1. Nguồn gốc của lễ tết
Trung Quốc có các loại lễ tết như lễ mùa vụ, lễ kỷ niệm, lễ tôn giáo, lễ tế tự, lễ mang tính tổng hợp, v.v.. Tết thuộc ngày lễ mang tính tổng hợp.
Loài người trong thời kỳ dài mông mụi, không có khái niệm thời gian rõ ràng, không nắm bắt được quy luật thay đổi của thời tiết, thì không biết lễ tết.
Truy về lai lịch của ngày lễ này, đầu tiên phải tìm hiểu nguồn gốc của “tuế thời tiết nhật” /岁时节日. Sự xuất hiện “tuế thời tiết nhật” là sản phẩm của xã hội con người đã phát triển đến một trình độ nhất định.
“Tuế” chỉ năm, “thời” tức bốn mùa, tứ quý. “Tuế thời” tức là một năm bốn mùa. “Tuế thời tiết nhật” là lễ theo chu kỳ thời tiết, gồm các phong tục được hình thành bởi sự kết hợp của các yếu tố ngày tháng năm trong lịch pháp và sự thay đổi của thời tiết, sản xuất nông nghiệp, đồng thời cũng chịu ảnh hưởng của tôn giáo, sự kiện lịch sử, và các phong tục khác.
Trung Quốc là một nước nông nghiệp, từ xưa đến nay nông lịch /农历 (âm lịch) của Trung Quốc chia một năm thành mười hai tháng (có năm có tháng nhuận), lại có bốn mùa, tám tiết, hai mươi bốn tiết khí. Bốn mùa là xuân hạ thu đông, tám tiết là lập xuân, xuân phân, lập hạ, hạ chí, lập thu, thu phân, lập đông và đông chí. Hai mươi bốn tiết khí có được là do căn cứ vào vị trí trái đất xoay quanh mặt trời mà chia một năm thành hai mươi bốn phần. Chữ “tiết” /节trong “tiết khí” /节气 là sự phân rõ tiến trình thời gian suốt một năm, tức phân quá trình tiệm tiến của năm thành những khoảng thời gian giống như đốt tre, ngày mà hai tiết khí đầu và cuối giáp nhau gọi là “tiết nhật” /节日. “Tiết nhật” với ý nghĩa lịch pháp này chưa có hàm ý của ngày lễ mang tính chất phong tục. Sự phát triển của lịch sử về sau, do ảnh hưởng của sản xuất, đời sống, tín ngưỡng, sự kiện lịch sử v.v., nó được gắn cho ý nghĩa đặc biệt, dần dần trở thành ngày lễ tết truyền thống của dân tộc.
Khi người ta lấy “niên” /年 (năm) làm đơn vị tính thời gian, ngày phân giữa năm mới và năm cũ gọi là “niên tiết” 年节. Về sau, “tiết nhật” hay “niên tiết” đều có nghĩa là lễ tết.
Hàm nghĩa sớm nhất của từ “niên” xuất phát từ hoạt động sản xuất nông nghiệp. “Niên” có nghĩa là hạt ngũ cốc chín muồi. Chữ “niên” trong giáp cốt văn có hình dạng là hạt chín mùi. Chữ “niên” trong kim văn cũng có hình bông kê chín muồi. Trong Hòa bộ -Thuyết văn viết, “niên, cốc thục dã” (năm, hạt ngũ cốc chín muồi). Trong Tuyên Công thập lục niên - Cốc lương truyện” cũng có viết: “Ngũ cốc đại thục vi đại hữu niên” (ngũ cốc chín mùi là năm đến). Thời xa xưa việc xác định một năm là căn cứ vào chu kỳ gieo hạt và thu hoạch một lần. Sau đó, tri thức kinh nghiệm của con người luôn được tích luỹ, trình độ văn minh luôn được nâng cao, để sắp xếp hợp lý giúp cho việc sản xuất không lỡ mùa vụ, người ta bắt đầu định ra năm thông qua quan sát thiên văn. Mãi đến thời Chu mới gọi là “niên”. Dựa vào chương Thích thiên trong Nhĩ nhã biết rằng, thời Nghiêu Thuấn gọi năm là “tải” /载, đời Hạ gọi năm là “tuế” /岁, đời Thương gọi năm là “tự” /祀, đến đời Chu mới đổi thành “niên” /年.
