Chuyện kể rằng, có ông đồ miệt vườn ban đêm bị trộm bắt mất gà, sáng hôm sau, tuy tiếc của nhưng ông không chửi mắng gì ai mà chỉ làm bài thơ ôn tồn đề trước cửa ngõ như sau:
Bây ơi, chi sá một con gà,
Có bắt thì bây thả nó ra.
Buông tha nhả nhớm chồng còn vợ,
Bắt bớ giam cầm con mất cha.
Nuôi nấng bấy lâu đà mến tiết,
Ở ăn nửa kiếp kết tình nhà.
Ngựa Hồ chim Việt ai chia rẽ,
Rao cùng khắp hết kẻ gần xa.
Không ngờ tay ăn trộm cũng biết chút chữ nghĩa, đọc được nên làm bài thơ hoạ lại, ban đêm đem dán ngay bên dưới bài thơ của thầy đồ:
Ông ơi, chi tiếc một con gà,
Tui bắt đặng rồi dễ thả ra?
Phao câu béo lắm chồng nhường vợ,
Chéo cánh ngon thời con kính cha.
Nuôi nấng chi đâu mà mến tiết,
Đãi đằng cho đặng bởi thương nhà.
Ngựa Hồ chim Việt dù chia rẽ,
Gần còn bắt nữa, lựa là xa[1].
Kết quả là, chẳng những vụ trộm không bị truy cứu mà còn được hai bài thơ hay thể hiện cá tính hào phóng của cả thầy đồ lẫn tay trộm. Qua cuộc giao tiếp đặc biệt này, hai bên đã hiểu và đồng cảm nhau hơn. Tay trộm đã tuyên ngôn về đạo lí của mình: Trộm miếng ăn về để kính cha nhường vợ, nêu cao đạo cương thường. Ngược lại, sự im lặng sau đó của thầy đồ vô hình trung cho phép những kẻ thiếu đói có thể trộm vặt để sống qua ngày, bởi lẽ những món lặt vặt như con gà kia chủ yếu cũng do trời sanh trời dưỡng, chủ nhân không có bỏ công bỏ của chăm sóc bao nhiêu. Đây chính là sự mở rộng của luật chơi “Chim trời cá nước, ai bắt được nấy ăn” trong đời sống lưu dân buổi đầu.
Thật vậy, buổi đầu lưu dân đến ĐBSCL chủ yếu khai thác những nguồn lợi thiên nhiên sẵn có như lúa ma (lúa trời), cá tôm, rùa, rắn, mật ong, bông súng, củ co… để sống qua ngày, gọi là “lộc nước hương trời”:
Ai về dưới miệt Tháp Mười,
Cá tôm sẵn bắt, lúa trời sẵn ăn.
Hay:
Cám ơn bông súng củ co,
Nợ nần trả hết lại no trong lòng.
Dần dần người ta mới bắt đầu trồng trọt và chăn nuôi. Nhờ đất đai màu mỡ, thời tiết thuận lợi nên cây trồng và vật nuôi lớn nhanh mà hầu như không cần đầu tư, chăm sóc gì nhiều. Quăng ít hột giống, thả mấy con gà con vịt rồi cứ “giao cho trời”, vậy mà chẳng bao lâu lại kết quả mĩ mãn, gọi là “làm chơi ăn thiệt”.
So với tình cảnh “khốn nạn” trong bài ca dao miền Bắc Trung Bộ “Tháng giêng, tháng hai, tháng ba, tháng bốn, tháng khốn tháng nạn…” thì vùng đất mới thật dễ sống đến lạ lùng, nên người dân dễ liên tưởng rằng họ chính là những “kẻ trộm lộc nước hương trời”. Trong cuốn Cà mau xưa – An Xuyên nay (1968), Nghê Văn Lương có ghi lại một phong tục lạ lùng của cư dân địa phương như sau: Người nào làm ruộng trúng mùa quá thì, thay vì đãi tiệc ăn mừng, trái lại phải “xả xui” bằng cách nhờ người nhà lấy cây chổi rơm đánh nhẹ lên đầu vài cái như để tự trừng phạt.
