1.Có nhiều vở diễn cải lương lịch sử, hương xa được nhiều người mê nhạc cổ đánh giá cao, như: “Câu thơ yên ngựa, Đinh Bộ Lĩnh, Nhuỵ Kiều tướng quân, Rạng ngọc Côn Sơn, Thái hậu Dương Vân Nga, Tiếng trống Mê Linh, Tô Hiến Thành xử án…; A Khắc Thiên Kiều, Đường gươm Nguyên Bá, Phụng Nghi đình, San hậu, Tâm sự loài chim biển, Tây Thi, Tiếng hạc trong trăng, Xử án Bàng Quý Phi…”. Riêng vở Rạng ngọc Côn Sơn của soạn giả Nguyễn Xuân Phong được giới mộ điệu đánh giá rất cao về kịch bản, bởi thành công của nó là nghệ thuật ngôn từ và sự phối hợp các bài bản ca cổ mà tác giả sử dụng để tạo nên vở tuồng có tính điển hình của một tác phẩm văn học, chứ không chỉ là một tác phẩm phản ánh đơn thuần lịch sử. Nói như nhận định của Hoài Hương: “… “Rạng ngọc Côn Sơn” được tác giả Xuân Phong viết xong vào năm 1981, là một trong nhiều kịch bản đặt vấn đề chứ không chỉ đồ lại lịch sử, bằng cách thông qua hình tượng Nguyễn Trãi cảnh báo về nạn công thần, tài năng bị vùi dập, quan tham, nịnh thần thao túng triều đình[1]”.
2.Lấy cảm hứng từ bi kịch của quan Phục hầu Nguyễn Trãi, một vị công thần triều Lê[2], tuy không bị giết nhưng cũng mất chức và về ở ẩn tại núi Chí Linh, Côn Sơn[3] bởi mầm di hoạ từ sự tranh quyền đoạt vị sau chiến thắng của một triều đại. Tiếp đó là bi kịch bị “tru di tam tộc”[4] nhân cái chết bất ngờ của vua Lê Thái Tông, khi vua ghé Côn Sơn thăm ông, mà tác giả viết vở tuồng Rạng ngọc Côn Sơn đề cao tài năng, uy tín và đức độ sáng ngời của Nguyễn Trãi (tựa đề vở tuồng đã bộc lộ rõ ý tưởng này: Nguyễn Trãi chính là viên ngọc sáng ở đất Côn Sơn). Để diễn đạt tốt nội dung một tuồng cổ lịch sử, soạn giả Xuân Phong đã công phu “nắn nót” chọn lọc từng từ ngữ, câu chữ, lời ý xưng gọi, cách nói năng… thể hiện tốt giá trị nội dung của vở tuồng. Mặt khác, vì đây là tuồng cải lương, nên các bài bản tài tử, câu ca, bản vắn, đối thoại, độc thoại, kết hợp cảnh diễn hiện thực, cảnh diễn phục hiện… được phối hợp nhuần nhuỵ với nhau, không chỉ càng tôn thêm giá trị tư tưởng vở diễn mà còn lột tả được hết sự phong phú, sinh động của một vở tuồng cải lương lịch sử. Đánh giá một vở diễn cần phải chú trọng cả giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật. Bởi hai điều này không thể thiếu trong một tác phẩm tốt, như nghệ sĩ Sỹ Tiến nhận định: “Chỉ chú ý đến nội dung tư tưởng mà lơ là nghệ thuật và kỹ thuật là một thiếu sót lớn. Trái lại chỉ biết nghệ thuật, kỹ thuật mà bỏ quên cả nội dung tư tưởng thì đó là một sai lầm nguy hại.[5]”. Bên cạnh giá trị nội dung đã được khẳng định, bài viết này đề cập 2 nội dung chính của nghệ thuật: 1. nghệ thuật ngôn từ được thể hiện trong tác phẩm, 2. nghệ thuật phối hợp các bài bản tài tử, ca cổ và các cảnh diễn trong vở tuồng.
2.1. Nghệ thuật ngôn từ được thể hiện trong tác phẩm
2.1.1. Lớp từ lịch sử có nguồn gốc Hán. Với các loại hình nghệ thuật lấy ngôn từ làm chất liệu, rõ ràng ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của nội dung. Viết một tuồng cải lương lịch sử, ngoài việc phải thể hiện được tâm lí ăn nói của người xưa, còn phải biết tận dụng những yếu tố từ ngữ thích hợp của lịch sử. Do vậy ngoài trang phục, đạo cụ, cảnh trí…, vốn từ cổ lịch sử, điển cố, điển tích, thành ngữ là nhân tố quan trọng tạo màu sắc cho một vở diễn xưa. Với vốn từ lịch sử, trong ngôn ngữ giao tiếp đời thường lớp từ này không mấy thông dụng, nhưng trong vở diễn nó lại là nhân tố không thể thiếu. Trong tuồng Rạng ngọc Côn Sơn, đó là lớp từ thể hiện phẩm tước, chức vị của triều đình, như để nói về vua có các cách diễn đạt: “Hoàng thượng[6], Quân vương, Thánh hoàng, Thánh quân, Thánh thượng, Thiên nhan, Thiên tử…”, nói về những nhân vật trong triều đình thì có: “Hoàng hậu, Huệ phi, Thần phi, Ngô phi, Thái tử, văn võ bá quan, quan Tướng quốc, quan Thái uý, Thái y, Học sĩ, Giám quan, Hình quan, quan Ngự sử, quan Nội giám, Đô giám, quan Đô uý, quan Phục hầu, quan Phủ, cấm vệ quân, cung nữ…”. Lớp từ này được phân biệt dựa trên tính thứ bậc rất nghiêm.
Đặc biệt là những gì liên quan tới “đức vua”, càng phải thể hiện hết mực trang trọng, tôn kính; vì nếu sơ suất có thể bị khép vào tội chết, tội “khi quân”. Như để truyền đạt ý vua thì phải dùng khái niệm “truyền chỉ, phê chiếu”, trước khi đọc thì phải “phụng thừa thánh chỉ”, để đón vua thì những cụm từ thông báo, xưng tụng, thể hiện lòng biết ơn, rào đón cho một việc sơ suất có thể dẫn đến sự thất lễ… thường xuyên được sử dụng, như: “hộ giá, nghinh giá, xa giá thánh hoàng, thánh thượng giá lâm…, thánh thượng vạn tuế, tiếp nghinh thánh thượng, muôn tâu, tâu vâng, hạ thần kính thỉnh thánh thượng… ngự trà, …vào nội thất, thần thiếp, thiếp thần kính thỉnh bệ hạ, vạn tạ ơn thánh thượng, thần chờ mong thánh quân tha tội…”. Trong nghĩa “chúa-tôi”, các lớp từ thể hiện thứ bậc trên dưới rất nghiêm: với vua thì xưng “trẫm, ta”, gọi người dưới là “khanh, hiền khanh, ái khanh”: “trẫm miễn lễ, ta miễn lễ cho các khanh, các khanh hãy bình thân, trẫm muốn dời khanh…”. Đặc trưng của lớp từ này, phần lớn là từ gốc Hán, có nghĩa khái quát và thường mang màu sắc phong cách cao, được dùng với sắc thái trang trọng[7]. Bên cạnh đó còn có một lớp từ ngữ Hán Việt được dùng theo phong cách bác học, cổ kính, phân biệt ngôi thứ, quan hệ, cốt là để thể hiện sự quý phái, đề cao, trân trọng cần có: “lão trượng, lịnh bà, đại nhân, đại phu, phu nhân, cầu lịnh bà vạn an, trình bẩm lại đại quan, …”; mặt khác, với kẻ bề dưới thì tự hạ thân phận để thể hiện sự khiêm cung, kính nhường: “mạt tướng, tiểu tướng, thứ dân, chúng dân, thiếp, huynh đệ…”. Cách nói năng, xưng gọi này phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp xã hội, chốn quan trường, nhưng không thích hợp với cách nói năng bình dân của công chúng.
