1. Tín ngưỡng Nam Bộ và tín ngưỡng gia thần
Đặng Nghiêm Vạn, 1996, giải thích: theo điều 3, Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo của Quốc hội ban hành năm 2004 thì hoạt động tín ngưỡng là “Hoạt động thể hiện sự tôn thờ tổ tiên; tưởng niệm và tôn vinh những người có công với nước, với cộng đồng; thờ cúng thần, thánh, biểu tượng có tính truyền thống và các hoạt động tín ngưỡng dân gian khác tiêu biểu cho những giá trị tốt đẹp về lịch sử, văn hoá, đạo đức xã hội” và cơ sơ tín ngưỡng “là thực hiện hoạt động tín ngưỡng của cộng đồng bao gồm đình, đền, miếu, am, từ đường, nhà thờ họ và những cơ sở thờ tự khác”. Như vậy tín ngưỡng bao gồm hầu hết các hoạt động, nghi thức, thể hiện niềm tin, sự tưởng nhớ và cả lòng biết ơn của của con người đối với thần, thánh, các thế lực siêu nhiên và cả những người quá cố. Hoạt động tín ngưỡng có ở mỗi người, mỗi nhà, mỗi cộng đồng dân tộc, nhưng khi thực hành hoạt động tín ngưỡng ở mỗi cộng đồng dân cư, mỗi vùng miền cụ thể thì lại không giống nhau.
Nam Bộ là phần lớn đất đai triêm trủng, địa hình sóng, thích hợp trồng lúa nước, là nơi cộng cư của nhiều dân tộc, trong đó có ba dân tộc tiêu biểu nhất là Việt, Hoa và Khơme. Do vậy, tín ngưỡng của cư dân lúa nước Nam Bộ cũng mang dáng dấp, thể hiện nét đặc trưng riêng có của người Nam Bộ.
Do ở đây đất đai có địa hình sóng nên người dân định cư, hình thành làng xóm trên vùng đất gò, cao ráo, người dân Nam Bộ gọi đó là Giồng. Người Nam Bộ cũng phân bố men theo các sông ngòi, kênh rạch để thuận tiện việc đi lại, lưu thông hàng hoá nông sản bằng đường thuỷ. Đất canh tác lúa nước vì vậy tập trung thành những cánh đồng rộng lớn, rất tiện lợi cho thuỷ nông nội đồng, đào mương dẫn nước, xả nước phục vụ tưới tiêu. Đặc biệt hiệu quả trong ứng dụng khoa học kĩ thuật vào đồng ruộng, luân canh, đa canh thuận lợi, góp phần đáng kể để tăng năng suất nông sản.
Có lẽ do đất rộng nhà thưa nên mỗi ngôi nhà là một cơ sở tín ngưỡng thu nhỏ với công năng khá đầy đủ từ cầu phúc lộc đến thọ mạng, bình an. Tổng hợp toàn bộ đối tượng thờ tự đó gọi chung là tín ngưỡng gia thần, tức là tập hợp thần phù trợ cho gia chủ của mỗi gia đình. Ngoài bàn thờ gia tiên được bố trí trang trọng giữa nhà thì có tran hoặc kệ (chứ không lập bàn thờ như bàn thờ gia tiên) để thờ một số đối tượng khác như tổ nghề (nếu gia chủ có theo làm một nghề nào đó), thần độ mạng nam (Quan Thánh đế quân, Tử Vi đại đế, cậu Tài, cậu Quý …), thần độ mạng nữ (Cửu thiên huyền nữ, Ngũ hành nương nương, Kim Hoa thánh mẫu, Thánh Anh La Sát, Lục cung thánh mẫu…). Một số trường hợp đặc biệt thờ thần độ mạng nữ là Tổ cô. Đây có thể xem là vị thần bản gia của riêng một nhà, một người cụ thể, vị Tổ cô được thờ thường là chị hay em của ông nội, ông ngoại, ông chú, ông bác đã qua đời lúc trẻ, chưa lập gia đình, thường ứng thân vào mạng nữ trong nhà nên phải lập bàn thờ riêng để thờ phụng. Mỗi nhà lại có tran thờ ông táo ở gian bếp; Thần tài, Thổ địa thờ chung một khám (tủ) để sát mặt đất. Trước sân còn có bàn thông thiên thờ Trời ở trên, Đất ở dưới. Ngoài ra, ở khu vực sân vườn còn có một ngôi miễu nhỏ thờ Thổ thần hoặc một số đối tượng khác. Miếu Thổ thần thì thường đặt chếch sang một bên so với hướng nhà chính (cũng thường đặt gần đường đi hay kênh gạch). Đây là một hiện tượng phổ biến ở khu vực nông thôn Nam Bộ, đặc biệt là những vùng chuyên làm vườn. Tập hợp hệ thống thờ tự trên gọi chung là tín ngưỡng thờ gia thần.
