logo

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
    • Thư ngỏ
    • Khái quát về Trung tâm
    • Nhân lực Trung tâm
      • Thành viên Trung tâm
      • Cộng tác viên
    • Giới thiệu Khoa Văn hóa học
      • Khái quát về Khoa
      • Nhân lực của Khoa
  • Tin tức
    • Tin nhà (Trung tâm)
    • Tin ngành
    • Tin liên quan
  • Đào tạo - Huấn luyện
    • Các chương trình
    • Tổ chức và Hiệu quả
    • Đào tạo ở Khoa VHH
      • Chương trình đào tạo
      • Kết quả đào tạo
  • Nghiên cứu
    • Lý luận văn hóa học
      • LLVHH: Những vấn đề chung
      • VHH: Phương pháp nghiên cứu
      • VHH: Các trường phái - trào lưu
      • Loại hình và phổ quát văn hóa
      • Các bình diện của văn hóa
      • Văn hóa học so sánh
      • Vũ trụ quan phương Đông
      • Văn hóa và phát triển
      • VHH và các khoa học giáp ranh
    • Văn hóa Việt Nam
      • VHVN: Những vấn đề chung
      • Văn hóa cổ-trung đại ở Viêt Nam
      • Văn hóa các dân tộc thiểu số
      • Văn hóa Nam Bộ
      • Văn hóa nhận thức
      • Văn hóa tổ chức đời sống tập thể
      • Văn hóa tổ chức đời sống cá nhân
      • Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên
      • Văn hóa ứng xử với môi trường xã hội
    • Văn hóa thế giới
      • VH Phương Đông: Những vấn đề chung
      • VH Phương Tây: Những vấn đề chung
      • Quan hệ văn hóa Đông - Tây
      • Văn hóa Trung Hoa và Đông Bắc Á
      • Văn hóa Đông Nam Á
      • Văn hóa Nam Á và Tây Nam Á
      • Văn hóa châu Âu
      • Văn hóa châu Mỹ
      • Văn hóa châu Phi và châu Úc
    • Văn hóa học ứng dụng
      • VHƯD: Những vấn đề chung
      • VHH nghệ thuật
      • Văn hóa đại chúng
      • Văn hóa giao tiếp
      • Văn hóa du lịch
      • Văn hóa đô thị
      • Văn hóa kinh tế
      • Văn hóa quản trị
      • Văn hóa giáo dục - khoa học
    • Tài liệu phổ cập VHH
      • Văn hóa Việt Nam
      • Văn hóa thế giới
      • VHH ứng dụng
    • Tài liệu tiếng nước ngoài
      • Theory of Culturology
      • Vietnamese Culture
      • Applied Culturology
      • Other Cultures
      • 中文
      • Pусский язык
    • Thư Viện Số (Sách - Ảnh - Video)
      • Tủ sách Văn hoá học
      • Thư viện ảnh
      • Thư viện video
    • Các nhà văn hóa học nổi tiếng
  • Tiện ích
    • Dịch vụ Văn hóa học
    • Dịch vụ ngoài VHH
    • Trợ giúp vi tính
    • Từ điển Văn hóa học
    • Thư viện TT và Khoa
    • Tổng mục lục website
    • Tủ sách VHH Sài Gòn
    • Giải đáp thắc mắc
  • Thư giãn VHH
    • Văn chương Việt Nam
    • Văn chương nước ngoài
    • Nghệ thuật Việt Nam
    • Nghệ thuật thế giới
    • Hình ảnh vui
    • Video vui
  • Diễn đàn
  • Liên hệ
  • Trang chủ
  • Nghiên cứu
  • Văn hóa Việt Nam
  • Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên
Tuesday, 22 January 2013 07:33

Nguyễn Thành Vinh, Nguyễn Hữu Tới. Tác động của biến đổi khí hậu đến vùng ven biển Việt Nam

Người post bài:  Nguyễn Thị Tuyết Ngân

TÁC ĐỘNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
ĐẾN QUY HOẠCH CÁC VÙNG DÂN CƯ
VÀ CÁC CÔNG TRÌNH Ở VÙNG VEN BIỂN VIỆT NAM

Nguyễn Thành Vinh, Nguyễn Hữu Tới


Biến đổi khí hậu toàn cầu kèm theo nhiều hậu quả hết sức tai hại: nước dâng ngập các vùng đồng bằng thấp ven biển, bão lụt, hạn hán xảy ra thường xuyên hơn, khốc liệt hơn gây thiệt hại lớn cho nông nghiệp và đa dạng sinh học, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế của nhiều quốc gia. Kết quả của nhiều nghiên cứu cho thấy các hiện tượng này có nguyên nhân là do sự gia tăng nồng độ các khí nhà kính trong khí quyển dẫn đến nhiệt độ không khí không ngừng tăng trên phạm vi toàn cầu. Trái đất ấm lên làm tan chảy băng ở các vùng cực, nước biển dâng cao sẽ đe doạ cả hành tinh chúng ta.