Có lớp quán ngữ[8]: “ấm tử vinh thê, bá tánh vạn an, bất thuận lòng trời, bôn đào tránh hoạ, bứt mây động rừng, chỉnh đốn triều trung, chỉnh tu triều nội, hạ chỉ bãi binh, kết cỏ ngậm vành, hà nhũng hống hách, nhũng lạm hà khắc, nghìn thu vĩnh biệt, phản thần sàm tấu, phên tre dậu trúc, quán cổ thông kim, triều nội bất an, tứ đức tam tòng, vạn mã thiên binh, xênh xang võng lọng, vá áo túi cơm, cội già hứng chịu cuồng phong, tà tâm bịa chuyện hoang đường…” đã góp phần làm cho lối diễn đạt được sắc gọn, khái quát, có hình ảnh và có tác dụng biểu thái phù hợp với ngôn ngữ bài ca. Mặt khác, các quán ngữ này làm cho người nghe dễ dàng lĩnh hội ý tưởng, dù lời ca họ có nghe được hết hay không thì cũng không ảnh hưởng tới việc lĩnh hội thông tin ngôn ngữ, bởi tính chất cố định của quán ngữ giúp họ liên tưởng, lĩnh hội nốt những yếu tố còn lại không được nghe rõ.
Một lớp từ Hán Việt: “xã tắc, đại nghĩa, phép nước, tiến kinh, hoàng cung, lâm triều, triều đình, triều nội, đăng trình, bãi binh, chiêu an, cống nạp, tướng lịnh, quần thần, sĩ tốt, giáp sĩ, biện minh, nghiêm minh, nghiêm lịnh, bình tâm, niệm tình, a tòng, ứng hầu, hung, kiết, cơn đông phong, lệ trào, muôn tâu, cáo bịnh, băng hà, quy tiên, vọng nguyệt, tặc tử, gian thần, nghịch thần, tạo phản, khi quân, thí quân, sàm tấu, xiểm nịnh, khinh nhờn, đắc tội, tảo trừ…” góp phần tạo nên một phong cách diễn đạt đậm màu sắc bác học, cổ kính, thể hiện được một bình diện giao tiếp xã hội có tính sang trọng, trang nghiêm, phản ánh được tính pháp uy, hành chính của triều đình phong kiến một thời.
(Minh Vương vai Nguyễn Trãi, tuồng Rạng ngọc Côn Sơn. Nguồn: www.amnhac.fm)
2.1.2. Lớp từ đời thường có gốc thuần Việt. Trong kịch bản cũng có những đoạn đối thoại mang sắc thái bình dân gân gũi với ngôn ngữ đời thường, ngôn ngữ đời sống của tầng lớp bình dân, như các đoạn đối thoại giữa nhóm quan lại theo hầu vua, gồm: Đinh Thắng, Thúc Huệ, Thái úy hay đoạn tâm sự giữa đôi nam nữ yêu nhau Hà Lâm và Tố Quyên, hoặc đoạn đối thoại của Nguyễn Trãi ở cảnh cuối cùng nơi khu vườn nhà với quan lại triều đình và chúng dân. Trong các đoạn đối thoại này, có rất nhiều từ ngữ của ngôn ngữ đời thường được soạn giả sử dụng thích hợp với tính cách và tâm lí nhân vật, như đoạn đối thoại giữa Thúc Huệ, Thái úy và Đinh Thắng:
“Thái úy: Quan nội giám! Ngài có thấy sự tai hại đã để cho Thánh hoàng ghé lại Côn Sơn này hay chưa?
Đinh Thắng: Có phải tại tôi đâu…
Thúc Huệ: Còn ai vô đây nữa… mà ông hòng chối tội.
Đinh Thắng: Coi kìa, thì chính tôi đã bảo ngài cứ thẳng đường về kinh
Thúc Huệ (ca): Ngài không thấy sao Đức vua đòi ghé
thì tôi phải ghé liền
Bộ ngài muốn đầu tôi lìa khỏi cổ?
Ngài nói giỡn chơi hoài?
Thái úy (ca): Thánh hoàng ghé lại Côn Sơn
thì về triều các ông sẽ biết…
Tôi lo các ông không giữ được cái đầu.
Đinh Thắng (ca): Ông nói sao? Tôi đây chưa rõ.
Thái úy (ca): Hoàng hậu đã mấy lần dặn ta.
Chớ để cho Nguyễn Trãi gặp Thánh hoàng.
Thúc Huệ (nói): Trời, không cho sao được. Vua đòi mà các ngài nói dễ như không.
Thái úy (ca): Rồi đây các ông sẽ phải trả lời
Về việc này nếu Hoàng hậu hỏi ra.
Các ông chớ có kêu ca.
Đinh Thắng: Ông thấy chưa?
Thúc Huệ (ca): Bộ mình tôi đi hộ giá Thánh hoàng?
Các ông rõ ràng cũng bị quở lây.
Thái úy: Quở thì ai nói làm gì! Trái lịnh Thần phi thì lo không còn cái đầu để đội mão đó chứ!…”[9]
Trong đoạn này, những cách nói năng ứng xử giao tiếp của các nhân vật được thể hiện bằng ngôn từ không xa lạ với ngôn ngữ đời thường của công chúng, như: “sự tai hại đã để…, có phải tại tôi đâu, còn ai vô đây nữa mà ông hòng chối tội, Đức vua đòi ghé, giỡn chơi hoài, vua đòi mà các ngài nói dễ như không, bộ mình tôi, không còn cái đầu để đội mão đó chứ…”.
Một đoạn khác là đoạn tâm sự yêu đương của tướng quân Hà Lâm với Tố Quyên, cô nữ tì theo hầu Học sĩ Thị Lộ, sau bao năm dài xa cách nay có dịp được gặp lại nhau qua hai câu ca cổ 1 & 2:
“Hà Lâm (ca): Tố Quyên ơi đã qua rồi cơn ác mộng, thuyền yêu đương đã vượt trùng khơi muôn sóng, hết tháng năm khắc khoải thương nhớ… đợi… chờ. Em như bóng chim tăm cá mịt mờ. Đã mấy lần anh trở về quê cũ… nhưng nào tìm thấy bóng em đâu. Nhà chỉ còn trơ lạnh nền xưa với lũy tre già rũ cành trụi lá. Anh ra bờ suối mong tìm lại dấu chân em, nhưng hỡi ơi dòng suối cũng đã cạn khô, bởi khóc nhớ thương người đi mà không hẹn ngày gặp gỡ.
Tố Quyên ơi! Nay đã mãn nguyện rồi mộng ước, đôi ta tái ngộ trùng phùng. Ta sẽ mãi mãi bên nhau với núi rừng, cho đến trọn đời mãn kiếp. Anh sẽ cố chuyên tâm trồng cấy, còn em thì canh cửi tằm tơ. Đêm về nghe em thỏ thẻ ước mơ, khi dưới trăng anh dạy em luyện kiếm. Hai ta như đôi chim kia quyến luyến, bõ những ngày núi nhớ rừng thương…”[10]
Trong suy nghĩ của Hà Lâm ngoài những tâm sự chân thành hiện thực, gần gũi với cuộc sống đời thường, còn là tâm trạng yêu đương nhớ mong sau bao ngày xa cách; bỗng dưng may mắn được gặp lại nhau khiến những dòng suy tưởng của chàng trai dạn dày cung kiếm, cũng có lúc vươn cao, bay xa, đầy tình tứ lãng mạn: “thuyền yêu đương đã vượt trùng khơi muôn sóng”; “Hai ta như đôi chim kia quyến luyến, bõ những ngày núi nhớ rừng thương”…
Đoạn Nguyễn Trãi đối đáp với Thúc Huệ, Thái úy, khi họ dẫn quân đến bắt ông, cũng rất đời thường và đầy màu sắc hiện thực sinh động:
“Nguyễn Trãi: Kìa! Ai nằm ngủ trong vườn của ta, lại mang sắc phục triều đình thế này? Ô, quan Thái úy! À quan Ngự sử, lại có cả Thúc Huệ nữa.
