triển
      • VHH và các khoa học giáp ranh
    • Văn hóa Việt Nam
      • VHVN: Những vấn đề chung
      • Văn hóa cổ-trung đại ở Viêt Nam
      • Văn hóa các dân tộc thiểu số
      • Văn hóa Nam Bộ
      • Văn hóa nhận thức
      • Văn hóa tổ chức đời sống tập thể
      • Văn hóa tổ chức đời sống cá nhân
      • Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên
      • Văn hóa ứng xử với môi trường xã hội
    • Văn hóa thế giới
      • VH Phương Đông: Những vấn đề chung
      • VH Phương Tây: Những vấn đề chung
      • Quan hệ văn hóa Đông - Tây
      • Văn hóa Trung Hoa và Đông Bắc Á
      • Văn hóa Đông Nam Á
      • Văn hóa Nam Á và Tây Nam Á
      • Văn hóa châu Âu
      • Văn hóa châu Mỹ
      • Văn hóa châu Phi và châu Úc
    • Văn hóa học ứng dụng
      • VHƯD: Những vấn đề chung
      • VHH nghệ thuật
      • Văn hóa đại chúng
      • Văn hóa giao tiếp
      • Văn hóa du lịch
      • Văn hóa đô thị
      • Văn hóa kinh tế
      • Văn hóa quản trị
      • Văn hóa giáo dục - khoa học
    • Tài liệu phổ cập VHH
      • Văn hóa Việt Nam
      • Văn hóa thế giới
      • VHH ứng dụng
    • Tài liệu tiếng nước ngoài
      • Theory of Culturology
      • Vietnamese Culture
      • Applied Culturology
      • Other Cultures
      • 中文
      • Pусский язык
    • Thư Viện Số (Sách - Ảnh - Video)
      • Tủ sách Văn hoá học
      • Thư viện ảnh
      • Thư viện video
    • Các nhà văn hóa học nổi tiếng
  • Tiện ích
    • Dịch vụ Văn hóa học
    • Dịch vụ ngoài VHH
    • Trợ giúp vi tính
    • Từ điển Văn hóa học
    • Thư viện TT và Khoa
    • Tổng mục lục website
    • Tủ sách VHH Sài Gòn
    • Giải đáp thắc mắc
  • Thư giãn VHH
    • Văn chương Việt Nam
    • Văn chương nước ngoài
    • Nghệ thuật Việt Nam
    • Nghệ thuật thế giới
    • Hình ảnh vui
    • Video vui
  • Diễn đàn
  • Liên hệ
  • Trang chủ
  • Nghiên cứu
  • Văn hóa học ứng dụng
  • Văn hóa giáo dục - khoa học
Thursday, 03 August 2017 07:10

Nguyễn Vũ Hảo. Triết lý giáo dục của John Dewey hướng đến phát triển con người…

Người post bài:  Lê Thị Ninh

Additional Info

  • Tiêu đề:

    TRIẾT LÝ GIÁO DỤC CỦA JOHN DEWEY

    HƯỚNG ĐẾN PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI

    VÀ NHỮNG ĐIỂM GỢI MỞ CHO NỀN GIÁO DỤC VIỆT NAM HIỆN NAY

  • Tác giả:

     

    PGS.TS. Nguyễn Vũ Hảo

    Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn

    Đại học Quốc gia Hà Nội

Nguyễn Vũ Hảo. Triết lý giáo dục của John Dewey hướng đến phát triển con người…

John Dewey (1859 - 1952) là nhà triết học và nhà giáo dục Mỹ, đại biểu tiêu biểu của thực dụng luận. Ông đã để lại một di sản tư tưởng đồ sộ gồm 37 tập và 900 bài báo khoa học về triết học, xã hội học, giáo dục học,... Ông được coi là nhà triết học vĩ đại nhất của nước Mỹ trong thế kỷ XX. Ở Trung Quốc, ông đã từng được coi là Khổng Tử thứ hai[1]. Năm 1988, ông đã được UNESCO vinh danh là một trong bốn nhà giáo dục học lớn nhất cùng với Georg Kerschensteiner, Maria Montessori và Anton S. Makarenko, những người ảnh hưởng quyết định đến phương thức tư duy giáo dục và diện mạo của nền giáo dục nhân loại trong thế kỷ XX và XXI. Triết lý giáo dục của John Dewey đã để lại những dấu ấn rõ nét trong hệ thống giáo dục ở Mỹ và nhiều quốc gia phương Tây, những nước có hệ thống giáo dục hàng đầu thế giới.

Trong bài viết này, chúng tôi tập trung chủ yếu vào những nội dung cơ bản của triết lý giáo dục của John Dewey hướng đến phát triển con người và đưa ra một số điểm gợi mở có giá trị tham khảo cho việc tìm tòi một triết lý giáo dục mới của thế kỷ XXI cho Việt Nam, phù hợp với bối cảnh hội nhập quốc tế và xu hướng phát triển kinh tế tri thức hiện nay.                                     

Triết học của John Dewey là một nhánh mới của thực dụng luận được gọi là thuyết công cụ hay chủ nghĩa tự nhiên nhân văn, thể hiện xu hướng gần gũi với chủ nghĩa hành vi. Khái niệm thực dụng luận (pragmatism) có nguồn gốc từ “pragma” trong tiếng Hy Lạp cổ, nghĩa là “hành động” hay “hoạt động”. Vì vậy, thực dụng luận có thể được coi là thuộc hành động luận, còn nhà thực dụng luận (pragmatist) có nghĩa là người theo hành động luận.

Khái niệm trung tâm trong triết học của ông là kinh nghiệm được coi tất cả những gì hiện hữu trong ý thức con người và có được trong cuộc sống và quá trình giáo dục. Bác bỏ sự tồn tại của cái siêu nghiệm, ông cho rằng, kiến thức thực sự chỉ có thể đạt được bằng phương pháp của khoa học tự nhiên.

Theo Dewey, mục đích của triết học là giúp con người điều chỉnh dòng kinh nghiệm hướng đến mục tiêu được đặt ra và đạt được nó. Do vậy, ông cho rằng, nhiệm vụ chủ yếu của triết học là ở chỗ giúp con người biến đổi chính kinh nghiệm, hoàn thiện kinh nghiệm một cách hệ thống trong tất cả các lĩnh vực đời sống của mình.

