Bàn về văn hóa nhà triết học, cổ sinh vật học người Pháp Teihard de Chardin (1881 - 1955) có đưa một nhận định, đại ý nói rằng: Trái đất hình thành và phát triển đến một lúc nào đó thì xuất hiện sự sống, ông gọi là sinh quyển (Biosphère). Tiếp đó là sự ra đời của tri quyển (Noosphère), gắn với sự hình thành của con người hiện đại. Tri quyển là quyển vế ý thức, tinh thần do con người tạo ra trong quá trình hoạt động sống. Đó chính là văn hóa - thế giới tinh thần của con người.
Phân tích từ điểm xuất phát, có thể nhận thấy văn hóa là sự phóng chiếu của hoạt động người, nó biểu hiện như là hoạt động sáng tạo hướng đích của chủ thể, ở đây chủ thể có thể bao gồm 3 dạng: cá nhân, nhóm và giống loài. Như vậy, văn hóa tồn tại với ba quy mô dạng thức là:
a/ Văn hóa cá nhân biểu hiện như là đơn vị của văn hóa toàn bộ;
b/ Văn hóa nhóm xã hội - bao gồm từ các nhóm vi mô như: gia đình, dòng họ, nhóm bạn, tổ sản xuất… đến những nhóm vĩ mô như tộc người, đăng cấp, giai cấp, dân tộc - quốc gia;…
c/ Văn hóa nhân loại biểu hiện như là văn hóa toàn cầu.
Bài viết này bàn về dạng thức 1 - văn hóa cá nhân.
Văn hóa cá nhân là văn hóa của một con người. Đó là toàn bộ vốn tri thức và kinh nghiệm, trí tuệ và cảm xúc tích luỹ vào một cá nhân trong quá trình hoạt động thực tiễn xã hội của nó. Là chủ thể của hoạt động sáng tạo, mỗi cá nhân còn là đại biểu mang vác những giá trị tiêu biểu của một nền văn hóa nào đó mà nó sở thuộc vào, người ta gọi đó là nhân cách văn hóa của nền văn hóa ấy. Mỗi nền văn hóa lớn thường sản sinh ra một mẫu nhân cách văn hóa tiêu biểu. Ví dụ: người quân tử là mẫu nhân cách văn hóa của nền văn hóa Nho giáo Trung Hoa, người tăng lữ là mẫu nhân cách văn hóa của nền văn hóa ấn Độ cổ điển, triết gia và nghệ sĩ là hai mẫu nhân cách của văn hóa Hy Lạp cổ điển, người công dân là mẫu nhân cách của nước cộng hòa La Mã cổ đại, người võ sĩ đạo là mẫu nhân cách văn hóa Nhật Bản thời trung đại, v.v… Nhân cách văn hóa kiệt xuất thì được gọi là danh nhân.
2. Doanh nhân - nhân cách của doanh nghiệp
Trong quá trình hình thành và phát triển, con người không ngừng hoạt động sáng tạo làm nên những giá trị văn hóa. Một trong những giá trị đó là nhân cách của nó. Trong tâm lý học người ta quan niệm: con người là sản phẩm hoạt động sáng tạo của loài; khi nó đại diện cho loài, ta gọi nó là cá thể; khi là thành viên của một tổ chức xã hội, nó được gọi là cá nhân; khi là chủ thể của một dạng hoạt động sáng tạo nào đó, người ta gọi nó là nhân cách.
Khái niệm nhân cách đầu tiên do hai nhà tâm lý học người Đức là Dilthey và Spranger đưa ra vào khoảng cuối thế kỷ thứ XIX đầu thế kỷ thứ XX. Tâm lý học cá nhân xem nhân cách là một cấu trúc tâm lý gồm 4 nhóm thuộc tính tâm lý như sau:
2.1. Nhóm khí chất: là kiểu hoạt động thần kinh của con người, biểu hiện thông qua hệ thống hành vi cư xử của nó;
2.2. Nhóm xu hướng: gồm tổng thể các hiện tượng tâm lý như: nhu cầu, hứng thú, sở thích, lý tưởng;
2.3. Nhóm năng lực: là tổng hợp những thuộc tính về trí tuệ, tình cảm v.v… những yếu tố giúp cá nhân lập nên những thành tựu xuất sắc trong một lĩnh vực hoạt động cụ thể nào đó;
2.4. Nhóm tính cách: là tổng hợp những thái độ và phương thức ứng xử biểu hiện trong đời sống tinh thần của mỗi cá nhân. Các phẩm chất về đạo đức và ý chí là những nét tiêu biểu của tính cách.