Thúc Huệ: Đừng gọi ta trống không như vậy. Ta là quan Đô giám Thúc Huệ đây.
Nguyễn Trãi: Hừ, cả trong lúc ngủ say, cũng không quên chức sắc của mình. Các ngài sốt sắng thật, trời chưa sáng tỏ mà đã mò đến đây để chực bắt ta.
Thúc Huệ: Hãy để yên cho ta ngủ một lát nào.
Nguyễn Trãi: Thôi! Các ngài dậy đi. Trời sắp sáng rồi. Đi bắt ta mà ngủ gà ngủ gật thế kia?
Thúc Huệ: Ấy chết chết! Cái lịnh chỉ, cái lịnh chỉ đâu rồi ngài Thái úy?
Nguyễn Trãi: Dậy đi! Các ngài dậy cả đi, ta cũng cần về kinh cho sớm.
Thái úy: Hả? Nguyễn Trãi! Quan Phục hầu Nguyễn Trãi?
Nguyễn Trãi: Phải. Ta đây!
Thái úy: Nào, ông Đô giám đâu, hãy đọc ngay lịnh chỉ… đọc lịnh chỉ cho ta… (ca Kim tiền bản)
Nguyễn Trãi: Lịnh của ai? Các ngài hãy nói ta nghe.
Thái úy: Còn của ai? Ông đừng khéo giả vờ! Mau quỳ xuống để mà nghe lịnh chỉ của Thánh quân.
Nguyễn Trãi: Thánh quân nào? Rõ ràng là Hoàng thượng vừa mới băng hà. Các ông hãy dẹp các trò trẻ con khờ khạo ấy đi.
Thúc Huệ: Đó đó, thấy chưa. Ổng có xem Hoàng thượng ra gì nữa đâu. Quả là tội khi quân.
Thái úy: Ông nên biết rằng, hoàng đế Băng Cơ hạ chỉ truyền đến để bắt ông.
Nguyễn Trãi: Đứa bé mới lên hai biết gì mà bịa chuyện. Hãy dẹp đi chỉ dụ.
Thúc Huệ: Đó đó thấy chưa. Chống thánh chỉ đó thấy chưa?
Nguyễn Trãi: Hừ! Các ngài cứ nói thẳng ra, đây là lịnh của Thần phi.
Thái úy: Ừ… ừ, lịnh của Thần phi đó thì sao?
Nguyễn Trãi: Quả là đồ rắn độc! Nhưng được, ta sẽ về kinh với các ngài. Các ngài không phải lo áo mũ của các ngài sẽ bị tuột mất đâu. Ở đó, chờ ta giây lát. Ta vào thu xếp ít hành trang.”[11]
Đoạn Nguyễn Trãi đối đáp với những lời lẽ gãy gọn thể hiện ngôn ngữ của bậc trưởng thượng: “Kìa! Ai nằm ngủ trong vườn của ta, lại mang sắc phục triều đình thế này? Ô, quan Thái úy! À quan Ngự sử, lại có cả Thúc Huệ nữa…, Quả là đồ rắn độc! Nhưng được, ta sẽ về kinh với các ngài. Các ngài không phải lo áo mũ của các ngài sẽ bị tuột mất đâu. Ở đó, chờ ta giây lát…”; còn tinh thần thể hiện qua lời nói thì không hề bị bất kì một uy lực nào uy hiếp khiến lời lẽ trở nên nhún nhường, khiếp sợ: “trời chưa sáng tỏ mà đã mò đến đây để chực bắt ta, Đi bắt ta mà ngủ gà ngủ gật thế kia?, Các ông hãy dẹp các trò trẻ con khờ khạo ấy đi, Đứa bé mới lên hai biết gì mà bịa chuyện. Hãy dẹp đi chỉ dụ.”
2.1.3. Lớp từ địa phương Nam Bộ thích hợp với loại hình ca cổ. Vì đây là tuồng cải lương lịch sử nói về con người và sự kiện diễn ra trên không gian đất Bắc, nên tác giả đã cố gắng sử dụng ngôn từ phù hợp với tình huống hoàn cảnh. Tuy nhiên, vẫn có một số yếu tố ngôn từ thuộc phương ngữ Nam Bộ được tác giả sử dụng mà không làm phương hại tính điển hình của sáng tác, chẳng hạn việc dùng một số từ biến âm và cách xưng gọi rút gọn, như: “lịnh chỉ, tướng lịnh, lịnh bà thay vì (lệnh), bạo bịnh (bệnh), cáo bịnh, bá tánh (bá tính), sanh (sinh), sanh linh, nhứt (nhất) định, nhứt tề, nguy nàn (nạn), tiếp nghinh (nghênh), thơ (thư), gởi (gửi) thơ, bất nhơn (nhân)…; bả (bà ấy) muốn một mình bả, ổng (ông ấy) có xem hoàng thượng ra gì nữa đâu?...” và một số từ ngữ xét thấy phù hợp hơn với chu cảnh: “dùng trà (chè), ngự trà, bộ tịch (bộ điệu), bấn loạn (hoảng sợ), ba mùa mai (đào) nở…”. Điều đó cho thấy sự cân nhắc của tác giả trong việc dùng từ ngữ; nhưng mặt khác, những yếu tố phương ngữ được sử dụng thích hợp và chừng mực ở đây, góp phần đáp ứng được tâm lí, thói quen ca diễn của các nghệ sĩ vốn sinh trưởng trên đất Nam Bộ và loại hình nghệ thuật được sản sinh trên vùng đất này vốn cần có sự phù hợp với tâm lí diễn đạt và thói quen tiếp nhận của họ. Mặt khác, sự biến âm trong một số từ ngữ Nam Bộ, đáp ứng yêu cầu hài hòa thanh âm và hiệp vận, bởi chịu sự tác động thang âm của một số bài bản ca chi phối.
2.2. Nghệ thuật phối hợp các bài bản trong vở tuồng
Soạn giả nào khi soạn tuồng cải lương cũng biết rõ tính chất của các bài bản tài tử, ca cổ. Do vậy, theo soạn giả Xuân Phong: “Phải căn cứ vào hoàn cảnh sự kiện, tính chất sự việc tác động tới tình cảnh, tâm lí nhân vật mà chọn bài bản và thể hiện liều lượng thích hợp. Không thể lạm dụng bài ca, bản đờn mà dài dòng lê thê để khán giả phải than phiền “chết đến nơi mà còn ca vọng cổ”. Soạn giả không viết lời tuồng cho diễn viên “khoe hơi, khoe giọng” mà kéo dài lời ca, tăng bài bản đờn hát không cần thiết. Tình cảnh thúc bách không thể ca rề rà, mà lại còn ca dài, ca lâu là điều tối kị, dù vở tuồng có lời từ hay, lại được đóng bởi diễn viên có giọng ca tốt...[12]”.