Trung tâm của triết học thực dụng luận là luận điểm hoài nghi đối với “các chân lý tuyệt đối”. Theo các nhà thực dụng luận, chân lý luôn có tính tình huống, phụ thuộc vào hoàn cảnh, tức là phụ thuộc vào không gian và thời gian nhất định. Theo John Dewey, niềm tin hay một quan điểm nào đó của một người hay một nhóm người không thể được phân chia một cách tường minh thành tốt hay xấu, mà chỉ có thể phân chia thành phù hợp và không phù hợp. Một quan điểm lúc này có thể được coi là tốt, nhưng lúc khác lại có thể bị coi là xấu. Trong ý nghĩa đó, một lý thuyết có thể được coi là hay hơn lý thuyết trước đó, nhưng lại có thể là dở hơn các lý thuyết sau đó. Như vậy, theo thực dụng luận, việc nhận định về cái tốt hay cái xấu là vấn đề mang tính không - thời gian, tức là liên quan đến ngữ cảnh.

Cũng như các nhà thực dụng luận khác, John Dewey không nhấn mạnh chân lý theo nghĩa truyền thống rằng nó cần phải được nhận thức và được chấp nhận, mà nói đến “hiệu quả cho phép”, đến “khả năng khẳng định được bảo đảm”. Đề cao tính hiệu quả thực tế của tri thức, John Dewey cho rằng, “chân lý là cái gì đó có ích”, rằng một tư tưởng chỉ có nghĩa khi nó mang lại lợi ích thực sự. Tiêu chuẩn đích thực của chân lý chính là hiệu quả thực tế. Vì vậy, thuật ngữ “thực dụng luận” hay “chủ nghĩa thực dụng” như chúng ta vẫn quen sử dụng trong tiếng Việt chưa phản ánh đúng thực chất nội dung của trào lưu tư tưởng này, bởi vì thuật ngữ này dễ bị hiểu lầm theo nghĩa tiêu cực: xu hướng mưu lợi cho mình bằng cách lợi dụng, làm thiệt hại cho người khác hay cho cộng đồng. Thực chất về nội dung, thuật ngữ “pragmatism” cũng có thể dịch ra tiếng Việt là “thuyết duy hiệu quả” hay “chủ nghĩa duy hiệu”. Nói khác đi, chủ nghĩa thực dụng hay thực dụng luận phải được hiểu theo ý nghĩa của thuyết duy hiệu quả, học thuyết đề cao tính hiệu quả thực tế của tư tưởng và hành động của con người.

Vận dụng triết học đề cao tính hiệu quả thực tế của mình vào lĩnh vực giáo dục, John Dewey đã tạo nên cuộc cách mạng trong giáo dục, và đã mang đến những ảnh hưởng lớn lao đến hệ thống giáo dục Mỹ và các nước phát triển phương Tây trong thế kỷ XX.

John Dewey đã thực hiện triết lý giáo dục của mình ở nhiều trường khác nhau ở Mỹ trong khoảng thời gian từ năm 1884 đến năm 1916. Năm 1896, ông đã thành lập trường thực nghiệm (Laboratory School - sau này được gọi là trường John Dewey) ở Chicago, trường dạy dỗ trẻ em trong lứa tuổi từ 4 đến 13 tuổi, trong đó các đề cương môn học và các phương pháp giảng dạy được thiết kế theo triết lý giáo dục của ông. Triết lý giáo dục của ông đã được thể hiện trong một loạt tác phẩm nổi tiếng như Nhà trường và xã hội (The School and Society, 1899), Trẻ em và chương trình giảng dạy (The Child and Curriculum, 1902), Chúng ta tư duy như thế nào (How We Think, 1910) và đặc biệt Dân chủ và giáo dục (Democracy and Education, 1916),... Những năm đầu thế kỷ XX, John Dewey cũng tiếp tục xây dựng trường thực nghiệm ở Columbia.

Tập trung vào triết lý giáo dục, ông cho rằng, giáo dục có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc xây dựng và phát triển một xã hội dân chủ và là nhân tố quyết định của nền dân chủ, bởi vì mọi thành viên của xã hội đều được chia sẻ các giá trị và các thành quả của nền giáo dục, bởi vì một nền giáo dục tốt có thể bổ sung các khiếm khuyết trong cuộc sống gia đình và thực tiễn xã hội.[2]

1. Phê phán các quan điểm của mô hình giáo dục truyền thống

Xuất phát điểm của triết học và triết lý giáo dục của John Dewey là quan niệm của ông về con người. Theo John Dewey, con người là một bản thể có lý tính, có năng lực thay đổi thế giới thông qua tư duy duy lý, lôgích và khoa học tự nhiên theo quan điểm của mình. Theo ông, việc kiến tạo con người thành một bản thể độc lập và có trách nhiệm đòi hỏi công việc giáo dục và trách nhiệm nhất định của người giáo dục. Người giáo dục ở đây được xem như người đi kèm và hỗ trợ học sinh trên con đường học tập của họ. Người giáo dục được coi là người dẫn dắt các học sinh của mình vào phương pháp nhận thức một cách dân chủ và không bị áp đặt. Người giáo dục không phải là người kiểm soát, mà chỉ là người dẫn đường cho những học sinh của mình.[3]

Trong tác phẩm Dân chủ và giáo dục, John Dewey đã phê phán gay gắt một số quan điểm của mô hình giáo dục truyền thống và cho rằng các quan điểm đó là quá bảo thủ, thiếu tính hiệu quả, tính nhân văn và tính dân chủ.

Thứ nhất, quan điểm truyền thống coi giáo dục là sự chuẩn bị của đứa trẻ cho đời sống trưởng thành của nó trong tương lai. Theo quan điểm này, “trẻ em không được coi là những thành viên chính thức và hợp thức của xã hội”, mà “bị coi là những ứng cử viên”, ở danh sách chờ đợi[4]. Theo Dewey, “hệ quả tai hại” của quan điểm này là ở chỗ một mặt, “bỏ phí cái động lực thúc đẩy” của trẻ em ở hiện tại, bởi vì thực ra “trẻ em bao giờ cũng sống trong hiện tại”, còn tương lai thì “may rủi”, “mơ hồ”, chưa thực sự bức thiết, chưa cụ thể, chưa thể trở thành động lực thực sự của đứa trẻ cho hiện tại[5]. Mặt khác, quan điểm này đưa đứa trẻ đến chỗ “chần chừ và do dự”, không “vội vã với việc chuẩn bị sẵn sàng cho tương lai ấy”, bởi vì “còn cần rất nhiều thời gian nữa để tương lai ấy trở thành hiện tại”, còn ở hiện tại thì có “quá nhiều cơ hội tuyệt vời” và những điều hấp dẫn đứa trẻ[6]. Hơn nữa, hệ quả tai hại còn ở chỗ: quan điểm này đưa ra “những chuẩn mực bình quân có tính quy ước xuất phát từ sự kỳ vọng và yêu cầu” có tính áp đặt của người lớn để thay thế cho “chuẩn mực có liên hệ với các năng lực cụ thể” của đứa trẻ, và quan điểm này đưa ra “sự đánh giá mơ hồ và không chắc chắn về những gì mà trẻ em được kỳ vọng sẽ trở thành, xét một cách bình quân, trong tương lai ít nhiều xa vời” để thay thế cho sự đánh giá một cách nghiêm túc và “rõ ràng dựa trên những điểm mạnh và yếu của cá nhân” đứa trẻ.[7] Nói khác đi, quan điểm này dường như đã không chú ý đúng mức đến sự phát triển tự nhiên và đặc điểm riêng của mỗi đứa trẻ trong quá trình giáo dục.