Việt Nam sẽ là một trong những quốc gia đang phát triển bị tác động tồi tệ nhất khi nước biển dâng. Nước biển dâng cao một mét thì 23% dân số Việt Nam (khoảng 17 triệu người) sẽ mất nơi cư trú. 12,2% diện tích đất, 27% sinh cảnh tự nhiên quan trọng, 33% khu bảo tồn thiên nhiên, 23% khu vực có đa dạng sinh học của Việt Nam sẽ bị tác động (theo cảnh báo của Ngân hàng Thế giới tại Hội nghị đa dạng sinh học tại Hà Nội, tháng 5/2007). Chính vì vậy, việc nghiên cứu, đánh giá những tác động của biến đổi khí hậu đến quy hoạch các vùng dân cư và các công trình ở vùng ven biển Việt Nam là việc làm hết sức cần thiết và cấp bách.

1. Một số nét về khí hậu liên quan đến quy hoạch đô thị và xây dựng các công trình ở Việt Nam

Lãnh thổ nằm gọn trong vành đai nội chí tuyến, song khí hậu Việt Nam hiện nay không hoàn toàn mang đặc điểm của khí hậu nhiệt đới điển hình. Chế độ gió mùa mà tiêu biểu là gió mùa đông bắc, đã đem lại trên nửa phần phía Bắc một mùa đông khá lạnh. Nó đã là nguyên nhân cơ bản tạo ra các vùng khí hậu khác nhau của lãnh thổ mà trên mỗi vùng này đòi hỏi phải có những giải pháp quy hoạch và thiết kế giống nhau để cùng tạo ra những “môi trường tiện nghi” cho cuộc sống và các hoạt động của con người.

Trên nửa phần phía Bắc, quy hoạch đô thị, các điểm dân cư; thiết kế nhà ở, trường học, bệnh viện, các công trình công nghiệp và nhiều loại công trình công cộng khác không thể không tính đến giải pháp phòng, chống lạnh trong mùa đông, đặc biệt đối với các vùng núi phía Bắc, các khu vực núi cao. Ở các vùng núi cao mùa lạnh kéo dài tới quá nửa năm. Nó giảm nhanh khi xuống các vùng thấp và đi dần vào phía nam. Ở đồng bằng Bắc bộ, thời kỳ cần phòng chống lạnh thường chỉ tập trung vào các tháng mùa đông. Từ trung Trung bộ trở vào nhu cầu này không còn hoặc còn không đáng kể.

Khí hậu nhiệt đới vùng Đông nam Á, với nền cơ bản là nóng ẩm đã đặt ra yêu cầu hàng đầu trong quy hoạch đô thị và thiết kế công trình là giải pháp chống nóng. Mặc dù đã có khả năng chịu đựng cao hơn do quá trình tập quen lâu dài, song thời tiết mùa nóng vẫn đòi hỏi những giải pháp chống nóng tích cực con người. Cùng với biện pháp thông gió tự nhiên được sử dụng phổ biến cho công trình hiện nay, đã và đang tăng lên các giải pháp kỹ thuật làm mát bằng quạt và điều tiết không khí. Nhu cầu này tăng dần từ Bắc xuống nam và tăng mạnh ở vùng thấp ven biển Trung bộ thời kỳ “gió Lào”.

Mưa lớn vốn là một đặc điểm của khí hậu Việt Nam, đã có ảnh hưởng lớn đến vấn đề tiêu thoát nước đô thị và riêng cho các công trình. Hiện tượng ngập, úng ở nhiều đô thị hiện nay do việc quy hoạch và thiết kế hệ thống thoát nước không phù hợp với đặc điểm mưa lớn trên khu vực. Vấn đề thấm, dột, suy giảm chất lượng của vật liệu sử dụng trong nhiều công trình hiện nay cũng chính là do mưa ẩm quá lớn mà những giải pháp xử lý chưa phù hợp. Trên suốt dải đồng bằng và ven biển từ nam trung bộ trở ra, bão đã có những tác động mạnh mẽ chủ yếu về áp lực gió. Đối với các công trình xây dựng trên biển và ở các khu vực sát biển như các giàn khoan dầu khí, hải cảng, đê biển, các công trình công nghiệp khác, ngoài tác động mạnh của gió lớn còn có ảnh hưởng của sóng to và đặc biệt nước dâng trong bão. Trên các vùng núi, mưa với cường độ lớn đã thường xuyên gây ra lũ, lụt. Nước quét ngày nay đã khá phổ biến do hậu quả kết hợp của nạn phá rừng đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhiều loại công trình nhất là hệ thống giao thông đường bộ.

Theo thống kê năm 1995, các khu vực ven biển đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế cả nước. Giá trị vật chất của vùng bờ biển đạt đến 48,176 tỷ USD so với 52,5 tỷ USD của cả nước, các ngành nuôi trồng thủy sản, lâm nghiệp, đánh cá chiếm đến 39% GDP của cả nước. Công nghiệp và xây dựng cũng chiếm đến 17% GDP cả nước và các ngành vận tải, thương mại và dịch vụ chiếm đến 44% GDP cả nước.

Về dân số, vùng ven biển chiếm đến 76,6% cả nước với mật độ 342 người/km2 và tỷ lệ tăng trưởng dân số là 1,95%. Diện tích tự nhiên của các tỉnh ven biển là 165.782 km2 bằng 50% diện tích cả nước, trong diện tích đất dành cho những mục đích đặc biệt (chẳng hạn cho xây dựng, v.v.) chiếm 0,6% diện tích đất dân cư đô thị chiếm 0,3%. Phân bố đất đai các khu dân cư, đô thịv en biển được đưa ra trong bảng 1.