Trong 4 nhóm thuộc tính trên thì xu hướng đóng vai trò chủ đạo, nó là động lực của sự phát triển nhân cách. Trong xã hội học người ta dùng thuật ngữ định hướng giá trị để chỉ cốt lõi của nhân cách xã hội.
Thực ra, khái niệm nhân cách không chỉ bó hẹp trong tâm lý học, theo nhà nghiên cứu văn hóa xô viết E.V. Xô-cô-lốp trong sách “Văn hóa và nhân cách” (xuất bản ở Lê-nin-gờ-rát năm 1972), thì nó còn được sử dụng rộng rãi trong các ngành khoa học xã hội và nhân văn. Mỗi ngành khi nghiên cứu nhân cách về con người thường tập trung chú ý vào các nhóm thuộc tính đặc trưng cho cá nhân, nhấn vào sự tự do ý chí (autonomy) và tính chủ động, tích cực của nó.
Chẳng hạn, trong khoa bệnh lý học, một con người được kiểm tra trong điều kiện bình thường, nhận thấy ở họ có những hành động lành mạnh, có khả năng tự định hướng trong không gian và thời gian, biết thực hiện các chuẩn mực sơ đẳng về vệ sinh, thì người ta gọi đó là một nhân cách không bệnh tật. Trong luật học và hình pháp học, nhân cách được xem như là chủ thể pháp lý, được hưởng mọi quyền lợi và gánh vác nghĩa vụ công dân, có ý thức trách nhiệm về tội lỗi trước xã hội. Theo quan điểm xã hội học, thì nhân cách xã hội vừa là chủ thể của đời sống xã hội, lại vừa là sản phẩm của tổng thể các mối quan hệ xã hội. Đó là một thành viên của cộng đồng xã hội nào đó, có khả năng nắm vững và tự giác thực thi hệ thống các giá trị và chuẩn mực xã hội do cộng đồng xã hội ấy quy định.
Từ sự phân tích xã hội học trên đây, có thể suy ra mà nói rằng: doanh nhân là một dạng nhân cách nghề nghiệp, mà doanh nghiệp là tổ chức xã hội - kinh tế của họ.
Nhân cách doanh nhân cũng tức là văn hóa cá nhân của doanh nhân, gọi tắt là “văn hóa doanh nhân”.
Đến đây, chúng tôi nhận thấy cần phải định rõ nghĩa thuật ngữ doanh nhân. Thực ra, doanh nhân là chỉ những người hoạt động doanh nghiệp nói chung, nhưng doanh nhân theo nghĩa bóng có thể hiểu là ông chủ doanh nghiệp - đây chính là nghĩa mà Trung tâm văn hóa doanh nhân Việt Nam đang sử dụng. Tôi cho rằng: chủ doanh nghiệp có thể gọi là doanh gia, tương tự như chủ hãng buôn gọi là thương gia (khác với thương nhân) thì sát nghĩa hơn. Tuy nhiên, dựa vào tính chất quy ước của ngôn từ, vẫn có thể hiểu văn hóa doanh nhân là văn hóa ông chủ doanh nghiệp.
3. Về khái niệm văn hóa doanh nhân (chủ doanh nghiệp)
Như phần trên đã phân tích, văn hóa doanh nhân là cách gọi khác của nhân cách doanh nhân. Nói xây dựng văn hóa doanh nhân tức là xây dựng nhân cách doanh nhân.
Nhân cách là một khái niệm tâm lý học, cơ cấu của nó là một tổ hợp gồm 4 nhóm thuộc tính tâm lý mà phần trên đã trình bày, trong đó nhóm xu hướng bao gồm: nhu cầu, hứng thú, sở thích, lý tưởng, khát vọng…, được xem là quan trọng nhất. Xu hướng có vai trò chủ đạo và là động lực thúc đẩy sự phát triển nhân cách. Trong xã hội học, thay cho xu hướng người ta sử dụng thuật ngữ định hướng giá trị. Nó biểu hiện giống như ngọn cờ, có khả năng tập hợp các thành viên trong nhóm lại, thống nhất hành động hướng theo một mục đích. Như vậy, định hướng giá trị trở thành yếu tố cốt lõi trong cấu trúc của nhân cách.