2. Vị trí và ý nghĩa gia thần trong không gian nhà Nam Bộ
2.1. Gia tiên
Từ truyền thống hiếu đạo, hết lòng “báo bản tư nguyên”, trong gian nhà người Việt luôn có bàn thờ gia tiên để hương khói cho ông bà cha mẹ đã vãng sanh. Ở Nam Bộ, tân giáo Bửu Sơn Kỳ Hương lấy tôn chỉ “Tứ ân” làm pháp giáo gồm nhớ ơn cha mẹ, nhớ ơn tam bảo, nhớ ơn tổ quốc và nhớ ơn đồng bào thì ta thấy “ân phu mẫu” ở vị trí thứ nhất. Các tôn giáo mới lập sau và dựa trên tôn chỉ của Bửu Sơn Kỳ Hương như đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa, đạo Hoà Hảo… đều lấy ân tổ tông cha mẹ làm đạo tiên, đạo trọng, lấy chữ hiếu làm điều cốt yếu trong thực hiện nghi lễ tôn giáo. Bàn thờ gia tiên từ chỗ là nơi con cháu thành kính tưởng nhớ ông bà cha mẹ quá cố đã trở thành bàn thờ gia thần quan trọng, là nơi con cháu trong nhà nguyện cầu về những điều bình an may mắn trong cuộc sống, cầu tai qua nạn khỏi, cầu sự chứng dám về việc gì đó mà con cháu trong gia đình đã, đang và sẽ thực hiện. Do tính chất lưỡng phân quan trọng như vậy mà bàn thờ gia tiên được thờ ở vị trí trang trọng nhất của ngôi nhà: có gian thờ riêng hay ở phòng khách thì bàn thờ gia luôn được đặt ở giữa, hướng ra cửa chính sáng sủa. Trên bàn thờ ngoài ảnh thờ, lư hương, người Nam Bộ còn dùng tranh thờ để thể hiện sự tôn nghiêm mà rực rỡ. Tranh thờ hoặc có cảnh nước non thanh bình, bồng lai tiên cảnh hoặc đơn giản thì có chữ Hán màu vàng sáng ánh kim ở giữa, hai bên là hai câu đối thể hiện đạo lý hiếu thảo, nhớ ơn tổ tiên ông Bà. Nếu có hai chữ thì là chữ 祖堂 Tổ đường (gian thờ tổ tiên), nếu có bốn chữ thì là chữ 九玄七祖 Cửu huyền thất tổ. Câu đối hai bên cũng có nhiều câu hay, nhưng phổ biến, thường gặp nhất là câu:
祖 宗 父 母 千 年 盛
子 孝 孫 賢 萬 代 榮
Tổ tông phụ mẫu thiên niên thịnh
Tử hiếu tôn hiền vạn đại vinh.
Tạm dịch: Ông bà cha mẹ ngàn năm thịnh
Con hiếu cháu hiền muôn đời vinh.
