logo

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
    • Thư ngỏ
    • Khái quát về Trung tâm
    • Nhân lực Trung tâm
      • Thành viên Trung tâm
      • Cộng tác viên
    • Giới thiệu Khoa Văn hóa học
      • Khái quát về Khoa
      • Nhân lực của Khoa
  • Tin tức
    • Tin nhà (Trung tâm)
    • Tin ngành
    • Tin liên quan
  • Đào tạo - Huấn luyện
    • Các chương trình
    • Tổ chức và Hiệu quả
    • Đào tạo ở Khoa VHH
      • Chương trình đào tạo
      • Kết quả đào tạo
  • Nghiên cứu
    • Lý luận văn hóa học
      • LLVHH: Những vấn đề chung
      • VHH: Phương pháp nghiên cứu
      • VHH: Các trường phái - trào lưu
      • Loại hình và phổ quát văn hóa
      • Các bình diện của văn hóa
      • Văn hóa học so sánh
      • Vũ trụ quan phương Đông
      • Văn hóa và phát triển
      • VHH và các khoa học giáp ranh
    • Văn hóa Việt Nam
      • VHVN: Những vấn đề chung
      • Văn hóa cổ-trung đại ở Viêt Nam
      • Văn hóa các dân tộc thiểu số
      • Văn hóa Nam Bộ
      • Văn hóa nhận thức
      • Văn hóa tổ chức đời sống tập thể
      • Văn hóa tổ chức đời sống cá nhân
      • Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên
      • Văn hóa ứng xử với môi trường xã hội
    • Văn hóa thế giới
      • VH Phương Đông: Những vấn đề chung
      • VH Phương Tây: Những vấn đề chung
      • Quan hệ văn hóa Đông - Tây
      • Văn hóa Trung Hoa và Đông Bắc Á
      • Văn hóa Đông Nam Á
      • Văn hóa Nam Á và Tây Nam Á
      • Văn hóa châu Âu
      • Văn hóa châu Mỹ
      • Văn hóa châu Phi và châu Úc
    • Văn hóa học ứng dụng
      • VHƯD: Những vấn đề chung
      • VHH nghệ thuật
      • Văn hóa đại chúng
      • Văn hóa giao tiếp
      • Văn hóa du lịch
      • Văn hóa đô thị
      • Văn hóa kinh tế
      • Văn hóa quản trị
      • Văn hóa giáo dục - khoa học
    • Tài liệu phổ cập VHH
      • Văn hóa Việt Nam
      • Văn hóa thế giới
      • VHH ứng dụng
    • Tài liệu tiếng nước ngoài
      • Theory of Culturology
      • Vietnamese Culture
      • Applied Culturology
      • Other Cultures
      • 中文
      • Pусский язык
    • Thư Viện Số (Sách - Ảnh - Video)
      • Tủ sách Văn hoá học
      • Thư viện ảnh
      • Thư viện video
    • Các nhà văn hóa học nổi tiếng
  • Tiện ích
    • Dịch vụ Văn hóa học
    • Dịch vụ ngoài VHH
    • Trợ giúp vi tính
    • Từ điển Văn hóa học
    • Thư viện TT và Khoa
    • Tổng mục lục website
    • Tủ sách VHH Sài Gòn
    • Giải đáp thắc mắc
  • Thư giãn VHH
    • Văn chương Việt Nam
    • Văn chương nước ngoài
    • Nghệ thuật Việt Nam
    • Nghệ thuật thế giới
    • Hình ảnh vui
    • Video vui
  • Diễn đàn
  • Liên hệ
  • Trang chủ
  • Nghiên cứu
  • Văn hóa thế giới
  • VH Phương Tây: Những vấn đề chung
Wednesday, 28 December 2016 08:36

Nguyễn Chí Hiếu. Quan niệm về Tự do như là quyền cơ bản của con người trong tư tưởng của Rousseau và Tocqueville

Người post bài:  Nguyễn Thị Tuyết Ngân

Additional Info

  • Tiêu đề:

    QUAN NIỆM VỀ TỰ DO NHƯ LÀ QUYỀN CƠ BẢN CỦA CON NGƯỜI
    TRONG TƯ TƯỞNG  ROUSSEAU VÀ TOCQUEVILLE

  • Tác giả:

    TS. Nguyễn Chí Hiếu

  • Chức danh:

    Học viện Chính trị Khu vực I

Nguyễn Chí Hiếu. Quan niệm về Tự do như là quyền cơ bản của con người trong tư tưởng của Rousseau và Tocqueville

 J.J.Rousseau (1712 - 1778) là một trong những nhà lý luận về nhà nước nổi tiếng, người đã kế thừa những tư tưởng được T.Hobbes khởi xướng và sau đó, đã được C.Montesquieu tiếp tục phát triển, hoàn thiện. Rousseau được tôn vinh là nhà lý luận có công tạo dựng cơ sở triết học chính trị cho cuộc cách mạng tư sản Pháp (1789 - 1794), với khẩu hiệu bất hủ được viết lên trên lá cờ của mình là: “Tự do - bình đẳng - bác ái”, cho dù Rousseau không được tận mắt chứng kiến cuộc cách mạng ấy.