Cuối cùng, sai lầm của quan điểm coi giáo dục là sự chuẩn bị của đứa trẻ cho đời sống trưởng thành của nó trong tương lai, còn ở chỗ phải cần viện đến hứa hẹn phần thưởng và đe dọa hình phạt với tính cách là các biện pháp đánh vào sự “khoái lạc và đau khổ” của trẻ em trên “một quy mô lớn”. Theo Dewey, đó là “các nền giáo dục coi thường các khả năng của hiện tại nhân danh sự chuẩn bị cho tương lai”. Hậu quả của nền giáo dục đó, theo ông là các thái cực: hoặc là “sự hà khắc và bất lực của các phương pháp trừng phạt”, hoặc là “sự lừa phỉnh học sinh tiếp nhận thứ mà chúng không quan tâm” bằng cách “bọc đường liều lượng kiến thức được coi là bắt buộc phải học để đổi lấy một ngày nào đó trong tương lai.”[8] Theo Dewey, sai lầm chủ yếu của quan niệm này “không nằm ở việc gán tầm quan trọng cho sự cần thiết phải chuẩn bị cho tương lai, sai lầm nằm ở chỗ biến điều đó thành động lực của nỗ lực trong hiện tại”.[9]

Thứ hai là quan điểm phát triển xem giáo dục như là “sự bộc lộ những năng lực tiềm tàng” để đạt được “sự hoàn thiện” với tính cách là mục đích lý tưởng, bất động, tách rời khỏi quá trình đang diễn ra, chứ không phải với tính cách là mục đích vì “lợi ích tự thân” của người học.[10] Theo John Dewey, đây là một biến thể của quan điểm coi giáo dục chỉ là sự chuẩn bị. Phê phán quan điểm coi phát triển là sự bộc lộ dần và thể hiện ra bên ngoài cái bên trong “ở dạng tiềm năng” như cái Tuyệt đối ở Hegel hay các biểu trưng (như về toán học) ở Froebel[11], John Dewey cho rằng “cái đích của hoàn thiện, chuẩn mực của phát triển là rất xa xôi cho nên chúng ta không thể hiểu nổi nó” và không thể đạt được tới nó. Thành thử, để sử dụng nó “làm cái hướng dẫn trong hiện tại”, người ta biến nó thành một cái gì đó thay thế, chẳng hạn như một cái gì đó mà người lớn mong muốn trẻ em đạt được. Kết quả là “người ta đã thay “phát triển” bằng một phương pháp ra lệnh độc đoán và được áp đặt từ bên ngoài”[12]. Hạn chế của quan điểm này là ở chỗ “bỏ qua mối quan hệ tương giao giữa các khuynh hướng hiện tại của cơ thể và môi trường hiện tại” và coi tăng trưởng trong quá trình giáo dục “không phải là mục đích tự thân, mà đơn giản là một phương tiện làm bộc lộ cái tiềm năng ẩn có sẵn” ở người học.[13]

Thứ ba là quan điểm coi giáo dục“như là huấn luyện các khả năng”. Theo quan điểm này, mục đích của giáo dục là trực tiếp huấn luyện các năng lực nhất định như khả năng tri giác, ghi nhớ, hồi tưởng, liên tưởng, chú ý, quyết tâm, cảm xúc, tưởng tượng, tư duy,... bằng phương pháp rèn luyện hình thức, được lặp đi lặp lại ở các trình độ khác nhau khiến cho các năng lực đó có sẵn từ dạng thô thiển trở nên “tinh tế, hoàn thiện” và trở thành thói quen. Quan điểm này (chẳng hạn ở John Locke) cho rằng mục đích của giáo dục không phải đơn thuần tiếp nhận và lưu trữ kiến thức, mà là hình thành các năng lực cá nhân bẩm sinh bao gồm chú ý, trí nhớ, quan sát, trừu tượng hóa và khái quát hóa.

Phê phán quan điểm giáo dục trên, John Dewey cho rằng, “các năng lực được cho là bẩm sinh như quan sát, hồi tưởng, quyết tâm, tư duy,… là hoàn toàn không có thực”, không có sẵn để được đem ra sử dụng và qua đó được huấn luyện, hoặc giả tồn tại các khuynh hướng bẩm sinh liên quan đến hoạt động của các giác quan và hệ thần kinh trung ương, nhưng chúng “đều thiếu các đặc tính tinh thần, trí tuệ” và dù có huấn luyện bao nhiêu đi nữa, chúng cũng không thể “mang bất kỳ đặc tính trí tuệ nào của hành động quan sát, phán đoán, tức là hành động có chủ ý (trí tuệ)”[14]. 

Mặt khác, theo John Dewey, sai lầm của quan điểm này là ở chỗ dựa vào thuyết nhị nguyên, tách hoạt động và năng lực khỏi nội dung. “Bàn tới huấn luyện một năng lực nói chung, dù là năng lực tinh thần hay thể xác, mà tách rời khỏi nội dung của huấn luyện năng lực ấy, tức là điều vô lý”[15].

Thứ tư là quan điểm xem giáo dục như là sự đào tạo. Phủ nhận sự tồn tại của các khả năng bẩm sinh, quan điểm này “đề cao vai trò độc nhất của nội dung trong sự phát triển khuynh hướng tinh thần và đạo đức”, đặc biệt coi giáo dục là truyền bá, “truyền đạt kiến thức”, tức là, “xây dựng trí tuệ từ bên ngoài”. Đại biểu cho quan điểm này là Herbart. Nhà tư tưởng này cho rằng, trí óc con người “bao gồm toàn bộ những sắp xếp của những biểu tượng khác nhau mang những đặc tính khác nhau”, rằng “đồ đạc” của trí óc là tư duy, mà tư duy hoàn toàn là vấn đề của nội dung. Theo quan điểm này, công việc của nhà giáo dục là ở chỗ “lựa chọn vật liệu thích hợp để cố định tính chất của các phản ứng xảy ra đầu tiên” và “sắp xếp các biểu tượng đến sau thành trình tự trên cơ sở khối lượng lớn các khái niệm hình thành từ những lần giải quyết trước đó”[16]. Từ đó, quan điểm này thừa nhận một số bước chính thức của quá trình dạy và “một phương pháp tuyệt đối giống nhau để dạy mọi môn học cho mọi học sinh ở mọi lứa tuổi”[17].