Từ các đặc điểm dân cư, kinh tế xã hội và đặc điểm khí hậu có thể thấy sự thay đổi khí hậu tất yếu tác động đến việc qui hoạch và cả thiết kế các khu dân cư, kinh tế ven biển.

Như vậy diện tích các khu dân cư, khu kinh tế ven biển hiện nay chủ yếu là dân cư nông thôn. Tuy nhiên với sự tăng trưởng kinh tế và công nghiệp hoá, tỷ lệ đất dân cư thành thị và các khu công nghiệp sẽ tăng lên đáng kể.

2. Đánh giác tác động của biến đổi khí hậu đến quy hoạch các vùng dân cư, thành phố, đô thị và các công trình ven biển Việt Nam

IPCC đã nêu ra tới 12 dạng tác động của BĐKH tới nơi cứ trú của con người. Đứng đầu những tác động này là lũ và lở đất, tiếp đó là bão, chất lượng nước, nước biển dâng, giá rét và nắng nóng, nguồn nước, hoả hoạn, lốc tố, sản xuất nông nghiệp, ô nhiễm, băng giá và đảo nhiệt. Mức độ tác động phụ thuộc vào các dạng khác nhau của không gian cư trú như đô thị hay nông thôn, thành phố lớn hay nhỏ. Những tác động của BĐKH có thể đối với tài nguyên, công trình và cơ sở hạ tầng hay cư dân. Những tác động này được phân thành tác động nhẹ (khó nhận thấy và dễ vượt qua), trung bình (thấy rõ, khó khắc phục nhưng không bị hại hoàn toàn), mạnh (hoàn toàn bị thiệt hại, không thể khắc phục).

Trong một đánh giá tổng thể trước đây về khả năng bị huỷ hoại do mực nước biển dâng (1992), Việt Nam được xếp là một nước dễ bị huỷ hoại nhất (do mực nước biển dâng) trong những nước sản xuất lúa. Các ước tính chỉ ra rằng sẽ có mức tổn thất đến 20% nếu không thực hiện những biện pháp thích hợp. Điều này nhấn mạnh một lần nữa nhu cầu về các biện pháp duy trì và tăng cường nền sản xuất bền vững.

Bảng 1: Tình hình sử dụng đất đai vùng ven biển theo kiểm kê năm 1995

Đất sử dụng

Đơn vị

Cả nước

Toàn bộ bờ biển Việt Nam

Diện tích cả nước

Km2

331.000

 

Diện tích các tỉnh vùng ven bờ

Km2

 

165.782

% so với cả nước

%

100

50

Trong đó:

 

 

 

% diện tích đất đặc biệt (cho xây dựng, v..v.)

%

 

0,6

% diện tích đất dân cư thành thị

%

 

0,3

% diện tích đất dân cư nông thôn

%

 

5,8

Việt Nam là nước đang bước vào giai đoạn phát triển. Nhiều đô thị, các điểm dân cư, các khu công nghiệp,khu chế xuất, các hải cảng lớn và hàng loạt các công trình quan trọng khác đang được quy hoạch, thiết kế và chuẩn bị xây dựng. Việc nghiên cứu và đánh giá hiện trạng môi trường của lãnh thổ phục vụ cho yêu cầu này đã và đang được đặt ra. Song không thể quên rằng sự tồn tại lâu dài của các đối tượng đã nêu đòi hỏi cả những đánh giá về tác động có thẻ của môi trường trong tương lai nếu nó khác với hiện tại. Rõ ràng dự báo biến đổi khí hậu và đánh giá những tác động có thể của nó là rất cần thiết cho mục tiêu nghiên cứu đã đặt ra.

Biến đổi khí hậu có thể dẫn đến 5 nguy cơ lớn: giảm năng suất nông nghiệp; gia tăng tình trạng thiếu nước; thời tiết cực đoan gia tăng; các hệ sinh thái tan vỡ và bệnh tật gia tăng. Với những nguy cơ này, rõ ràng có tác động rất lớn đến các vùng dân cư và kinh tế ven biển.

Theo nghiên cứu của Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD), TP Hồ Chí Minh nằm trong danh sách 10 thành phố bị đe doạ nhiều nhất bởi biến đổi khí hậu (bao gồm Calcutta và Bombay của Ấn Độ, Dacca của Bangladesh, Thượng Hải, Quảng Châu của Trung Quốc, TpHCM của Việt Nam, Bangkok của Thái Lan và Yangon của Myanmar).

a. Tác động của biến đổi khí hậu

Thay đổi cơ cấu mùa nhiệt

Thay đổi cơ cấu mùa nhiệt trong việc sử lý các giải pháp kiến trúc, sự tồn tại mùa đông lạnh đã dẫn đến việc lựa chọn những giải pháp kiến trúc ở nửa phần phía Bắc không giống với nửa phần phía nam. Việc áp dụng các tiêu chuẩn, các mô hình thiết kế tiêu biểu của vùng nhiệt đới ở đây không thích hợp. Mô hình thoáng hở với kết cấu nhẹ, có thông gió tự nhiên nhiều hướng sẽ không bảo đảm điều kiện tiện nghi của môi trường sống bên trong về mùa đông. Chính vì thế “trạng thái nhiệt” mùa đông đã là yếu tố quyết định cho việc hình thành các vùng khí hậu khác nhau phục vụ quy hoạch đô thị và xây dựng nhà ở.