Kể từ đây, với khí thế và ảnh hưởng ngày càng sâu rộng của cách mạng tư sản Pháp ra châu Âu và thế giới, tự do được coi là nhân tố không thể thiếu của bản thể người, thể hiện quyền cơ bản của con người, của xã hội và mang tính nhân loại, mặc dù còn có những quan niệm khác biệt. Trong tác phẩm nổi tiếng Khế ước xã hội[1], Rousseau đề cập đến các loại hình tự do cơ bản của con người, khi phân tích trước hết trạng thái tự nhiên của con người, và sau đó là thời kỳ mà con người phải cố kết lại với nhau để có được sức mạnh trong xã hội nhằm bảo vệ cho sự tồn tại của mỗi thành viên, thông qua những “khế ước xã hội”. Từ đó, Rousseau đã đề cập, suy tư về các loại hình tự do khác nhau và đặc biệt là về bình đẳng trong các tác phẩm của mình.

Tư tưởng của Montesquieu về tam quyền phân lập đã được áp dụng trong thực tế trước tiên tại Pháp và Mỹ. Vì vậy, trong cuốn sách Nền dân trị Mỹ[2], người khởi xướng nền khoa chính trị học so sánh là A.Tocqueville (1805 - 1859) đã tổng kết, luận giải rất kỹ lưỡng tác động của tư tưởng này tới nền dân chủ Mỹ. Cũng cần phải nhấn mạnh ngay rằng, nếu như Rousseau là người ủng hộ cho bình đẳng giữa người với người và kiên quyết chống lại chế độ qúy tộc thì Tocqueville lại là người ủng hộ rất nhiệt thành cho tự do, cho dù dưới bất kỳ hình thức nhà nước nào. Tuy nhiên, ông lại cảm thấy tự do luôn bị đe dọa và vì vậy, đã tập trung suy ngẫm về con đường thoát khỏi mối đe dọa này nhiều hơn so với Rousseau.

Trong bài viết này, tác giả muốn luận giải quan niệm của Rousseau về tự do như là quyền cơ bản của con người, cũng như các hình thức tự do vốn được ông luận giải chủ yếu trong Khế ước xã hội, phân tích sự hiện thực hóa tự do qua thực tế của nước Mỹ được Tocqueville mô tả công phu trong Nền dân trị Mỹ và cuối cùng, bước đầu so sánh, chỉ ra một số điểm tương đồng và dị biệt trong quan niệm về tự do giữa hai nhà tư tưởng kiệt xuất này.

1. Quan niệm của Rousseau về tự do

Trong tác phẩm của mình, Rousseau lưu ý độc giả rằng, công trình của ông không tập trung vào ý nghĩa triết học của khái niệm “tự do”[3]. Mặc dù vậy, không thể phủ nhận được rằng, tư tưởng về tự do là chủ đề xuyên suốt tác phẩm, được ông thường xuyên đề cập đến trong khi luận giải các vấn đề khác. Và thực ra cũng chẳng có gì là cường điệu khi nói rằng, chỉ có thể hiểu được quan niệm của Rousseau về nhà nước, hiến pháp, xã hội và khế ước xã hội,… khi chúng ta nắm và hiểu được quan niệm của ông về tự do của con người. Chính vì vậy, có thể khẳng định rằng, “tự do” là điều kiện tiên quyết, là xuất phát điểm và là khái niệm trọng tâm trong tư tưởng triết học chính trị của Rousseau.

Đoạn mở đầu trong Chương 1 của tác phẩm Khế ước xã hội đã trở thành đoạn trích kinh điển và làm cho tên tuổi của Rousseau trở nên nổi tiếng: “Con người sinh ra tự do, nhưng ở đâu họ cũng bị xiềng xích. Một kẻ tự cho mình là chủ của những kẻ khác, nhưng chính mình còn bị nô lệ hơn”[4]. Thực ra đây cũng là luận điểm mà Rousseau có ý phê phán mô hình trước đó của Hobbes khi Hobbes cho rằng, nhân dân phải hy sinh tự do của mình cho một kẻ cai trị duy nhất. Như vậy, theo Rousseau, do bản tính tự nhiên mà tất cả mọi người sinh ra đều tự do, ngay cả khi một kẻ có thể từ bỏ tự do của mình thì hắn ta cũng không thể đem cho tự do của con cái hắn. Bởi vì, chúng được sinh ra là những con người tự do. Tự do của chúng thuộc về chúng, không ai có quyền xâm phạm đến. Chúng ta thấy, Rousseau đặc biệt đề cao vai trò của tự do, coi đây là phẩm giá người, khi ông khẳng định: “Từ bỏ quyền tự do là từ bỏ làm người, từ bỏ các quyền của nhân loại, và cả những bổn phận của mình”[5].

Bước chuyển từ trạng thái tự nhiên sang trạng thái dân sự, theo Rousseau là tất yếu và tính tất yếu này đã được ông luận giải trong một số công trình trước đó, nhưng đặc biệt rõ ràng trong Khế ước xã hội. Ông cho rằng, toàn bộ vấn đề là ở chỗ: “Tìm ra một hình thức kết hợp để bảo vệ và che chở bản thân và tài sản của mỗi thành viên bằng tất cả sức mạnh chung, đồng thời, mỗi cá nhân, trong khi kết hợp bản thân mình với mọi người vẫn có thể chỉ nghe lời chính mình và vẫn được tự do như trước”[6]. Rousseau khẳng định rằng, lời giải của vấn đề căn bản này nằm ngay trong khế ước xã hội.

Từ trạng thái tự nhiên sang trạng thái dân sự, con người trải qua một chuyển biến lớn lao: Trong hành xử, công lý thay cho bản năng đã đem đến cho con người giá trị đạo đức chưa từng có. Thay vì một lối sống tạm thời và không ổn định, họ có một đời sống tốt hơn và ổn định hơn; thay vì sự độc lập đối với thiên nhiên, họ có được sự tự do; thay vì làm hại người khác họ có được sự an toàn cho chính mình; và thay vì một sức mạnh mà kẻ khác có thể đánh đổ, họ được một quyền mà sự kết hợp xã hội làm cho trở nên vô địch[7].