Theo John Dewey, Herbart có công lao đáng kể trong việc biến “công việc dạy học” từ “cách làm máy móc dựa vào thói quen và sự ngẫu nhiên” sang lĩnh vực của giáo dục có ý thức “với mục tiêu và phương pháp rõ ràng”; và trong việc khẳng định mối liên hệ chặt chẽ, không tách rời “giữa phương pháp và nội dung” được trình bày.

Tuy nhiên, John Dewey cũng phê phán quan điểm giáo dục này và cho rằng, hạn chế căn bản của nó là ở chỗ chỉ đề cao vai trò của người thầy và “cố tình bỏ qua sự tồn tại của các hoạt động năng động và cụ thể ở một con người” trước ảnh hưởng của môi trường. Với cách tiếp cận nội dung, coi trí óc chỉ gồm kiến thức, “những gì được dạy”, “triết lý này phát biểu rõ ràng về bổn phận của người thầy: dạy học sinh; [song] nó hầu như không nhắc tới đặc quyền của người thầy: học tập”[18]. Mặc dù “đề cao ảnh hưởng của môi trường trí tuệ tới trí óc”, quan điểm này “bỏ qua việc môi trường đòi hỏi cá nhân phải tham gia vào kinh nghiệm chung” và “cường điệu vô lý những khả năng của các phương pháp được hình thành và áp dụng một cách có ý thức”[19].

Ngoài ra, Dewey còn phê phán các quan điểm giáo dục khác thuộc mô hình giáo dục truyền thống như quan điểm xem giáo dục là sự lặp lại của đứa trẻ về sinh học và văn hóa với các giai đoạn phát triển đã qua của nhân loại, hay quan điểm của Platon, coi giáo dục là phát hiện và huấn luyện các năng lực, khuynh hướng tự nhiên của mỗi cá nhân một cách hiệu quả nhằm đáp ứng các vị trí khác nhau trong xã hội,…

Dewey phân tích một cách rõ ràng sự đối lập giữa giáo dục truyền thống và giáo dục tiến bộ. Giáo dục truyền thống được xem như một hệ thống bao gồm thông tin, các kỹ năng, các tiêu chí và các quy tắc ứng xử mang tính lịch sử, khích lệ thái độ ngoan ngoãn, thụ động và vâng lời của học sinh. Nhiệm vụ chủ yếu của người giáo dục trong giáo dục truyền thống là truyền đạt kiến thức và kỹ năng, là thực thi các quy tắc ứng xử của mình cho thế hệ tiếp theo. Ngược lại, giáo dục tiến bộ, khi phê phán giáo dục truyền thống là áp đặt các tiêu chí, các chủ đề môn học và các phương pháp của người lớn lên thế hệ trẻ lại cố gắng tạo điều kiện cho việc tham gia tích cực của học sinh trong quá trình phát triển môn học. Giáo dục tiến bộ khuyến khích học sinh tăng cường thể hiện cá tính, hoạt động tự do, học qua trải nghiệm và đạt được các kỹ năng sống động có thể thích ứng được sự biến đổi của thế giới. John Dewey coi giáo dục tiến bộ như là thể hiện mối quan hệ mật thiết và tất yếu của giáo dục với các quá trình trải nghiệm thực tế.

John Dewey đã phê phán gay gắt nhà trường truyền thống và mô hình giáo dục truyền thống. Theo ông, sai lầm căn bản, không thể chấp nhận được của mô hình này là ở chỗ, nhà trường truyền thống đã coi thường đứa trẻ, những đặc thù và những nhu cầu riêng trong sự phát triển của nó. Biểu hiện của cách ứng xử này là ở chỗ, các chương trình, giáo trình và các tư liệu dạy và học được người lớn biên soạn trong nhà trường truyền thống đã không tính đến những lợi ích của đứa trẻ. Hệ thống đánh giá, thi cử nặng nề, giáo trình với những con số và sự kiện quá trừu tượng đối với đứa trẻ, việc bắt buộc bọn trẻ phải ngồi im, bất động trong lớp và phải học thuộc lòng một lượng lớn những tư liệu không thiết thực,… đã gây áp lực lớn đến năng lực thể chất, trí tuệ và tính tích cực của chúng. Điều này dẫn đến việc đứa trẻ không thích học, thậm chí thù ghét việc học tập. Theo John Dewey, sự tiếp thu máy móc và thụ động là hoàn toàn trái với bản tính của trẻ em.

Theo ông, một nhà trường truyền thống được tổ chức như vậy không thể đào tạo các thế hệ trẻ cho cuộc sống tương lai của một xã hội dân chủ, một xã hội đòi hỏi con người phải có tính tích cực, niềm tin, tư duy độc lập, sáng tạo, tầm nhìn xa và năng lực giải quyết những vấn đề cá nhân phù hợp với lợi ích chung.

Tiếp thu tư tưởng xuất phát của J.J. Rousseau về giáo dục như là quá trình phát triển tự nhiên, rằng giáo dục thực sự không phải là một cái gì đó được áp đặt lên đứa trẻ từ bên ngoài, mà là quá trình tăng trưởng và phát triển tự nhiên của các đặc tính, các năng lực mà con người có được khi gia nhập vào cuộc sống xã hội[20], John Dewey cho rằng, tuổi thơ là thời kỳ tăng trưởng và phát triển mạnh mẽ, trong đó đứa trẻ tích cực sử dụng các năng lực thể chất và trí tuệ của mình để tìm hiểu thế giới xung quanh. Việc nhà trường ràng buộc trẻ em với các chương trình và sách giáo khoa sẽ làm hủy hoại trí tuệ của chúng, bởi vì các dữ kiện hiện thực như là những kết quả phát minh của ai đó hoàn toàn xa lạ với trẻ em. Nhà trường truyền thống quan tâm chủ yếu đến việc truyền bá và tích lũy cho trẻ em một lượng kiến thức khổng lồ hơn là chú ý đến diễn biến của sự phát triển của đứa trẻ. Hậu quả là xuất hiện nguy cơ đánh mất tuổi thơ của trẻ em.

2. Những luận điểm cơ bản trong triết lý giáo dục của John Dewey

Theo Dewey, khuyết điểm chung của mô hình giáo dục truyền thống là ở chỗ dựa vào nhị nguyên luận triết học, tách rời giữa nhà trường và xã hội, giữa người dạy và người học, giữa nội dung tri thức và cuộc sống hiện thực. Vì vậy, theo ông, để cải cách một cách căn bản nền giáo dục, cần khắc phục nhị nguyên luận này.