Ngày xưa, làm ruộng nếu có bị chim chuột hay thú rừng phá, người ta cùng lắm cũng chỉ xua đuổi chúng chứ ít khi gài bẫy hay đánh thuốc độc, vì cho rằng chim thú phá thì cũng giống như mình đang ăn trộm của trời, nghĩa là chẳng qua chỉ là “ăn trộm gặp ăn trộm” mà thôi. Về sau, quan niệm này đã phai lợt đi nhiều nhưng phong tục “nương tay” với chim thú phá hại vẫn còn giữ bằng lí lẽ: Nếu mình phạm tới chúng thì chúng sẽ nổi giận, phá hại còn nhiều hơn. Và con chuột – kẻ phá hại mùa màng nhiều nhất – lại được tôn thành “ông Tí” có lẽ cũng nằm trong quan niệm này.
Do ý thức mình là “kẻ trộm”, nghĩa là luôn sợ “mang tội” nhiều nên ngày trước ở ĐBSCL người ta không bao giờ đánh bắt cá đầu mùa mưa, tức là giai đoạn “cá lên”, vì lúc này cá đang có chửa, bụng căng đầy trứng, tìm cách vượt từ sông rạch lên ruộng đồng để đẻ trứng. Sau đó, khi cá còn nhỏ, người ta cũng không bắt ăn vì sợ “mang tội” (“mang tội” là lối tư duy tuy đơn giản nhưng vô cùng thiêng liêng của người dân ĐBSCL). Chỉ đến mùa nước rút (khoảng cuối tháng 10 âm lịch trở đi), khi cá trên đồng nghe hơi lạnh, tháo ngược về sông rạch thì người ta mới đánh bắt cá đại quy mô.
Nhiều làng quê ở ĐBSCL xưa nay vẫn duy trì lệ cúng đình vào trung tuần tháng chạp âm lịch để tạ ơn thần thành hoàng và các vị thần khác đã phù hộ cho mưa thuận gió hoà, giúp vụ mùa đã có kết quả. Các vị thần này không gì khác hơn chính là sự hình tượng hoá thiên nhiên như một bà mẹ vĩ đại đã bao dung ban phát sự sống cho con người.
Đối với người Khmer ở ĐBSCL, vào dịp rằm tháng 10, khi bắt đầu thu hoạch vụ lúa mùa sớm, cùng với lễ Đút cốm dẹp và hội đua ghe Ngo, họ còn làm lễ Cúng trăng để tạ ơn thần nước (được hình tượng hoá thành mặt trăng) đã ban cho họ miếng ăn và cầu xin thần tha thứ bởi họ đã vì sự sống của mình mà phải xúc phạm và làm ô uế dòng nước.
Mang tâm lí mình là kẻ thừa hưởng, thậm chí kẻ trộm của thiên nhiên nên làng quê ở ĐBSCL ngày trước không quá khắt khe đối với trường hợp vì quá túng quẫn buộc phải ăn trộm. Dân gian vùng này có câu nói tuy thô nhưng cho thấy rõ quan niệm bao dung đó: “Bần cùng sanh đạo tặc, không ăn cắp lấy con c. gì ăn”. Hơn nữa, do đất rộng người thưa nên, chẳng hạn, đang đi dọc đường, khát nước, gặp đám dưa mà không thấy chủ đâu, người ta chỉ cần la lớn lên một câu đại loại như “Cho xin trái dưa ng…ô…n!” là coi như đã có quyền hái vài ba trái để dùng. Quan niệm cởi mở, hoà đồng, dễ nhập cuộc đã tạo nên tính cách dễ dãi của người dân nơi đây:
Đi ra gặp vịt cũng lùa,
Gặp duyên cũng kết, gặp chùa cũng tu.
Các cụ Nho ở ĐBSCL ngày trước vẫn thường nhắc câu nói của thầy Mạnh Tử: “Vi nhân bất phú, vi phú bất nhân”. Bởi vậy mà họ tỏ ra vô cùng hâm mộ 108 vị anh hùng Lương Sơn Bạc cướp của nhà giàu chia cho dân nghèo, gọi là “Thế thiên hành đạo”. Theo họ, chuyện người nghèo ăn trộm vặt của nhà giàu chẳng qua là thi hành luật trời “có qua có lại”: “Người khôn ăn bòn kẻ dại, kẻ dại ăn hại người khôn”.