Như vậy, cái mà con người mất đi vì khế ước xã hội là tự do thiên nhiên và quyền vô giới hạn trong những việc anh ta cố làm và làm cho bằng được; nhưng điều anh ta nhận được là tự do trong văn minh và quyền sở hữu những gì anh ta có. Do vậy, theo Rousseau, ở đây chúng ta cần phân biệt rõ ràng giữa tự do thiên nhiên và tự do dân sự. Ông chỉ rõ: “Để tránh sai lầm trong sự chọn lựa giữa cái này và cái kia, ta phải phân biệt rõ giữa tự do thiên nhiên (chỉ ràng buộc bởi sức mạnh cá nhân) và tự do trong văn minh (được giới hạn bởi nguyện vọng chung), giữa sự chiếm hữu (hệ quả của sức mạnh hay là quyền của kẻ chiếm lĩnh đầu tiên) và tài sản (căn cứ vào văn tự pháp lý)”[8]. Không chỉ thế, ông còn nhấn mạnh rằng: trong tình trạng văn minh, con người còn có được thêm tự do luân lý, mà chỉ có nó mới biến con người thành chủ nhân đích thực của chính mình.

Tự do và bình đẳng là “điều tốt nhất cho tất cả mọi người” và đồng thời chúng còn là mục tiêu của mọi hệ thống luật pháp. Chính vì vậy, tự do trong quan niệm của Rousseau là không thể tách rời khỏi bình đẳng, bởi lẽ, bình đẳng là tiền đề của tự do, không có nó thì sự tự do không thể tồn tại được. Bàn về “bình đẳng”, Rousseau giải thích: “… ta không nên hiểu bình đẳng nghĩa là ai cũng có quyền thế và giàu có bằng nhau một cách tuyệt đối; nhưng phải hiểu là [kẻ có] quyền lực không được dùng để gây ra bạo lực và chỉ được sử dụng trong khuôn khổ luật pháp và thẩm quyền; còn về sự giàu có thì không công dân nào có thể giàu có đến mức có thể mua kẻ khác và không ai nghèo đến nỗi phải tự bán mình”[9]. Điều này có nghĩa là người giàu phải sử dụng tiền bạc và địa vị một cách có chừng mực và người nghèo phải biết giới hạn sự tham lam và ham muốn của mình.

Rousseau cũng hình dung được rằng, cái quyền bình đẳng như trên có vẻ như một ảo tưởng chứ không thể nào có được trong hiện thực. Vì lí do đó, ông đã phân định giữa hai bình diện: bình đẳng về pháp lý và bình đẳng thực tế. Bình đẳng pháp lý chính là sự thừa nhận: trên cơ sở của khế ước xã hội, mọi công dân đều bình đẳng về nguyên tắc. Còn bình đẳng trên thực tế tuy không có được ý nghĩa tuyệt đối, nhưng lại hết sức cần thiết để duy trì quyền tự do. Và như vậy, “thay vì hủy bỏ sự bất bình đẳng tự nhiên thì trái lại, khế ước căn bản thay thế sự bất bình đẳng trên hình thức, một sự bất bình đẳng mà thiên nhiên có thể đã tạo ra giữa người với người bằng một sự bình đẳng hợp pháp có tính đạo đức”[10].

Để làm rõ các bình diện của tự do, Roussaeu đã đề cập, phân tích rất sắc sảo tới mặt đối lập của nó là sự nô lệ. Dĩ nhiên, ông là người kiên quyết chống lại chế độ nô lệ, chống lại sự nô dịch giữa người với người. Dưới con mắt của Rousseau, ngay cả tiền và sự tham lam chạy đua làm tiền của thương mại và nghệ thuật cũng là một dạng nô lệ: “Đem tiền ra làm quà tặng thì chóng hay chầy bạn sẽ bị xiềng xích… Trong một quốc gia thật sự tự do, công dân làm tất cả mọi việc bằng tay của mình chứ không phải bằng tiền. Thay vì trả tiền để được miễn làm bổn phận của mình, họ lại trả tiền để được làm các bổn phận ấy”[11]. Nhận định của Rousseau vẫn còn nguyên giá trị thời sự và rất đáng để suy ngẫm, khi ông cảnh báo: Ngay khi nghĩa vụ công không còn là việc chính của các công dân và khi họ thích phục vụ bằng tiền hơn là bằng bản thân mình thì quốc gia ấy đã tiến gần đến chỗ điêu tàn!

Lấy ví dụ trường hợp Sparta ở Hy Lạp cổ đại để phân tích, Rousseau cho rằng, có những trường hợp đau khổ mà trong đó ta chỉ có thể bảo tồn tự do của mình bằng cách hại đến tự do của kẻ khác, và người công dân chỉ có thể hoàn toàn tự do khi kẻ nô lệ hoàn toàn bị nô lệ. Còn đối với những dân tộc thời cận đại, “tuy các bạn không có nô lệ, nhưng các bạn chính là kẻ nô lệ; các bạn dùng tự do của mình để trả giá cho tự do của các nô lệ”. Bởi lẽ, theo Rousseau, trong bất kỳ trường hợp nào, khi dân chúng chấp nhận để cho người khác đại diện cho mình thì họ không còn tự do nữa. Do vậy, Rousseau nhận xét: “Dân Anh cho mình là tự do, nhưng họ nhầm lẫn lớn; họ chỉ tự do trong khi bầu cử những nghị viên Quốc hội. Ngay cả khi các nghị viên được bầu lên, dân chúng trở thành nô lệ và không còn là gì nữa. Trong những thời gian ngắn ngủi được tự do, cách sử dụng quyền tự do ấy đáng làm cho họ mất quyền tự do đó”[12].