John Dewey coi giáo dục là yếu tố cơ bản cho việc phát triển nền dân chủ. Trong tác phẩm Những trường học của tương lai, ông đã phê phán sự phân loại các trường và phân biệt đối xử đối với trẻ em của các gia đình thuộc các tầng lớp xã hội khác nhau và coi điều này là hoàn toàn xa lạ đối với tinh thần dân chủ[21]. John Dewey đưa ra nguyên tắc về một nhà trường cởi mở, có thể tiếp cận đối với tất cả mọi người và thống nhất đối với mỗi người, không phụ thuộc vào tình trạng tài sản, giới tính, chủng tộc, dân tộc. Để phát triển nền dân chủ cần phải có một nhà trường như vậy, một nhà trường thực hiện những thay đổi căn bản trong toàn bộ hoạt động của mình sao cho đảm bảo bằng được sự thống nhất chặt chẽ giữa học tập và vận dụng kiến thức trong xã hội, giữa lý luận và thực tiễn.

2.1. Mục tiêu của giáo dục

Nền tảng căn bản trong triết lý giáo dục của John Dewey là luận điểm cho rằng, trong nhà trường của xã hội dân chủ, “đứa trẻ là xuất phát điểm, là trung tâm và là kết thúc của tất cả”[22]. Đứa trẻ, các nhu cầu của nó trong việc khám phá thế giới các sự vật và các mối quan hệ là yếu tố quyết định toàn bộ nội dung hoạt động của nhà trường. Cho rằng, mục đích căn bản của nền giáo dục là tạo điều kiện tốt nhất cho việc phát triển đầy đủ và tự do của học sinh cả về mặt thể chất lẫn về mặt trí tuệ, ông viết: “Không cái gì có thể cản trở sự phát triển của đứa trẻ. Mục đích chủ yếu của nền giáo dục là tạo điều kiện cho việc phát triển đầy đủ và tự do của đứa trẻ về thân thể và trí tuệ”[23].

Các quan điểm đối lập cho rằng, John Dewey đã khước từ việc học tập có tổ chức và đề cao việc chạy theo các lợi ích của đứa trẻ một cách mù quáng. Thực ra, John Dewey xem học thuyết của mình như là việc “cải tổ thường xuyên, đi từ kinh nghiệm trực tiếp của đứa trẻ đến bộ phận chân lý có tổ chức mà chúng ta gọi là khoa học”[24]. Theo  ông, ở các lớp dưới, cần tổ chức việc học tập phù hợp với các lợi ích và các nhu cầu của đứa trẻ, hướng vào việc phát triển tính tích cực của trẻ em trong nhận thức và trang bị cho trẻ em các phương pháp tự khám phá.

Theo John Dewey, đứa trẻ có quyền được hưởng thụ tuổi thơ của nó, trong nhà trường, nó phải được sống một cuộc sống đầy đủ giá trị, đáp ứng được các lợi ích, các nhu cầu và các năng lực phát triển của nó. Đứa trẻ cần phải là mặt trời mà tất cả các phương tiện giáo dục đều xoay xung quanh nó[25]. Vì vậy, theo ông, không thể buộc các đứa trẻ khác nhau phải học cùng một chương trình, nhận được các kiến thức như nhau theo cùng một phương pháp như nhau[26]. Vì vậy, ông đòi hỏi rằng, trong nhà trường phải có một bầu không khí tự do cho các hoạt động khác nhau của mỗi đứa trẻ, thỏa mãn nhu cầu của đứa trẻ về giao tiếp, về nghiên cứu và về sáng tạo kể cả sáng tạo nghệ thuật.

Theo quan niệm của John Dewey, mục tiêu cơ bản của giáo dục là xây dựng con người có khả năng “thích nghi với các tình huống khác nhau” trong các điều kiện hoạt động tự do. Theo ông, có thể tác động tích cực đến cuộc sống của mỗi người bằng cách quan tâm đến sức khỏe, hoạt động nghỉ ngơi và nghề nghiệp của thành viên tương lai trong xã hội ngay từ thời thơ ấu. Do vậy, coi đứa trẻ là đối tượng chịu tác động mạnh mẽ của nhiều yếu tố giáo dục khác nhau như các yếu tố kinh tế, khoa học, văn hóa, đạo đức, tôn giáo, luật pháp,… ông cho rằng, việc xem xét đặc thù của tuổi thơ là hết sức quan trọng và không thể thiếu đối với ngành sư phạm.

Về thực chất, mục tiêu cơ bản của giáo dục trong nhà trường chính là ở chỗ tạo cho đứa trẻ có được các năng lực giải quyết các nhiệm vụ của cuộc sống trong mọi tình huống có thể, nắm được các kỹ năng sáng tạo, lĩnh hội được các kinh nghiệm phong phú gắn liền với các tri thức lý thuyết thuần túy và các kiến thức về cách thức hành động, cũng như có được khuynh hướng năng lực tự học và tự hoàn thiện bản thân. Ở đây, John Dewey đặc biệt nhấn mạnh rằng, trách nhiệm chủ yếu của giáo dục chính là phải mang lại cho đứa trẻ các kỹ năng giải quyết vấn đề rộng rãi nhất trong các hoàn cảnh sống và các tình huống khác nhau.

2.2. Phương pháp giáo dục

Khẳng định khả năng học tập thông qua thực hành và trải nghiệm, John Dewey đã đưa ra phương pháp giáo dục thực nghiệm, theo đó người học chỉ có được các tri thức thực sự khi bằng hoạt động thực tế của mình, người đó có thể thực hiện những thay đổi thực sự ở các sự vật, chứ không phải bằng cách ghi nhớ các luận điểm lý thuyết suông. Những thay đổi thực tế này có thể hoặc khẳng định hoặc bác bỏ các tri thức có được[27]. Nếu không như vậy, các kiến thức thuần túy mà người học lĩnh hội được từ người thầy và sách vở vẫn chỉ là những phỏng đoán; tính chân thực hay giả dối của chúng chưa được xác định, chưa được thuyết phục. John Dewey coi phương pháp giáo dục được kiểm nghiệm bởi thực tế, bởi trải nghiệm thực tế và cuộc sống là nguồn gốc căn bản nhất của khoa học sư phạm. Những tri thức và các kỹ năng có được từ thực tế và trải nghiệm thực tế mới trở nên sâu sắc, được ghi khắc trong tâm trí của người học hơn nhiều so với phương pháp giáo dục truyền thống thông qua việc truyền bá một cách độc đoán một khối kiến thức bắt buộc nhất định.