Loại trộm vặt như thế ở ĐBSCL xưa nay thường được bỏ qua, thậm chí kẻ truy cứu có khi còn bị mang tiếng là người nhỏ mọn. Trong hồi kí Chợ Đệm quê tôi (1985), Nguyễn Văn Trấn đã thuật lại nhiều câu chuyện về bối Ba Cụm[2] nghe thật tức cười, thậm chí… dễ thương. Chẳng hạn, có cô chủ ghe, chiều mặc cái quần lãnh mới, láng mướt ngồi trên mui ghe hóng mát. Bối anh nói với bối em: “Khuya nay tao lột quần con mẹ này cho mày coi!”.
Bối em trong bụng chưa tin lắm.
Khuya, cô chủ ghe nằm trên mui ghe ngủ ngon lành. Tay bối anh lấy một cọng mái dầm lớn, xoắn lại nhiều vòng cho thật chặt rồi hé ống quần của cô nàng mà thọc cuộn mái dầm vô tận đáy quần. Cọng mái dầm liền bung ngoáy xoáy tròn. Cô kia giật mình, hồn vía lên mây, tưởng là rắn chui nên lật đật lột quần ra hất ở mép mui ghe, tưởng để cho con rắn “mắc dịch” bò đi, nào ngờ bối anh đang núp dưới xuồng với tay lấy cái quần ngon ơ ngay trước mặt mà khổ chủ vì đang nồng nỗng nên đành nghẹn ngào không dám la một tiếng.
Ngoài ra còn nhiều câu chuyện thú vị khác, chẳng hạn đêm khuya gần sáng, chủ nhà mang nồi cơm ra bến sông vo gạo bị “bối” lừa lấy mất. Biết ý nên khổ chủ gọi giật giọng qua nhà hàng xóm xin lại nồi cơm, đơn giản vì… bối cả xóm! Ngày trước, nhiều đầu mối của con đường giao thông thuỷ từ miền Tây lên Sài Gòn trở thành tụ điểm kiếm ăn của “bối”, đến nỗi đã hình thành bài “Vè đi bối” và “Vè bị bối” được Huỳnh Ngọc Trảng ghi lại trong cuốn Vè Nam Bộ.
Nạn trộm vặt như vậy xưa nay ở ĐBSCL thường được bỏ qua, gọi là “thí cô hồn”. Cách đây vài năm, tôi được nghe câu chuyện vui của một anh công an xã: Những ngày giáp Tết, ban đêm anh lo đi canh phòng an ninh trật tự trong xã, không ngờ sáng ra bà xã anh phát giác nhà bị mất nguyên nồi thịt kho tàu to tướng mà chị vừa nấu xong hồi chiều. Chuyện mất mát lại trở thành chuyện vui và xuề xoà bỏ qua, vì thật dễ đoán thủ phạm không ai khác chính là kẻ hàng xóm mạt vận đang chạy gạo cuối năm.
Chuyện này giúp ta liên tưởng tới nhân vật Lê Văn Đó trong tiểu thuyết Ngọn cỏ gió đùa (1926) của Hồ Biểu Chánh: Vì thương đám con đang đói lả, anh đi ăn trộm nồi cháo heo của nhà địa chủ, bị bắt rồi vượt ngục, án chồng án suốt 20 năm trời. Thật ra, ở ĐBSCL xưa nay không bao giờ có chuyện tương tự như vậy, mà đây chỉ là do Hồ Biểu Chánh đã “Việt hoá” sự việc nhân vật Jean Valjean (trong tiểu thuyết Những người khốn khổ của V.Hugo) vì thương đám cháu bị đói mà phải ăn trộm chiếc bánh mì và bị kết án 5 năm tù khổ sai, sau 4 lần vượt ngục không thành, án chồng án thành 19 năm. Não trạng duy lí của phương Tây bị Hồ Biểu Chánh bê về áp đặt cho ĐBSCLvốn duy tình!