Tóm lại, chúng ta thấy khi bàn về “tự do”, Rousseau không thiên về luận giải ý nghĩa triết học của khái niệm ấy, mà luận giải chủ yếu từ ba phương diện: tự do tự nhiên, bẩm sinh vốn có, là cái mà người ta về sau đã phải “hy sinh” để có được tự do dân sự và tự do luân lý. Để đạt được tự do dân sự và tự do luân lý, con người phải tuân thủ ý chí chung, ý chí tối thượng. Điểm nổi bật trong quan niệm về tự do của Rousseau là tư tưởng chống lại mọi hình thức nô lệ, đồng thời khẳng định vai trò hết sức quan trọng của bình đẳng, với tư cách là điều kiện tiên quyết để có được tự do như là quyền cơ bản, bất khả xâm phạm của con người.

2. Tự do trong quan niệm của Tocqueville

Khác với Rousseau, Tocqueville sống trong thời kỳ mà các cuộc cách mạng tư sản (đặc biệt là cách mạng tư sản Pháp) đã nổ ra và nền dân trị ngày càng được phổ biến, ảnh hưởng rộng rãi trên thế giới. Trái ngược với Rousseau, ông lại cho rằng bình đẳng vẫn là không đủ để có được tự do và thậm chí, qua thực tế nước Mỹ còn cho thấy, bình đẳng còn có thể gây nguy hại tới tự do[13]. Trong tác phẩm Nền dân trị Mỹ, Tocqueville luận giải tỉ mỉ vấn đề trên và tìm cách chỉ cho chúng ta thấy con đường tránh được những tác hại của bình đẳng đối với tự do. Những quan điểm của Tocqueville vẫn còn gây nhiều tranh cãi, tranh luận sôi nổi cho đến tận ngày nay. Mặc dù vậy, với tác phẩm này, Tocqueville đã trở thành một huyền thoại được coi là người hiểu nước Mỹ hơn cả người Mỹ!

Tư tưởng của Tocqueville được đánh giá là gần với chủ nghĩa tự do, bản thân ông cũng thừa nhận điều này; nhưng điểm khác so với những người theo chủ nghĩa ấy trước hết là bởi vì khái niệm “tự do” ở ông có nguồn gốc từ tôn giáo[14]. Ngay từ những trang viết đầu tiên của tác phẩm, Tocqueville đã bàn đến tự do trong mối liên hệ với tôn giáo. Theo ông, tự do phải gắn liền với tôn giáo và do vậy, thay vì chống tôn giáo thì những người ủng hộ tự do phải quay trở về với tôn giáo và những tín đồ Kitô hữu cần phải ủng hộ chứ không được chống lại tự do. Tocqueville viết: “Tôn giáo nhìn thấy trong tự do dân sự một sự thực hành cao qúy các khả năng người… Còn tự do thì nhìn thấy ở tôn giáo một người bạn đường trong đấu tranh và chiến thắng. Tôn giáo, đó là cái nôi của tự do, đó là nguồn thiêng của các quyền. Tự do coi tôn giáo như là kẻ bảo vệ tập tục, và coi tập tục như kẻ bảo vệ luật pháp và là sự bảo chứng cho tự do được trường tồn”[15]. Tocqueville cho rằng, vào thời của ông, “những con người có tín ngưỡng thì chống lại tự do, còn những người anh em của tự do tiến công các tôn giáo”[16]. Nếu không có tôn giáo thì con người sẽ hoài nghi mọi thứ và trước hết, họ sẽ hoài nghi về chính bản thân mình và điều đó dẫn tới hệ lụy là làm tổn thương tâm hồn của con người và cuối cùng sẽ biến con người trở thành nô lệ. Xuất phát từ suy nghĩ như vậy, Tocqueville cho rằng, con người sẽ không thể chịu đựng nổi tình trạng tách thoát hoàn toàn khỏi tôn giáo cũng như không bao giờ có được tự do hoàn hảo về chính trị.

Như vậy, theo quan điểm của Tocqueville, tự do là không tách rời khỏi tôn giáo. Tuy nhiên, bên cạnh tự do và tôn giáo thì đối với ông, những chuẩn mực luân lý cũng đóng vai trò hết sức quan trọng. Đây là điểm tương đồng với tư tưởng của Rousseau và không phải ngẫu nhiên mà Tocqueville đã mô tả rất kỹ lưỡng quá trình những người di dân từ châu Âu đến Tân thế giới đã mang theo những phong tục, tập quán, chuẩn mực đạo đức của mình vào công cuộc kiến tạo nên nước Mỹ sau này.

Trong khi Rousseau luôn dựa vào một loại hình tự do căn bản duy nhất (dù đề cập tới 3 loại hình tự do), thì trái lại, Tocqueville thiên về phân biệt các loại hình tự do cá nhân và tự do xã hội khác nhau. Chẳng hạn như ông đã đề cập tới tự do công xã, theo đó công xã được phép tự lập ra những luật lệ riêng so với luật của bang và liên bang: “Xoay quanh quyền lợi riêng của cộng đồng công xã là những gắn bó chặt chẽ các quyền lợi cá nhân, các đam mê, những nghĩa vụ và quyền hành. Ngự trị trong lòng công xã là một cuộc sống về chính trị có thực, tích cực, hoàn toàn dân chủ và cộng hòa”[17].