Do “niên tiết” là ngày đặc biệt trong lịch pháp, nó phân định chu kỳ thời tiết, chu kỳ thời gian rõ ràng, đánh dấu kết thúc một năm cũ, bắt đầu một năm mới. Trong những ngày này người ta tiến hành các hoạt động chúc mừng, thờ cúng, vui chơi. Người ta hy vọng năm mới sắp đến có vận khí tốt hơn, có cuộc sống hoàn toàn mới. Phát triển qua hàng ngàn năm, nó trở thành ngày lễ quan trọng mang tính tổng hợp, thể hiện rõ nét nhất văn hóa truyền thống Trung Quốc.
2. Sự hình thành và phát triển của lễ tết
Ngày lễ tết ở các triều đại trong lịch sử cũng không giống nhau. Ngày lễ tết của đời Hạ là ngày mồng một tháng một, của đời Thương là ngày mồng một tháng mười hai, của đời Chu là ngày mồng một tháng mười một, của đời Tần là ngày mồng một tháng mười. Đến đời Tây Hán (năm 104 tr. CN), Hán Vũ Đế tiếp thu kiến nghị của quần thần như Tư Mã Thiên, sử dụng “Thái sơ lịch” (lịch sớm nhất), khôi phục lại lịch đời Hạ (tức nông lịch), lấy tháng giêng làm tháng đầu năm, đưa hai mươi bốn tiết khí vào lịch pháp. Về sau, lịch các triều đại tuy có sửa đổi, nhưng trên cơ bản vẫn lấy “Thái sơ lịch” làm gốc, lấy tháng giêng (tháng Mạnh xuân) của lịch Hạ làm tháng đầu năm, ngày mồng một tháng giêng là ngày “Nguyên đán” hay “Nguyên nhật”, tức là ngày đầu tiên của năm mới, và dùng mãi đến ngày nay.
Sau cách mạng Tân Hợi năm 1911, nhà Thanh bị lật đổ, Tôn Trung Sơn thành lập chính phủ Trung Hoa Dân Quốc ở Nam Kinh. Trong một cuộc hội nghị ở Nam Kinh, có bàn về vấn đề lịch pháp. Cuối cùng, Hội nghị đã thống nhất “dùng lịch Hạ là để thuận với mùa vụ, theo lịch Tây để tính toán”. Tức sử dụng công lịch (dương lịch), lấy ngày 1 tháng 1 dương lịch làm năm mới, đồng thời gọi ngày mồng một tháng giêng nông lịch là “xuân tiết” /春节 (tết xuân). Nhưng điều này vẫn chưa chính thức ban bố và dùng rộng rãi. Ngày 27 tháng 9 năm 1949, Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân Trung Quốc lần một họp thông qua việc sử dụng năm dương lịch, lấy ngày 1 tháng 1 dương lịch làm ngày “Nguyên đán”, gọi ngày mồng một tháng giêng nông lịch là “xuân tiết”, và quy định ba ngày nghỉ phép để mọi người vui vẻ chúc mừng năm mới nông lịch.
Tại sao năm mới nông lịch của Trung Quốc là ngày mồng một tháng giêng?