Với dự báo đã nêu, trạng thái nhiệt của khí hậu vào cuối thế kỷ tới ở các vùng sẽ thay đổi đáng kể. Rõ ràng, khi đó trên các vùng đồng bằng và ven biển của cả nước, nhu cầu sưởi bằng củi hiện nay ở vùng núi sẽ giảm nhiều. Nó sẽ góp phần quan trọng vào việc bảo vệ rừng do sức ép của củi đốt, nhất là khi số dân đã tăng lên hơn gấp 2 lần so với hiện nay. Cùng với mùa đông ấm lên, thời tiết nắng nóng trong mùa hè nói riêng cả năm nói chung tăng, đòi hỏi các giải pháp chống nóng phải được tăng cường. Thông gió tự nhiên trong nhiều trường hợp không đủ bảo đảm điều kiện tiện nghi nhiệt trong công trình. Thời gian phải sử dụng các thiết bị làm mát như quạt, máy điều hoà không khí sẽ tăng lên đáng kể. Khi đó những tiêu chuẩn giải pháp thiết kế đối với kết cấu bao che, thiết bị kỹ thuật cho công trình sẽ phải thay đổi nhất là đối với các tỉnh phía Bắc.

Do bức xạ và nắng cũng có xu hướng tăng hoặc không giảm trong điều kiện khí hậu nóng thêm, bốc hơi tăng rõ rệt sẽ dẫn tới những thay đổi trong kỹ thuật bê tông nhất là thời giam bảo dưỡng ẩm, trong kỹ thuật mái chống biến dạng và rạn nứt. Đối với các công trình giao thông, chế độ nắng - bức xạ mùa nhiệt thay đổi cũng sẽ có những tác động tương tự ảnh hưởng đến kỹ thuật làm mặt đường ô tô, làm đường băng các sân bay…

Thay đổi trong chế độ mưa ẩm

Mưa, ẩm cũng là yếu tố có quan hệ khá chặt chẽ với nhiều đối tượng xây dựng. Trước hết là vấn đề thoát nước cho các đô thị và công trình xây dựng.

Biến đổi khí hậu dẫn đến tăng cường độ mưa, tăng mực nước biển.. sẽ làm thay đổi lớn trong các tiêu chuẩn và giải pháp quy hoạch, thiết kế hệ thống tiêu thoát nước mưa. Theo dự báo, vào cuối thế kỷ tới khả năng tiêu thoát nước bằng tự chảy đối với các đô thị, khu dân cư nằm ở đồng bằng sông Hồng, sông Cửu Long, các vùng thấp ven biển sẽ bị hạn chế rất nhiều thậm chí không còn. Hà Nội, Nam Định, Hải Phòng, Cần Thơ và hầu hết các thị trấn thị xã ở đồng bằng sông Cửu Long đều phải dùng bơm tiêu. Năng lượng điện dùng vào nhu cầu này sẽ phải tăng gấp nhiều lần so với hiện nay.

Cường độ mưa lớn xuất hiện với tần suất cao hơn dẫn đến tăng khả năng ách tắc giao thông do đường bị hỏng vì lũ quấn và sụt lở đất. Lũ quét tăng lên trên các vùng núi, đã dẫn đến nhiều tai hoạ không chỉ cho hệ thống giao thông và cả nhà ở như đã xẩy ra gần đây ở Cao Bằng, Sơn La, Quảng Ninh… Hệ thống đường sắt xuyên Việt và đường ô tô quốc lộ số 1 là tuyến giao thông huyết mạch chạy dọc theo chiều dài đất nước thường xuyên bị ách tắc do ảnh hưởng của lũ lụt. Hiện tượng này có xu hướng tăng lên đặc biệt ở phần bắc và trung Trung bộ.

Cùng với sự tăng lên của các trận mưa lớn, hạn hán cũng có xu hướng tăng, dòng chảy trên các triền sông giảm, nhất là mùa kiệt. Nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của các công trình thuỷ điện như Hoà Bình, Thác Bà, Trị An, Đa Nhim… cũng như các công trình thủy nông. Nó sẽ tác động không ít đến khả năng cấp nước cho nhiều đô thị, không chỉ do giảm nguồn nước mặt mà cả nguồn nước ngầm.

Vấn đề thời tiết nồm ẩm, mưa phùn hiện nay cũng là một đối tượng đang được nghiên cứu xử lý trong xây dựng nhất là các kho tàng, phòng ở thuộc tầng trệt. Loại thời tiết này giảm, thậm chí không còn ở đồng bằng Bắc bộ, sẽ tạo điều kiện tốt hơn cho công tác thiết kế.

Thay đổi ảnh hưởng của các thiên tai

Thiên tai khí hậu mà tiêu biểu là bão, có tác động mạnh mẽ đến quy hoạch đô thị và xây dựng các công trình. Khảo sát tần số xoáy thuận nhiệt đới cho thấy xu thế tăng lên rõ rệt. Điều này phù hợp với những nhận xét đã nêu trong các nghiên cứu trước đây ở Việt Nam cũng như các kết luận chung cho thế giới và khu vực.