Riêng nói về sự phối hợp các câu ca, bài ca trong vở diễn Rạng ngọc Côn Sơn, có thể thấy soạn giả đã sử dụng khá nhiều bài ca tài tử, bản vắn phối hợp với câu ca vọng cổ. Đây là một vở diễn nặng yếu tố ca hơn kịch nên người mê ca cổ cải lương thì sẽ thích vở diễn này. Nói như Ninh Lộc: “Đây là một vở cải lương đáng nghe và đáng xem; đặc biệt với những khán giả yêu mến câu vọng cổ, ưa thích cải lương phong cách xưa tập trung chủ yếu cho lời ca.[13]”. Đi vào từng loại thể bài ca, bản đờn có thể nhận ra một số đặc trưng nghệ thuật trong sự phối hợp bài bản, như sau:
2.2.1. Về các bài bản tài tử, bản vắn trong vở tuồng Rạng ngọc Côn Sơn, soạn giả Xuân Phong đã sử dụng các bài ca trong Ba Nam: Nam ai, Nam ai với lớp Mái, Nam xuân, Nam xuân với lớp Trống xuân, Đảo ngũ cung. Còn trong Sáu Bắc có các bài: Lưu thủy trường, Phú lục, Xuân tình lớp 1 (dùng 2 lần), Xuân tình lớp 4, 5 (lớp chót). Trong những bài Lễ thuộc nhóm Bảy Hạ, ông chỉ dùng Xàng xê lớp 1 và Xàng xê lớp Xề (lớp 3 dùng đến 2 lần). Với các bài oán, ông đã dùng: Phượng hoàng, Văn Thiên Tường lớp dựng, lớp xế xảng… Còn với các bản ngự, ông chỉ dùng: Duyên kì ngộ. Ông cũng dùng một số bản nhỏ sân khấu cải lương có hơi Quảng và hơi Bắc[14], như: Sơn đông hướng mã, Khóc hoàng thiên, Kim tiền (2 lần), Kim tiền bản (3 lần), Khổng Minh tọa lầu…, và một vài bản nhạc sân khấu khác có hơi ai, hơi oán[15], như: Lưu thủy hành vân, Ngựa ô nam, Lý giao duyên, Trăng thu dạ khúc…
Đi sâu phân tích các bài bản được soạn giả sử dụng, người nghe có thể nhận ra sự phù hợp giữa hoàn cảnh, tâm trạng và các bài bản mà ông sử dụng. Qua đó, có thể đánh giá về tài năng của soạn giả. Vì hơn ai hết, “soạn giả phải hiểu chức năng, âm điệu của từng bài thì mới biết xếp sao cho hợp tình hợp cảnh.[16]”. Chẳng hạn, khi ông dùng bài Nam xuân để nói về tâm trạng Nguyễn Trãi muốn bộc bạch về quá khứ xa xưa mà có lần ông theo cụ Nguyễn Phi Khanh, bị đóng tù giải sang Ngô. Giới chuyên môn đánh giá bài Nam xuân có “điệu nhạc thanh thản lâng lâng, sảng khoái, nghiêm trang, nhẹ nhàng, có người cho là mang dáng “tiên phong đạo cốt”.[17]”, quả phù hợp với tình cảnh Nguyễn Trãi. Nhưng đến câu 8-12 lại là tâm sự của Thị Lộ thì soạn giả lại mở hơi ai buồn áo não, rất phù hợp với tình cảnh Thị Lộ lúc này: “Đêm qua thiếp trăn trở nghĩ đến xóm làng/ Trong dạ nào an, nghĩ càng thương cho chàng/ Ôi cội già hứng chịu cuồng phong, ấy chữ nghĩa là ấy chữ nhân/ Nhân nghĩa vẹn toàn, nhưng lòng thiếp sao an.”. Đoạn mở ai này còn là bước chuẩn bị chuyển vô đoạn đối thoại ca cổ 3 câu 1,2,3, một cách hài hòa, nhịp nhàng giữa Nguyễn Trãi và Thị Lộ, nhằm lột tả được hết tâm sự sầu lo của hai người. Hay bài Nam ai diễn tả tâm sự rối bời, đau khổ của Ngô phi Ngọc Giao và Nguyễn Trãi sau khi vua Thái Tông băng hà và họ bị Thần phi ghép tội: “Ôi đại nhân cùng học sĩ đã vì ta mà lao lung vất vả, còn ta chỉ vì… một… …. chữ ân ta chưa trả cho vẹn mối thâm tình[18]/ Nên quyết lòng về kinh, dù phải nát thân mình/ Xin người hãy yên tâm, đừng khuyên giải cản ngăn/ Mọi việc ta sẽ tỏ bày cho tường tận giả chân/ Lẽ đâu ta cam, chịu cảnh này, bất bình đành bó gối khoanh tay/ Phải vạch tội đứa nghịch thần, đã mưu hại đại nhân//[19] Xin chớ nên vì ta phải lụy/ Chẳng ích chi chỉ thiệt cho lịnh bà/ Thánh quân nay đã băng hà/ Càng không nên về kinh.”. Đặc biệt là bài Nam ai lớp Mái được Xuân Phong sử dụng thích hợp nhịp điệu nhanh, phù hợp với tình cảnh khẩn cấp: “Xin lịnh bà hãy nghĩ lại, đừng nên vội hủy mình/ Nỗi đau tâm tình có trời đất chứng minh/ Hãy vì cơ nghiệp nhà Lê đang trong cảnh lâm nguy/ Nghe lời khuyên của thần, xin yên lòng ra đi/ Hà Lâm tướng quân, hãy chuẩn bị sẵn sàng/ Để đưa lịnh bà mau rời khỏi nơi đây.”.
Riêng với những tình cảnh bức xúc, thể hiện sự tiếc nuối, ân hận, soạn giả đã dùng các bài oán, bài Văn Thiên Tường hai lớp, lớp dựng và lớp xế xảng, bài Phượng hoàng để chuyển tại nội dung, tâm trạng nhân vật. Đó là tình cảnh Tố Quyên phải biệt Thị Lộ khẩn cấp, khó khăn vì tình cảm bao năm gắn bó, đặc biệt là đoạn tâm sự tình tứ, bi thương, đau khổ của Thị Lộ và Nguyễn Trãi qua khúc Phượng hoàng trong cảnh phục hiện: “Đại phu lấy việc nghĩa nhân làm hạnh phúc. Thiếp như giòng nước đục được khơi trong. Đại phu ơi! Dẫu nghịch cảnh xui nên lắm nỗi. Thiếp vẫn nhớ nghĩa thâm sâu qua những giây phút ái ân… trên mười năm chung gối chung chăn, giờ chỉ còn lại chữ… thủy chung… cay đắng đã cùng, ngọt bùi chia sẻ. Duyên tình vẹn vẽ. Thiếp nghĩa cũng như tròn bổn phận với Đại phu// Phu nhân ôi, đau xót cho ta khi nghĩa đến nàng. Cũng vì đại nghĩa, thân nàng nào có xá chi. Ta nghĩ thương ai, bởi chẳng may lâm tù tội đến nỗi này? Biển cả không đong nỗi thương cảm cho đầy// Bởi quá tin yêu nên chàng mới nói vậy. Thiếp nghĩ chưa tròn nghĩa cả tình riêng// Chớ quá bi thương khiến lòng ta khổ lụy// Đại phu ơi, đây là lời lẽ tâm tình… Để chia tay nhau hay lời vĩnh biệt của chúng mình.”. Hay câu thưa chuyện của Tố Quyên cùng Nguyễn Trãi về Thị Lộ được viết bằng đoạn nhạc Xế xảng đã lột tả được nỗi bi ai ở mức tột cùng: “Phu nhân bắt quyết con phải trở về… Ôi! Lòng con nát tan trăm mảnh… Người ở lại hứng chịu cùm gông thảm cảnh… Con đành gạt lệ ra đi. Người bảo con về trao lại cho đại nhân. Đây, bức thơ viết trên vạt áo…Và những dòng chữ người đã viết nên … … Bằng máu của phu nhân, giữa nơi tăm tối chốn lao tù/ Để nhắn gởi cùng với đại nhân/ Than ôi! Cảnh ngộ của phu nhân/ Nghĩ ra con càng thêm đau lòng/ Thương thân người phải chịu cùm gông/ Đớn đau roi vọt tội tù, xác xơ tơi tả vì bão giông.”. Lớp Xế xảng cũng là đoạn nhạc gối đầu để vào câu ca cổ trong tình cảnh xen lẫn vui buồn rơi nước mắt.
