logo

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
    • Thư ngỏ
    • Khái quát về Trung tâm
    • Nhân lực Trung tâm
      • Thành viên Trung tâm
      • Cộng tác viên
    • Giới thiệu Khoa Văn hóa học
      • Khái quát về Khoa
      • Nhân lực của Khoa
  • Tin tức
    • Tin nhà (Trung tâm)
    • Tin ngành
    • Tin liên quan
  • Đào tạo - Huấn luyện
    • Các chương trình
    • Tổ chức và Hiệu quả
    • Đào tạo ở Khoa VHH
      • Chương trình đào tạo
      • Kết quả đào tạo
  • Nghiên cứu
    • Lý luận văn hóa học
      • LLVHH: Những vấn đề chung
      • VHH: Phương pháp nghiên cứu
      • VHH: Các trường phái - trào lưu
      • Loại hình và phổ quát văn hóa
      • Các bình diện của văn hóa
      • Văn hóa học so sánh
      • Vũ trụ quan phương Đông
      • Văn hóa và phát triển
      • VHH và các khoa học giáp ranh
    • Văn hóa Việt Nam
      • VHVN: Những vấn đề chung
      • Văn hóa cổ-trung đại ở Viêt Nam
      • Văn hóa các dân tộc thiểu số
      • Văn hóa Nam Bộ
      • Văn hóa nhận thức
      • Văn hóa tổ chức đời sống tập thể
      • Văn hóa tổ chức đời sống cá nhân
      • Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên
      • Văn hóa ứng xử với môi trường xã hội
    • Văn hóa thế giới
      • VH Phương Đông: Những vấn đề chung
      • VH Phương Tây: Những vấn đề chung
      • Quan hệ văn hóa Đông - Tây
      • Văn hóa Trung Hoa và Đông Bắc Á
      • Văn hóa Đông Nam Á
      • Văn hóa Nam Á và Tây Nam Á
      • Văn hóa châu Âu
      • Văn hóa châu Mỹ
      • Văn hóa châu Phi và châu Úc
    • Văn hóa học ứng dụng
      • VHƯD: Những vấn đề chung
      • VHH nghệ thuật
      • Văn hóa đại chúng
      • Văn hóa giao tiếp
      • Văn hóa du lịch
      • Văn hóa đô thị
      • Văn hóa kinh tế
      • Văn hóa quản trị
      • Văn hóa giáo dục - khoa học
    • Tài liệu phổ cập VHH
      • Văn hóa Việt Nam
      • Văn hóa thế giới
      • VHH ứng dụng
    • Tài liệu tiếng nước ngoài
      • Theory of Culturology
      • Vietnamese Culture
      • Applied Culturology
      • Other Cultures
      • 中文
      • Pусский язык
    • Thư Viện Số (Sách - Ảnh - Video)
      • Tủ sách Văn hoá học
      • Thư viện ảnh
      • Thư viện video
    • Các nhà văn hóa học nổi tiếng
  • Tiện ích
    • Dịch vụ Văn hóa học
    • Dịch vụ ngoài VHH
    • Trợ giúp vi tính
    • Từ điển Văn hóa học
    • Thư viện TT và Khoa
    • Tổng mục lục website
    • Tủ sách VHH Sài Gòn
    • Giải đáp thắc mắc
  • Thư giãn VHH
    • Văn chương Việt Nam
    • Văn chương nước ngoài
    • Nghệ thuật Việt Nam
    • Nghệ thuật thế giới
    • Hình ảnh vui
    • Video vui
  • Diễn đàn
  • Liên hệ
  • Trang chủ
  • Nghiên cứu
  • Văn hóa Việt Nam
  • Văn hóa Nam Bộ
Saturday, 15 September 2012 14:05

Trương Thị Lam Hà. Văn hoá ứng xử với môi trường tự nhiên của người Việt miền Tây Nam bộ thong qua không gian cư trú

Người post bài:  Nguyễn Thị Thúy Vy

Additional Info

  • Tiêu đề:

    VĂN HÓA ỨNG XỬ VỚI MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN
    CỦA NGƯỜI VIỆT MIỀN TÂY NAM BỘ
    THÔNG QUA KHÔNG GIAN CƯ TRÚ