Theo Tocqueville, trước đây đã từng thấy “có những tâm hồn hèn hạ và vụ lợi” chủ trương chế độ nô lệ, trong khi “những trái tim độc lập và quảng đại” lại đấu tranh vô vọng để cứu vớt nền tự do của con người. Ngày nay, “ta cũng thường gặp những con người bản chất cao qúy và kiêu hãnh có những quan điểm trực tiếp chống lại thị hiếu của họ, và họ tán dương tinh thần nô lệ cùng thói ti tiện mà không khi nào chịu thừa nhận các điều kiện ấy nơi chính mình”[18]. Ngược lại, có những người khác thì nói về tự do như thể họ có thể cảm nhận được những gì thánh thiện và to tát trong khái niệm đó, và họ lớn tiếng đòi hỏi cho con người những quyền mà con người lại luôn luôn không nhận ra hết giá trị. Có lẽ, đây là những kinh nghiệm thực tế mà Tocqueville đã tận mắt chứng kiến, trải nghiệm vào thời đoạn sau các cuộc cách mạng tư sản đã kết thúc ở Tây Âu.

Cũng giống như Rousseau trước đây đã yêu cầu tới sự tự chủ của nhân dân, Tocqueville nhận thấy xã hội Mỹ có sự tự chủ của nhân dân, và chỉ tạo ra sự cưỡng chế trong lĩnh vực thực hiện các bổn phận công dân, còn trong lĩnh vực cá nhân thì họ được hoàn toàn tự do. Tại Mỹ, theo nhận định của Tocqueville, “nhân dân tham gia vào việc soạn thảo các bộ luật thông qua việc lựa chọn các nhà làm luật, nhân dân áp dụng các bộ luật đó thông qua việc bầu ra những người trong bộ máy hành pháp. Ta có thể nói là nhân dân tự cai trị mình, phần dành cho công việc cai quản càng yếu và hạn hẹp thì nền hành pháp này càng cảm thấy nó từ nhân dân mà ra và tuân phục cái sức mạnh đã làm toát ra nó. Nhân dân ngự trị trên quyền lực chính trị nước Mỹ như Chúa Trời ngự trị trên vũ trụ. Nhân dân là nguyên nhân và là mục đích của mọi điều. Tất cả đều từ nhân dân mà ra và tất cả đều được tích tụ vào nhân dân”[19].Tuy nhiên, cũng giống như Rousseau, Tocqueville lo ngại về nguy cơ đối với tự do của con người trong xã hội dân chủ khi mà đa số có thể và được phép ép buộc thiểu số phải phục tùng mình.

Điểm hết sức quan trọng khi nói đến tư tưởng về tự do của Tocqueville chính là quan niệm của ông về tự do lập đoàn thể. Theo ông, bản chất của quyền tự do lập đoàn thể cũng bất hủ như quyền tự do cá nhân. Bởi theo lẽ tự nhiên thì nhân loại nói chung cũng như một dân tộc nói riêng luôn có quyền tự liên kết lại, tự liên minh với nhau. Sự liên minh này còn dẫn tới việc hình thành nên các đảng phái, đoàn thể khác nhau và do vậy, xuất hiện nhu cầu được tự do phát ngôn ý kiến. Hơn nữa, ngày nay quyền tự do lập đoàn thể trở thành một bảo đảm cần thiết chống lại nạn cường quyền của phe đa số. Tocqueville nhận định rằng, sự toàn quyền của phe đa số là một hiểm họa lớn cho các nước cộng hòa, trong đó có nước Mỹ.

Cùng với tự do phát ngôn, Tocqueville còn coi tự do báo chí và tính độc lập của báo chí là “thành tố chính yếu” và là “thành phần tạo nên tự do”. Một quốc gia muốn tự do thì có cái quyền bằng mọi giá đòi hỏi phải tôn trọng tính độc lập của báo chí. Nhưng, không thể hoàn toàn lẫn lộn một thứ tự do vô giới hạn trong việc lập đoàn thể chính trị với sự tự do viết lách. Tocqueville giải thích rằng: “Cái tự do lập hội vô giới hạn ít cần thiết hơn và lại nguy hiểm hơn quyền tự do viết lách. Một quốc gia có thể đặt những cột mốc định giới hạn ở đó mà vẫn không ngừng tự làm chủ được mình. Đôi khi quốc gia đó phải làm như vậy để tiếp tục được là một quốc gia”[20].

Qua nghiên cứu lịch sử và thực tế chính trị nước Mỹ đương thời, Tocqueville đưa ra ý kiến đáng chú ý của riêng mình: không thấy có tự do tư tưởng tại Mỹ và do vậy, cũng không có thiên tài văn chương nào. Ông buộc tội nền dân trị Mỹ về khả năng bóp nghẹt tự do tư tưởng của nó, một khi phe đa số đạt tới quyền lực và có thể dẫn tới một tình trạng nô lệ mới. “Ở nước Mỹ, phe đa số vạch ra một vòng tròn ghê sợ quanh tinh thần và tư tưởng con người. Bên trong vạch phấn đó, người viết văn có tự do, nhưng vô phúc cho anh ta nếu anh ta định lọt ra ngoài”[21]. Để tránh hiểu lầm, Toqueville không cho rằng ở nước Mỹ chuyện bạo quyền là thường tình, mà chỉ muốn nhấn mạnh là ở đó chẳng thấy những bảo đảm nào chống lại bạo quyền và cần phải tìm nguyên nhân trong sự mềm yếu của chính quyền trong những hoàn cảnh riêng và trong tập tục hơn là trong luật pháp.