Bài Xuân tình thuộc bản Bắc với các lớp có âm điệu vang, trong sáng, rộn rã được soạn giả Xuân Phong khai thác để diễn tả tâm sự đối thoại dài dòng, có tranh luận thật phù hợp, như đoạn trao đổi giữa Thái Tông và Nguyễn Trãi về “rợ Bồn” và việc động binh/bãi binh, đoạn tra hỏi Thái úy của Thần phi về việc đoàn ngự giá đã để cho Thái Tông gặp Nguyễn Trãi, hay đoạn trao đổi nhẹ nhàng, tâm sự rỉ rả của Nguyễn Trãi với Chí Tâm và đoạn thuật chuyện khách quan giữa vua tôi Thái Tông và hình quan Thiên Tích…
Các lớp Xàng xê được dùng nhiều trong cải lương. Soạn giả Xuân Phong cũng dùng lớp 1 của bài vừa thể hiện sự hùng tráng uy nghi khi Nguyễn Trãi chỉ trích các công thần: “Ta hỏi các quan/ Hưởng lộc vua, sao các ngài không tự xét/ Sao không thấu mọi nỗi lầm than…/ … Nguyện ước của muôn người…/ Nước động tất thuyền xô khi đang cơn sóng cả/ Vận nước ngửa nghiêng, sao không cùng chung một dạ/ Giang san này có phải của riêng ai?/ Ta thử hỏi: Sao các ngươi nỡ ngoảnh mặt làm ngơ?/ Ích kỉ nhỏ nhen, chỉ biết lo bề ấm tử vinh thê/ Suốt bao năm ròng dưới ách giặc Hán, Tống, Nguyên, Minh…/ Há chẳng đủ cho các ngươi làm một bài học/ Còn các ngài sao lại tự vội xưng danh/ Là bậc công thần, chỉ mưu cầu bổng lộc, quyền cao/ Sống chết mặc ai, cứ đua đòi xênh xang võng lọng/ Có thấy chăng? Nhân tâm đang xao xuyến bất bình/ Biên ải rập rình bóng lũ giặc xâm lăng/ Hãy mở mắt ra! Hãy lắng nghe những lời réo gọi/ Non nước đang chờ sự tỉnh ngộ của các ông…”; nhưng cũng có lúc dịu dàng, êm ái, khi ông tâm sự cùng những người đồng cấp, đồng trào: “Còn các người nữa, than ôi! Tình huynh đệ sinh tử có nhau. Vậy mà nỡ tị hiềm, ghét ghen bội bạc…/ Quên mất chữ nghĩa nhân đạo trọng làm người.”. Ở bài Xàng xê lớp Xề, đôi khi sự thể hiện tình cảm có mạnh mẽ, dữ dội hơn, ấy là lúc bộc bạch tình cảm ở mức độ cao của sự thất vọng, tuyệt vọng hay sự căm giận, như tâm sự của Thần phi khi hay tin Nguyễn Trãi được vua Thái Tông vời về kinh: “(Hết)… Tất cả rồi! Bao mộng ước trên đời/ Ôi tan nát rã rời…/ Nếu Nguyễn Trãi hắn sẽ về kinh/ Thì còn chi… mưu đồ ta bao năm đổ sụp/ Ôi! Ngai vàng còn đâu nữa bởi Băng Cơ?/ Còn đâu uy quyền của Nguyễn Thị Anh/ Nguyễn Trãi mi biết chăng! Lòng ta sôi sục/ Ta căm giận mà thề rằng:/ Mối thù này quyết chẳng đội trời chung.”.
Bài Kim tiền bản thể hiện được tiết tấu dữ dội, nhanh gọn, thúc giục, được soạn giả Xuân Phong dùng tới 3 lần trong các tình huống: tranh luận giữa Thái Tông và Nguyễn Trãi đã đến lúc làm cho Thái Tông bực mình, phẫn nộ: “Quả thật trái tai, trẫm không thể nào nghe được/ Rằng “Loạn Bồn kia nào có tội chi đâu”/ Vậy ta hỏi khanh, chớ binh nào dấy động/ Đã giết chết Ngô phi làm điên đảo nhân tâm./ Tâu bởi có kẻ lộng quyền đi che giấu phiên quan[20]/ Hà nhũng hống hách bạo tàn nên họ mới nổi lên.”. Hay đoạn hỏi cung giả vờ của Thần phi với tên áo đen: “Tên đốn mạt kia! Ta hỏi, ngươi phải khai cho thật/ Ai là người đã xúi ngươi, đi ám hại Ngô phi? Dạ… Dạ muôn tâu… Dạ muôn tâu… Tâu cùng Hoàng hậu/ Xin người mở lượng bao dung, tha mạng sống cho con/ Ta hỏi ngươi, sao lại cứ chối quanh, chẳng chịu trả lời ta/ Dạ, dạ muôn tâu… Dạ bởi con… Dạ bởi có người xúi con/ Á! Thôi đi! Khai ra ngay không thì mất mạng/ Chỉ mặt đứa có dã tâm xui ngươi làm chuyện bất nhân.”. Hoặc đoạn cụ Bạch chất vấn Nguyễn Trãi về chiếu lịnh vua ban phải tiêu diệt dân Bồn: “Có phải lịnh vua hay kẻ nào bịa đặt, chuyện rợ Bồn kia dấy loạn phải chiêu an?/ Họ đến bắt dân, chẳng kể chi đến tráng đinh tàn tật/ Rằng lịnh vua ban: Phải tiêu diệt Bồn man/ Con dân một nắng hai sương còn hơn kiếp ngựa trâu/ Vô cớ xua quân bày ra chuyện giết nhau.”.
Với bài Phú lục, có âm điệu sôi nổi, rộn rã, khẩn trương, được soạn giả Xuân Phong dùng để diễn tả tâm trạng vui tươi, phấn chấn của vua Thái Tông khi được Nguyễn Trãi phân giải làm vua nhận ra điều hơn lẽ thiệt và còn được đón nhận nhiều tin vui bất ngờ khác: “… Số là… trẫm đã…/ Ghé lại Côn Sơn cùng quan phục hầu trò chuyện/ Trẫm mới nhận ra hơn thiệt/ Cho nên đã hạ lịnh bãi binh/ Việc thứ hai là vời được Nguyễn Trãi về kinh/ Để chỉnh đốn triều trung/ Thật đáng mừng cho trẫm biết bao/ Còn việc nữa, khiến khanh không thể ngờ/ Trẫm đã gặp lại Ngô phi/ Quả phật trời không phụ lòng ta// Thật là vạn hạnh cho kẻ hạ thần hôm nay/ Đón mừng lịnh bà bình an/ Cùng vui vầy nơi Lệ Chi viên.”.
Một bản vắn Trăng thu dạ khúc gối đầu để chuẩn bị vào vọng cổ, đã diễn tả được tâm sự ân hận của Thái Tông khi gặp lại Ngô phi. Bài ca có lời từ thật ý nghĩa và âm vận thật nhịp nhàng: “Bấy lâu mong đợi tưởng rằng nghìn thu vĩnh biệt nhau/ Mắt ta lệ trào, nhớ những hôm nào/ Vào ra thơ thẩn dạ ngẩn ngơ/ Nghe phi phải chịu thọ nhiều tai ương lòng xót thương.”.