  • Tác giả:

    ThS. Trương Thị Lam Hà

  • Chức danh:

    (Khoa Văn hóa học,
    Trường ĐHKHXH và NV, ĐHQG-HCM)

Trương Thị Lam Hà. Văn hoá ứng xử với môi trường tự nhiên của người Việt miền Tây Nam bộ thong qua không gian cư trú

1. Môi trường tự nhiên và không gian cư trú người Việt Tây Nam Bộ

1.1. Điều kiện tự nhiên Tây Nam Bộ

Tây Nam Bộ là vùng đất đặc trưng bởi khí hậu mát mẻ, dễ chịu cùng nguồn phù sa quanh năm bồi đắp. Thiên nhiên ưu đãi và mạng lưới sông rạch chằng chịt là điều kiện tự nhiên tiêu biểu mà những ai nghiên cứu vùng đất này không thể không nhắc tới. Ở Tây Nam Bộ, ngoài hệ thống sông ngòi tự nhiên còn có vô số các con kênh đào đan ngang xẻ dọc khiến cho vùng này mang đậm dấu ấn môi trường sông nước hơn cả. Và cũng chính lượng phù sa bồi đắp dọc bờ sông và các con kênh đào đã quyết định quá trình tụ cư của người dân. Bên cạnh đó, Tây Nam Bộ rất ít khi chịu ảnh hưởng của gió bão và ít biến động về thời tiết. Nơi đây thời tiết khá ổn định và ôn hòa, nóng ấm quanh năm. Còn về lũ lụt, thường, lũ ở Tây Nam Bộ thuộc loại “lũ hiền”, chính vì thế người dân nơi đây vẫn quen gọi đó là “mùa nước nổi”: nước lên rất chậm và tốc độ chảy không cao. Những điều kiện tự nhiên tiêu biểu ấy đã góp phần không nhỏ chi phối mạnh mẽ và sâu sắc đến văn hóa cư trú của vùng đất này.

1.2. Mối quan hệ giữa điều kiện tự nhiên và việc tổ chức không gian cư trú người Việt TNB

Môi trường tự nhiên Tây Nam Bộ, như trên đã nói, có ảnh hưởng không nhỏ đến việc tổ chức không gian cư trú của cư dân. Trong quá trình định cư, việc tổ chức không gian cư trú đóng một vai trò hết sức quan trọng đối với cuộc sống con người. Không gian cư trú không chỉ đơn giản là ngôi nhà, mà còn hơn thế nữa, là cả một khoảng không gian bao la bao bọc xung quanh ngôi nhà đó. Rõ ràng, con người không thể bó hẹp đời sống trong khuôn viên ngôi nhà mà nhiều sinh hoạt của họ còn được diễn ra thường xuyên trên các không gian cộng đồng [Nguyễn Đức Thiềm 2000: 48]. Như vậy, không gian cư trú của con người đã trải dài từ ngôi nhà (không gian cư trú của một gia đình) đến làng xóm (không gian cư trú của cộng đồng). Ở mức độ tương đối, “tạm coi đồng ruộng mênh mông, không phải là nơi cư trú, là không gian tự nhiên, ít yếu tố văn hóa, đó là không gian thứ nhất. Tiếp, vào tới bìa làng, đó là không gian thứ hai, hòa trộn giữa môi trường tự nhiên và văn hóa. Không gian thứ ba là vào trong làng, không còn đồng ruộng, mà mang đậm tính văn hóa. Vào trong nhà là không gian văn hóa đậm đặc” [Trần Lâm Biền 2000: 365].

Ở Tây Nam Bộ, lối cư trú đề cao sự hòa hợp với thiên nhiên, đề cao tính cộng đồng luôn được coi trọng. Không gian cư trú truyền thống Tây Nam Bộ bao giờ cũng gắn liền với môi trường thiên nhiên. Con người đã đối phó và tận dụng thiên nhiên qua các giải pháp xây dựng và tổ chức không gian trong nhà, ngoài nhà. Thiên nhiên vừa đem lại cho con người những ưu đãi lớn lao, mặt khác cũng đem lại không ít tai họa. Chính bởi tính hai mặt của thiên nhiên nên việc xây dựng nhà ở và tổ chức không gian cư trú mới phải cần có những biện pháp ứng xử hợp lý với thiên nhiên.