Người Trung Quốc lấy hàn đông làm điểm cuối cùng, lúc tia nắng mặt trời xuân ló dạng là bắt đầu năm mới. Về nguồn gốc của nó, có thể tìm hiểu “Lạp tế” /腊祭 thời cổ đại. Tương truyền “Lạp tế” nguyên là tập tục cúng tế cuối năm ở thời đại Thần Nông. Có câu “sách quỹ thần nhi tế tự”, “họp tụ vạn vật nhi tế hưởng chi” (cúng tế chư quỷ thần, vạn vật về cùng hưởng). Nội dung của cúng tế chủ yếu là cảm tạ sự ban ơn của bách thần trong một năm, cầu cho năm tới mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, đồng thời cùng với đó là hoạt động trừ dịch bệnh tai họa. Chữ “Lạp” /腊 trong Lạp tế gần âm với chữ “lạp” /猎 (có nghĩa là săn bắt). Vào mùa đông nhàn rỗi, người ta dùng những con thú hoang săn bắt được làm vật cúng, cử hành đại tế. Lúc đó, ngày “Lạp tế” là ngày ăn mừng năm mới. Do xã hội nông nghiệp Trung Quốc ít có sự thay đổi về bản chất, văn hóa truyền thống dựa vào tính ổn định và tính bảo thủ của nó mà lưu truyền được những phong tục từ thời cổ đại, cũng do vậy mà phong tục ăn tết cũng được duy trì mãi đến ngày nay. Với tiến trình lịch sử hơn hai ngàn năm, phong tục ăn tết Trung Quốc đã qua quá trình phát triển từ manh nha, định hình và có những thay đổi.
Thời đại Tiên Tần, phong tục ăn tết còn ở giai đoạn manh nha. Hoạt động chúc tết thời kỳ này chủ yếu là lúc việc nông trong năm hoàn tất, người ta tổ chức “Lạp tế” để báo đáp ân của thần. Trong Thất nguyệt – Kinh thi có ghi lại phong tục ngày lễ năm mới và năm cũ thay thế nhau của thời Tây Chu. Người dân ở đất Mân (nay là vùng Thiểm Tây) đến tháng mười lịch Mân (tức là tháng giêng lịch Chu, tháng mười một lịch Hạ) thì kết thúc mùa vụ. Mùa đông đến, người ta về nhà, đóng cửa sổ phía bắc lại, trong nhà nhóm lửa, dùng khói hun chuột, chuẩn bị ăn tết. Cái gọi là “Bát nguyệt bác táo, thập nguyệt hoạch đạo, vi thử xuân tửu, dĩ giới mi thọ”, tức là nói người ta sau khi thu hoạch, ủ rượu ngon, mừng thu hoạch, hiếu kính người già. Cái gọi là “Bằng tửu tư hưởng, nhật sát cao dương, tê thử công đường, xưng thử tự quang, vạn thọ vô cương”, tức là nói người ta lấy rượu ngon và cừu non hiến tế cho chư thần, để cảm tạ sự bảo hộ và ban phước của các thần trong một năm. Do lịch của các nước không giống nhau nên hoạt động chúc mừng thời kỳ này không có ngày thống nhất, đại thể là vào lúc mùa đông việc nông nhàn rỗi, nó là hình thức ban đầu của tập tục ăn tết sau này.
Sự định hình của phong tục ăn tết là vào đời Hán. Qua những biến động của thời Chiến quốc và xã hội triều Tần, thời sơ kỳ Tây Hán đã thực hiện chính sách giảm nhẹ thuế, ổn định đời sống nhân dân, phát triển sản xuất, khôi phục nguyên khí. Sản xuất xã hội đã khôi phục và phát triển, trật tự xã hội tương đối ổn định, đời sống của nhân dân được nâng cao, một loạt các tập tục lễ hội được hình thành. Sau khi thực hiện “Thái sơ lịch”, lịch pháp được ổn định lâu dài, ngày mồng một tháng giêng là ngày ăn tết cũng từ đó mà được xác lập. Như vậy, các hoạt động khánh chúc, tế tự, tạ ơn thần được cử hành vào ngày cuối đông đầu xuân vốn khác nhau ở các địa phương đã dần dần thống nhất tổ chức vào một ngày mồng một tháng giêng. Cùng với sự phát triển của xã hội, từ Hán đến Nam Bắc Triều, tập tục ăn tết ngày mồng một tháng giêng diễn ra ngày càng náo nhiệt, các hoạt động đốt pháo, treo câu đối tết, uống rượu Đồ tô, đón giao thừa, ngắm đèn lồng, v.v. đã xuất hiện. Ngày khánh chúc kéo ra ngày càng dài, trong khoảng thời gian này bao gồm hàng loạt các ngày lễ quan trọng như Lạp bát, Giao thừa, Nguyên đán, khai trương đầu năm, tết Nguyên tiêu, v.v. trở thành lễ tết lớn nhất ở Trung Quốc.