Tần số ảnh hưởng của XTNĐ đến Việt Nam tăng sẽ dẫn tới tăng nhiều hệ quả quan trọng khác về khí hậu và thủy văn như các trận mưa với cường độ lớn đã và sẽ tăng lên. Tần số xuất hiện gió bão với tốc độ lớn cũng sẽ tăng, dẫn tới tăng áp lực gió ứng với cùng một chu kỳ lặp. Nói cách khác, tải trọng gió thiết kế đối với công trình sẽ tăng. Ở các khu vực ven biển nước dâng trong bão xuất hiện nhiều hơn, mạnh hơn, nhất là trên vùng duyên hải Bắc Bộ và Trung Bộ.

Tuy nhiên với kết quả vừa nêu có thể nhận thấy rằng biến đổi khí hậu sẽ làm tăng chi phí xây dựng do phải tăng khả năng chịu lực, chống ảnh hưởng tăng của gió bão cho kết cấu công trình. Các vùng chịu ảnh hưởng trực tiếp của bão có thể mở rộng thêm vào phía trong đất liền so với hiện nay.

Cùng với bão, do mặt đệm nóng thêm và chịu ảnh hưởng nhiều hơn của các khối không khí nhiệt đới và xích đạo nên khả năng phát triển dông mạnh hơn. Lốc tố và cả vòi rồng do đó cũng sẽ xuất hiện nhiều hơn. Dông lốc có khả năng phát triển mạnh hơn trên tất cả các vùng của lãnh thổ. Tuy phạm vi hoạt động không lớn, song khả năng phá hoại đối với công trình xây dựng của lốc, tố khá mạnh và nguy hiểm do tính bất ngờ và khả năng xuất hiện ở rất nhiều nơi của nó. Đây là một loại thiên tai đang được quan tâm nghiên cứu nhiều.

Lũ lụt, đặc biệt lũ quét trên các vùng núi là một loại thiên tai khá nguy hiểm đối với nhiều loại công trình. Nó đang có xu hướng gia tăng và sẽ càng ác liệt hơn nếu xu hướng biến đổi môi trường và khí hậu vẫn diễn ra như hiện nay.

b. Tác động của nước biển dâng

Nước biển dâng là hệ quả đặc biệt của biến đổi khí hậu toàn cầu do quá trình giãn nở nước của đại dương, tan băng vĩnh cửu trên núi cao và ở 2 cực. Tổng kết của IPCC và kết quả của các nghiên cứu ở Việt Nam như đã nêu trong các chương trước cho thấy mực nước biển trên toàn cầu cũng như ở một số vùng ở nước ta đã tăng lên khoảng 15-20 cm trong thế kỷ qua.

hiện nay, cả nước có 28/64 tỉnh, thành phố có vùng ven biển với hơn 50% các thành phố, thị xã đông dân nằm ở vùng ven biển. Trong đó có nhiều thành phố thị xã lớn nằm ngay sát biển có hải cảng như Hòn Gai, Hải Phòng, Vinh, Huế, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nha Trang, Tuy Hoà, Phan Thiết, Vũng Tàu, Tp Hồ Chí Minh, Bạc Liêu, Rạch Giá…

Theo thống kê từ báo cáo của Dự án Chiến lược quản lý đới bờ năm 2005, tổng số dân cư của các huyện ven biển trong cả nước là 18 triệu người, chiếm gần ¼ dân số, trong khi tổng diện tích của các huyện này chỉ chiếm có 16% diện tích của cả nước. Các thành phố như Đà Nẵng, Tp Hồ Chí Minh là những thành phố ven biển có mật độ dân cư cao nhất. Theo dự báo vào cuối thể kỷ sau dân số Việt Nam sẽ lên đến 160-170 triệu người. Khi đó số dân ở các vùng ven biển sẽ lên tới 90-100 triệu người.

Vùng ven biển Việt Nam, đặc biệt 2 vùng đồng bằng trọng yếu đều có độ cao khá thấp. Ở đồng bằng Sông Hồng diện tích có độ cao dưới 1m chiếm tới 29%; dưới 2m: 58,4%... ở đồng bằng sông Cửu Long diện tích mà độ cao dưới 1m lên tới 67%, trong đó có tới 27% diện tích có độ cao trên mực nước biển hiện nay dưới 0,5m. Trên những khu vực có độ cao thấp này hiện có hàng ngàn làng, xóm đang cư trú, trong đó có cả những thành phố, thị xã lớn: Cần Thơ, Rạch Giá, Bạc Liêu, Cà Mau, Sóc Trăng, Vĩnh Long; một phần của các thành phố, thị xã: Hải Phòng, Sầm Sơn, Huế, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nha Trang, Vũng Tàu…

3. Các biện pháp thích ứng với biến đổi khí hậu đối với việc qui hoạch các khu dân cư, công nghiệp và xây dựng công trình ven biển

Theo dự báo trên, nếu không có biện pháp bảo vệ tích cực bằng hệ thống đê, kè biển và sông thì đến cuối thế kỷ sau hàng loạt khu vực trù phú vùng ven biển sẽ bị ngập lụt không thể tiếp tục cư trú như hiện nay được.