2. Những đặc trưng cơ bản trong văn hóa ứng xử với tự nhiên của người Việt TNB thông qua không gian cư trú

2.1. Tính hài hòa

Hài hòa là một triết lý sống mang tính truyền thống của người Việt. Thực chất của tính hài hòa chính là mong muốn đạt tới sự cân bằng giữa con người với con người, giữa con người với môi trường thiên nhiên và giữa con người với môi trường xã hội. Tính hài hòa là tiêu chí quan trọng khi con người muốn xây dựng cho mình một không gian cư trú lý tưởng. Đối với không gian kiến trúc, tính hài hòa thể hiện ở việc sắp xếp các công trình chính và công trình phụ sao cho thật gắn kết nhưng vẫn không chồng chéo nhau, và riêng với từng công trình cũng phải đảm bảo sự cân xứng, hợp lý trong kết cấu. Đối với không gian cư trú, tính hài hòa lại thể hiện ở sự giao thoa, gắn bó giữa ngôi nhà với môi trường tự nhiên xung quanh, sao cho kiến trúc ngôi nhà lúc ấy phải thực sự là một “thiên nhiên thứ hai” dưới bàn tay sáng tạo của con người. Có thể nói, kiến trúc nhà ở truyền thống Việt Nam nói chung và Tây Nam Bộ nói riêng luôn mang trong mình sự hài hòa với môi trường thiên nhiên theo hướng “nhất thể vũ trụ”, “âm dương quân bình” và “thiên nhiên hợp nhất”

Môi trường tự nhiên là yếu tố quan trọng, từ đó con người hình thành nên môi trường sống của bản thân. Môi trường tự nhiên có quan hệ gắn bó, mật thiết lâu đời với con người Việt Nam nói chung và con người Tây Nam Bộ nói riêng. Căn nhà luôn có xu hướng ẩn mình vào trong thiên nhiên và lấy thiên nhiên làm tiêu chuẩn. Những ngôi nhà, những xóm làng trải dài, lan tỏa và hòa tan cùng với thiên nhiên, con người qua hình ảnh sông nước, vườn tược, ruộng đồng tiếp nối. Ở đó, ngôi nhà chỉ là một chấm nhỏ trong khoảng không gian thiên nhiên bao la vô tận ấy.

Thiên nhiên có tác dụng chi phối đến kiến trúc nhà ở và không gian cư trú thông qua bàn tay sáng tạo của con người. Lối kiến trúc mộc mạc với những ngôi nhà truyền thống thiên về chất liệu tự nhiên đã thể hiện sự giao hòa giữa thiên nhiên và con người. Kiến trúc ấy cho chúng ta thấy sự ôn hòa của thiên nhiên vùng này, và người dân nơi đây đã tận dụng cái ôn hòa ấy để sáng tạo cho mình không gian cư trú hợp lý. Như vậy, trong mối quan hệ với thiên nhiên, con người luôn đóng vai trò chủ động, làm trung gian giữa thiên nhiên và kiến trúc.

Miền Tây Nam Bộ đất trời rộng mở. Trong quá trình khai phá vùng đất mới hoang sơ, cư dân nơi đây đã tạo cho mình một môi trường sống cân bằng với sinh thái. Trong khuôn viên nhà ở truyền thống của mỗi gia đình bao gồm một chuỗi không gian: nhà chính, nhà phụ, vườn cây, ao cá, chỗ chăn nuôi gia cầm, gia súc, sân phơi... trong toàn bộ không gian rộng lớn. Sự hòa nhịp với thiên nhiên được thể hiện sống động qua không gian hở, không gian nửa kín nửa hở và không gian khép kín đa dạng. Trong cái không gian cư trú truyền thống ấy, thế mạnh tối đa trong việc giải quyết quyết mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên, giữa con người với con người trong các không gian đó đã được phát huy ở mức độ cao nhất. Thiên nhiên lan tỏa từ sân (không gian hở), đến hàng ba (không gian nửa kín nửa hở) rồi vào nhà (không gian kín); và từ đó, con người cũng hòa quyện với thiên nhiên qua một chu trình ngược lại, từ nhà, ra hàng ba rồi đến sân.