Tập tục ăn tết đến đời Đường thì có những thay đổi. Triều Đường là thời đại văn hóa tư tưởng phát triển cao, đồng thời cũng là thời đại giao lưu văn hóa trong ngoài nước phát triển, tập tục ăn tết dần dần thoát khỏi lớp thần bí của tạ ơn, mê tín, cầu khẩn trừ tai nạn, chuyển sang ngày lễ với hình thức nghi lễ và vui chơi. Đốt pháo ngày đầu năm không còn là biện pháp đuổi quỷ trừ tà, mà mang hình thức vui vẻ chúc mừng; tế thần Táo từ nghi thức tôn giáo trang trọng thần bí chuyển thành hoạt động theo lệ và được thế tục hóa; đèn được đốt vào tết Nguyên tiêu để làm vui thần trở thành hoa đăng mang tính nghệ thuật của quần chúng. Tuy hoạt động tế thần thờ cúng tổ tiên vẫn còn, nhưng trọng điểm của chúc mừng năm mới đã chuyển từ tế thần sang vui chơi, hưởng thụ nghệ thuật, giải trí của quần chúng. Cho nên, có thể nói cũng chỉ từ sau đời Đường, tết mới thực sự là ngày mọi người cùng khánh chúc, là “ngày lành tháng tốt” của muôn dân.
Tập tục ăn tết đến đời Minh, Thanh thì mang sắc thái mới. Chủ yếu biểu hiện ở hai phương diện. Một là tăng cường tính nghi lễ, tính xã giao. Người ta nhân dịp năm mới mà thăm chúc lẫn nhau. Từ quan chức đến bình dân có tục tặng quà chúc tết. Quan chức thì tặng danh thiếp hoặc đến nhà thăm hỏi lẫn nhau, người bình dân cũng qua lại quà cáp có chút cầu kỳ. Hai là tăng cường hơn tính vui chơi, nghệ thuật. Trong thời gian ăn tết, các loại hoạt động vui chơi như múa sư tử, múa rồng, diễn kịch, đi cà kheo, múa chèo thuyền, v.v. muôn màu muôn vẻ. Người Quảng Châu chơi chợ hoa, người Tô Châu nghe tiếng chuông Hàn Sơn Tự, người Thượng Hải thì viếng miếu Thành Hoàng, v.v.. Các hoạt động vui chơi nghệ thuật ở các địa phương khác nhau có màu sắc khác nhau. Các loại hoạt động vui chơi xuất hiện tầng tầng lớp lớp khiến người ta phải rối cả mắt. Tập tục ăn tết thời này dung hợp một cách hoàn mỹ văn hóa truyền thống Trung Quốc, trở thành “hội triển lãm dân gian” tập trung hiển thị văn hóa phong tục mấy ngàn năm của Trung Quốc.
3. Kết luận
Với lịch sử hàng ngàn năm, phong tục ăn tết của Trung Quốc thịnh hành khắp nơi, ăn sâu vào đời sống của từng người dân, tạo nên linh hồn của con cháu Viêm Hoàng. Đến ngày tết mỗi cuối năm âm lịch, người ta nhanh chóng về nhà đoàn tụ với người thân, cúng tổ tiên, ăn sủi cảo, chúc tết, ngắm đèn, các tập tục này đã trở thành tập quán của cồng đồng con cháu Viêm Hoàng.
Nguồn: người dịch