John Dewey ủng hộ khuynh hướng thực tiễn trong giáo dục khi ông đưa ra kiến nghị rằng, cần phải thực hiện các nhiệm vụ của giáo dục thông qua quá trình phát triển tự nhiên của đứa trẻ. Ông nhấn mạnh phương pháp giáo dục lấy trẻ em làm trung tâm dựa vào thực hành. Cần phải chú ý đến sự phát triển của đứa trẻ, bởi vì chỉ có sự phát triển đó mới có thể là thước đo của giáo dục. Theo ông, giáo dục là quá trình tích lũy và tái cấu trúc lại kinh nghiệm hay trải nghiệm của đứa trẻ nhằm làm sâu sắc nội dung có tính xã hội của nó. Sự tích lũy các kinh nghiệm cá nhân của đứa trẻ là nền tảng cho việc giáo dục nhân cách của nó. Với quan niệm đó, John Dewey đã đưa ra quan điểm về việc xây dựng môn sư phạm học công cụ căn cứ vào các lợi ích tự nhiên và kinh nghiệm cá nhân của đứa trẻ. Theo quan điểm này, việc học tập của đứa trẻ chủ yếu cần phải được tiến hành sao cho giống như hoạt động trò chơi và hoạt động lao động.

Theo thuyết công cụ của John Dewey, mỗi hành động của đứa trẻ chính là công cụ hữu hiệu cho sự nhận thức của nó, cho sự tự khám phá của nó, và đồng thời là phương tiện và cách thức không thể thiếu được cho việc nhận thức chân lý. Đối với John Dewey, cách thức giáo dục này là phù hợp với bản tính của đứa trẻ hơn so với cách thức giáo dục truyền thống, tức là cách thức hướng đến việc cung cấp cho đứa trẻ một hệ thống tri thức thuần túy khổng lồ nhất định được áp đặt cho nó từ bên ngoài, mà không quan tâm đến khả năng và sở trường nhận thức đặc thù của đứa trẻ. Hạn chế cơ bản của cách thức giáo dục truyền thống là nó khiến đứa trẻ rơi vào lối học chay, tình trạng quá tải và tâm lý lo sợ sự trừng phạt từ phía người thầy nếu như nó không lĩnh hội đủ khối lượng kiến thức lớn như vậy và không đáp ứng được các yêu cầu khắt khe của người thầy.

Theo John Dewey, kết quả của quá trình học tập không chỉ là mang lại cho đứa trẻ các khối kiến thức, cho dù chúng có tính hệ thống, mà còn là việc nắm được các kỹ năng tư duy, đặc biệt có được năng lực tự học sao cho nó có thể tự khám phá, tìm hiểu khối lượng kiến thức ngày càng tăng của nhân loại.

Một trong những luận điểm căn bản trong triết lý giáo dục của John Dewey là ở chỗ cho rằng những người học có sự khác biệt với nhau, chính vì vậy việc giảng dạy và chương trình giảng dạy cần phải được thiết kế sao cho có thể đáp ứng được sự khác nhau cũng như các nhu cầu riêng của người học, chứ không thể ghép những người học đó vào cùng một chương trình học tập rập khuôn như nhau. Theo ông, giáo dục phải hướng đến cả hai mục đích: mục đích xã hội và mục đích cá nhân; vì vậy, giáo dục phải tạo ra sự phát triển không chỉ cho xã hội mà cho cả cá nhân.

Theo John Dewey, thực ra, giáo dục đòi hỏi sự tăng trưởng, kinh nghiệm và trải nghiệm. Tuy nhiên, ở những người học khác nhau, mức độ tăng trưởng và kinh nghiệm cũng khác nhau. Để có được kinh nghiệm hay trải nghiệm, phải có được tính liên tục và sự tương tác cần thiết đối với người học. Một khi đứa trẻ học hỏi hay trải nghiệm một cái gì đó trong một môi trường mới, các kinh nghiệm quá khứ của nó có xu hướng tương tác với tình huống mới và sẽ đưa đến một kết quả mới. Công việc của người thầy là phải biết được kinh nghiệm quá khứ của đứa trẻ, tạo cho nó cơ hội tối đa cho việc học hỏi và trải nghiệm cuộc sống hiện thực ngay ở hiện tại. Vì vậy, theo John Dewey, “giáo dục không phải là sự chuẩn bị cho cuộc sống, giáo dục là bản thân cuộc sống”; “hãy để các em học sinh làm một cái gì đó, chứ không phải là học một cái gì đó và làm với tính chất như vậy là để yêu cầu suy nghĩ; học hỏi kết quả một cách tự nhiên”.

Hệ thống trường học - theo triết lý giáo dục của ông - chủ yếu tập trung vào sở trường và lợi ích của từng học sinh. Nhiệm vụ của nhà trường, theo John Dewey, không phải ở chỗ chỉ truyền bá khối kiến thức bắt buộc nhất định theo đòi hỏi của xã hội, mà ở chỗ dạy cho học sinh năng lực tự giải quyết những vấn đề nảy sinh, có được năng lực thích nghi với môi trường sống và các điều kiện xã hội. Về phần mình, nhiệm vụ của những người thầy, những nhà giáo dục là ở chỗ định hướng các hoạt động học tập của học sinh cho phù hợp với các sở trường và năng lực của chúng. Thừa nhận các năng lực bẩm sinh, John Dewey cho rằng, nhiệm vụ của giáo dục là ở chỗ phát triển chúng chứ không phải là tạo ra chúng.

Đối với John Dewey, tất cả những gì quý giá, được chắt lọc, được trải nghiệm từ các tình huống cụ thể, từ các kinh nghiệm được tổ chức một cách chuyên nghiệp, từ thực tế mới chính là cứu cánh của nền giáo dục đích thực. Như vậy, đối với ông, tiêu chí duy nhất để xác định thành công về mặt sư phạm đối với một môn học là đóng góp của môn học đó vào việc hình thành hệ thống định hướng của nhân cách bên trong cho người học.

Theo John Dewey, người học không được coi là người với một cái đầu trống rỗng cần phải được người thầy nhồi nhét kiến thức vào trong đó. Những người học được quyền duy trì những đặc thù riêng của mình. Họ được người thầy khích lệ. Không còn khái niệm thi đỗ hay thi trượt, bởi vì việc đánh trượt một người học sẽ làm người đó nản lòng. Người thầy có vai trò hoàn toàn khác, không còn là người độc đoán, mà là người hướng dẫn thân thiện, đồng thời là một người quản lý, một người tạo điều kiện, một nhà tâm lý, một người phân xử. Khác với phương pháp giáo dục truyền thống, chương trình giảng dạy tập trung không phải vào việc rèn luyện trí nhớ, mà chủ yếu vào việc hướng dẫn người học suy tư một cách sâu sắc thông qua các hoạt động. Chương trình giảng dạy được thiết kế sao cho đảm bảo được sự phát triển của các cá nhân về thể lực, đạo đức, trí tuệ, xã hội, cảm xúc, thẩm mỹ và tâm linh.