 Muốn tránh sự bạo quyền của phe đa số, theo Tocqueville, cần nhấn mạnh tới nguồn gốc tự do trong các quyền cơ bản của con người. Mặc dù vậy, ông vẫn coi trọng và ủng hộ nền dân trị vì đối với ông, các thiết chế dân chủ vẫn được coi là các phương tiện đảm bảo tự do của con người. Nói cách khác, nền dân trị có thể bóp nghẹt tự do tư tưởng, tinh thần nhưng đồng thời lại bao chứa trong nó những loại hình tự do khác, đóng vai trò là thiết chế bảo đảm quyền tự do, quyền cơ bản của con người. Đó là tư tưởng chủ đạo toát lên trong tác phẩm của Tocqueville.

Cuối cùng, Tocqueville nhận thấy chủ nghĩa cá nhân chính là một nguy cơ, thảm họa có thể dẫn tới làm mất tự do. Nhưng ở đây, ông phân biệt chủ nghĩa cá nhân mới xuất hiện vào thời của ông với tính vị kỷ vốn đã có từ lâu. Theo ông, chủ nghĩa cá nhân “về lâu về dài nó đả kích và tiêu hủy mọi đức hạnh khác để cuối cùng được nhập thân vào với tính vị kỷ”[22]. Chủ nghĩa cá nhân có nguồn gốc dân chủ và nó có nguy cơ nở rộ chừng nào mà các điều kiện được cào bằng với nhau. Dưới nhãn quan của Tocqueville thì “người Mỹ dùng sự tự do để chiến đấu chống lại chủ nghĩa cá nhân do sự bình đẳng tạo ra, và họ đã đánh bại được chủ nghĩa cá nhân đó”[23]. Họ đã biết vượt qua chủ nghĩa cá nhân bằng cách tạo ra các thiết chế tự do như đã đề cập ở trên (tự do lập đoàn thể, tự do phát ngôn, tự do báo chí,…) và không chỉ có vậy, mà còn thông qua việc làm cho “các công dân phải tự quản lý bằng các công việc nhỏ”, khiến cho họ ngày càng quan tâm đến lợi ích công cộng và đến những người xung quanh mình. Tocqueville nhận thấy: “Những quyền tự do của địa phương là những thứ khiến cho đại đa số công dân sử dụng để có được tình cảm của láng giềng và người thân thuộc, cũng là phương tiện để không ngừng gắn bó mọi con người với nhau và buộc họ phải tương thân tương trợ, bất kể những bản năng vẫn chia tách họ”[24]. Như vậy, các thiết chế tự do cũng làm cho con người luôn cảm thấy mình sống trong một cộng đồng nhất định và cần phải hành động sao cho có trách nhiệm với cộng đồng đó, phải sống có ích vì phúc lợi chung.

Kết luận

Tự do luôn là khát vọng cháy bỏng của con người, của xã hội loài người và có thể khẳng định rằng, những suy ngẫm về nó còn được coi là tiêu chí cơ bản đánh giá sự tiến bộ, sự trưởng thành của một cá thể người và của cả một dân tộc. Ngay từ thời cổ đại, tự do đã là chủ đề suy tư của “các nhà thông thái” và trong suốt chiều dài lịch sử, kể cả trong thế kỷ XX, nó vẫn là nguồn cảm hứng cho vô số trào lưu triết học phương Tây hiện đại. Và cũng không phải ngẫu nhiên mà tự do luôn gắn với phẩm giá người, được coi là một trong những quyền cơ bản của con người, và đấu tranh cho tự do chính là đấu tranh cho quyền được làm người của các cá nhân, giai cấp bị trị trong xã hội có giai cấp.

Là những nhà tư tưởng lớn, cả Rousseau và Tocqueville đều suy ngẫm về tự do như là quyền cơ bản của con người và những tư tưởng của các ông đều không tách khỏi dòng chảy truyền thống của triết học phương Tây về tự do. Giống như Rousseau, về cơ bản Tocqueville cũng xuất phát từ 3 loại hình tự do, nhưng đã phân biệt và đề cập một cách cụ thể hơn so với Rousseau tới những loại hình tự do cá nhân và xã hội, với tư cách là những thiết chế tự do thể hiện những quyền cơ bản của con người. Điểm khác biệt lớn của Tocqueville so với Rousseau chính là quan niệm tự do có nguồn gốc tôn giáo. Mặc dù cả hai ông đều lên tiếng mạnh mẽ chống lại chế độ nô lệ dưới bất kỳ hình thức nào; song, trái với Rousseau, Tocqueville lại lưu ý và chú trọng nhiều đến nguy cơ con người bị nô dịch bởi “ý chí chung” và do vậy, có thể sẽ đánh mất tự do của mình. Đó là nguy cơ mà nền dân trị có thể tạo ra, bộc lộ thông qua các phân tích, luận giải sắc sảo từ thực tế chính trị nước Mỹ của Tocqueville. Tuy nhiên, cuối cùng thì Tocqueville vẫn đi đến kết luận: chính những thiết chế tự do lại đóng vai trò là phương tiện bảo đảm tự do cho con người, cho việc thực hiện các quyền cơ bản của con người.