Luật bất thành văn dung túng cho trộm vặt ở ĐBSCL ngày trước đã được Sơn Nam ghi lại trong truyện ngắn có cái tựa lạ lùng: “Tục lệ ăn trộm” (1987). Theo ông, thời xưa, hàng năm, đúng ngày 25 tháng chạp, tất cả quan lại, từ trên xuống dưới đều chùi ấn cho sạch, bỏ trong cái hộp, ngưng mọi công việc quan để ăn chơi suốt một tháng, cho tới ngày 25 tháng giêng.
Ngoại trừ phạm nhân phạm trọng tội thì bị tạm giữ, cạo đầu làm dấu ra, những tội trộm vặt đều được quan địa phương lẫn khổ chủ vui vẻ bỏ qua cho: “Ăn trộm trong dịp quan trên treo ấn là điều vạn bất đắc dĩ. Mình nên thương họ”. Hơn nữa, đầu năm đầu tháng, không ai muốn gây gổ, kiện tụng vì sợ sẽ… mất hên.
Ngoài ra, Sơn Nam còn ghi nhận nhiều trường hợp đi ăn trộm để… báo hiếu ông bà! Đó là trường hợp những người có ông bà lớp trước sống bằng nghề ăn trộm nên vào dịp rước công bà cuối năm con cháu cũng phải đi ăn trộm để… đền ơn cúc dục sanh thành! Do ăn trộm lấy lệ/ lấy lễ nên họ thường chỉ lấy những thứ mà chủ nhà bỏ đi như chổi cùn, guốc sứt quai, quần áo rách…
Câu chuyện trên có vẻ hư cấu nếu không phải là phóng đại nhưng vẫn mang cái cốt lõi bao dung, khoan thứ có thật của người dân ĐBSCL.
[1] Chuyện do thầy Sáu Chi ở xã Phú Mĩ, huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang kể. Nhân đây xin cám ơn thầy.
[2] Loại ăn trộm đường sông ở Ba Cụm, nay là xã Tân Bửu, huyện Bến Lức, tỉnh Long An.
Nguồn: tác giả
Bài đã in trên Kiến thức ngày nay
Do đặc thù của tâm lí lưu dân ở vùng đất mới nên Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) xưa nay có tiếng là mảnh đất bao dung, rộng rãi và hào phóng, không chỉ trong mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên mà cả giữa người với người.
Chuyện kể rằng, có ông đồ miệt vườn ban đêm bị trộm bắt mất gà, sáng hôm sau, tuy tiếc của nhưng ông không chửi mắng gì ai mà chỉ làm bài thơ ôn tồn đề trước cửa ngõ như sau:
Bây ơi, chi sá một con gà,
Có bắt thì bây thả nó ra.
Buông tha nhả nhớm chồng còn vợ,
Bắt bớ giam cầm con mất cha.
Nuôi nấng bấy lâu đà mến tiết,
Ở ăn nửa kiếp kết tình nhà.
Ngựa Hồ chim Việt ai chia rẽ,
Rao cùng khắp hết kẻ gần xa.
Không ngờ tay ăn trộm cũng biết chút chữ nghĩa, đọc được nên làm bài thơ hoạ lại, ban đêm đem dán ngay bên dưới bài thơ của thầy đồ:
Ông ơi, chi tiếc một con gà,
Tui bắt đặng rồi dễ thả ra?
Phao câu béo lắm chồng nhường vợ,
Chéo cánh ngon thời con kính cha.
Nuôi nấng chi đâu mà mến tiết,
Đãi đằng cho đặng bởi thương nhà.
Ngựa Hồ chim Việt dù chia rẽ,
Gần còn bắt nữa, lựa là xa[1].