3. Những điểm gợi mở cho nền giáo dục Việt Nam hiện nay

Trong những thập kỷ vừa qua, nền giáo dục Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng không thể phủ nhận, đặc biệt nếu so sánh với xuất phát điểm của nước ta kể từ sau cách mạng tháng Tám năm 1945.

Tuy nhiên, so với các nước khác trong khu vực và trên thế giới, nền giáo dục Việt Nam hiện nay cũng thể hiện nhiều bất cập cho dù chúng ta đã thực hiện một số cuộc cải cách giáo dục. Còn không ít vấn đề bất cập trong nền giáo dục ở Việt Nam hiện nay liên quan đến mục tiêu giáo dục, phương pháp giáo dục, chương trình giáo dục, cách thức tổ chức quản lý giáo dục,… Nền giáo dục, nhất là giáo dục đại học Việt Nam có một vị trí quá khiêm tốn về chất lượng trong bảng xếp hạng quốc tế, chưa đáp ứng được nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho thị trường lao động trong nước và quốc tế, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế tri thức. Nhiều vấn đề bức xúc của nền giáo dục Việt Nam hiện nay như tình trạng học quá tải của học sinh, tình trạng dạy thêm học thêm, bệnh thành tích, các hiện tượng tiêu cực trong giáo dục, tình trạng bằng giả, chảy máu chất xám, bạo lực học đường,... đang gây bức xúc mạnh mẽ trong xã hội. 

Nguyên nhân sâu xa của những vấn đề bất cập này là ở chỗ nền giáo dục Việt Nam vẫn chưa thực sự khắc phục được mô hình giáo dục truyền thống một phần do ảnh hưởng của nền giáo dục Xôviết trước đây, mô hình mà John Dewey đã phê phán và đa số các nước có nền giáo dục tiên tiến đã vượt qua. Mặc dù có nhiều tiến bộ so với trước, nhưng nền giáo dục Việt Nam hiện nay vẫn chưa thực sự được đầu tư đúng mức và định hướng một cách căn bản đến quá trình hội nhập và xu hướng phát triển kinh tế tri thức.

Đảng và Nhà nước ta đã nhận thấy sự cần thiết phải đổi mới căn bản nền giáo dục Việt Nam hiện nay. Nhiều đề án dự thảo đổi mới giáo dục đã được đưa ra. Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, khóa XI (tháng 10 năm 2013) đã thông qua Nghị quyết về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế (Nghị quyết số 29-NQ/TW). Một trong những nội dung cơ bản của Nghị quyết này là “chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học”. Đây là bước đi cần thiết và đúng hướng.

Tuy nhiên, đã đến lúc phải thực hiện cuộc cải cách căn bản nền giáo dục Việt Nam, chứ không chỉ thực hiện việc đổi mới giáo dục. Vấn đề của các cuộc cải cách giáo dục trước đây và các đề án đổi mới giáo dục nền giáo dục Việt Nam vừa qua là ở chỗ: mới chỉ dừng lại ở sự thay đổi phần ngọn của cây đại thụ giáo dục, chưa động chạm đến phần gốc rễ của nó. Chúng ta chưa kiên quyết thay đổi triết lý giáo dục hiện có và vận dụng các mặt tích cực của triết lý giáo dục phương Tây, triết lý giáo dục đã được vận dụng thành công ở các nước như Mỹ, Canada, Anh, Pháp, Đức, Hà Lan, Phần Lan, Nhật, Hàn Quốc, Singapo,… những nước có nền giáo dục tiên tiến trên thế giới, trong đó có triết lý giáo dục của John Dewey hướng đến phát triển con người với phương châm nhân bản, dân chủ và hiệu quả.

 Do vậy, đã đến lúc phải “hạ quyết tâm” xây dựng một đề án cải cách căn bản giáo dục theo hướng hiện đại qua việc thành lập một Ủy ban Quốc gia về giáo dục quy tụ nhiều các học giả lớn trong và ngoài nước, nhằm đưa những tinh hoa của nền giáo dục nhân loại vận dụng cho Việt Nam. Làm như vậy, chúng ta mới thực sự coi giáo dục là quốc sách, là cứu cánh để Việt Nam có thể sánh vai các cường quốc năm châu như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng mong ước.



[1] Xem: Son Youzhong, “John Dewey in China: Yesterday and today”, In Transactions of the Charles S. Peirce Society, Winter, 1999, Vol. 35, No 1, Pp. 69.

[2] Xem: Stefan Neubert, “Democracy and Education in the Twenty - First Century: Deweyan Pragmatism and the Question of Racism”, In: Educational Theory,  Volume 60, 2010, No 4, Tr. 488.

[3] Schreier, Helmut (Hrsg.), John Dewey, Erziehung durch und fuer Erfahrung, Klett-Cotta, Stuttgart, 1986, Pp. 103.

[4] John Dewey (2008), Dân chủ và giáo dục, Phạm Anh Tuấn dịch, Nxb. Tri thức, Hà Nội, Tr. 77.

[5] John Dewey, Sđd, Tr. 77.

[6] John Dewey, Sđd, Tr. 78.

[7] John Dewey, Sđd, Tr. 78.

[8] John Dewey, Sđd, Tr. 78-79.

[9] John Dewey, Sđd, Tr. 78-79.

[10] John Dewey, Sđd, Tr. 80.

[11] Friedrich Wilhelm August Froebel (1782-1852) là nhà giáo dục học người Đức.

[12] John Dewey, Sđd, Tr. 80-82.

[13] John Dewey, Sđd, Tr. 92.

[14] John Dewey, Sđd, Tr. 85-87.

[15] John Dewey, Sđd, Tr. 89.

[16] John Dewey, Sđd, Tr. 96.

[17] John Dewey, Sđd, Tr. 96.

[18] John Dewey, Sđd, Tr. 97.

[19] John Dewey, Sđd, Tr. 97.

[20] Xem: Дьюи Дж., Дьюи Э., Школы будущего, Берклин, 1922, Tr. 4.

[21] Xem: Sđd, Tr. 226.

[22] Дьюи Дж, Школа и ребенок. М., 1923, Tr. 7.

[23] John Dewey, Sđd, Tr. 16.

[24] John Dewey, Sđd, Tr. 17.