Trong khi Rousseau cho rằng, bình đẳng là tiền đề của tự do và có thể bảo vệ được tự do thì Tocqueville lại thiên về quan điểm: bình đẳng có thể làm tổn hại tới tự do và do vậy, cần phải có những thiết chế tự do để bảo vệ chính tự do. Những thiết chế tự do này biểu hiện và liên quan chặt chẽ tới các quyền cơ bản của con người. Như vậy, rõ ràng là Tocqueville đã kế thừa một số tư tưởng cơ bản của Rousseau về tự do, nhưng ông đã sớm nhận thấy rõ nguy cơ chuyên quyền, độc đoán, lạm dụng quyền lực của phe đa số trong nền dân trị Mỹ - điều mà trước đây, Rousseaeu đã không thể nhận thấy.

Nghiên cứu những tư tưởng của hai nhà lý luận này và quan niệm về tự do của các ông là một công việc không hề đơn giản. Chắt lọc, hệ thống hóa và đặc biệt là so sánh quan niệm của hai ông về tự do lại càng khó khăn hơn gấp bội, cũng một phần bởi vì các ông không đưa ra một định nghĩa thực sự rõ ràng về khái niệm “tự do”. Chính vì vậy, trong bài viết này, tác giả không có tham vọng đề cập được hết những tư tưởng của các ông, mà chỉ bước đầu luận giải những điểm chủ yếu, cơ bản và cố gắng chỉ ra những điểm tương đồng và dị biệt trong tư tưởng của hai nhà triết học chính trị người Pháp vĩ đại này.

Hiện nay, đất nước ta đang tiến hành công cuộc hiện đại hóa đất nước và trong quá trình toàn cầu hóa, tiếp biến văn hóa toàn cầu đang diễn ra mạnh mẽ cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, thì tất yếu chúng ta sẽ phải tiếp thu, kế thừa một cách có phê phán, có nguyên tắc những thành tựu, những giá trị của văn hóa tinh thần phương Tây, trong đó có những tư tưởng triết học về tự do như là quyền cơ bản của con người để hướng đến mục tiêu chung, lâu dài là “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” như Đảng và Nhà nước đã đề ra.  

Tài liệu tham khảo

  1. Alexis de Tocqueville (2014), Nền dân trị Mỹ, bản dịch của Phạm Toàn, Nxb. Tri thức, Hà Nội.
  2. Carl J. Burkhardt (1985), Về tác phẩm Nền dân trị Mỹ, Nxb. Reclam, Stuttgart, (tiếng Đức).
  3. Jean -Jacques Rousseau (2014), Khế ước xã hội, bản dịch của GS. Dương Văn Hóa, Nxb. Thế giới, Hà Nội.
  4. Tobias Remschel (2013), Alexis de Tocqueville: Về nền dân trị Mỹ - Mối quan hệ giữa tự do và bình đẳng và chế độ chuyên chế hiện đại, Nxb. Grin, Noderstedt (tiếng Đức).


[1] Xem: Jean -Jacques Rousseau (2014), Khế ước xã hội, bản dịch của GS. Dương Văn Hóa, Nxb. Thế giới, Hà Nội.

[2] Xem: Alexis de Tocqueville (2014), Nền dân trị Mỹ, bản dịch của Phạm Toàn, Nxb. Tri thức, Hà Nội.

[3] Sđd, Tr. 52.

[4] Sđd, Tr. 29.

[5] Sđd, Tr. 36.

[6] Sđd, Tr.44.

[7] Sđd, Tr. 70.

[8] Sđd, Tr. 52.

[9] Sđd, Tr. 98.

[10]Sđd, Tr. 56.

[11] Sđd, Tr. 164.

[12] Sđd, Tr. 166.

[13] Xem Tobias Remschel (2013), Alexis de Tocqueville: Về nền dân trị Mỹ - Mối quan hệ giữa tự do và bình đẳng và chế độ chuyên chế hiện đại, Nxb. Grin, Noderstedt, Tr. 6 (tiếng Đức).

[14] Xem Carl J. Burkhardt (1985), “Lời giới thiệu” về tác phẩm Nền dân trị Mỹ, Nxb. Reclam, Stuttgart, Tr. 5 (tiếng Đức).

[15] Alexis de Tocqueville, Sđd, Tr. 91.

[16] Sđd, Tr. 58.

[17] Sđd, Tr. 88.

[18] Alexis de Tocqueville, Sđd, Tr. 57.

[19] Sđd, Tr. 113.

[20] Sđd, Tr. 247.

[21] Sđd, Tr. 310.

[22] Sđd, Tr. 565.

[23] Sđd, Tr. 571.

[24] Sđd, Tr. 572.

Nguồn: http://ihs.vass.gov.vn

Lên trên

Cùng chủ đề

  • Chiến tranh kinh tế Nga – Phương Tây trong lịch sử

  • Trần Văn Hải, Trần Hải Minh. Tính nhân văn của học thuyết Mác và ý nghĩa thời đại của nó

  • Tống Đức Thảo, Trần Mai Hùng. Chủ nghĩa cá nhân trong tư tưởng phương Tây cận, hiện đại và những ảnh hưởng tới đời sống xã hội

  • Sai lầm lịch sử của Châu Âu đối với Đế chế Ottoman

  • 5 đế chế hùng mạnh nhất trong lịch sử nhân loại

Thông báo

Tư vấn khoa học và kỹ năng nghiên cứu…

Tủ sách văn hoá học Sài Gòn

  • Thư viện ảnh
  • Thư viện video
  • Tủ sách VHH

Phóng sự ảnh: Toạ đàm khoa học: Xây dựng…

Hình ảnh văn hóa Tết xưa (sưu tầm)