(Bài trí bàn thờ Tổ tiên ngày Tết. Nguồn: www.kienthuc.net.vn)
2.2. Định phúc táo quân
Đây chính là bàn thờ ông Táo hay vua bếp. Bếp là thành tố quan trọng nhất, biểu trưng cho sự sống, sự đoàn viên, ấm áp của mỗi gia đình. Trong nhà cái gì cũng có thể thiếu được nhưng không thể thiếu bếp. Hình ảnh kép “gian nhà – chái bếp” từ lâu đã quen thuộc trong không gian văn hoá Nam Bộ. Bếp lửa truyền thống được đắp với ba đầu. Trong lý học số 3 là số sinh, còn trong ứng dụng cụ thể thì chỉ có ba đầu bếp mới tạo được thế cân bằng, giữ vững nồi niêu xoang chảo trong quá trình nấu thức ăn. Tín niệm dân gian cho rằng thần bếp gồm 3 vị (ứng với 3 đầu của bếp) gồm một bà hai ông [1]. Nguyên nhân vì sao là một bà hai ông mà không phải một ông hai bà như truyền thống đa thê phương Đông, tác giả Huỳnh Ngọc Trảng – Nguyễn Đại Phúc cho rằng điều này “mang tính chất suy nguyên về quẻ Ly hoả của quan niệm lý dịch gồm một hào dương kèm giữa một hào âm” [tr40, sđd]. Táo quân được xem là vị phúc thần “nhất gia chi chủ” trong hệ thống tín ngưỡng ngũ tự [2] của Nho gia truyền thống. Dân gian tin rằng thần bếp là vị thần gần gũi nhất, thường trực nhất, quan sát “nhất cử nhất động” những việc tốt xấu hàng ngày để cuối năm về trời báo cáo, giúp thiên đình có cơ sở định phúc hoạ cho gia chủ. Vì vậy mà dân gian mới có sự tích hối lộ ông Táo, tôn ngài thành 定 福 灶 君 Định phúc táo quân. Trong quan niệm truyền thống, ông Táo còn được coi là thần độ mạng cho nam gia chủ, nên ngài còn được tôn hiệu là 九 天 東 厨 司 命 灶 府 神 君 Cửu thiên Đông trù tư mệnh Táo phủ thần quân. Thực tế chức năng “tư mệnh” (coi, quản về tính mạng, thọ yểu) là chức năng gắn thêm, vua bếp đơn giản vẫn chỉ là vị phúc thần trong nhà, được thờ kiêm tốn trên tran nhỏ, đơn sơ ngay phía trên của bếp. Trước đây, việc đặt hướng bếp là một trong những việc quan trọng hàng đầu trước khi dựng nhà của gia chủ, cần phải xem tuổi và cần thiết kế hướng nhà, hướng bếp sao cho “hạp hướng” để gia đình được bình an, làm ăn phát đạt. Ngày nay do đô thị hoá diễn ra nhanh chóng, nhà cất theo hướng đường đi nên khó chọn được hướng, nhưng hướng bếp nhất thiết phải làm cho phù hợp. Bếp đặt hướng nào thì tran thờ hướng đó, bàn thờ cần đơn giản, không tranh tượng, cờ phướng, nghi trượng cầu kì. Mỗi năm đúng ngày 23 tháng Chạp thì cúng tiễn ngài về trời với phương tiện cũng đơn giản là “cò bay – ngựa chạy”[3]. Đôi câu đối thờ ngài cũng giản tiện, phù hợp không gian yên bình, ấm áp của ngôi nhà:
有 德 能 司 火
無 私 可 達 天
Hữu đức năng ty hoả;
Vô tư khả đạt thiên.
Đây cũng là sự nhìn nhận chính của dân gian về trách nhiệm của ông Táo: ngài là người có đức hạnh nên trông coi về lửa cho nhân gian (khác với thần lửa – bà hoả trong thần thoại dan gian là tàn bạo và huỷ diệt sự sống) và sự vô tư của ngài làm thông đạt [những việc của nhân gian] đến tận trời cao.