[25] Xem: Дьюи Дж., Дьюи Э., Школы будущего (Những trường học của tương lai), Берклин, 1922, Tr. 12.

[26] John Dewey, Sđd, Tr. 77.

[27] Xem: http://www.skymark.com/resources/leaders/dewey.asp.

 

 

Nguồn:ihs.vass.gov.vn

Lên trên

Cùng chủ đề

  • Vũ Huy Từ, Phạm Văn Hiếu. Phát triển giáo dục đại học Việt Nam trong kỷ nguyên cách mạng công nghiệp 4.0

  • Nguyễn Thị Ngọc Hoa. Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về giáo dục

  • Nghiêm Xuân Dũng. Quản lý nhà nước đối với đào tạo sau đại học dưới tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0

  • Nguyễn Vĩnh Nguyên. Cuộc chiến bên trong chúng ta

  • David Cyranoski. Mô hình chống Covid-19 của Trung Quốc: Bài học gì cho thế giới?

Thông báo

Tư vấn khoa học và kỹ năng nghiên cứu…

Tủ sách văn hoá học Sài Gòn

  • Thư viện ảnh
  • Thư viện video
  • Tủ sách VHH

Phóng sự ảnh: Toạ đàm khoa học: Xây dựng…

Hình ảnh văn hóa Tết xưa (sưu tầm)

Phóng sự ảnh: Lễ hội truyền thống VHH 2011

Phóng sự ảnh Lễ hội truyền thống VHH 2010

Thành phố Sankt-Peterburg, Nga

Bộ ảnh: Việt Nam quê hương tôi 2

Tranh Bùi Xuân Phái

Bộ tem tượng Phật chùa Tây Phương

Bộ ảnh: Đá cổ Sapa

Bộ ảnh: Phong cảnh thiên nhiên

Bộ ảnh: Việt Nam quê hương tôi

"Biển, đảo Việt Nam - Nguồn cội tự bao đời":…

Con dê trong văn hóa và văn hóa Việt Nam

Văn hóa Tết ở Tp.HCM (Chương trình truyền…

Văn hóa Tp. HCM: Một năm nhìn lại và động…

Phong tục Tết cổ truyền của người Nam Bộ

Bánh tét và Tết phương Nam

Con ngựa trong văn hóa và văn hóa Việt Nam

Điện Biên Phủ - Cuộc chiến giữa hổ và voi

Nhìn lại toàn cảnh thế giới từ 1911-2011…

Tọa độ chết - một bộ phim Xô-Việt xúc động…

Video: Lễ hội dân gian Việt Nam

Văn hoá Việt từ phong tục chúc Tết

Văn hoá Tết Việt qua video

Tết ông Táo từ góc nhìn văn hoá học

“Nếp nhà Hà Nội” trên “Nhịp cầu vàng”: tòa…

Văn hóa Thăng Long - Hà Nội qua video: từ…

Hướng về 1000 năm TL-HN: Xem phim “Tử Cấm…

Hướng về 1000 năm TL-HN: Người Thăng Long…

Phim "Chuyện tử tế" – tập 2 (?!) của “Hà…

Default Image

Hướng về 1000 năm TL-HN: "Chuyện tử tế" -…

Sách “Di sản Ấn Độ trong văn hóa Việt Nam”

Nguyễn Văn Bốn. Tín ngưỡng thờ Mẫu của người…

Sách: Quản lý và khai thác di sản văn hóa…

Hồ Sĩ Quý. Con người và phát triển con người

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 3

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 2

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 1

Hồ Sỹ Quý. Tiến bộ xã hội: một số vấn đề về…

Hồ Sỹ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á (Phụ…

Hồ Sỹ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á…

Hồ Sĩ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á…

Sách: Chuyên đề Văn hoá học

Sách: Một số vấn đề về hệ giá trị Việt Nam…

FitzGerald. Sự bành trướng của Trung Hoa…

Hữu Đạt. Đặc trưng ngôn ngữ và văn hoá giao…

Sống chụ son sao (Tiễn dặn người yêu)

Gs. Mai Ngọc Chừ. Số phận & Tâm linh

Trần Văn Cơ. Những khái niệm ngôn ngữ học…

Đoàn Văn Chúc. Văn hóa học (Phần 3 - hết)

Đoàn Văn Chúc. Văn hóa học (Phần 2)

Các nhà VHH nổi tiếng

Julian Haynes Steward

Wen Yi'duo (Văn Nhất Đa)

Leslie Alvin White

Huang Wen'shan (Hoàng Văn Sơn)

Radcliff-Brown, Alfred Reginald

Sapir, Edward

Margaret Mead

Thăm dò ý kiến

Bạn thích cuốn "Cơ sở văn hoá VN" của tác giả nào nhất?

Chu Xuân Diên - 4.8%
Lê Văn Chưởng - 0.9%
Trần Diễm Thuý - 1%
Trần Ngọc Thêm - 37.4%
Trần Quốc Vượng - 53%
The voting for this poll has ended on: 26 06, 2020

Tổng mục lục website

tong muc luc

Tủ sách VHH Sài Gòn

tu sach VHH SG

Thống kê truy cập

  • Đang online :
  • 482
  • Tổng :
  • 3 7 7 6 9 5 3 0
  • Đại học quốc gia TPHCM
  • Đại học KHXH&NV
  • Tran Ngoc Them
  • T.c Văn hóa-Nghệ thuật
  • Tc VHDG
  • Viện NCCN
  • Khoa Văn hóa học
  • Khoa Đông phương học
  • Phòng QLKH
  • Khoa Việt Nam học
  • Khoa Hàn Quốc học
  • BM Nhật Bản học
  • Khoa Văn học - Ngôn ngữ
  • Khoa triết học
  • Khoa Quan hệ quốc tế
  • Khoa Xã hội học
  • Bảo tàng Lịch sử - Văn hóa
  • viettems.com
  • myfaifo.com
Previous Next Play Pause

vanhoahoc.vn (các tên miền phụ: vanhoahoc.edu.vn ; vanhoahoc.net)
© Copyright 2007-2015. Bản quyền thuộc Trung tâm Văn hóa học Lý luận và Ứng dụng, Trường Đại học KHXH & NV - ĐHQG Tp. HCM
ĐT (028) 39104078; Email: ttvanhoahoc@hcmussh.edu.vn; ttvanhoahoc@gmail.com. Giấy phép: số 526/GP-BC, do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 27-11-2007
Ghi rõ nguồn vanhoahoc.vn khi phát hành lại các thông tin từ website này.

Website được phát triển bởi Nhà đăng ký tên miền chính thức Việt Nam trực thuộc Trung Tâm Internet VNNIC.

Văn hóa giáo dục - khoa học