Kết quả là, chẳng những vụ trộm không bị truy cứu mà còn được hai bài thơ hay thể hiện cá tính hào phóng của cả thầy đồ lẫn tay trộm. Qua cuộc giao tiếp đặc biệt này, hai bên đã hiểu và đồng cảm nhau hơn. Tay trộm đã tuyên ngôn về đạo lí của mình: Trộm miếng ăn về để kính cha nhường vợ, nêu cao đạo cương thường. Ngược lại, sự im lặng sau đó của thầy đồ vô hình trung cho phép những kẻ thiếu đói có thể trộm vặt để sống qua ngày, bởi lẽ những món lặt vặt như con gà kia chủ yếu cũng do trời sanh trời dưỡng, chủ nhân không có bỏ công bỏ của chăm sóc bao nhiêu. Đây chính là sự mở rộng của luật chơi “Chim trời cá nước, ai bắt được nấy ăn” trong đời sống lưu dân buổi đầu.
Thật vậy, buổi đầu lưu dân đến ĐBSCL chủ yếu khai thác những nguồn lợi thiên nhiên sẵn có như lúa ma (lúa trời), cá tôm, rùa, rắn, mật ong, bông súng, củ co… để sống qua ngày, gọi là “lộc nước hương trời”:
Ai về dưới miệt Tháp Mười,
Cá tôm sẵn bắt, lúa trời sẵn ăn.
Hay:
Cám ơn bông súng củ co,
Nợ nần trả hết lại no trong lòng.
Dần dần người ta mới bắt đầu trồng trọt và chăn nuôi. Nhờ đất đai màu mỡ, thời tiết thuận lợi nên cây trồng và vật nuôi lớn nhanh mà hầu như không cần đầu tư, chăm sóc gì nhiều. Quăng ít hột giống, thả mấy con gà con vịt rồi cứ “giao cho trời”, vậy mà chẳng bao lâu lại kết quả mĩ mãn, gọi là “làm chơi ăn thiệt”.
So với tình cảnh “khốn nạn” trong bài ca dao miền Bắc Trung Bộ “Tháng giêng, tháng hai, tháng ba, tháng bốn, tháng khốn tháng nạn…” thì vùng đất mới thật dễ sống đến lạ lùng, nên người dân dễ liên tưởng rằng họ chính là những “kẻ trộm lộc nước hương trời”. Trong cuốn Cà mau xưa – An Xuyên nay (1968), Nghê Văn Lương có ghi lại một phong tục lạ lùng của cư dân địa phương như sau: Người nào làm ruộng trúng mùa quá thì, thay vì đãi tiệc ăn mừng, trái lại phải “xả xui” bằng cách nhờ người nhà lấy cây chổi rơm đánh nhẹ lên đầu vài cái như để tự trừng phạt.
Ngày xưa, làm ruộng nếu có bị chim chuột hay thú rừng phá, người ta cùng lắm cũng chỉ xua đuổi chúng chứ ít khi gài bẫy hay đánh thuốc độc, vì cho rằng chim thú phá thì cũng giống như mình đang ăn trộm của trời, nghĩa là chẳng qua chỉ là “ăn trộm gặp ăn trộm” mà thôi. Về sau, quan niệm này đã phai lợt đi nhiều nhưng phong tục “nương tay” với chim thú phá hại vẫn còn giữ bằng lí lẽ: Nếu mình phạm tới chúng thì chúng sẽ nổi giận, phá hại còn nhiều hơn. Và con chuột – kẻ phá hại mùa màng nhiều nhất – lại được tôn thành “ông Tí” có lẽ cũng nằm trong quan niệm này.
Do ý thức mình là “kẻ trộm”, nghĩa là luôn sợ “mang tội” nhiều nên ngày trước ở ĐBSCL người ta không bao giờ đánh bắt cá đầu mùa mưa, tức là giai đoạn “cá lên”, vì lúc này cá đang có chửa, bụng căng đầy trứng, tìm cách vượt từ sông rạch lên ruộng đồng để đẻ trứng. Sau đó, khi cá còn nhỏ, người ta cũng không bắt ăn vì sợ “mang tội” (“mang tội” là lối tư duy tuy đơn giản nhưng vô cùng thiêng liêng của người dân ĐBSCL). Chỉ đến mùa nước rút (khoảng cuối tháng 10 âm lịch trở đi), khi cá trên đồng nghe hơi lạnh, tháo ngược về sông rạch thì người ta mới đánh bắt cá đại quy mô.
Nhiều làng quê ở ĐBSCL xưa nay vẫn duy trì lệ cúng đình vào trung tuần tháng chạp âm lịch để tạ ơn thần thành hoàng và các vị thần khác đã phù hộ cho mưa thuận gió hoà, giúp vụ mùa đã có kết quả. Các vị thần này không gì khác hơn chính là sự hình tượng hoá thiên nhiên như một bà mẹ vĩ đại đã bao dung ban phát sự sống cho con người.
Đối với người Khmer ở ĐBSCL, vào dịp rằm tháng 10, khi bắt đầu thu hoạch vụ lúa mùa sớm, cùng với lễ Đút cốm dẹp và hội đua ghe Ngo, họ còn làm lễ Cúng trăng để tạ ơn thần nước (được hình tượng hoá thành mặt trăng) đã ban cho họ miếng ăn và cầu xin thần tha thứ bởi họ đã vì sự sống của mình mà phải xúc phạm và làm ô uế dòng nước.
Mang tâm lí mình là kẻ thừa hưởng, thậm chí kẻ trộm của thiên nhiên nên làng quê ở ĐBSCL ngày trước không quá khắt khe đối với trường hợp vì quá túng quẫn buộc phải ăn trộm. Dân gian vùng này có câu nói tuy thô nhưng cho thấy rõ quan niệm bao dung đó: “Bần cùng sanh đạo tặc, không ăn cắp lấy con c. gì ăn”. Hơn nữa, do đất rộng người thưa nên, chẳng hạn, đang đi dọc đường, khát nước, gặp đám dưa mà không thấy chủ đâu, người ta chỉ cần la lớn lên một câu đại loại như “Cho xin trái dưa ng…ô…n!” là coi như đã có quyền hái vài ba trái để dùng. Quan niệm cởi mở, hoà đồng, dễ nhập cuộc đã tạo nên tính cách dễ dãi của người dân nơi đây:
Đi ra gặp vịt cũng lùa,
Gặp duyên cũng kết, gặp chùa cũng tu.
Các cụ Nho ở ĐBSCL ngày trước vẫn thường nhắc câu nói của thầy Mạnh Tử: “Vi nhân bất phú, vi phú bất nhân”. Bởi vậy mà họ tỏ ra vô cùng hâm mộ 108 vị anh hùng Lương Sơn Bạc cướp của nhà giàu chia cho dân nghèo, gọi là “Thế thiên hành đạo”. Theo họ, chuyện người nghèo ăn trộm vặt của nhà giàu chẳng qua là thi hành luật trời “có qua có lại”: “Người khôn ăn bòn kẻ dại, kẻ dại ăn hại người khôn”.
Loại trộm vặt như thế ở ĐBSCL xưa nay thường được bỏ qua, thậm chí kẻ truy cứu có khi còn bị mang tiếng là người nhỏ mọn. Trong hồi kí Chợ Đệm quê tôi (1985), Nguyễn Văn Trấn đã thuật lại nhiều câu chuyện về bối Ba Cụm[2] nghe thật tức cười, thậm chí… dễ thương. Chẳng hạn, có cô chủ ghe, chiều mặc cái quần lãnh mới, láng mướt ngồi trên mui ghe hóng mát. Bối anh nói với bối em: “Khuya nay tao lột quần con mẹ này cho mày coi!”.
Bối em trong bụng chưa tin lắm.
Khuya, cô chủ ghe nằm trên mui ghe ngủ ngon lành. Tay bối anh lấy một cọng mái dầm lớn, xoắn lại nhiều vòng cho thật chặt rồi hé ống quần của cô nàng mà thọc cuộn mái dầm vô tận đáy quần. Cọng mái dầm liền bung ngoáy xoáy tròn. Cô kia giật mình, hồn vía lên mây, tưởng là rắn chui nên lật đật lột quần ra hất ở mép mui ghe, tưởng để cho con rắn “mắc dịch” bò đi, nào ngờ bối anh đang núp dưới xuồng với tay lấy cái quần ngon ơ ngay trước mặt mà khổ chủ vì đang nồng nỗng nên đành nghẹn ngào không dám la một tiếng.
Ngoài ra còn nhiều câu chuyện thú vị khác, chẳng hạn đêm khuya gần sáng, chủ nhà mang nồi cơm ra bến sông vo gạo bị “bối” lừa lấy mất. Biết ý nên khổ chủ gọi giật giọng qua nhà hàng xóm xin lại nồi cơm, đơn giản vì… bối cả xóm! Ngày trước, nhiều đầu mối của con đường giao thông thuỷ từ miền Tây lên Sài Gòn trở thành tụ điểm kiếm ăn của “bối”, đến nỗi đã hình thành bài “Vè đi bối” và “Vè bị bối” được Huỳnh Ngọc Trảng ghi lại trong cuốn Vè Nam Bộ.
Nạn trộm vặt như vậy xưa nay ở ĐBSCL thường được bỏ qua, gọi là “thí cô hồn”. Cách đây vài năm, tôi được nghe câu chuyện vui của một anh công an xã: Những ngày giáp Tết, ban đêm anh lo đi canh phòng an ninh trật tự trong xã, không ngờ sáng ra bà xã anh phát giác nhà bị mất nguyên nồi thịt kho tàu to tướng mà chị vừa nấu xong hồi chiều. Chuyện mất mát lại trở thành chuyện vui và xuề xoà bỏ qua, vì thật dễ đoán thủ phạm không ai khác chính là kẻ hàng xóm mạt vận đang chạy gạo cuối năm.
Chuyện này giúp ta liên tưởng tới nhân vật Lê Văn Đó trong tiểu thuyết Ngọn cỏ gió đùa (1926) của Hồ Biểu Chánh: Vì thương đám con đang đói lả, anh đi ăn trộm nồi cháo heo của nhà địa chủ, bị bắt rồi vượt ngục, án chồng án suốt 20 năm trời. Thật ra, ở ĐBSCL xưa nay không bao giờ có chuyện tương tự như vậy, mà đây chỉ là do Hồ Biểu Chánh đã “Việt hoá” sự việc nhân vật Jean Valjean (trong tiểu thuyết Những người khốn khổ của V.Hugo) vì thương đám cháu bị đói mà phải ăn trộm chiếc bánh mì và bị kết án 5 năm tù khổ sai, sau 4 lần vượt ngục không thành, án chồng án thành 19 năm. Não trạng duy lí của phương Tây bị Hồ Biểu Chánh bê về áp đặt cho ĐBSCLvốn duy tình!
Luật bất thành văn dung túng cho trộm vặt ở ĐBSCL ngày trước đã được Sơn Nam ghi lại trong truyện ngắn có cái tựa lạ lùng: “Tục lệ ăn trộm” (1987). Theo ông, thời xưa, hàng năm, đúng ngày 25 tháng chạp, tất cả quan lại, từ trên xuống dưới đều chùi ấn cho sạch, bỏ trong cái hộp, ngưng mọi công việc quan để ăn chơi suốt một tháng, cho tới ngày 25 tháng giêng.
Ngoại trừ phạm nhân phạm trọng tội thì bị tạm giữ, cạo đầu làm dấu ra, những tội trộm vặt đều được quan địa phương lẫn khổ chủ vui vẻ bỏ qua cho: “Ăn trộm trong dịp quan trên treo ấn là điều vạn bất đắc dĩ. Mình nên thương họ”. Hơn nữa, đầu năm đầu tháng, không ai muốn gây gổ, kiện tụng vì sợ sẽ… mất hên.
Ngoài ra, Sơn Nam còn ghi nhận nhiều trường hợp đi ăn trộm để… báo hiếu ông bà! Đó là trường hợp những người có ông bà lớp trước sống bằng nghề ăn trộm nên vào dịp rước công bà cuối năm con cháu cũng phải đi ăn trộm để… đền ơn cúc dục sanh thành! Do ăn trộm lấy lệ/ lấy lễ nên họ thường chỉ lấy những thứ mà chủ nhà bỏ đi như chổi cùn, guốc sứt quai, quần áo rách…
Câu chuyện trên có vẻ hư cấu nếu không phải là phóng đại nhưng vẫn mang cái cốt lõi bao dung, khoan thứ có thật của người dân ĐBSCL.
Nguồn: tác giả