Hay câu đối chúc trên “Táo quân vị” của ngài cũng rất “gần” với ước mong, khát vọng ngàn đời của con người:
年 年 增 富 貴
日 日 壽 榮 華
Niên niên tăng phú quý;
Nhật nhật thọ vinh hoa.
Tạm dịch: năm qua năm lại thêm phú quý; Ngày đến ngày đi thọ vinh hoa.
2.3. Thần độ mạng
Trong nhà đã có phúc thần là tổ tông phụ mẫu quá vãng, có Định phúc táo quân chăm lo bồi thực cho phúc lộc, bình an. Nhưng ước vọng con người trong nhân gian còn hơn thế nữa, đó chính là “thọ khương” theo cách nói của người Nam Bộ, tức thọ (tuổi thọ) và khang (sức khoẻ, mạnh dõi). Chăm chút “thọ khương” cho gia chủ chính là thần độ mạng. Nam Bộ là xứ sở nhiệt đới, nhiều ôn dịch, ảnh hưởng đến sức khoẻ và thọ mạng con người nên tín ngưỡng thờ thần độ mạng là một dạng tín ngưỡng phổ biến. Từ khi được hoài thai cho đến thôi nôi (còn gọi tôi tôi – sinh nhật lần thứ nhất) đứa trẻ được sự bảo hộ của 12 bà mụ. Lễ cúng đầy tháng, thôi nôi ngoài việc chúc mừng tuổi cho trẻ còn là lễ tạ ơn 12 bà mụ đã độ mạng cho đứa trẻ được mạnh khoẻ, khôn lớn. Sau đó, tuỳ theo đứa trẻ sinh vào ngày giờ nào, ứng với cung gì, cha mẹ còn phải cúng đổi đốt hàng năm và cúng nhương căn ba năm một lần, cúng cho đến khi đứa trẻ được 12 tuổi thì cúng dứt căn. Lễ cũng nhất thiết phải có bộ đồ thế, nhất nhân thế nhị hình [4] để cầu độ cho đứa trẻ bình an, khoẻ mạnh lớn khôn.
Đó là giai đoạn thiếu niên, khi trưởng thành, đã thành gia lập thất thì thờ thần độ mạng nam – nữ riêng biệt bằng tran ông – tran bà ở hai bên phòng ngủ. Thần độ mạng trong dân gian có nhiều đối tượng, dân gian dựa vào thiên can của nam hay nữ gia chủ mà phân chọn đối tượng thờ.
Tuy nhiên, phần lớn ở Nam Bộ thờ Quan Thánh Đế Quân (tran ông) và Cửu Thiên Huyền Nữ (tran bà), bất phân gia chủ tuổi thuộc can nào. Phật Bà thờ giữa nhà phù hộ phúc lộc, bình an nếu nhà không có bàn thờ gia tiên [5].
2.4. Thổ Địa – Thần Tài
Hệ thống ngũ tự của Nho giáo trên vùng đất Nam Bộ chỉ còn thờ đối tượng đầu tiên là Táo và đối tượng cuối cùng là Trung lựu. Tỉnh, Môn chỉ thấy thờ ở đình người Việt và chùa người Hoa, không còn thấy thờ trong nhà dân. Hộ chuyển sang hình thức trấn trạch, tức chỉ trưng vật biểu trấn các tà mỵ để gia trạch bình yên. Người Nam Bộ treo phía trước cửa một trong các loại hình đồ sau đây để trấn trạch (xếp theo thứ tự phổ biến): Thái cực bát quái, Khương Thái Công tại thử, Tử Vi chiếu trạch, tứ tung ngũ hoành, Huyền Đàn trấn môn, một gương soi hình tròn, một cắp chân gà, cung tiễn… Nhưng hiện nay phần lớn nhà ở đô thị không treo đồ hình trấn trạch, dịp tết họ dán bốn chữ Hán là 五 福 臨 門 Ngũ phúc lâm môn hoặc chữ 招 財 進 寶 Chiêu tài tiến bửu lồng trong một khối vuông.