Theo ý kiến nhà văn hóa học Nga E.V. Xô-cô-lốp(*) thì định hướng giá trị giống như một tấm bánh có ba lớp:
Lớp 1 - lớp nhận thức, tri thức, ý nghĩa (cognitive) trong đó ghi dấu ấn kinh nghiệm xã hội của nhân cách;
Lớp 2 - lớp cảm xúc, biểu hiện mức độ xúc động, tinh thần say mê, khát vọng cháy bỏng trong việc thực hiện giá trị mà nó theo đuổi;
Lớp 3: lớp ứng xử, chỉ toàn bộ phương thức hành xử của nhân cách, nhằm đạt mục tiêu với hiệu quả tối ưu.
Vậy định hướng giá trị (hay lý tưởng xã hội) của nhân cách doanh nhân là gì?
Theo tôi: “làm giàu” là câu trả lời rốt ráo. Người Trung Quốc nói là: “Trí phú” nghĩa là làm giàu hết mình.
Theo sự phân tích ở trên, thì cấu trúc của định hướng làm giàu là:
1. Có tri thức làm giàu
2. Có khát vọng làm giàu
3. Biết cách ứng xử trong làm giàu.
Câu trả lời thật đơn giản, nhưng dường như nó vẫn chưa đủ sức làm cho mọi người tâm phục. Sở dĩ có tình trạng trên là do làm giàu chưa được xã hội công khai thừa nhận như một giá trị. ở nước ta, mỗi khi nói đến giá trị người ta nghĩ ngay đến Chân, Thiện, Mỹ hoặc hướng về tâm linh, chứ tuyệt nhiên không mấy ai dám công khai biểu thị khát vọng làm giàu.
Nước ta thời xưa theo truyền thống Nho giáo. Nho giáo coi buôn bán là nghề của kẻ hạ tiện. Trong tứ dân người ta xếp thương nhân xuống hạng cuối cùng. Chính sách của nhà nước theo Nho giáo là “trọng nông”, “ức thương”, nhằm cột chặt các thôn dân vào ruộng đất, làng xã, để tiện cho việc thu thuế, bắt phu và bắt lính.
Các nhà Nho đưa ra quan niệm “tri túc”, nghĩa là thiếu một chút cũng coi là đủ, “tiết dục” tức là hạn chế nhu cầu, coi thường của cải và hạnh phúc vật chất. Nhà Nho còn nói: “Vi phú bất nhân”, nghĩa là làm giàu thì phải ác, và “Vi nhân bất phú”, nghĩa là muốn làm người chân chính thì không nên màng tới sự giàu có. Tôi cho rằng đây chỉ là một quan niệm phiến diện, để biện minh cho sự nghèo nàn của xã hội nông nghiệp truyền thống. Bởi, người ta vẫn có thể làm giàu mà không cần dùng tới các thủ đoạn bất nhân, cũng như người sống chân chính, vẫn có thể làm giàu bằng tài năng vốn có.
Thực ra, trong xã hội Nho giáo không phải con người không đam mê sự sung sướng, có điều nhà nước Nho giáo chỉ mở một con đường cho những ai muốn vươn lên, thoát khỏi phận vị hiện hữu, để đạt tới sự “vinh thân, phì gia” là: Đi học, thì đỗ, làm quan!
Đi học, trong những trường ốc Nho giáo không phải để có một nghề mà để kiếm danh vị, bằng danh vị mà chiếm được bổng, lộc cao hơn. Thực tế đó đã tạo ra trong xã hội nông nghiệp tâm lý coi trọng việc làm quan, coi khinh các nghề khác. ý hưởng muốn làm quan, không muốn làm dân là nét tâm lý phổ biến ở người nông dân Việt Nam thời trước. Tiếc thay, ảnh hưởng của khía cạnh tâm lý này vẫn tồn tại dai dẳng ở một bộ phận người nước ta trong xã hội ngày nay.