Theo các kết quả nghiên cứu từ Dự án Quản lý đới bờ, giải pháp chủ yếu để bảo vệ các vùng đồng bằng và ven biển hiện nay cũng như sau này ở Việt Nam là đắp đê. HIện trên toàn lãnh thổ đã có 2700 km đê sông và đê biển, tập trung ở nửa phần phía Bắc, trong đó có khoảng 700 km đê biển và cửa sông ở đồng bằng sông Hồng. Cũng theo tài liệu này, cả nước sẽ cần thêm khoảng hơn 2000km đê nữa cho việc phòng tránh lũ lụt và nước biển tràn vào. Mặt khác để bảo vệ các vùng đồng bằng khi mực nước biển dâng cao thêm 90 cm nữa, độ cao đê biển sẽ phải tăng thêm 1m. Theo ước tính chi phí cho việc bảo vệ vùng ven biển và xây dựng lại cơ sở hạ tầng ở đây để chống lại ảnh hưởng của nước biển dâng trong giai đoạn 2000-2070 lên tới 8-9 tỷ đô la Mỹ.

Trong số các biện pháp bảo vệ và thích ứng chung đã nêu ra trong chương 4, việc qui hoạch các khu dân cư, công nghiệp và xây dựng công trình ven biển cần chú trọng đặc biệt đến các biện pháp sau:

a. Nâng cấp hệ thống đê biển và đê ở cửa sông

Để nâng cao mức độ an toàn đạt đến những tiêu chuẩn thiết kế chấp nhận được cần phải nâng cao đê thêm 1,5 đến 2m ở miền Bắc, 1 đến 1,5m ở miền Nam và 0,3 đến 1m ở các tỉnh miền trung. Toàn bộ hiện có 1.700 km đê. Chi phí nâng cấp được thực hiện trung bình khoảng 110.000 USD/km ở các tỉnh miền Bắc và 50.000 USD/km ở các tỉnh miền Trung. Tổng chi phí cho việc nâng cấp các đê biển và đê cửa sông ước tính khoảng 320 triệu USD.

Ngoài việc nâng cấp những đê hiện có, còn phải xây dựng mới 585 km đê biển và đê cửa sông để bảo vệ các khu vực triển khai và các khu vực nông nghiệp mới và để tăng diện tích sẵn có và tăng vụ (lúa). Chi phí cho các đê mới thay đổi từ 45.000 USD/km (miền Nam) đến 260.000 USD/km (miền Bắc). Tổng chi phí cho các đê biển và đê cửa sông mới ước tính khoảng 80 triệu USD.

Đối với việc nâng cấp và các công trình xây dựng đê mới, cần có chi phí bảo dưỡng bổ sung hàng năm bằng khoảng 1% chi phí ban đầu của các công trình đó.

b. Tôn cao các vùng đất và nhà ở

Các khu đất mới dành cho các khu công nghiệp đặc biệt cần được tôn cao. Tổng diện tích của các vùng đất này là 1.800 ha với chi phí ước tính khoảng 72,5 triệu USD.

Việc tôn cao nhà ở được ưa chuộng hơn so với việc xây dựng đê mới, xét cả về kinh tế và môi trường. Việc tôn cao 1m trên đỉnh lũ cao nhất sẽ là cần thiết để cải thiện mức an toàn hiện đại của dân cư ở một số khu vực (chưa tính đến mước nước biển dâng). Chi phí đơn vị ước tính từ 10.000 USD/ha đến 30.000 USD/ha. Tổng diện tích được xem xét ưu tiên trong việc tôn cao nhà ở là 128.550 ha (1,3 triệu nhà), với tổng chi phí ước tính khoảng 3,7 tỷ USD. Biện pháp này là tốt nhất đối với một số vùng nhưng chi phí quá cao vượt quá khả năng hiện tại của nhân dân hay Chính phủ.

c. Bơm hút nước

Việc bơm hút nước để hạ thấp mức ngập nước ở một số khu vực lầy lội, nơi mà nước mưa và các hồ chứa thu gom nước ngấm xuống đằng sau đê có kích thước dưới mức yêu cầu hiện nay. Những khó khăn nghiêm trọng nhất xảy ra ở châu thổ sông Hồng và châu thổ sông Mê Kông.

Hiện có tổng số 700.000 ha chịu cảnh tiêu thoát nước kém và công suất bơm nước cần phải cải thiện, đòi hỏi chi phí đơn vị từ 700 Usd/ha (miền Nam) đến 6.000 USD/ha (miền Bắc), phụ thuộc vào công suất bơm, chiều sâu và thời gian ngập lụt cho phép và hệ thống kênh tiêu.

Ngoài ra, chi phí bảo dưỡng và vận hành hàng năm bao gồm cả chi phí năng lượng sẽ chiếm một khoản bổ sung hàng năm đến 10% chi phí ban đầu. Trong phạm vi cả nước, đối với toàn bộ vùng bờ biển, tổng chi phí lắp đặt các trạm bơm và nâng cấp các công trình phụ trợ khoảng 2 tỷ USD, cộng thêm chi phí cần cho bảo dưỡng và vận hành hàng năm khoảng 200 triệu USD.

d. Chăm sóc tu bổ bãi biển

Việc chăm sóc tu bổ bãi biển được coi như là một giải pháp sau cùng và chủ yếu chỉ được thực hiện ở những địa điểm có giá trị du lịch, nơi cần có những bãi biển đẹp. Đây không được coi là một biện pháp bảo vệ nghiêm túc do chi phí tốn kém cần có. Để chăm sóc tu bổ 14km bờ biển các khu du lịch cần tới tổng chi phí 22 triệu USD (chi phí đơn vị 1,5 triệu USD/km). Việc chăm sóc tu bổ bãi biển có thể được thực hiện như là chi phí hàng năm khi coi thời gian tiến hành việc này giả sử là 5 năm, như vậy chi phí hàng năm sẽ chỉ là 4,4 triệu USD/năm

e. Các đê biển

Các đê biển hiện có gồm đê bằng đá ở miền bắc hay đê bằng gỗ (nước có thể thấm qua) ở các tỉnh miền Trung (Ninh Thuận, Bình Thuận). Hiện có tổng chiều dài tuyến bờ biển chưa đến 50km được đề xuất thực hiện bảo vệ đê biển với tổng chi phí 14,4 triệu USD, kèm theo chi phí bảo dưỡng hàng năm khoảng 1%.