Từ tổ chức không gian đến kết cấu chất liệu đơn giản, hợp lý, hài hòa với đặc điểm sinh thái môi trường, nhà ở truyền thống Tây Nam Bộ đã đạt trình độ cao của nguyên tắc xây dựng điển hình “tối thiểu là tối đa”... Không gian được tận dụng linh hoạt, đa năng, biến hóa phong phú, hòa nhập dễ dàng với thiên nhiên môi trường. Những ngôi nhà mái lá vùng này đơn giản đến mức “tối thiểu” nhưng lại đạt được sự hòa hợp “tối đa” với môi trường thiên nhiên. Vùng đất ruộng đồng thẳng cánh cò bay, sông rạch chằng chịt, cây xanh hút mắt… Và ở đó, ngôi nhà chỉ là một chấm nhỏ giữa thiên nhiên, mất hút vào giữa cây cỏ sông nước. “Vài vệt nước mờ xanh với mặt nước bao la loang loáng, mặt nước bao la loang loáng với vài vệt mờ xanh… Hầu như chẳng có gì hết mà lại có đủ tất cả” [Đoàn Giỏi 2005: 656].

Con người Tây Nam Bộ chịu sự tác động của tự nhiên trong tư thế chủ động và tôn trọng tự nhiên. Chính bởi tôn trọng đặc ân mà trời đất ban tặng riêng cho vùng đất này, nên thế ứng xử của con người nơi đây bao giờ cũng hài hòa với tự nhiên: vật liệu xây dựng nhà là vật liệu tự nhiên, môi trường xung quanh bao bọc bởi cây cỏ, cuộc sống giao hòa, gắn bó mật thiết với thiên nhiên.

Ngôi nhà là chất keo gắn kết tâm hồn con người với nhau và cũng là gạch nối giữa con người với thiên nhiên. “Từ Hồng Ngự xuôi dòng Tiền Giang lần lượt hiện ra những bụi tre rậm rạp, những vườn gòn lưa thưa, những cồn cát đìu hiu, những ruộng dâu xanh mướt, những hàng cau nghiêm trang sau những hàng dừa yểu điệu, bất giác ta ngâm lên những vần thơ của Thôi Hạo trong bài Hoàng Hạc Lâu và của Huy Cận trong bài Tràng Giang” [Nguyễn Hiến Lê 2004: 33-34]. 

2.2. Tính linh hoạt

Văn hóa Việt Nam có tính linh hoạt. Vùng văn hóa Nam Bộ nằm trong nền văn hóa chung của cả nước nên cũng mang trong mình tính linh hoạt đặc trưng. Không những thế, ở Nam Bộ, tính linh hoạt ấy lại càng phát huy sức mạnh trong thời gian dài khẩn hoang. Trước những khó khăn, thử thách của một vùng đất còn xa lạ, người dân nơi đây đã từng bước tìm cách thích ứng với điều kiện thiên nhiên và xã hội bằng nhiều phương cách khác nhau.

Khi xây dựng cho mình một nền văn hóa mang bản sắc riêng, người Việt Nam từ xưa đến nay luôn lựa chọn cách thức hòa hợp với thiên nhiên hơn là chế ngự thiên nhiên. Quá trình định cư của cư dân Tây Nam Bộ là quá trình thích nghi với điều kiện môi trường sông nước. Trong quá trình định cư đó, con người phải tìm cách sống chung một cách tốt nhất với môi trường sông nướcđặc trưng, từ đó mà hình thành các kiểu cư trúcùng với kiểu nhà đa dạng. Nhìn chung, con người khi đến vùng đất này trước tiên là nhìn thiên nhiên, từ đó hiểu được thiên nhiên và tìm ra cách sống phù hợp với thiên nhiên nhất. Các loại hình cư trú là hệ quả của việc thích ứng với điều kiện địa lý, thiên nhiên tại chỗ. Trong mỗi loại hình cư trú này tự bản thân nó đã quyết định những đặc điểm sinh hoạt đời sống khác nhau. Tất cả đều nhằm phục vụ cho nhu cầu ổn định cuộc sống và thích ứng linh hoạt với thiên nhiên. Từ cách thức lựa chọn các kiểu cư trú khác nhau sẽ cho ra đời các kiểu nhà khác nhau. Nhà nằm ven sông, ven lộ cao, nhà trên gò, giồng… sẽ tự tìm cách thích ứng một cách tự nhiên nhất với điều kiện địa hình của riêng mình. Ngoài ra, kiểu nhà cũng phải biến hóa linh hoạt để đối phó với các tình trạng ngập lụt khác nhau. Như vậy, ngoài việc lựa chọn những nơi cao ráo, tránh ngập nước để cư trú; thì ở những vùng trũng như Đồng Tháp Mười, Tứ giác Long Xuyên, tùy theo từng loại địa hình cao hay thấp, mức độ ngập lụt nông hay sâu, nước lũ chảy chậm hay yếu, rút nhanh hay rút chậm mà cư dân nơi đây sẽ xây dựng cho mình những căn nhà phù hợp nhất: nhà sàn, nhà đắp đất, nhà kê nông, nhà nâng cột v.v... Có thể thấy, những kiểu nhà khác nhau và kiểu cư trú khác nhau ấy không hoàn toàn phụ thuộc vào sở thích mà còn phải dựa vào rất nhiều điều kiện khác nữa. Những cư dân muốn gắn bó lâu dài với vùng đất này phải thật sự hiểu được môi trường xung quanh, hiểu được thế đất, hiểu được sự chuyển biến của con nước và đặc trưng của từng loại vật liệu xây dựng cũng như cái ưu, cái khuyết của các kiểu nhà ở khác nhau. Do mối quan hệ ràng buộc khá chặt với thiên nhiên như thế nên mỗi khi tìm cho mình nơi cư trú, người dân nơi này cũng phải “nhìn trước ngó sau” cẩn thận nhằm tận dụng và ứng phó một cách linh hoạt với điều kiện địa lý - tự nhiên đặc thù.

Bên cạnh việc ứng phó linh hoạt với môi trường ngập lụt, người dân nơi đây cũng có nhiều cách khắc chế môi trường nắng nóng rất hiệu quả khi xây dựng nhà cửa. Một thành công trong kiến trúc nhà ở truyền thống Việt Nam đó là việc người dân biết cách sử dụng vật liệu tự nhiên sẵn có để đối phó với khí hậu nóng bức. Khi không có những nguồn vật liệu xây dựng bền chắc thì họ có thể tận dụng tối đa những gì sẵn có trong thiên nhiên. “Sử dụng nhiều sản vật nhiệt đới do tự nhiên ưu đãi để tạo ra các vật liệu xây dựng có tính năng thông thoáng, các vật liệu thô sơ nhưng lại có cấu tạo tinh vi để chống nóng, chống nắng, chống ẩm, chống mốc một cách hữu hiệu đặc biệt” [Nguyễn Huy Côn 2004: 22].

Song song đó, không gian trong toàn bộ cấu trúc ngôi nhà cũng được đóng mở một cách hết sức linh hoạt qua hệ thống vách không cố định. Những chiếc vách này được làm bằng vật liệu tự nhiên, được cột lại bằng lạt nên có thể di dời dễ dàng để tạo khoảng trống thoáng cho ngôi nhà khi cần thiết (đám cưới hỏi, đám tiệc). Ngoài những tấm vách di động, ngôi nhà truyền thống Tây Nam Bộ còn rất linh hoạt trong việc sử dụng mành, màn che, và nhất là mái hiên để cản độ chói sáng nhưng vẫn làm cho không khí thông thoáng và chuyển động.

Hiểu rõ môi trường thiên nhiên, cư dân Tây Nam Bộ đã linh hoạt biến hóa không gian cư trú của mình khiến nó trở nên hết sức phong phú và đa dạng. Không phải ngẫu nhiên mà những ngôi nhà đơn sơ, không vững chãi ấy có thể tồn tại đến tận ngày nay sau bao mùa mưa lũ và nắng cháy. Sức sống bền bỉ của những ngôi nhà lá ấy thể hiện sự sáng tạo không ngừng nghỉ của người dân nơi đây trong việc ngày càng hoàn thiện không gian cư trú của mình trong giới hạn cho phép của thiên nhiên và hoàn cảnh kinh tế.

2.3. Tính mở

Đặc điểm văn hóa xã hội của Việt Nam cũng như Đồng bằng sông Cửu Long nổi bật là nềnvăn hóa mangtính mở với sự giao thoa của nhiều yếu tố văn hóa khác nhau. Lối kiến trúc mở (nhiều cửa, ít vách ngăn, không có hàng rào cổng ngõ…) và lối ứng xử mở (thân thiện, hiếu khách, phóng khoáng…) đã thể hiện sự linh hoạt của cư dân Tây Nam Bộ trong quan hệ gắn bó với môi trường tự nhiên và xã hội.

Trong hoàn cảnh thiên nhiên nhiệt đới nóng ẩm, “kiến trúc mở” là kiểu kiến trúc luôn được cha ông ta lựa chọn. Ngôi nhà mang kiến trúc mở kéo dài không gian, khiến cho con người có cảm giác gần gũi với thiên nhiên, gần gũi lẫn nhau. Kiến trúc mở thể hiện mối giao lưu, sự phóng khoáng của con người Việt. Đó là loại hình kiến trúc gắn bó hài hòa với cảnh quan và địa lý tự nhiên[1].

Ngôi nhà Việt truyền thống được sắp xếp trong một bối cảnh sinh hoạt chung của làng, nó vừa riêng lại vừa chung, rất độc lập mà lại có thế hòa đồng. Những bức tường ngăn cách giữa đường đi, giữa nhà này và nhà kia tạo nên thế khép kín cho mỗi gia đình, nhưng lại được mở ra trong kiểu ứng xử chung của cả cộng đồng làng[2]. Trong ngôi nhà truyền thống Tây Nam Bộ, yếu tố “mở” trội hơn yếu tố “khép kín”. Nhà trống trải, vách trước đôi khi có mà như không, cửa sổ, cửa cái suốt ngày mở rộng. Đã thế, ngôi nhà cũng không hàng rào, không cổng ngõ, kiến trúc thoáng đến mức “tuyệt đối”. Kiến trúc mở của ngôi nhà truyền thống một mặt vừa khắc chế được khí hậu nóng ẩm, mặt khác cũng thể hiện được quan niệm phóng khoáng, cởi mở của cư dân vùng này. Sống trong môi trường hàng xóm láng giềng thân thiết, không tỵ hiềm, không ganh đua nên cư dân sống với nhau vô cùng chan hòa, “nơi hẻo lánh cũng vẫn có sự giao lưu” [Sơn Nam 1993: 30]

Sự kết hợp hài hòa giữa không gian kiến trúc và lối ứng xử đã tạo nên một nền “văn hóa mở” mang tính truyền thống của người Tây Nam Bộ. Không gian cư trú Tây Nam Bộ là không gian mở, và chính từ không gian mở đó, ta thấy được cái đẹp của hồn dân tộc. Chính nếp sống, nếp nghĩ mở đã sản sinh ra một nền kiến trúc mở như thế. Chúng ta lưu giữ và phát huy một phong cách kiến trúc mở chính là giữ lại tinh hoa của truyền thống, giữ lại cái chất, cái hồn của con người nơi đây.

3. Kết luận

Trong quá trình định cư trên vùng đất mới, cư dân miền Tây Nam Bộ đã từng bước thích nghi với điều kiện tự nhiên và xã hội để xây dựng cho mình nơi cư trú lý tưởng nhất. Ngoài việc linh hoạt thích ứng với thiên nhiên, xã hội, người dân nơi này còn phải linh hoạt tháo gỡ những bó buộc của khoảng không gian cư trú khiêm tốn do điều kiện kinh tế còn lắm khó khăn. Từ cách thức lựa chọn nơi cư trú, kiểu nhà, vật liệu xây dựng, cách thức xây dựng cho đến việc biến hóa và sử dụng không gian đã cho ta thấy sức sáng tạo không ngừng nghỉ của cư dân nơi đây.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. 1.Nguyễn Đức Thiềm 2000: Góp phần tìm hiểu bản sắc kiến trúc truyền thống Việt Nam. – NXB Xây dựng, 162 trang.
  2. 2.Trần Lâm Biền 2000: Một con đường tiếp cận lịch sử. – NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 697 trang.
  3. 3.Trần Ngọc Thêm 1997: Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam. - NXB Thành phố Hồ Chí Minh (tái bản lần thứ 2), 679 trang.
  4. 4.Vũ Tam Lang 1991: Kiến trúc cổ Việt Nam. – NXB Xây dựng, 202 trang.
  5. 5.Nguyễn Hiến Lê 2004: Miền Hồng Cao – Sa Đéc dưới cái nhìn của một học giả Bắc Hà. - In trong Đồng Tháp 300 năm, NXB Trẻ, trang 32
  6. 6.Nguyễn Huy Côn 2004: Kiến trúc và môi sinh. – NXB Xây Dựng, Hà Nội, 192 trang.
  7. 7.Sơn Nam 1993: Đồng bằng sông Cửu Long - Nét sinh hoạt xưa. – NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 264 trang.

Nguồn: Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Văn hoá phi vật thể người Việt miền Tây Nam bộ, 2010



[1] http://openarch.qcdn.vn/promotion.php?id=2865

[2] http://www.goldenscale.com/main.php?p=tuvan&;cat=2&id=82

Lên trên

Cùng chủ đề

  • Nguyen-Marshall. Hoạt động chính trị của Công Giáo miền Nam giai đoạn 1954-1975

  • Nguyễn Hoàng Tuấn. Di sản văn hóa ở Trà Vinh - thực trạng và giải pháp

  • Huỳnh Văn Sinh. Giá trị di sản văn hóa tinh thần tại các xã nông thôn mới TP. Hồ Chí Minh

  • Trần Thị Lan. phát huy giá trị di tích lịch sử, văn hóa những lợi thế cho phát triển du lịch của thành phố Hồ Chí Minh

  • Nguyễn Thị Đăng Kha, Mai Thúy Hằng. Thực trạng và các giải pháp bảo tồn, phát huy giá trị loại hình di tích khảo cổ trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh

Thông báo

Tư vấn khoa học và kỹ năng nghiên cứu…

Tủ sách văn hoá học Sài Gòn

  • Thư viện ảnh
  • Thư viện video
  • Tủ sách VHH

Phóng sự ảnh: Toạ đàm khoa học: Xây dựng…

Hình ảnh văn hóa Tết xưa (sưu tầm)

Phóng sự ảnh: Lễ hội truyền thống VHH 2011

Phóng sự ảnh Lễ hội truyền thống VHH 2010

Thành phố Sankt-Peterburg, Nga

Bộ ảnh: Việt Nam quê hương tôi 2

Tranh Bùi Xuân Phái

Bộ tem tượng Phật chùa Tây Phương

Bộ ảnh: Đá cổ Sapa

Bộ ảnh: Phong cảnh thiên nhiên

Bộ ảnh: Việt Nam quê hương tôi

"Biển, đảo Việt Nam - Nguồn cội tự bao đời":…

Con dê trong văn hóa và văn hóa Việt Nam

Văn hóa Tết ở Tp.HCM (Chương trình truyền…

Văn hóa Tp. HCM: Một năm nhìn lại và động…

Phong tục Tết cổ truyền của người Nam Bộ

Bánh tét và Tết phương Nam

Con ngựa trong văn hóa và văn hóa Việt Nam

Điện Biên Phủ - Cuộc chiến giữa hổ và voi

Nhìn lại toàn cảnh thế giới từ 1911-2011…

Tọa độ chết - một bộ phim Xô-Việt xúc động…

Video: Lễ hội dân gian Việt Nam

Văn hoá Việt từ phong tục chúc Tết

Văn hoá Tết Việt qua video

Tết ông Táo từ góc nhìn văn hoá học

“Nếp nhà Hà Nội” trên “Nhịp cầu vàng”: tòa…

Văn hóa Thăng Long - Hà Nội qua video: từ…

Hướng về 1000 năm TL-HN: Xem phim “Tử Cấm…

Hướng về 1000 năm TL-HN: Người Thăng Long…

Phim "Chuyện tử tế" – tập 2 (?!) của “Hà…

Default Image

Hướng về 1000 năm TL-HN: "Chuyện tử tế" -…

Sách “Di sản Ấn Độ trong văn hóa Việt Nam”

Nguyễn Văn Bốn. Tín ngưỡng thờ Mẫu của người…

Sách: Quản lý và khai thác di sản văn hóa…

Hồ Sĩ Quý. Con người và phát triển con người

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 3

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 2

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 1

Hồ Sỹ Quý. Tiến bộ xã hội: một số vấn đề về…

Hồ Sỹ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á (Phụ…

Hồ Sỹ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á…

Hồ Sĩ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á…

Sách: Chuyên đề Văn hoá học

Sách: Một số vấn đề về hệ giá trị Việt Nam…

FitzGerald. Sự bành trướng của Trung Hoa…

Hữu Đạt. Đặc trưng ngôn ngữ và văn hoá giao…

Sống chụ son sao (Tiễn dặn người yêu)

Gs. Mai Ngọc Chừ. Số phận & Tâm linh

Trần Văn Cơ. Những khái niệm ngôn ngữ học…

Đoàn Văn Chúc. Văn hóa học (Phần 3 - hết)

Đoàn Văn Chúc. Văn hóa học (Phần 2)

Các nhà VHH nổi tiếng

Julian Haynes Steward

Wen Yi'duo (Văn Nhất Đa)

Leslie Alvin White

Huang Wen'shan (Hoàng Văn Sơn)

Radcliff-Brown, Alfred Reginald

Sapir, Edward

Margaret Mead

Thăm dò ý kiến

Bạn thích cuốn "Cơ sở văn hoá VN" của tác giả nào nhất?

Chu Xuân Diên - 4.8%
Lê Văn Chưởng - 0.9%
Trần Diễm Thuý - 1%
Trần Ngọc Thêm - 37.4%
Trần Quốc Vượng - 53%
The voting for this poll has ended on: 26 06, 2020

Tổng mục lục website

tong muc luc

Tủ sách VHH Sài Gòn

tu sach VHH SG

Thống kê truy cập

  • Đang online :
  • 92
  • Tổng :
  • 3 8 1 2 8 8 8 7
  • Đại học quốc gia TPHCM
  • Đại học KHXH&NV
  • Tran Ngoc Them
  • T.c Văn hóa-Nghệ thuật
  • Tc VHDG
  • Viện NCCN
  • Khoa Văn hóa học
  • Khoa Đông phương học
  • Phòng QLKH
  • Khoa Việt Nam học
  • Khoa Hàn Quốc học
  • BM Nhật Bản học
  • Khoa Văn học - Ngôn ngữ
  • Khoa triết học
  • Khoa Quan hệ quốc tế
  • Khoa Xã hội học
  • Bảo tàng Lịch sử - Văn hóa
  • viettems.com
  • myfaifo.com
Previous Next Play Pause

vanhoahoc.vn (các tên miền phụ: vanhoahoc.edu.vn ; vanhoahoc.net)
© Copyright 2007-2015. Bản quyền thuộc Trung tâm Văn hóa học Lý luận và Ứng dụng, Trường Đại học KHXH & NV - ĐHQG Tp. HCM
ĐT (028) 39104078; Email: ttvanhoahoc@hcmussh.edu.vn; ttvanhoahoc@gmail.com. Giấy phép: số 526/GP-BC, do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 27-11-2007
Ghi rõ nguồn vanhoahoc.vn khi phát hành lại các thông tin từ website này.

Website được phát triển bởi Nhà đăng ký tên miền chính thức Việt Nam trực thuộc Trung Tâm Internet VNNIC.

Văn hóa Nam Bộ