Trong các vở tuồng lịch sử, điều khó nhất với các soạn giả là làm thế nào để đưa cảnh hài vào làm giảm sự “căng thẳng” cho người xem, như một màn giải khuây. Có thể nói tuồng hát mà thiếu màn vui nhộn, vai hề thì cũng làm cho vở diễn thiếu đi sự thú vị; nhưng dĩ nhiên, anh hề không thể làm thành tuồng hát, nhất là những tuồng hát lịch sử trình bày những vấn đề sử liệu có tính “chính thống” đòi hỏi liều lượng hài thế nào vừa đủ, không quá lạm dụng. Theo GS Trần Văn Khê, cần lưu ý vai hề trong cải lương, bởi “…trước đây vốn rất thú vị, nhưng ngày nay đã biến thành “tấu hài” mà trình độ nghệ thuật và mức độ đúng đắn ngày càng xuống thấp…[21]”. Để diễn cảnh hài cũng có nhiều cách: hài bằng hình thức ngôn từ hay bằng hình thể hoạt động nhân vật hoặc bằng tình huống sự kiện kịch mâu thuẫn gây cười. Trên phương diện dùng lời kết hợp với hình thức ca trong cải lương, soạn giả Xuân Phong đã chọn bài Duyên kì ngộ thực hiện yêu cầu này. Bài hát dưới hình thức “quăng bắt”, đối đáp hài hước giữa các quan theo xa giá vua đã tạo nên hình ảnh đám quan lại lôm côm, đáng cười mà soạn giả muốn lột tả: “Coi kìa thì chính tôi…/ Đã bảo ngài cứ thẳng đường về kinh// Ngài không thấy sao đức vua đòi ghé/ Thì tôi phải ghé liền/ Bộ ngài muốn đầu tôi lìa khỏi cổ/ (Ngài nói giỡn chơi hoài)// Thánh hoàng ghé lại Côn Sơn/ Thì về triều các ông sẽ biết…/ Tôi lo các ông không giữ được cái đầu// Ông nói sao? Tôi đây chưa rõ// Hoàng hậu đã mấy lần dặn ta/ Chớ để cho Nguyễn Trãi gặp Thánh hoàng// Rồi đây các ông sẽ phải trả lời/ Về việc này nếu Hoàng hậu hỏi ra/ Các ông chớ có kêu ca…”.
Nhìn chung, đây là một vở tuồng mà soạn giả Xuân Phong đã khéo vận dụng rất nhiều bài bản tài tử, bản vắn để thể hiện được hết bình diện kịch tính của vấn đề trên bình diện ngôn từ kết hợp với hình thức ca đa dạng, tạo nên một dấu ấn đặc trưng của một tuồng cải lương nặng tính chất ca cổ.
2.2.2.Với 6 câu vọng cổ trong vở tuồng Rạng ngọc Côn Sơn, soạn giả Xuân Phong đã viết tất cả 20 câu, tương đương với 4 bài ca cổ thể hiện ở 8 lần ca vọng cổ: lần 1 đoạn đối thoại giữa Nguyễn Trãi và Thị Lộ có 3 câu 1,2,3; lần 2 đoạn đối thoại giữa vua Thái Tông và Ngô phi Ngọc Giao có 3 câu 4,5,6; lần 3 đoạn đối thoại giữa Thái Tông và Thị Lộ có 3 câu 1,2,3; lần 4 đoạn đối thoại giữa tướng quân Hà Lâm và tì nữ của Thị Lộ là Tố Quyên có 3 câu 1,2,3; lần 5 đoạn đối thoại giữa Thị Lộ và Nguyễn Trãi có 3 câu 1,2,3; lần 6 đoạn đối thoại giữa Chí Tâm (học trò của Nguyễn Trãi) với thầy có 1 câu; lần 7 đoạn đối thoại giữa Hình quan Thiên Tích và Nguyễn Trãi có 2 câu 5,6; lần 8 đoạn đối thoại giữa Nguyễn Trãi và Hà Lâm có 2 câu 5,6. Mỗi lần hát như vậy, nhiều nhất là 3 câu; số lượng như vậy là ở mức liều lượng vừa phải, không quá lạm dụng mà cũng không xem nhẹ vai trò chủ lực của câu ca cổ trong một vở tuồng cải lương. Với vai Nguyễn Trãi, Minh Vương hay Thanh Tuấn[22] ca tối đa 5 câu, với vai Thị Lộ, Ngọc Giàu hay Phượng Liên, Ngọc Huyền, Cẩm Tiên ca 4 câu; với vai Thái Tông ca 3 câu, Hà Lâm ca 3 câu, Ngọc Giao ca 2 câu, Tố Quyên, Thiên Tích, Chí Tâm, mỗi vai ca 1 câu. Trong sự phân bố số lượng câu ca cho vai diễn, soạn giả thể hiện rõ sự chú tâm vào tầm quan trọng của nhân vật tuồng, theo thứ tự: Nguyễn Trãi, Thị Lộ, Thái Tông, Hà Lâm, Ngọc Giao…; đồng thời, gần như cũng bao quát được hết các nhân vật có vai trò vệ tinh trong vở tuồng, chỉ trừ Thần Phi Nguyễn Thị Anh xuất hiện trên sân khấu mà không phải ca vọng cổ.
Về phương diện ca cổ, những câu vọng cổ với nhịp 32 đủ để chuyển tải hết nội dung câu chuyện, tình tiết sự việc; vì vậy, soạn giả có thể tận dụng để khai thác hết mọi góc cạnh sự kiện, tâm lí nhân vật thông qua sự kiện, sự việc. Trong vở diễn cải lương không thể thiếu màn chủ lực ca cổ; nhưng không thể có quá nhiều câu ca cổ làm cho vở diễn dài lê thê, khiến khán thính giả chán ngán. Hiểu được yêu cầu này, soạn giả không để cho diễn viên phô diễn quá nhiều câu ca cổ trong một lần hát. Như thống kê đã có, người ca hay như Minh Vương, Thanh Tuấn đóng vai Nguyễn Trãi cũng ca chưa hết một bài vọng cổ 6 câu. Hơn nữa với 5 câu ca, nhân vật Nguyễn Trãi cũng phải ca ở 4 hoàn cảnh, như vậy mỗi hoàn cảnh cũng chỉ ca một câu, đặc biệt mới có tình huống ca 2 câu. Sự phân bố này có chủ đích của soạn giả và có tính đến liều lượng hợp lí, tránh gây sự phô diễn mà vẫn tạo điều kiện cho hầu hết các diễn viên thể hiện được chất giọng; đồng thời, cũng không quá nhiều khiến khán giả phải “bội thực” vì nghe ca cổ.
Với tất cả các câu ca cổ trong vở tuồng, người soạn giả nào cũng am hiểu ca cổ, nên có thể nói không có vấn đề gì về thanh âm, giai điệu, tiết tấu; nhưng hơn nhau là việc chọn lời từ qua các câu ca cổ.
Với vở tuồng Rạng ngọc Côn Sơn, khán giả thật ấn tượng với các câu hát lột tả được tấm lòng yêu nước, thương dân, “dân vi bản” của Nguyễn Trãi và đặc biệt qua giọng hát và tài năng diễn xuất đĩnh đạc, ưu tư của nghệ sĩ Minh Vương: “Phu nhân có thấy chăng, bát cơm họ vẫn chưa đầy, manh áo nào đủ ấm. Nơi thôn cùng xóm vắng… Ngày đêm tai ta vẫn còn nghe tiếng oán than rên rỉ của muôn người… … Mắt ta đã trông thấy bao nhiêu nghịch cảnh trên đời. Cũng chỉ vì mấy năm qua Thánh hoàng nhu nhược, dung túng lũ xu nịnh gian thần, mặc chúng đua nhau nhũng lạm hà khắc sanh linh (+). Ba năm nay ta trở về đây phải đâu lòng ta ham thích. Ôi! Những ngày đông giá rét, ta càng chạnh nghĩ đến chúng dân, đang chịu bao nỗi lầm than, ta trằn trọc thâu đêm có bao giờ chợp mắt.” (câu 1).
Ở câu 3 của một đoạn đối thoại khác với Nguyễn Trãi, sau bi kịch Lệ Chi viên; trong vai Thị Lộ với tài năng diễn xuất và giọng ca trầm ấm, sâu lắng, chứa đựng nhiều suy tư của một bậc thức giả, nghệ sĩ Ngọc Giàu biết nhấn nhá đúng chữ, đôi chỗ ca diễn đạt như nói, làm cho người nghe cảm được hết sự chân thật của cảm xúc, tâm tình: “Không! Với đại phu thiếp nào dám trách, chỉ có thiếp đây mới là đáng tủi thân. Vì chữ tề gia thiếp xử chưa xong, việc nước đại phu giao thiếp không tròn bổn phận. Bởi bất cẩn nên đại phu phải lận đận. Do vô tâm mà ôm hận ngàn thu… Lệ Chi viên! Ôi! Lệ Chi viên! Hỡi Tạ Thành tướng quốc, hỡi Thần phi, bây có nghe chăng? Núi sông căm giận rủa nguyền, muôn dân đồ thán đảo điên oán hờn.”.
Ở câu 5, trong vai hình quan Thiên Tích, một trung quân, bằng chất giọng lạ, ấm, điêu luyện của “ông hoàng dĩa nhựa”, nghệ sĩ Tấn Tài đã thể hiện một câu ca mà không ít khán giả “vững lòng” cũng phải rơi nước mắt, bằng giọng ca trầm ấm của nghệ sĩ với lời soạn chu đáo của soạn giả: “Ôi! Có ngờ đâu lại đến nỗi này… Nhìn thầy sắp thọ án oan mà lòng con ngậm ngùi đau xót. Con biết tính sao để cứu được mạng thầy, cũng chính là con cứu cả giang san này thoát khỏi vòng tai biến. Thầy ơi! Cơ nghiệp nhà Lê sẽ mai một nếu thầy đã ra đi. Trăm họ sẽ lâm nguy vì thiếu bóng thầy soi bước. Non sông sẽ đượm u tối một màu…”.
Cũng trong câu 5, trong vai trò người “chủ hôn” tác hợp cho đôi trẻ Hà Lâm - Tố Quyên, trước giờ Nguyễn Trãi phải về kinh “chịu tội”, nghệ sĩ Minh Vương đã ca một câu “muồi” rơi lệ, chuyển tải được hết những tình ý mà soạn giả Xuân Phong khéo léo thể hiện qua lời ca: “Các con, đây có lẽ là lần cuối cùng thầy trò ta gặp mặt, cũng là ngày đầu tiên các con được sống bên nhau. Nỗi mừng vui pha trộn lẫn thương đau. Thầy hiểu được mối tình sâu đậm ấy. Vậy hôm nay, trước khi chia tay, âu cũng là một chút niềm vui còn sót lại, thầy xin tác hợp cho hai con nên duyên trăm năm gắn chặt chữ tâm đồng… Sống hạnh phúc bên nhau trong nghĩa vợ tình chồng... Ấy là các con đã làm cho ta vui lòng, dẫu mai đây ta có hóa ra người thiên cổ. Bởi những điều ta nghĩ, những việc ta làm, dù phải dở dang, nhưng ta mừng vì nghĩa vụ giang san này có người kề vai gánh vác, thì ta có thác cũng mãn nguyện rồi…”.
Trong các câu ca cổ thể hiện vai Ngô phi và Thái Tông, những lời ca cũng được soạn giả viết khéo léo, thể hiện được tình tiết mở nút, dẫn dắt giúp khán giả nắm bắt được sự việc, sự kiện. Trong sự tranh giành quyền lực của Thần phi dẫn đến vụ ám hại Ngô phi, ghét ganh Nguyễn Trãi vì ý đồ đen tối có người phát hiện, soạn giả Xuân Phong đã viết những câu ca cổ khá sâu sắc cho các vai diễn này: “Quân Vương ơi! Nếu không nhờ ơn đức của quan Phục hầu và Hà Lâm tiểu tướng, thì mẹ con thiếp biết cậy nhờ ai thương tình giúp đỡ, trong cơn nước lửa một tấm thân côi, đây đó nổi trôi như bèo dạt cuốn… theo… dòng… Ôi! Nghĩa cả ngàn năm thiếp nguyện tạc dạ ghi lòng. Dù phải kết cỏ ngậm vành, Ngọc Giao này cũng quyết báo đền ơn cứu tử. Năm ấy, sau khi lánh mình nơi chùa Huy Văn ba tháng, thiếp thần hạ sinh được Hoàng nam. Nhưng mừng không trọn vì sợ nỗi Thần phi tìm mưu ám hại. Trong lúc thiếp bôn đào tránh họa, thì may có Học sĩ cho người đưa mẹ con thiếp lên tận đất Bồn. (câu 4)// Ôi! Nghe Ngô phi tâm tình cạn tỏ, càng xốn xang lòng trẫm xiết bao. Ta trách mình đã nghe lời sàm tấu của Thần phi Tướng quốc, khiến cho thân liễu phải chịu bão vùi gió dập, cành lá xác xơ. Phi ơi! Phi cứ trách ta đi. Vì ta thật là đáng trách. Ta làm vua mà không biết xét suy minh bạch, khiến Ngô phi phải chịu phũ phàng. Giận thay một lũ phản thần, xui ta làm chuyện bất nhơn hại người. Gặp nhau lỡ khóc lỡ cười, lòng này xin có đất trời chứng minh.” (câu 6).
Ngoài ra, còn những câu ca để cho những nhân vật vệ tinh cũng có dịp được thể hiện tài năng ca hát của mình, như những câu ca dành cho tướng quân Hà Lâm, tì nữ Tố Quyên, đệ tử Chí Tâm… Quả thật, soạn giả Xuân Phong đã khéo bao quát trong khi viết kịch bản. Đây không chỉ là sự chú tâm trong tình tiết cốt truyện, mà còn thể hiện mức quán xuyến mọi chuyện cần kíp khi viết một vở diễn cải lương.
3. Soạn giả Xuân Phong người Bến Tre, sinh năm 1930, là tác giả của nhiều vở diễn cải lương, nhưng giới chuyên môn và công chúng mộ điệu biết đến ông như một soạn giả hàng đầu là qua vở diễn Rạng ngọc Côn Sơn được ông cho ra mắt vào khoảng năm 1982. Ở tuổi năm mươi khi viết kịch bản, ông đạt đỉnh cao trong sự nghiệp cầm viết, đã từng lăn lộn trong chiến trường với cương vị người lính của Tiểu đoàn 307 và những năm tập kết tham gia công tác văn hóa văn nghệ từ Trung ương đến địa phương. Với độ chín của tài năng và sự từng trải đời, ông đã viết vở Rạng ngọc Côn Sơn, một vở diễn mà đạo diễn Hoa Phượng[23], vốn nổi tiếng với tên cặp Hà Triều – Hoa Phượng, cũng có lời khen ngợi: “Anh viết “Rạng Ngọc Côn Sơn” nói về Nguyễn Trãi, còn em viết “Hạt bụi non cao” cũng nói về Nguyễn Trãi, nhưng vở diễn của em viết về Nguyễn Xếp[24] mất rồi”.[25]
[2] Triều Lê (hậu Lê) được khởi nghiệp từ Lê Lợi, người có công đánh thắng giặc Minh, lên ngôi với tước hiệu Lê Thái Tổ. Có ý kiến cho rằng, cuộc đời của vị vua này cũng mắc một sai lầm cố hữu như nhiều triều đại khác, là tiêu diệt công thần, sau kháng chiến thành công. Sách Đại Việt sử ký toàn thư nhận xét về Lê Thái Tổ như sau: “Vua nhiệt tình, hăng hái dấy nghĩa quân đánh dẹp giặc Minh. Sau 10 năm thì thiên hạ đại định. Đến khi lên ngôi, đã ấn định luật lệnh, chế tác lễ nhạc, mở khoa thi, đặt cấm vệ, xây dựng quan chức, thành lập phủ huyện, thu nhập sách vở, mở mang trường học, có thể gọi là có mưu kế xa rộng mở mang cơ nghiệp. Song đa nghi, hiếu sát, đó là chỗ kém.”. Nguyễn Trãi tuy không bị giết nhưng cũng về ở ẩn.
[4] Nguyễn Trãi bị “tru di tam tộc” bởi vụ án vườn vải (còn gọi là vụ án Lệ Chi viên) vào ngày 27 tháng 7 (âm lịch) năm Nhâm Tuất (1442). Nguyên do được lí giải như sau: vua Lê Thái Tông đi tuần ở miền Đông, duyệt quân ở thành Chí Linh, Hải Dương. Nguyễn Trãi đón vua ngự ở chùa Côn Sơn, nơi ở của Nguyễn Trãi. Ngày 4 tháng 8 (âm lịch) vua về đến Lệ Chi viên thuộc huyện Gia Định (nay thuộc thôn Đại Lai, xã Đại Lai, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh). Cùng đi với vua có Nguyễn Thị Lộ, một người thiếp của Nguyễn Trãi khi ấy đã vào tuổi 40 được vua Lê Thái Tông yêu quý vì sự xinh đẹp, có tài văn chương, luôn được vào hầu bên cạnh vua. Khi về đến Lệ Chi viên, vua thức suốt đêm với Nguyễn Thị Lộ rồi băng hà, lúc này ông mới 20 tuổi. Các quan bí mật đưa về, ngày 6 tháng 8 (âm lịch) mới đến kinh sư, nửa đêm vào đến cung mới phát tang. Triều đình đã quy cho Nguyễn Thị Lộ tội giết vua. Nguyễn Trãi và gia đình bị án tru di tam tộc và bị giết ngày 16 tháng 8 (âm lịch) năm này. Đến tháng 7 (âm lịch) năm Giáp Thân (1464), vua Lê Thánh Tông đã rửa oan cho Nguyễn Trãi, theo http://vi.wikipedia.org
[5] Sỹ Tiến, 1984, Bước đầu tìm hiểu sân khấu cải lương, NXB. TP. HCM, trang 13.
[6] Các từ ngữ được trích trong bài viết dựa trên lời từ của tuồng Rạng ngọc Côn Sơn của Nguyễn Xuân Phong.
[7] Đặc trưng phong cách học của lớp từ thuần Việt và Hán Việt là chúng đối lập nhau ở màu sắc phong cách và sắc thái biểu cảm: từ Hán Việt thường có màu sắc phong cách cao, được dùng phổ biến trong giao tiếp chính thức xã hội, trong văn phong hành chính và có sắc thái biểu cảm trang trọng; từ thuần Việt thường mang màu sắc phong cách trung hòa hoặc thấp, thường được dùng trong giao tiếp không chính thức xã hội, giao tiếp đời sống, trong phong cách khẩu ngữ, làng xóm, gia đình, có sắc thái biểu cảm thân mật, gần gũi.
[8] Quán ngữ hay thành ngữ là tổ hợp từ cố định, được dùng trong giao tiếp mang nhiều đặc trưng tu từ, như: tính hình tượng, tính biểu trưng, tính dân tộc, tính biểu thái… Chính vì điều này, mà thành ngữ được đánh giá cao trong giao tiếp của mọi ngôn ngữ, được ví như “đội quân tinh nhuệ của ngôn ngữ dân tộc”.
[9] Đoạn trích trong cảnh một của vở tuồng, cảnh nhà Nguyễn Trãi ở Côn Sơn.
[10]Đoạn trích trong cảnh hai của vở tuồng, cảnh Lệ chi viên.
[11] Đoạn trích trong cảnh năm của vở tuồng, khu vườn nhà Nguyễn Trãi ở Côn Sơn.
[12] Trích phát biểu phỏng vấn soạn giả Nguyễn Xuân Phong, ngày 21/10/2014.
[14] Minh Lời, 2001, Bài bản sân khấu cải lương và tài tử Nam Bộ, Sở VH-TT tỉnh Bến Tre, trang 15, 51, 83, 87.
[15] Minh Lời, 2001, Bài bản sân khấu cải lương và tài tử Nam Bộ, Sở VH-TT tỉnh Bến Tre, trang 104, 105, 109, 112.
[16] Nguyễn Thị Minh Ngọc, Đỗ Hương, 2007, Sân khấu cải lương, NXB Văn hóa Sài Gòn, trang 62.
[18] Những chữ ăn đờn hiệp thinh vận được nhấn mạnh.
[19] Dấu // chỉ sự thay đổi vai nhân vật.
[20] Người chỉ huy tình báo, gián điệp.
[21] Trần Văn Khê, 2004, Du ngoạn trong âm nhạc truyền thống Việt Nam, NXB Trẻ, trang 361.
[22] Tuồng Rạng ngọc Côn Sơn được diễn nhiều lần với nhiều dàn diễn viên khác nhau, nhưng vai kép chính Nguyễn Trãi thì gần như nghệ sĩ Minh Vương độc chiếm, còn vai đào chính Thị Lộ thì qua nhiều lớp diễn viên nữ, trong đó vai Thị Lộ do Ngọc Giàu đóng được đánh giá thành công nhất, kế đến là Ngọc Huyền, Phượng Liên… (HCT)
[23] Hoa Phượng (1933-1984) là soạn giả tài năng với nhiều vở tuồng nổi tiếng đồng tác giả với Hà Triều (1931-2003), như: “Tấm lòng cửa biển, Nửa đời hương phấn, Tần nương thất, Đương gươm Nguyên Bá, Khói sóng tiêu tương, Khi hoa anh đào nở, Mưa rừng, Thái hậu Dương Vân Nga...”. Ông có viết riêng một vở về Nguyễn Trãi với tên tựa “Hạt bụi non cao”.
[24] Ý chơi chữ của soạn giả Hoa Phượng đối lập hai từ “trãi” và xếp” (Người miền Nam phát âm “trãi/trải” như nhau).
[25] Trích ý trả lời phỏng vấn của soạn giả Nguyễn Xuân Phong, ngày 21/10/2014.
Tài liệu tham khảo:
1. Trần Văn Khê, 2004, Du ngoạn trong âm nhạc truyền thống Việt Nam, NXB Trẻ.
2. Minh Lời, 2001, Bài bản sân khấu cải lương và tài tử Nam Bộ, Sở VH-TT tỉnh Bến Tre.
3. Nguyễn Thị Minh Ngọc, Đỗ Hương, 2007, Sân khấu cải lương, NXB Văn hóa Sài Gòn.
4. Xuân Phong, 1982, kịch bản cải lương lịch sử Rạng ngọc Côn Sơn.
5. Xuân Phong, 2000, DVD cải lương Rạng ngọc Côn Sơn.
6. Nguyễn Xuân Phong, 2014, Trả lời phỏng vấn của soạn giả, ngày 21/10/2014.
7. Sỹ Tiến, 1984, Bước đầu tìm hiểu sân khấu cải lương, NXB. TP HCM.
Nguồn: “Nghệ thuật âm nhạc phương Đông: Bản sắc và giá trị”, NXB ĐHQG, 2014.