f. xây dựng các bản đồ nguy cơ ngập lụt

Một biện pháp phòng ngừa khác là xây dựng các bản đồ nguy cơ ngập lụt chi tiết hơn đối với một số tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long với một số kịch bản mực nước biển dâng phục vụ quy hoạch phát triển kinh tế xã hội. Các bản đồ này đã được nhiều tỉnh lập. Tuy nhiên, việc xây dựng các kênh rạch, bờ bao diễn ra thường xuyên nên việc cập nhật thông tin cho các bản đồ này là cần thiết.

Kết luận

Xu thế của khí hậu toàn cầu nói chung và khí hậu Việt Nam nói riêng đang biến đổi theo chiều hướng ngày càng bất lợi đối với cuộc sống con người. Biến đổi khí hậu toàn cấu đối với những hậu quả nghiêm trọng đe doạ nhiều mặt của cuộc sống trên hành tinh, đang thu hút sự chú ý của cả nhân loại. Những nghiên cứu gần đây ở nước ta đã xác nhận sự hiện diện và những tác động có thể của nó đến nhiều đối tượng khác nhau trên lãnh thổ.

Việt Nam là nước đang bước vào giai đoạn phát triển. Quá trình đô thị và công nghiệp hoá đang diễn ra với tốc độ nhanh. Các đô thị, các khu công nghiệp, khu chế xuất, các công trình… đang tăng lên mạnh mẽ, nhất là ở các trung tâm khu vực như tam giác công nghiệp Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh ở Bắc Bộ; Tp Hồ Chí Minh – Biên Hoà – Vũng Tàu ở Nam Bộ; Đà Nẵng- Huế ở Trung bộ… Mối quan hệ tương tác sẽ diễn ra mạnh mẽ và khá phức tạp.

Những tác động của biến đổi khí hậu, mà cụ thể là tác động của mực nước biển dâng sẽ ảnh hưởng trước hết đến vùng bờ biển Việt Nam. Lũ lụt, hạn hán,t riều cường ngày càng nặng nề hơn, ảnh hưởng trực tiếp đến sự an toàn tính mạng và tài sản của con người, phát triển kinh tế - xã hội, môi trường sinh thái.

Con người, các khoản đầu tư vốn và nơi cư trú ở những vùng đất thấp của Việt Nam hiện đang có nguy cơ cao. Những tác động của thay đổi khí hậu có thể sẽ làm nghiêm trọng thêm tình huống đang bức bách. Các biện pháp đối phó thích hợp đòi hỏi sự hợp tác quốc gia và quốc tế.

Tất cả những phân tích trên mới chỉ là sơ bộ, đóng góp một phần nhỏ bé vào việc nhận dạng những hậu quả kinh tế - xã hội và môi trường đối với vùng bờ biển do sự biến đổi khí hậu vàn những đáp ứng để hạn chế đến mức thấp nhất những tổn thất do nó gây ra. Muốn có được những đánh giá chi tiết hơn đáp ứng được thực sự yêu cầu của thiết kế và quy hoạch xây dựng ở các vùng đòi hỏi phải có những điều tra nghiên cứu sâu hơn.

 

Tài liệu tham khảo:

1. Đánh giá tác động của biến đổi khí hậu với vùng ven biển Việt Nam. Báo cáo chuyên đền, Hà Nội, 2000.

2. Hỗ trợ hệ thống quản lý thiên tai ở Việt Nam (1998 – 2004). UNDP, Hà Nội 2005.

3. Climate Check in Viet Nam Final Country Report Danida, UNEP Risoe Centre, Hanoi, 2005.

4. Disaster Preparedness and Climate Change in Viet Nam’ (2003-2005). Enhancing Human Security, Environment and Disaster Managenment Project, Hà Nội 2006.


Nguồn: Người Xây dựng, số 12/2010

 

Lên trên

Cùng chủ đề

  • Phạm Thị Thanh Thuỷ. Sinh thái nhân văn trong văn xuôi Trần Bảo Định

  • Lê Hoàng Quốc. Các di tích “Baudi” ở Việt Nam

  • Phan Anh Tú. Di tích khảo cổ Cát Tiên nhìn từ thuyết vũ trụ luận Ấn Độ giáo

  • Kiều Nga. Nước mắm xứ Nghệ

  • Trang Tuệ. Bảo vệ môi trường biển từ góc nhìn sinh thái học nhân văn

Thông báo

Tư vấn khoa học và kỹ năng nghiên cứu…

Tủ sách văn hoá học Sài Gòn

  • Thư viện ảnh
  • Thư viện video
  • Tủ sách VHH

Phóng sự ảnh: Toạ đàm khoa học: Xây dựng…

Hình ảnh văn hóa Tết xưa (sưu tầm)