Trung lựu chiếu theo ngũ hành chính là hành Thổ thuộc trung ương, giữa nhà. Theo tín ngưỡng dân gian chính là thờ đất đai. Đất đai ở Nam Bộ được chia khu vực cai quản khá rõ: “Thổ Địa quản nhà, Thổ Công quản đất”. Tức Thổ Địa (dân gian quen gọi là Ông Đia) trông coi đất khu vực nhà nên được thờ giữa nhà, Thổ Công hay Thổ Thần trông coi vườn tược xung quanh nhà nên được thờ ngoài miễu. Rộng hơn nữa là thôn ấp thì có miễu thờ Bà Chúa Xứ, lớn nhất là làng xã lại có đình thờ Thành Hoàng Bổn Cảnh. Các nhà nghiên cứu cho rằng tục thờ thần đất liên quan đến tín ngưỡng phồn thực, thể hiện ước vọng vạn vật sinh sôi. Hình tướng Ông Địa phương phi béo tốt, bụng to, phe phẩy quạt, miệng toe toét cười đã trở nên phổ biến trong dân gian qua truyện kể và diễn xướng. Công năng của Ông Địa giữ cho nhà cửa ổn định, không bị các thế lực siêu nhiên vô hình quấy phá, giúp gia chủ yên ổn làm ăn thịnh phát. Chính vì thế, khi tiếp xúc với tín ngưỡng thờ Thần Tài của người Hoa thì cặp đôi Thổ Địa – Thần Tài không tách rời, cùng thực hiện công năng đem về và bảo vệ tài – lộc cho gia chủ. Ngài nay, trước hoặc trên bàn thờ Thổ Địa – Thần Tài người ta còn phối trưng linh vật cát tường biểu thị cho tín ngưỡng phồn phục (sinh sôi, nảy nở) là tượng con cóc ngậm đồng tiền, con cóc cõng bắp cải xanh. Con cóc là biểu trưng phồn thực của người Việt, cóc ngậm đồng tiền biểu thị tiền được sinh sôi. Cải trong tiếng Hán có âm là /yú/, đồng âm với chữ 餘 Dư, tức cũng biểu thị sự sinh sôi tài lộc.
3. Kết luận
Đến đây có thể thấy, hệ thống tín ngưỡng thờ gia thần Nam Bộ thể hiện đầy đủ “ngũ phúc” trong tín niệm người Hoa. Đó là 福 Phúc, 祿 Lộc, 壽 Thọ, 康 Khang, 寧 Ninh [6], là mơ ước trong cuộc sống con người mọi thời đại, mọi không gian (khu vực địa lí). Sự giao thoa, tiếp biến tín ngưỡng trên là phù hợp với tính cách “mở” của chính con người và vùng đất Nam Bộ. Người Phương Đông nói chung, người Nam Bộ nói riêng có xác tín cao với quan niệm “vạn vật hữu linh” (animism) nên cho rằng “hữu cầu tất ứng”. Cuốc sống con người vốn “đa sự” nên dẫn tới “đa cầu” và chúng ta tin rằng “có thờ có thiêng, có kiêng có lành”. Vì vậy mỗi nhà đã là một cơ sở thờ tự gia thần, Thổ thần; mỗi xóm ấp lại có một ngôi miễu to hơn thờ Chúa Xứ nương nương, Thuỷ Long hay Ông Tà. Nếu dân xung quang sống bằng nghề nông thì phần lớn thờ bà Chúa xứ, Thần nông; nếu dân sống theo chài lưới, ghe tàu men sông nước (dân gian gọi là nghề bà cậu) thì thường thờ Thuỷ long, Thuỷ thần, cá Ông (Nam Hải đại tướng quân). Ông Tà là trường hợp đặc biệt do giao thoa văn hoá với người Khơme. Miễu ông Tà thường không theo khu dân cư mà ở bất kì chỗ nào người địa phương cho là “thiêng”. Đó là thể hiện niềm tin “vạn vật hữu linh”, việc thờ tự vừa là sự kiêng dè, vừa là tạ ơn trời đất thánh thần, xuất phát từ hỗn dung quan niệm “đất có Thổ công, sông có Hà bá” và “ông Địa giữ nhà, ông Tà giữ đất”.