Để gạt bỏ những ảnh hưởng tiêu cực của xã hội truyền thống, con đường tất yếu mà Đảng đã vạch ra là thực hiện công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
Mọi người đều biết rằng: xã hội công nghiệp là thuộc dạng xã hội chức năng, ở đấy có sự phân công lao động triệt để. Những cán bộ hoạt động trong bộ máy của Đảng, Nhà nước, các đoàn thể chính trị, các công chức, viên chức như: giáo viên, y tế, các nhà hoạt động văn hóa, khoa học… đều không có chức năng làm giàu. Ai muốn làm giàu phải chuyển vị trí hoạt động cho đúng chỗ.
Ngược lại, các nhà doanh nghiệp, thương gia, dịch vụ nếu không có định hướng làm giàu, thì họ biết làm gì? Vì vậy, theo tôi “làm giàu” đích thị là định hướng giá trị của nhân cách doanh nhân. Nhà kinh tế học người áo J. Schumpeter (1883 - 1950) có nói rằng: “người đóng vai trò chủ yếu trong nền kinh tế thị trường hiện đại là tầng lớp doanh nhân”. Doanh nhân phải là chủ lực quân - những người tiên phong trong công việc làm cho dân giàu, nước mạnh.
4. Làm giàu và cách làm giàu là hai vấn đề quan trọng, cũng giống như “yêu nước” và “biết cách yêu nước”. Yêu nước là tình cảm tự nhiên của con người, ai cũng có thể có, còn “cách yêu nước” là tùy theo sự lựa chọn của mỗi người. Cũng như vậy, ta thấy làm giàu là nhu cầu tự nhiên của mỗi người, biết cách làm giàu (trí phú) mới là vấn đề của văn hóa.
Đã là vấn đề của văn hóa thì thường không dễ giải thích, bởi làm giàu vừa là một khoa học, lại vừa là một nghệ thuật. Là khoa học người ta có thể truy tìm ra quy luật, xây dựng nên những công thức, những quy trình công nghệ, rồi cứ thế tiến hành để đi đến kết quả. Là nghệ thuật, công việc làm giàu gắn với sự sáng tạo của cá nhân, mà sáng tạo là dạng hoạt động đầy bí ẩn, không thể quy thành công thức được. Tóm lại, trong điều kiện hiện thời chưa thể có một công thức chung cho mọi hoạt động làm giàu, điều đó chỉ có thề dành cho sự sáng tạo của doanh nhân. Điều phổ quát nhận thấy là ai cũng có quyền làm giàu chính đáng, tức làm giàu đúng pháp luật. Để làm giàu, mỗi người có thể làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm.
Khi làm giàu được xem là hoạt động sáng tạo, thì văn hóa doanh nhân đồng nghĩa với văn hóa làm giàu hoặc đạo làm giàu của doanh nhân.
5. Điều cuối cùng tôi đề nghị các cơ quan chức năng của Đảng, của nhà nước và các đoàn thể cần tạo ra môi trường thuận lợi, trước hết là môi trường tâm lý xã hội, để các doanh nhân yên tâm làm giàu. Dư âm về những cuộc cải tạo công thương nghiệp, những cuộc kiểm tra hành chính, Z30… vào thời kỳ trước đổi mới chưa hẳn đã phai mờ trong ký ức của họ.
Tôi cho rằng cần liên tục mở các đợt tuyên truyền rộng rãi trên các phương tiện truyền thông đại chúng khuyến khích doanh nhân làm giàu cho doanh nghiệp mình, tức là cho đất nước.
Phải nghiên cứu tìm ra những hình thức hấp dẫn để tôn vinh doanh nhân, tương xứng với chức năng làm giàu của họ trong giai đoạn hiện nay, đúng với vai trò của họ mà nhà kinh tế học người áo J. Schumpeter đã gợi ra.
Trong cuộc Hội thảo có một nhà báo đã nói: “Ngày xưa mất đất là mất nước, ngày nay mất thị trường cũng là mất nước”. Thiết nghĩ: chúng ta đang chuẩn bị gia nhập WTO, gìn giữ thị trường trong nước là nhiệm vụ vẻ vang nhưng đầy gian khổ đang đặt lên vai giới doanh nhân nước ta. Mong rằng sức trẻ của giới doanh nhân Việt Nam xứng đáng với niềm tin cậy của nhân dân.
(*) E.V. Xô-cô-lốp. Văn hóa và nhân cách. NXB Khoa học - Lêningơrat. 1972 (tiếng Nga)
Nguồn: vanhoadoanhnhanvietnam.net