Phóng sự ảnh: Lễ hội truyền thống VHH 2011

Phóng sự ảnh Lễ hội truyền thống VHH 2010

Thành phố Sankt-Peterburg, Nga

Bộ ảnh: Việt Nam quê hương tôi 2

Tranh Bùi Xuân Phái

Bộ tem tượng Phật chùa Tây Phương

Bộ ảnh: Đá cổ Sapa

Bộ ảnh: Phong cảnh thiên nhiên

Bộ ảnh: Việt Nam quê hương tôi

"Biển, đảo Việt Nam - Nguồn cội tự bao đời":…

Con dê trong văn hóa và văn hóa Việt Nam

Văn hóa Tết ở Tp.HCM (Chương trình truyền…

Văn hóa Tp. HCM: Một năm nhìn lại và động…

Phong tục Tết cổ truyền của người Nam Bộ

Bánh tét và Tết phương Nam

Con ngựa trong văn hóa và văn hóa Việt Nam

Điện Biên Phủ - Cuộc chiến giữa hổ và voi

Nhìn lại toàn cảnh thế giới từ 1911-2011…

Tọa độ chết - một bộ phim Xô-Việt xúc động…

Video: Lễ hội dân gian Việt Nam

Văn hoá Việt từ phong tục chúc Tết

Văn hoá Tết Việt qua video

Tết ông Táo từ góc nhìn văn hoá học

“Nếp nhà Hà Nội” trên “Nhịp cầu vàng”: tòa…

Văn hóa Thăng Long - Hà Nội qua video: từ…

Hướng về 1000 năm TL-HN: Xem phim “Tử Cấm…

Hướng về 1000 năm TL-HN: Người Thăng Long…

Phim "Chuyện tử tế" – tập 2 (?!) của “Hà…

Default Image

Hướng về 1000 năm TL-HN: "Chuyện tử tế" -…

Sách “Di sản Ấn Độ trong văn hóa Việt Nam”

Nguyễn Văn Bốn. Tín ngưỡng thờ Mẫu của người…

Sách: Quản lý và khai thác di sản văn hóa…

Hồ Sĩ Quý. Con người và phát triển con người

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 3

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 2

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 1

Hồ Sỹ Quý. Tiến bộ xã hội: một số vấn đề về…

Hồ Sỹ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á (Phụ…

Hồ Sỹ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á…

Hồ Sĩ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á…

Sách: Chuyên đề Văn hoá học

Sách: Một số vấn đề về hệ giá trị Việt Nam…

FitzGerald. Sự bành trướng của Trung Hoa…

Hữu Đạt. Đặc trưng ngôn ngữ và văn hoá giao…

Sống chụ son sao (Tiễn dặn người yêu)

Gs. Mai Ngọc Chừ. Số phận & Tâm linh

Trần Văn Cơ. Những khái niệm ngôn ngữ học…

Đoàn Văn Chúc. Văn hóa học (Phần 3 - hết)

Đoàn Văn Chúc. Văn hóa học (Phần 2)

Các nhà VHH nổi tiếng

Julian Haynes Steward

Wen Yi'duo (Văn Nhất Đa)

Leslie Alvin White

Huang Wen'shan (Hoàng Văn Sơn)

Radcliff-Brown, Alfred Reginald

Sapir, Edward

Margaret Mead

Thăm dò ý kiến

Bạn thích cuốn "Cơ sở văn hoá VN" của tác giả nào nhất?

Chu Xuân Diên - 4.8%
Lê Văn Chưởng - 0.9%
Trần Diễm Thuý - 1%
Trần Ngọc Thêm - 37.4%
Trần Quốc Vượng - 53%
The voting for this poll has ended on: 26 06, 2020

Tổng mục lục website

tong muc luc

Tủ sách VHH Sài Gòn

tu sach VHH SG

Thống kê truy cập

  • Đang online :
  • 490
  • Tổng :
  • 3 7 7 2 6 4 6 4
  • Đại học quốc gia TPHCM
  • Đại học KHXH&NV
  • Tran Ngoc Them
  • T.c Văn hóa-Nghệ thuật
  • Tc VHDG
  • Viện NCCN
  • Khoa Văn hóa học
  • Khoa Đông phương học
  • Phòng QLKH
  • Khoa Việt Nam học
  • Khoa Hàn Quốc học
  • BM Nhật Bản học
  • Khoa Văn học - Ngôn ngữ
  • Khoa triết học
  • Khoa Quan hệ quốc tế
  • Khoa Xã hội học
  • Bảo tàng Lịch sử - Văn hóa
  • viettems.com
  • myfaifo.com
Previous Next Play Pause

vanhoahoc.vn (các tên miền phụ: vanhoahoc.edu.vn ; vanhoahoc.net)
© Copyright 2007-2015. Bản quyền thuộc Trung tâm Văn hóa học Lý luận và Ứng dụng, Trường Đại học KHXH & NV - ĐHQG Tp. HCM
ĐT (028) 39104078; Email: ttvanhoahoc@hcmussh.edu.vn; ttvanhoahoc@gmail.com. Giấy phép: số 526/GP-BC, do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 27-11-2007
Ghi rõ nguồn vanhoahoc.vn khi phát hành lại các thông tin từ website này.

Website được phát triển bởi Nhà đăng ký tên miền chính thức Việt Nam trực thuộc Trung Tâm Internet VNNIC.

VH Phương Tây: Những vấn đề chung