Người Nam Bộ với đặc trưng canh tác lúa nước, sống cộng cự chan hoà với các dân tộc khác cũng có tín ngưỡng phong phú nên tín ngưỡng đa thần ở Nam Bộ là điều dễ hiễu. Đó không chỉ là sự ảnh hưởng, sự giao thoa văn hoá đơn thuần mà nó còn phản ánh đúng bản chất con người Nam Bộ chân chất hiền hoà. Họ luôn nhớ ơn người chủ đất đã cưu mang họ, chở che và cho họ cuộc sống ấm no, thịnh vượng (tục thờ và sùng bái bà Chúa xứ; những người mở cõi, các anh hùng, liệt sĩ trận vong… ). Họ cũng tin và thờ bất kì vị thần nào mà họ cho là đã giúp đỡ, bảo vệ họ (các tổ nghề, thần độ mạng, kể cả cô hồn, siêu mồ lạc mả cũng được thờ tự, cúng tế). Đây chính là nét đặc trưng, phù hợp tính cách dung hoà trong văn hoá của con người Nam Bộ.
Chú thích:
[1] Ca dao Nam Bộ có câu: “Tưởng đâu bà bếp thật thà / Ai dè bà bếp một bà hai ông”.
[2] Ngũ tự là lối thờ tự của Nho gia gồm 5 đối tượng trong nhà là Táo (bếp), Tỉnh (giếng), Môn (cửa cổng), Hộ (cửa nhà) và Trung lựu (giữa nhà).
[3] Bắc bộ, Trung bộ thì kính hiến, phóng sinh cá chép. Theo quan niện Đạo giáo thì khi cá chép vượt được Vũ Môn sẽ hoá thành rồng. Chỉ cá chép mới đưa được ông Táo về trời.
[4] Đồ thế là giấy in mộc bản in hình người thế mạng, do quan niệm căn nợ từ tiền kiếp của đứa trẻ. Bé gái thì thế bằng hai hình nam, bé trai thì thế bằng hai hình nữ.
[5] Những nam chủ nhân con thứ thường không thờ ông bà và cha mẹ.
[6] Có thuyết nói Ngũ phúc gồm: 富 Phú (giàu), 貴 Quý (sang), 壽 Thọ (tuổi thọ), 康 Khang (sức khoẻ), 寧 Ninh (yên ổn).
Tài liệu tham khảo:
1. Khai Đăng. 2009. Tản mạn về tín ngưỡng và phong tục tập quán của người Việt. Nhà xuất bản Văn hóa thông tin. Hà Nội. 320 trang.
2. Nguyễn Duy Hinh. 1996. Tín ngưỡng Thành Hoàng Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học xã hội. Hà Nội. 230 trang.
3. Nguyễn Hữu Hiếu. 2010. Diễn trình văn hoá Đồng bằng Sông Cửu Long. Nhà xuất bản Thời đại. Hà Nội. 365 trang.
4. Huỳnh Ngọc Trảng, Nguyễn Đại Phúc. 2013. Đặc khảo về tín ngưỡng thờ gia thần. Nhà xuất bản Văn hoá văn nghệ. Hà Nội. 256 trang.
5. Đặng Nghiêm Vạn (chủ biên). 1996. Về tôn giáo tín ngưỡng Việt Nam hiện nay. Nhà xuất bản Khoa học xã hội. Hà Nội. 940 trang.
Nguồn: Tạp chí Đại học Cần Thơ, số 32c - 2014