Phóng sự ảnh: Lễ hội truyền thống VHH 2011

Phóng sự ảnh Lễ hội truyền thống VHH 2010

Thành phố Sankt-Peterburg, Nga

Bộ ảnh: Việt Nam quê hương tôi 2

Tranh Bùi Xuân Phái

Bộ tem tượng Phật chùa Tây Phương

Bộ ảnh: Đá cổ Sapa

Bộ ảnh: Phong cảnh thiên nhiên

Bộ ảnh: Việt Nam quê hương tôi

"Biển, đảo Việt Nam - Nguồn cội tự bao đời":…

Con dê trong văn hóa và văn hóa Việt Nam

Văn hóa Tết ở Tp.HCM (Chương trình truyền…

Văn hóa Tp. HCM: Một năm nhìn lại và động…

Phong tục Tết cổ truyền của người Nam Bộ

Bánh tét và Tết phương Nam

Con ngựa trong văn hóa và văn hóa Việt Nam

Điện Biên Phủ - Cuộc chiến giữa hổ và voi

Nhìn lại toàn cảnh thế giới từ 1911-2011…

Tọa độ chết - một bộ phim Xô-Việt xúc động…

Video: Lễ hội dân gian Việt Nam

Văn hoá Việt từ phong tục chúc Tết

Văn hoá Tết Việt qua video

Tết ông Táo từ góc nhìn văn hoá học

“Nếp nhà Hà Nội” trên “Nhịp cầu vàng”: tòa…

Văn hóa Thăng Long - Hà Nội qua video: từ…

Hướng về 1000 năm TL-HN: Xem phim “Tử Cấm…

Hướng về 1000 năm TL-HN: Người Thăng Long…

Phim "Chuyện tử tế" – tập 2 (?!) của “Hà…

Default Image

Hướng về 1000 năm TL-HN: "Chuyện tử tế" -…

Sách “Di sản Ấn Độ trong văn hóa Việt Nam”

Nguyễn Văn Bốn. Tín ngưỡng thờ Mẫu của người…

Sách: Quản lý và khai thác di sản văn hóa…

Hồ Sĩ Quý. Con người và phát triển con người

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 3

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 2

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 1

Hồ Sỹ Quý. Tiến bộ xã hội: một số vấn đề về…

Hồ Sỹ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á (Phụ…

Hồ Sỹ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á…

Hồ Sĩ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á…

Sách: Chuyên đề Văn hoá học

Sách: Một số vấn đề về hệ giá trị Việt Nam…

FitzGerald. Sự bành trướng của Trung Hoa…

Hữu Đạt. Đặc trưng ngôn ngữ và văn hoá giao…

Sống chụ son sao (Tiễn dặn người yêu)

Gs. Mai Ngọc Chừ. Số phận & Tâm linh

Trần Văn Cơ. Những khái niệm ngôn ngữ học…

Đoàn Văn Chúc. Văn hóa học (Phần 3 - hết)

Đoàn Văn Chúc. Văn hóa học (Phần 2)

Các nhà VHH nổi tiếng

Julian Haynes Steward

Wen Yi'duo (Văn Nhất Đa)

Leslie Alvin White

Huang Wen'shan (Hoàng Văn Sơn)

Radcliff-Brown, Alfred Reginald

Sapir, Edward

Margaret Mead

Thăm dò ý kiến

Bạn thích cuốn "Cơ sở văn hoá VN" của tác giả nào nhất?

Chu Xuân Diên - 4.8%
Lê Văn Chưởng - 0.9%
Trần Diễm Thuý - 1%
Trần Ngọc Thêm - 37.4%
Trần Quốc Vượng - 53%
The voting for this poll has ended on: 26 06, 2020

Tổng mục lục website

tong muc luc

Tủ sách VHH Sài Gòn

tu sach VHH SG

Thống kê truy cập

  • Đang online :
  • 492
  • Tổng :
  • 3 7 7 2 4 5 0 7
  • Đại học quốc gia TPHCM
  • Đại học KHXH&NV
  • Tran Ngoc Them
  • T.c Văn hóa-Nghệ thuật
  • Tc VHDG
  • Viện NCCN
  • Khoa Văn hóa học
  • Khoa Đông phương học
  • Phòng QLKH
  • Khoa Việt Nam học
  • Khoa Hàn Quốc học
  • BM Nhật Bản học
  • Khoa Văn học - Ngôn ngữ
  • Khoa triết học
  • Khoa Quan hệ quốc tế
  • Khoa Xã hội học
  • Bảo tàng Lịch sử - Văn hóa
  • viettems.com
  • myfaifo.com
Previous Next Play Pause

vanhoahoc.vn (các tên miền phụ: vanhoahoc.edu.vn ; vanhoahoc.net)
© Copyright 2007-2015. Bản quyền thuộc Trung tâm Văn hóa học Lý luận và Ứng dụng, Trường Đại học KHXH & NV - ĐHQG Tp. HCM
ĐT (028) 39104078; Email: ttvanhoahoc@hcmussh.edu.vn; ttvanhoahoc@gmail.com. Giấy phép: số 526/GP-BC, do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 27-11-2007
Ghi rõ nguồn vanhoahoc.vn khi phát hành lại các thông tin từ website này.

Website được phát triển bởi Nhà đăng ký tên miền chính thức Việt Nam trực thuộc Trung Tâm Internet VNNIC.

Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên