logo

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
    • Thư ngỏ
    • Khái quát về Trung tâm
    • Nhân lực Trung tâm
      • Thành viên Trung tâm
      • Cộng tác viên
    • Giới thiệu Khoa Văn hóa học
      • Khái quát về Khoa
      • Nhân lực của Khoa
  • Tin tức
    • Tin nhà (Trung tâm)
    • Tin ngành
    • Tin liên quan
  • Đào tạo - Huấn luyện
    • Các chương trình
    • Tổ chức và Hiệu quả
    • Đào tạo ở Khoa VHH
      • Chương trình đào tạo
      • Kết quả đào tạo
  • Nghiên cứu
    • Lý luận văn hóa học
      • LLVHH: Những vấn đề chung
      • VHH: Phương pháp nghiên cứu
      • VHH: Các trường phái - trào lưu
      • Loại hình và phổ quát văn hóa
      • Các bình diện của văn hóa
      • Văn hóa học so sánh
      • Vũ trụ quan phương Đông
      • Văn hóa và phát triển
      • VHH và các khoa học giáp ranh
    • Văn hóa Việt Nam
      • VHVN: Những vấn đề chung
      • Văn hóa cổ-trung đại ở Viêt Nam
      • Văn hóa các dân tộc thiểu số
      • Văn hóa Nam Bộ
      • Văn hóa nhận thức
      • Văn hóa tổ chức đời sống tập thể
      • Văn hóa tổ chức đời sống cá nhân
      • Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên
      • Văn hóa ứng xử với môi trường xã hội
    • Văn hóa thế giới
      • VH Phương Đông: Những vấn đề chung
      • VH Phương Tây: Những vấn đề chung
      • Quan hệ văn hóa Đông - Tây
      • Văn hóa Trung Hoa và Đông Bắc Á
      • Văn hóa Đông Nam Á
      • Văn hóa Nam Á và Tây Nam Á
      • Văn hóa châu Âu
      • Văn hóa châu Mỹ
      • Văn hóa châu Phi và châu Úc
    • Văn hóa học ứng dụng
      • VHƯD: Những vấn đề chung
      • VHH nghệ thuật
      • Văn hóa đại chúng
      • Văn hóa giao tiếp
      • Văn hóa du lịch
      • Văn hóa đô thị
      • Văn hóa kinh tế
      • Văn hóa quản trị
      • Văn hóa giáo dục - khoa học
    • Tài liệu phổ cập VHH
      • Văn hóa Việt Nam
      • Văn hóa thế giới
      • VHH ứng dụng
    • Tài liệu tiếng nước ngoài
      • Theory of Culturology
      • Vietnamese Culture
      • Applied Culturology
      • Other Cultures
      • 中文
      • Pусский язык
    • Thư Viện Số (Sách - Ảnh - Video)
      • Tủ sách Văn hoá học
      • Thư viện ảnh
      • Thư viện video
    • Các nhà văn hóa học nổi tiếng
  • Tiện ích
    • Dịch vụ Văn hóa học
    • Dịch vụ ngoài VHH
    • Trợ giúp vi tính
    • Từ điển Văn hóa học
    • Thư viện TT và Khoa
    • Tổng mục lục website
    • Tủ sách VHH Sài Gòn
    • Giải đáp thắc mắc
  • Thư giãn VHH
    • Văn chương Việt Nam
    • Văn chương nước ngoài
    • Nghệ thuật Việt Nam
    • Nghệ thuật thế giới
    • Hình ảnh vui
    • Video vui
  • Diễn đàn
  • Liên hệ
  • Trang chủ
  • Nghiên cứu
  • Văn hóa Việt Nam
  • Văn hóa ứng xử với môi trường xã hội
Thursday, 08 January 2015 09:14

Ranh giới Việt Nam - Trung Quốc

Người post bài:  Nguyễn Thị Tuyết Ngân

Từ những bài vỡ lòng, người Việt chúng ta đã được học "Nước Việt Nam hình cong chữ S".   Chúng ta ai ai cũng có thể hình tượng bản đồ nước ta.  Dường như chúng ta đều biết ranh -giới đất nước ở  đâu.  Nhưng sự thật có lẽ không phải vậy.  Hình ảnh trong đầu óc chúng ta chỉ bao gồm nửa trên bộ của ranh giới đất nước.  Nửa kia nằm trên Biển Đông.  Nửa trên -biển cũng là ranh giới đất nước, tương đương với nửa trên bộ.  Thế nhưng phần lớn chúng ta không biết ranh giới trên biển, tức là phân nửa ranh giới đất nước chúng ta ở đâu.  Thậm chí phần lớn chúng ta không biết về các loại ranh giới quốc gia trên biển và ý nghĩa của chúng.

oOo

Lời BBT QNCBĐ: Trong Công ước Liên hiệp quốc về Luật biển (gọi tắt Luật biển, UNCLOS82) có các khái niệm cơ bản về các đường ranh giới trên biển. Đây là những khái niệm cơ bản của Luật biển mà không dễ gì lý giải chính xác, lại càng khó lý giải phân định đâu là đường ranh giới biển ở một vùng biển có nhiều quốc gia chung biển và sự công bố đường ranh giới trên biển của một quốc gia có ảnh hưởng đến các quốc gia khác như thế nào. Quỹ xin trân trọng giới thiệu bài viết của tác giả Dương Danh Huy về những khái niệm cơ bản liên quan đế ranh giới trên biển. Chúng ta nên nhớ rằng hình ảnh đất nước Việt Nam không chỉ bao gồm vùng đất cong cong hình chữ S mà bao gồm cả vùng biển và hải đảo bao bọc xung quanh dải đất cùng vùng trời phía trên vùng đất và vùng biển đó.

Bối cảnh bài viết: Đầu năm 2005, ngay sau khi ký kết hiệp định phân chia Vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc thì xảy ra vụ hải quân Trung Quốc thảm sát ngư dân Việt Nam (Thanh Hóa) trên vùng biển Vịnh Bắc Bộ. Bất bình trước hành động của hải quân Trung Quốc bắn vào những người ngư dân vô tội và thương cảm cho người thân của những gia đình bị nạn, một nhóm nhỏ lưu học sinh và những người Việt Nam đang sống ở nước ngoài đã thành lập trang web Biển Đông  để quyên góp tiền ủng hộ người thân và gia đình của các nạn nhân. Tiêp theo vụ ngư dân bị thảm sát là tai nạn do cơn bão Chân Trâu đổ vào vùng Biền Đông và Vịnh Bắc Bộ, mà trong đó nguyên nhân chính gây ra tai nạn là do những thông báo dự báo bão thiếu chính xác. Qua những hoạt động đó, những người quan tâm về các vấn đề trên biển đã thành lập nên một nhóm nhỏ Nhóm nghiên cứu Biển Đông. Nhóm này đã thu thập được một số tài liệu và đã có những trao đổi về việc áp dụng luật biển quốc tế vào giải quyết các tranh chấp xảy ra trong vùng Vịnh Bắc Bộ và Biển Đông. Trong nhóm có tác giả Duong Danh Huy rất quan tâm đến vấn đề giải quyết tranh chấp trên Biển Đông giữa Việt Nam và Trung Quốc, đặc biệt vấn đề giải quyết tranh chấp trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Anh Huy Duong đã viết một bài về ranh giới trên biển rất chi tiết. Tôi xin trân trọng giới thiệu bài viết của anh để chúng ta hiểu sâu hơn về Luật biển quốc tề và cùng trao đổi thêm nhiều vấn đề xung quanh các tranh chấp trên Biển Đông và các vùng biển của Việt Nam.

oOo

1.  Giới thiệu

Từ những bài vỡ lòng, người Việt chúng ta đã được học "Nước Việt Nam hình cong chữ S".   Chúng ta ai ai cũng có thể hình tượng bản đồ nước ta.  Dường như chúng ta đều biết ranh -giới đất nước ở  đâu.  Nhưng sự thật có lẽ không phải vậy.  Hình ảnh trong đầu óc chúng ta chỉ bao gồm nửa trên bộ của ranh giới đất nước.  Nửa kia nằm trên Biển Đông.  Nửa trên -biển cũng là ranh giới đất nước, tương đương với nửa trên bộ.  Thế nhưng phần lớn chúng ta không biết ranh giới trên biển, tức là phân nửa ranh giới đất nước chúng ta ở đâu.  Thậm chí phần lớn chúng ta không biết về các loại ranh giới quốc gia trên biển và ý nghĩa của chúng.

Hình 1: Việt Nam và Biển Đông (1)

Sự mất mát đau lòng trên biển vì bão Trân Châu nhấn mạnh Biển Đông rất quan trọng đối với nước ta.  Vì chúng ta cần tôm, cá, mực mà mỗi này hàng trăm ngàn người sẵn sàng dấn thân ra biển.  Dầu hoả từ Biển Đông là một trong những rường cột trong ngành xuất khẩu của nước ta.  Để buôn bán với Nhật, Hàn Quốc và Bắc Mỹ, quyền tự do đi qua Biển Đông cho tàu thyền nước ta không thể lệ thuộc vào nước khác.

Song, các quyền lợi và thẩm quyền trên Biển Đông đã, đang và sẽ bị tranh chấp giữa nhiều nước, trong đó có nước ta.  Tranh chấp quyền lợi đồng nghĩa với tranh chấp các loại ranh giới.  Trong quá khứ, nước ta đã đi tới thoả thuận về ranh giới với Thái Lan trong Vịnh Thái Lan, Indonesia trong vùng Nam Côn Sơn – Natuna, và với Trung Quốc ở Vịnh Bắc Bộ.  Hiện nay, còn tồn tại tranh chấp về ranh giới giữa nước ta, Trung Quốc và một số nước Đông Nam Á.  Kết quả của những tranh chấp này sẽ có ảnh hưởng rất lớn tới quyền lợi và thẩm quyền trên biển của nước ta.  Thêm vào đó, kết quả của những tranh chấp này có ý nghĩa trên diện công lý và công bằng giữa nước ta và các nước láng giềng.

Nếu không đủ ý thức về ranh giới đất nước trên biển, không đủ dân trí về các loại ranh giới trên biển và quy định quốc tế, chúng ta dễ bị thiệt thòi trên diện quyền lợi cũng như công lý.  Vì vậy, chúng ta cần phát triển ý thức và nâng cao dân trí về ranh giới đất nước trên biển.

Mong rằng bài này đem tới bạn đọc một số khái niệm và chi tiết về các ranh giới đất nước trên biển.

2.  Luật quốc tế về ranh giới biển

Ðể hiểu thêm về ranh giới trên biển, chúng ta hãy so sánh ranh giới trên biển và ranh giới trên bộ.  Ranh giới trên biển có hai khác biệt căn bản đối với ranh giới trên bộ.

Khác biệt thứ thứ nhất: ranh giới trên bộ là ranh giới giữa hai nước, trong khi ranh giới trên biển có thể là ranh giới giữa hai nước hay, thông thường hơn, là ranh giới giữa một nước và cộng đồngquốc tế.  Ý nghĩa của khác biệt này như sau.

Nếu một nuớc có ranh giới trên biển quá tham vọng thì không những nước láng giềng bị thiệt thòi mà tất cả những nước có quyền lợi trên biển đều bị thiệt thòi.  Ðiều này tương tự với một người chiếm lòng đường: không chỉ láng giềng của người đó bị thiệt thòi mà tất cả mọi người khác đều bị thiệt thòi.  Trong tường hợp đó, không chỉ những nước láng giềng mà những nước khác có quyền lợi trên đều cần và đều sẽ phản đối ranh giới quá tham vọng đó.  Vì vậy, trong khi ranh giới trên bộ là thoả thuận song phương giữa hai nước, ranh giới trên biển nằm dưới quy tắc quốc tế.  Quy tắc này là United Nations Convention on the Law of the Sea (UNCLOS) (2).

Chúng ta hãy dùng một thí dụ.  Tuy nước ta không chung ranh giới biển với Ethiopia, nếu ranh giới trên biển của Ethiopia quá tham vọng thì quyền lợi trên biển của nước ta cũng bị ảnh hưởng.  Cụ thể là ranh giới đó cho Ethiopia thẩm quyền gây khó khăn cho tàu thuyền nước ta ra vào biển Hồng Hải nếu họ muốn, mà biển Hồng hải có thể sẽ là một tuyến giao thông quan trọng cho tàu thuyền nước ta.  Vì vậy, nước ta cần và có quyền phản đối, dựa trên sở luật biển quốc tế trong UNCLOS, ranh giới quá tham vọng của Ethiopia. 

Khác biệt thứ hai là cấu trúc của ranh giới trên biển.  Ranh giới trên bộ là một lằn ranh.  Bên trong lằn ranh đó, tất cả quyền lợi và thẩm quyền thuộc về nước ta.  Bên ngoài lằn ranh đó, tất cả quyền lợi và thẩm quyền thuộc về nước láng giềng.  Khác với sự đơn giản của ranh giới trên bộ, ranh giới trên biển được cấu trúc bởi nhiều loại ranh giới bọc ngoài nhau như các lớp vỏ củ hành.  Từ trong ra ngoài, ở mỗi lớp, tức là ở mỗi loại ranh giới, nước ta có những thẩm quyền và quyền lợi khác nhau.  Ý nghĩa của khác biệt này như sau.

Khi nói về ranh giới trên biển, nhất là đối với các cơ quan truyền thông hay cơ quan nhà nước, ta phải hiểu rõ các loại ranh giới, khoảng cách của chúng từ bờ biển, thẩm quyền và quyền lợi của nước ta cũng như các nước khác ở mỗi loại ranh giới.  Nếu không quen thuộc với cấu trúc của ranh giới trên biển, thí dụ như ta không ý thức những khác biệt với ranh giới trên bộ, ta sẽ không hiểu rõ những thẩm quyền hay quyền lợi mà nước ta có thể có được hay bị mất đi.

Cấu trúc của ranh giới trên biển và thẩm quyền cũng như quyền lợi ở mỗi loại ranh giới, được quy định trong luật biển quốc tế trong UNCLOS như sau:

2.1  Biển quốc tế (3)

Trước khi nói về các loại ranh giới, cần nói về biển quốc tế.  Biển quốc tế là vùng biển nằm ngoài tất cả các loại ranh giới được miêu tả sau đâỵ  Trên biển quốc tế, tàu thuyền, máy bay dân sự và quân sự mọi nước có quyền tự do hoạt động và khai thác kinh tế (4).  Trên biển quốc tế, tàu thuyền quân sự được quyền bất khả xâm phạm (5).  Tàu thuyền dân sự chỉ có thể bị xét trong một số trường hợp giới hạn, như không treo cờ quốc gia, cướp biển, hay buôn nô lệ .  Tàu thuyền dân sự chỉ có thể bị truy đuổi nếu cuộc truy đuổi đó bắt đầu tư trong lãnh hải hay vùng tiếp giáp lãnh hải của nước chủ .  Thẩm quyền và quyền lợi trên biển quốc tế không thuộc về riêng nước nào.  Tuy nằm ngoài tất cả các loại các loại ranh giới và không thuộc về riêng nước ta, biển quốc tế rất quan trọng cho nước ta vì tàu thuyền, máy bay nước ta cần quyền tự do hoạt động trên biển. 

Khái niệm về biển quốc tế quan trọng vì quyền tự do hoạt động trên biển quốc tế là mức quy chiếu cho các mức tự do hoạt động khác nhau của tàu thuyền nước ta trong các loại ranh giới khác nhau của các nước khác.  Nguyên tắc là bên trong loại ranh giới càng gần bờ thì nước chủ càng có nhiền thẩm quyền và quyền lợị Nói cách khác, bên trong loại ranh giới càng gần bờ thì tàu thuyền nước khách càng có ít tự do hoạt động.

2.2  Ðường cơ sở (8)  và nội thuỷ (9)

Ðường cơ sở của một nước đại khái là là bờ biển của nước đó khi thuỷ triều xuống.  UNCLOS bổ xung khái niệm đơn giản này bằng khái niệm đường cơ sở thẳng (10).  Trong những trường hợp dưới đây, nước chủ có thể dùng một số đường thẳng, thay vì dùng bờ biển, làm đường cơ sở:

Các quốc gia quần đảo, như Philippines và Indonesia, có quyền vạch những đường thẳng nối các đảo bên ngoài nhất của mình thành đường cơ sở (11).  Ý nghĩa của quy chế này là nước quần đảo có thể biến tất cả vùng biển giữa các đảo của mình thành nội thủy, và nhờ vậy có thể chiếm một vùng biển rất rộng.  Lưu ý là chỉ có những quốc gia quần đảo mới được hưởng quy chế này.   Một quốc gia lục địa nếu sở hữu một quần đảo nào đó không được hưởng quy chế đó cho quần đảo nàỵ

Nếu bờ biển có vịnh cửa hẹp hay vịnh lịch sử thì nước chủ có quyền vạch một đường thẳng ngang cửa vịnh làm đường cơ sở (12).  Ý nghĩa của quy chế này là nước chủ có thể biến tất cả vịnh đó thành nội thuỷ của mình.

Nếu bờ biển khúc khuỷu, biển cắt sâu vào đất liền thì nước chủ có thể dung một số đường cơ sở thẳng để đơn giản hoá đường cơ sở  (13)(14).

Nếu có một chuỗi đảo sát nhau dọc bờ biển và không xa bờ, như ở bờ biển Quảng Ninh, thì nước chủ có quyền vạch một số đường thẳng nối các đảo này làm đường cơ sở (15).  Ý nghĩa của quy chế này là nước chủ có thể biến vùng biển nằm sau dãy đảo thành nội thuỷ của mình.  Lưu ý là các đảo phải sát nhau để tạo thành 1 viền dọc bờ biển (fringe of islands).  Nếu chỉ có vài đảo cách xa nhau thì không được hưởng quy chế nàỵ

Quy chế đường cơ sở thẳng có tiềm năng cho phép nước chủ chiếm rất nhiều biển thành nội thuỷ của mình và đẩy đường cơ sở của nước chủ ra biển rất xa.  Vì vậy chúng ta phải cảnh giác và phản đối khi các nước khác, nhất là các nước láng giềng, lạm dụng quy chế nàỵ

Ðường cơ sở có 2 ý nghĩa.

Thứ nhất, bên trong đường cơ sở của một nước, thí dụ, cửa sông, vịnh hẹp, vùng biển sau các đảo viền, là nội thuỷ của nước đó.  Nội thuỷ tương đương với lãnh thổ trên bộ.  Một nước có hoàn toàn thẩm quyền trên nội thuỷ của mình.  Vì vậy, tàu thuyền các nước khác muốn đi qua nội thuỷ của một nước phải được phép của nước đó.  Nếu một nước vạch đường cơ sở một cách quá tham vọng thì nước đó sẽ biến quá nhiều mặt biển thành nội thuỷ của mình, buộc tàu thuyền và máy bay các nước khác có phép của nước chủ mới được đi qua.  Như vậy sẽ thiệt thòi cho các nước khác, dù không phải láng giềng, và các nước này cần và sẽ phản đối khi một nước vẽ đường cơ sở một cách quá tham vọng.

Thứ nhì, các ranh giới khác được tính từ đường cơ sở.  Ðiều này sẽ được nói rõ thêm trong các đoạn sau.  Thí dụ, lãnh hải của mỗi nước được tính là 12 hải lý từ đường cơ sở.  Khi có tranh chấp về ranh giới trên biển, thương lượng thường được dựa trên các đường cơ sở.  Vì vậy, nếu một nước vạch đường cơ sở một cách quá tham vọng thì các nước khác, nhất là các nước láng giềng, cần và sẽ phản đối.  Vì vậy, chúng ta cần cảnh giác và tích cực phản đối nếu một nước nào đó vạch đường cơ sở một cách quá tham vọng.

Thí dụ, khi Trung Quốc tuyên bố đường cơ sở năm 1996 thì có 25 nước công bố phản đối, trong đó có nước ta, và và một số khác nước phản đối riêng với Trung Quốc.  Hai vấn đề chính đối với nước ta là, với đường cơ sở naỳ, Trung Quốc đòi biến vùng biển giữa Hải Nam và Hongkong thành nội thuỷ của họ, và đòi biến vùng biển chung quanh quần đảo Hoàng Sa thành nội thuỷ của họ (ngoài việc đòi chiếm chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa). 

2.3  Lãnh hải (16)

Từ đường cơ sở, vùng biển ra tới tối đa là 12 hải lý là lãnh hải của nước chủ (17).  Nước chủ có toàn chủ quyền trên lãnh hải của mình (18).  Thí dụ, nước chủ có quyền ban và thi hành luật trên lãnh nải của mình.  Tuy nhiên, lãnh hải khác nội thuỷ ở điểm tàu thuyền dân sự và quân sự các nước khác có quyền đi qua lãnh hải của nước chủ với tư cách đi qua không gây hại mà không cần xin phép nước chủ  (19)(20).  Sự khác biệt này rất quan trọng cho khả khả năng giao thông dân sự và quân sự của nước ta trong lãnh hải của các nước khác.

2.4  Vùng tiếp giáp lãnh hải (21)

Bên ngoài lãnh hải, mỗi nước có một vùng tiếp giáp lãnh hải ra biển cách đường cơ sở tối đa là 24 hải lý (22).  Điểm quan trọng là nước chủ chỉ có hoàn toàn chủ quyền ra tới lãnh hải; trong vùng tiếp giáp lãnh hải và từ đó trở ra, nước chủ không có hoàn toàn chủ quyền mà chỉ có những quyền và quyền lợi do UNCLOS ban cho.  Trong vùng tiếp giáp lãnh hải, nước chủ không có quyền ban và thi hành luật trái với UNCLOS.  Trong vùng tiếp giáp lãnh hải của một nước, tàu thuyền dân sự và quân sự các nước khác có quyền hoạt động nếu không khai thác kinh tế.  Quyền này rộng hơn quyền đi qua không gây hại, chẳng hạn như có quyền ngừng lại, cứu hộ, quan sát.

Mục dích của vùng tiếp giáp lãnh hải là tạo phương tiện cho nước chủ bảo vệ lãnh hải của mình.  Vì vậy, trong vùng tiếp giáp lãnh hải, nước chủ được UNCLOS cho quyền chặn, xét bà bắt tàu thuyền của các nước khác với mục đích phòng chống, hay trừng phạt, những việc vi phạm hải quan hay gây thiệt hại cho môi sinh có thể, hay đã, xảy ra trong lãnh hải (23).  Như vậy, so với lãnh hải, thẩm quyền của nước chủ trong vùng tiếp giáp lãnh hải giảm đi so với thẩm quyền trong lãnh hải, trong khi quyền của các nước khác tăng lên.

2.5  Vùng đặc quyền kinh tế (24)

Nối tiếp theo vùng tiếp giáp lãnh hải, mỗi nước có một vùng đặc quyền kinh tế trên lý thuyết ra tới tối đa là 200 hải lý cách đường cơ sở của mình (25).  Trong vùng đặc quyền kinh tế, nước chủ có đặc quyền khai thác biển (26), nhưng tàu thuyền và máy bay dân sự và quân sự các nước khác có quyền tự do hoạt động như trên biển quốc tế, thí dụ kể cả cứu hộ, thao dượt, quan sát quân sự, miễn không khai thác kinh tế (27).  Trong vùng đặc quyền kinh tế, nước chủ không có quyền ban luật hay bằng cách khác giới hạn những tự do nàỵ Nếu nước chủ làm điều đó thì họ vi phạm luật biển quốc tế, và các nước khác cần và sẽ phản đốị

Trên thực tế, các vùng đặc quyền kinh tế của những nước lân cận thường nằm đè lên nhaụ Ðiều nay gây ra tranh chấp giữa các nước nàỵ Vì vùng dắc quyền kinh tế ra được tới 200 hải lý, trong khi lãnh hải chỉ được ra tới 12 hải lý, phần lớn tranh trấp ranh giới trên biển là tranh chấp vùng đặc quyền kinh tế chứ không phải trank chấp lãnh hải.  UNCLOS quy định là trong trường hợp có tranh chấp, các nước phải chia vùng đặc quyên kinh tế một cách công bằng.

2.6  Thềm lục địa (28)

Nếu thềm lục điạ của một nước ra biển quá 200 hải lý thì nước đó có quyền khai thác thềm lục điạ ra tới tối đa là 350 hải lý, tuỳ theo địa hình của đáy biển (29).  Trong vùng thềmlục địa, nước chủ có đặc quyên khai thác đáy biển cho mục đích kinh tế.  Trừ điển này ra, vùng thềm lục địa bên ngoài 200 hải lý được coi như biển quốc tế.

Chúng ta hãy dùng một thí dụ khác để minh hoạ về cấu trúc nàỵ

Giả sử Ethiopia vạch đường cơ sở của họ ra biển cách đất liền 25 hải lý, và vì vậy hải phận của họ ra ra biển cách đất liền 37 hải lý, trong khi theo UNCLOS đường cơ sở của họ phải sát bờ biển và hải phận của họ chỉ ra biển cách đất liền 12 hải lý.  Giả sử chúng ta chấp nhận đường cơ sở của Ethiopia.  Hoàn cảnh này dẫn tới hai điều thiệt thòi cho nước ta:

1.  Tàu thuyền nước ta đi qua biển Hồng Hải sẽ phải tránh bờ biển Ethiopia hơn 25 hải lý, trong khi theo UNCLOS chúng ta có quyền đi cách bờ biển Ethiopia bất cứ khoảng cách nào với tư cách đi qua không gây hại.

2.  Giữa 25 và 37 hải lý, tàu thuyền chúng ta sẽ chỉ có quyền đi qua với tư cách đi qua không gây hại. Ðiều này có nghĩa tàu thuyền nước ta không có quyền ngừng lại, không có quyền cứu hộ, không có quyền đi vòng vòng, không có quyền hay phóng trực thăng, và tàu ngầm phải nổi lên và treo cờ. Trong khi đó, theo UNCLOS tàu thuyền chúng ta không bị ràng buộc như vậy.

Ý nghĩa của thí dụ này là chúng ta phải cảnh giác khi các nước khác tuyên bố đường cơ sở xa đất liền hơn UNCLOS cho phép. Thên vào đó, chúng ta phải phân biệt, phải tránh lẫn lộn, giữa các loại ranh giới trên biển.  Nếu lẫn lộn, có thể chúng ta sẽ bị mất quyền lợi trên biển.  Đối với vùng biển càng gần nước ta thì những nguyên tắc trong thí dụ này càng có nhiều ý nghĩa thực tế. 

Một lầm lẫn khá thông thường là lầm lẫn lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế: nhiều khi báo chí và nhân viên nhà nước nói về vùng đặc quyền kinh tế của nước bạn bằng từ cụm từ "biển của họ".  Nếu, chẳng hạn, chúng ta không phân biệt, hay vô tình lẫn lộn, vùng đặc quyền kinh tế của Ethiopia với lãnh hải của họ, chúng ta có thể sẽ mất đi quyền thi hành công tác dân sự và quân sự trong 1 vùng biển quan trọng đối với nước ta. Ðiều đó sẽ cho phép Ethiopia ngăn cấm hay cản trở tàu thuyền nước ta thi hành công tác dân sự hay quân sự một cách hoàn toàn phù hợp với luật biển quốc tế. 

Vì quyền lợi quốc gia bị ảnh hưởng như vậy, bất kể ranh giới biển của các nước khác có tiếp xúc với ranh giới biển nước ta hay không, bất kể ranh giới biển của họ cách nước ta bao xa, chúng ta phải phát biểu về và làm việc với ranh giới đó một cách hiểu biết và thận trọng, như chúng ta thận trọng đối với ranh giới trên bộ của nước ta.

3.  Ranh giới nước ta trên biển

3.1  Ðường cơ sở và nội thuỷ

Ngày 12/11/1982 nước ta tuyên bố về đường cơ sở và hải phận cho miền Nam và miền Trung (30).  Ðường cơ sở này gồm 10 đường cơ sở nối 11 điểm trên biể từ đảo Thổ Chu tới đảo Cồn Cỏ (31).

Bảng 1: Toạ độ đường cơ sở nước ta (32)

Trong tuyên bố 12/11/1982, nước ta cho là Vịnh Bắc Bộ phía Tây vĩ độ 108 là nội thuỷ nước ta với lý do đó là biển lịch sử, dựa trên hiệp định Pháp-Thanh 26/6/1887 (33).  Trong tuyên bố 1998, nước ta chỉ nói là sẽ tuyên bố về đường cơ sở và hải phận cho Hoàng Sa và Trường Sa (34).

Hình 2: Đường cơ sở và nội thuỷ nước ta theo tuyên bố 11/12/1982 (35)

Trung Quốc không chấp nhận đường cơ sở trong Vịnh Bắc Bộ dựa theo Hiệp Định Pháp Thanh 26/6/1887. Trong hiệp định biên giới với Trung Quốc 25/12/2000, ranh giới trong Vịnh Bắc Bộ được vạch lại.  Hiệp định 25/12/2000 xoá bỏ đường cơ sở trong Vịnh Bắc Bộ trong tuyên bố 11/12/1982 nhưng có vẻ là ranh giới trong hiệp định 25/12/2000 phần lớn là ranh giới vùng đặc quyền kinh tế chứ không phải đường cơ sở.  Điều này có nghĩa đường cơ sở tong Vịnh Bắc Bộ theo tuyên bố 11/12/1982 đã bị xoá bỏ và cần được vạch lại.

Ðại khái, thay vì vẽ đường cơ sở dọc theo bờ biển, đường cơ sở của nước ta được tạo thành bởi những đường cơ sở thẳng nối cácđảo ngoài khơi như Thổ Chu, Côn Ðảo, Cồn Cỏ.  Có lẽ có một số mục đích cho việc vẽ đường cơ sở thẳng nối liền các đảo thay vì đi theo bờ biển.  Mục đíc thứ nhất là để đẩy các ranh giới biển ra xa bờ, nhằm tăng diện tích thuộc về thẩm quyền và quyền lợi nước ta.  Mục đích thứ hai là, vì các giải pháp cho thương lượng về tranh chấp trên biển thường dựa trên đường cơ sở, thí dụ như vẽ ranh giới bằng trung tuyến giữa đường cơ sở của hai nước, đường cơ sở xa bờ sẽ là lợi thế cho ta trong thương lượng. 

Như có thể thấy trong hình 2, đường cơ sở của nước ta cách xa bờ tối đa là 80 hải lý và bao gồm 27,000 hải lý vuông thành nội thuỷ nước ta (36).

Cho tới nay, Trung Quốc, Mỹ, Thái Lan, Pháp và Ðức phản đối đường cơ sở của chúng ta.  Một số chuyên gia Việt Nam và ngoại quốc về biên giới và luật biển quốc tế cho là chúng ta có thể củng cố lại đường cơ sở của mình để phù hợp với UNCLOS hơn, được nhiều nước ủng hộ hơn, mà sẽ không thiệt hại về quyền lợi kinh tế.  Nhưng đây là đề tài cho một bài khác.

Cần lưu ý là một số nước khác cũng vẽ đường cơ sở thẳng, thay vì vẽ theo bờ biển, thí dụ như Miến Điện, Thái Lan và Trung Quốc.  Trường hợp đáng chú ý nhất là trong khi chúng ta và Trung Quốc còn tranh chấp quần đảo Hoàng Sa thì năm 1996 Trung Quốc tuyên bố một số đường cơ sở thẳng vòng quanh quần đảo Hoàng Sa, nhằm giành chủ quyền Hoàng Sa và biến xx hải lý vuông trên Biển Ðông chung quanh Hoàng Sa thành nội thuỷ của họ.

Bảng 2: Toạ độ biển Trung Quốc đòi chiếm chung quanh Hoàng Sa (37)

Tuyên bố này trái với luật quốc tế ở hai điểm chính.  Thứ nhất, luật quốc tế không cho chiếm đoạt lãnh thổ, ở đây là Hoàng Sa, bằng bạo lực.  Thứ nhì, giả sử việc Trung Quốc chiếm quần đảo Hoàng Sa có được nước ta và thế giới công nhận đi nữa thì việc Trung Quốc vẽ các đường baseline thẳng để chiếm ???? (cần bổ sung, H.A.) hải lý vuông ngoài khơi nước ta như vậy trái với UNCLOS.  Lý do chính là quần đảo Hoàng Sa không phải là một quốc qia quần đảo và không bao kín đủ vùng biển Hoàng Sa để được hưởng quy chế đường cơ sở thẳng.  Việc Trung quốc đòi vạch đường cơ sở thẳng bao quanh quần đảo Hoàng Sa như vậy, nếu chúng ta chấp nhận thì sẽ dẫn tới bốn thiệt hại lớn lao cho nước ta. 

Thứ nhất, tàu thuyền nước ta sẽ không được quyền đi qua một vùng biển rất lớn ngoài khơi miền Trung.  Ðiều này sẽ cản trở lưu thông trên biển cho nước ta.

Thứ nhì, Trung Quốc sẽ có quyền dùng vùng biển cho bất cứ mục tiêu gì, kể cả quân sự, nếu vùng này trở thành nội thủy của họ.

Thứ ba, đáng lẽ phân nửa vùng này nằm trong vùng đặc quyền kinh tế nước ta, phân nửa nằm trong vùng đặc quyền kinh tế Trung Quốc, nếu vùng này trở thành nội thuỷ của Trung Quốc thì nước ta sẽ mất hết quyền lợi kinh tế trong vùng nàỵ

Thứ tư, theo UNCLOS, nếu có tranh chấp, vùng đặc quyền kinh tế phải được chia một cách công bằng trên cơ sở luật quốc tế (38).  "Công bằng" thường có nghĩa là đường trung tuyến giữa đường cơ sở hy bờ biển hai nước đang tranh chấp.  Vì vậy, theo UNCLOS và lý công bằng thì vùng đặc quyền kinh tế phải được chia ở đường trung tuyến giữa bờ biển miền Trung và đảo Hải Nam.  Vùng đặc quyền kinh tế mỗi bên sẽ được 50% vùng biển giữa miền Trung và Hải Nam.  Nếu chúng ta chấp nhận trên pháp lý là Hoàng Sa thuộc về Trung Quốc và công nhận đdương sơ sở thẳng chung quanh Hàng Sa mà họ đòi, thì vùng đặc quyền kinh thế sẽ được chia ở một lằn ranh giữa quần đảo Hoàng Sa và bờ biển miền Trung: nước ta sẽ được khoảng 25% vùng biển giữa miền Trung và Hải Nam, và Trung Quốc sẽ được khoảng 75%.  Ðiều này sẽ rất bất công cho nước ta.

3.2  Lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải

Theo tuyên bố 12/11/1982, lãnh hải việt Nam là 12 hải lý từ đường cơ sở trong tuyên bố đó, và vùng tiếp giáp lãnh hải là 24 hải lý từ đường cơ sở nàỵ

3.3  Vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa

Trên lý thuyết vùng đặc quyền kinh tế nước ta có thể ra biển cách đường cơ sở tối đa là 200 hải lý, và thềm lục địa ra biển cách đường cơ sở tối là 350 hải lý.  Trên thực tế, vì Biển Ðông, vịnh Thái Lan và Vịnh Bắc Bộ nhỏ, đường cơ sở của nước ta và các nước láng giềng cách nhau ít hơn 400 hải lý, một phần các vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước ta và các nước láng giềng nằm đè lên nhau.  Điều này gây ra tranh chấp.  Trong những trường hợp tranh vùng đặc quyền kinh tế trên thế giới, một trong những giải pháp công bằng và thông dụng là chia theo trung tuyến. Nếu Biển Đông được chia theo vùng được chia theo đường trung tuyến giữa bờ biển các nước thì các nước sẽ được vùng đặc quyền kinh tế như sau:

Hình 3: Chia vùng đặc quyền kinh tế cho các nước theo đường trung tuyến (39)

***Tỷ lệ diện tích vùng đặc quyền kinh tế chia theo đường trung tuyến

Bản đồ và bảng liệt kê diện tích và tỷ lệ cho thấy giải pháp chia vùng đặc quyền kinh tế theo đường trung tuyến dẫn tới một kết quả khá công bằng.  Một điều đáng chú ý là, theo giải pháp này, diện tích vùng đặc quyền kinh tế của mỗi nước gần bằng tỷ lệ chiều dài bờ biển của nước đó; điều này cũng thể hiện một sự công bằng.

Ngoài giải pháp chia vùng đặc quyền kinh tế theo đường trung tuyến, có một số giải pháp khác.  Thí dụ, Trung Quốc vạch ranh giới ở Biển Đông như sau:

Hình 4: Ranh giới Trung Quốc vạch ở Biển Đông (40)

Như có thể thấy trong bản đồ trên, ranh giới do Trung Quốc vạch cách xa bờ biển đảo Hải Nam tới 900 hải lý va` cách bờ biển nước ta và các nước Đông Nam Á khoảng 50 hải lý.  Nếu theo giải pháp của Trung Quốc thì họ được hơn 80% Biển Đông, còn lại dưới 20% chia giữa các nước Đông Nam Á.  Ranh giới do Trung Quốc vạch không công bằng bằng phương pháp chia vùng đặc quyền kinh tế theo đường trung tuyến và có ít cơ sở trên UNCLOS hơn phương pháp này.

Vì vậy, chúng ta phải phản đối việc Trung Quốc đòi chiếm 80% Biển Đông và chúng ta phải bảo vệ và đấu tranh một ranh giới công bằng cho vùng đặc quyền kinh tế của nước ta, thí dụ như ranh giới vạch theo đường trung tuyến.  Chúng ta phải bảo vệ và đấu tranh cho ranh gới này như chúng ta bảo vệ và đấu tranh cho biên giới trên đất liền.

Các nước Đông Nam Á, nhất là Philippines, Malysia, Indonesia và Brunei, nằm trong hoàn cảnh giống nước ta.  Cụ thể là nếu ranh giới vùng đặc quyền kinh tế trên Biển Đông được chia theo đường trung tuyến thì họ sẽ có quyền lợi công bằng, còn nếu Trung Quốc chiếm 80% thì sẽ rất thiệt thòi cho các nước này.  Cơ sở pháp lý của việc Trung Quốc đòi chiếm 80% Biển Đông bị ASEAN chất vấn (41).  Tiến sĩ Hamza, viện trưởng viện biển Malaysia cho là điều này vô lý, bất công và kêu gọi các nước Đông Nam Á không chấp nhận Trung Quốc đòi chiếm 80% Biển Đông (42).  Các nước Đông Nam Á, kể cả nước ta, cần đoàn kết đấu tranh cho một giải pháp công bằng và phù hợp với luật biển quốc tế UNCLOS cho tranh chấp vùng đặc quyền kinh tế trên Biển Đông, chẳng hạn như vạch ranh giới theo đường trung tuyến.

Một số tranh chấp vùng đặc quyền kinh tế giữa nước ta và các nước láng giềng đã được giải quyết như sau:

3.3.1 Thoả thuận trong Vịnh Thái Lan

Ngày 9/8/1997 nước ta và Thái Lan thoả thuận ranh giới trong Vịnh Thái lan như sau. 

Bảng 3: Ranh giới vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam - Thái Lan (43)

Trong thoả thuận này, nước ta được 32.5% vùng tranch chấp và Thái Lan được 67.5% (44).  Bản đồ dưới đây cho thấy Thái Lan cũng tuyên bố đường cơ sở thẳng xa bờ như nước ta, và cũng cho thấy là trong thoả thuận này, nước ta và Thái Lan đều không dùng đường cơ sở của nhau.

Chúng ta có thể suy luận từ thoả thuận 9/8/1997 là nước ta dùng đường trung tuyến giữa đảo Thổ Chu và Puolo Wai làm ranh giới giữa nước ta và Campuchia (45).  Campuchia phản đối ranh giới này và, vì vậy, phản đối hiệp định 9/8/1997 giữa nước ta và Thái Lan.  Có ý kiến từ Campuchia cho là đường Brevie là ranh giới giữa Campuchia, cới mục tiêu là như vậy thì Campuchia sẽ được thêm 850 km vuông.  Đây có thể là một tranh chấp trên biển giữa nước ta và Campuchia.

Hình 5: Ranh giới trong Vịnh Thái Lan (46)

3.3.2 Các thoả thuận phía Nam Biển Đông

Bản đồ trên cho thấy nước ta có tranh chấp thềm lục địa với Malaysia.  Hiện nay nước ta và Malaysia có thoả thuận khia thác chung trong vùng tranh chấp.

Trước năm 2003 nước ta cũng có tranh chấp vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa với Indonesia.  Dường như nguyên nhân của tranh chấp này là nước ta cho là thềm lục địa nước ta bao gồm phần dốc từ nước ta, thềm lục địa Indonesia bao gồn phần dốc từ Indonesia, trong khi Indonesia muốn vạch ranh giới thềm lục địa bằng trung tuyến.  Quan điển của nước ta hợp lý cho ranh giới thềm lục địa; quan điểm của Indonesia hợp lý cho ranh giới vùng đặc quyền kinh tế.  Ngày 26/6/2003 nước ta và Indonesia ký hiệp định ranh giới vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, nhưng hiệp định này chưa được áp dụng, và không rõ hiệp định này giải quyết tranh chấp ra sao.

3.3.3 Thoả thuận trong Vịnh Bắc Bộ

Trong hiệp định biên giới với Trung Quốc ngày 25/12/2000, ranh giới trong Vịnh Bắc Bộ được vạch lại như sau:

Hình 6: Ranh giới nước ta trong Vịnh Bắc Bộ (47)

Có vài điều đáng chú ý về ranh giới trong Vịnh Bắc Bộ:

1. So với đường trung tuyến giữa nước ta và Trung Quốc thì ranh giới này nằm phía nước ta, có nghĩa nước ta được ít hơn so với chia theo trung tuyến.

2. Trong tuyên bố 11/12/1982 nước ta cho là phía Tây kinh độ 108 là biển lịch sử nước ta, tức là phân nửa Vịnh Bắc Bộ là nội thuỷ nước ta.  Hiệp định biên giới với Trung Quốc vạch ranh giới giữa nước ta và Trung Quốc nhưng không nói rõ ranh giới này là đường cơ sở hay ranh giới vùng đặc quyền kinh tế.  Có lẽ ranh giới giữa nước ta và Trung Quốc gần bờ, chẳng hạn như điểm 1 tới 9, nhưng có lẽ ranh giới xa bờ, chẳng hạn như từ điểm 9 trở đi, là ranh giới vùng đặc quyền kinh tế. 

3. Hiệp định này xoá bỏ đường cơ sở trong Vịnh Bắc Bộ nước ta tuyên bố ngày 11/12/1982.  Vì vậy, nếu ranh giới trong hiệp định với Trung Quốc là ranh giới vùng đặc quyền kinh tế thì hiện nay nước ta không có đường cơ sở, i.e., không có biên giới trong Vịnh Bắc Bộ.

Hình 7: Ranh giới trong Vịnh Bắc Bộ so với đường trung tuyến (47)

4. Lời kết

Ranh giới đất nước trên biển cũng ảnh hưởng tới quyền lợi, thẩm quyền và công lý cho nước ta như ranh giới trên bộ. Ranh giới trên biển của các nước khác, dù không tiếp giáp với nước ta, cũng ảnh hưởng tới quyền lợi của nước ta và quyền tự do đi lại và hoạt động của tàu thuyền nước ta. Hiện nay, nước ta còn một số tranh chấp về ranh giới trên biển với một số nước khác. Chúng ta cần hiểu về những quy định về ranh giới trên biển trong UNCLOS, cần biết cụ thể về quan điểm của nhà nước về ranh giới trên biển của chúng ta, cần biết rõ những điểm tranh chấp với những nước khác và ý nghiã của chúng đối với quyền lợi, thẩm quyền, tư do và công lý cho nước ta. Chúng ta cần ủng hộ việc tìm giải pháp cho những tranh chấp này dựa trên UNCLOS.

Chú thích

(1) Meteorological Services Division, NEA, Singapore.

(2) URLs for UNCLOS
http://www.un.org/Depts/los/index.htm
http://www.un.org/Depts/los/convention_agreements/texts/unclos/closindx.htm
http://en.wikipedia.org/wiki/United_Nations_Convention_on_the_Law_of_the_Sea
http://www.gc.noaa.gov/unclos.pdf
http://www.oceanlaw.net/texts/losc.htm

(3) UNCLOS c. III, “HIGH SEAS”

(4) UNCLOS Article 87: Freedom of the high seas
1. The high seas are open to all States, whether coastal or land-locked. Freedom of the high seas is exercised under the conditions laid down by this Convention and by other rules of international law. It comprises, inter alia, both for coastal and land-locked States:
(a) freedom of navigation;
(b) freedom of overflight;
(c) freedom to lay submarine cables and pipelines, subject to Part VI;
(d) freedom to construct artificial islands and other installations permitted under international law, subject to Part VI;
(e) freedom of fishing, subject to the conditions laid down in section 2;
(f) freedom of scientific research, subject to Parts VI and XIII.

(5) UNCLOS Article 95: Immunity of warships on the high seas
Warships on the high seas have complete immunity from the jurisdiction of any State other than the flag State.

(6)...

(7)...

(8) UNCLOS Article 5: Normal baseline
Except where otherwise provided in this Convention, the normal baseline for measuring the breadth of the territorial sea is the low-water line along the coast as marked on large-scale charts officially recognized by the coastal State.

(9) UNCLOS Article 8: Internal waters
1. Except as provided in Part IV, waters on the landward side of the baseline of the territorial sea form part of the internal waters of the State.

(10) UNCLOS Article 7: Straight baselines

(11) UNCLOS Article 47: Archipelagic baselines
1. An archipelagic State may draw straight archipelagic baselines joining the outermost points of the outermost islands and drying reefs of the archipelago provided that within such baselines are included the main islands and an area in which the ratio of the area of the water to the area of the land, including atolls, is between 1 to 1 and 9 to 1.

(12) UNCLOS Article 10: Bays
2. For the purposes of this Convention, a bay is a well-marked indentation whose penetration is in such proportion to the width of its mouth as to contain land-locked waters and constitute more than a mere curvature of the coast. An indentation shall not, however, be regarded as a bay unless its area is as large as, or larger than, that of the semi-circle whose diameter is a line drawn across the mouth of that indentation.

(13) UNCLOS Article 7: Straight baselines
1. In localities where the coastline is deeply indented and cut into, or if there is a fringe of islands along the coast in its immediate vicinity, the method of straight baselines joining appropriate points may be employed in drawing the baseline from which the breadth of the territorial sea is measured.

(14) UNLOS Article 10
Bays 2. For the purposes of this Convention, a bay is a well-marked indentation whose penetration is in such proportion to the width of its mouth as to contain land-locked waters and constitute more than a mere curvature of the coast. An indentation shall not, however, be regarded as a bay unless its area is as large as, or larger than, that of the semi-circle whose diameter is a line drawn across the mouth of that indentation.

4. If the distance between the low-water marks of the natural entrance points of a bay does not exceed 24 nautical miles, a closing line may be drawn between these two low-water marks, and the waters enclosed thereby shall be considered as internal waters.

6. The foregoing provisions do not apply to so-called "historic" bays, or in any case where the system of straight baselines provided for in article 7 is applied.

(15) UNCLOS Article 7 Straight baselines
1. In localities where the coastline is deeply indented and cut into, or if there is a fringe of islands along the coast in its immediate vicinity, the method of straight baselines joining appropriate points may be employed in drawing the baseline from which the breadth of the territorial sea is measured.

(16) UNCLOS c. II, “TERRITORIAL SEA AND CONTIGUOUS ZONE”

(17) UNCLOS Article 3: Breadth of the territorial sea
Every State has the right to establish the breadth of its territorial sea up to a limit not exceeding 12 nautical miles, measured from baselines determined in accordance with this Convention.

(18) UNCLOS Article 2: Legal status of the territorial sea, of the air space over the territorial sea and of its bed and subsoil
1. The sovereignty of a coastal State extends, beyond its land territory and internal waters and, in the case of an archipelagic State, its archipelagic waters, to an adjacent belt of sea, described as the territorial sea.

(19) UNCLOS Article 17: Right of innocent passage
Subject to this Convention, ships of all States, whether coastal or land-locked, enjoy the right of innocent passage through the territorial sea.

(20) UNCLOS Article 19: Meaning of innocent passage
1. Passage is innocent so long as it is not prejudicial to the peace, good order or security of the coastal State. Such passage shall take place in conformity with this Convention and with other rules of international law.
2. Passage of a foreign ship shall be considered to be prejudicial to the peace, good order or security of the coastal State if in the territorial sea it engages in any of the following activities:

(a) any threat or use of force against the sovereignty, territorial integrity or political independence of the coastal State, or in any other manner in violation of the principles of international law embodied in the Charter of the United Nations;

(b) any exercise or practice with weapons of any kind;

(c) any act aimed at collecting information to the prejudice of the defence or security of the coastal State;

(d) any act of propaganda aimed at affecting the defence or security of the coastal State;

(e) the launching, landing or taking on board of any aircraft;

(f) the launching, landing or taking on board of any military device;

(g) the loading or unloading of any commodity, currency or person contrary to the customs, fiscal, immigration or sanitary laws and regulations of the coastal State;

(h) any act of wilful and serious pollution contrary to this Convention;

(i) any fishing activities;

(j) the carrying out of research or survey activities;

(k) any act aimed at interfering with any systems of communication or any other facilities or installations of the coastal State;

(l) any other activity not having a direct bearing on passage.

(21) UNCLOS c. II, “TERRITORIAL SEA AND CONTIGUOUS ZONE”

(22) UNCLOS Article 33: Contiguous zone
2. The contiguous zone may not extend beyond 24 nautical miles from the baselines from which the breadth of the territorial sea is measured.

(23) UNCLOS Article 33: Contiguous zone
1. In a zone contiguous to its territorial sea, described as the contiguous zone, the coastal State may exercise the control necessary to:

(a) prevent infringement of its customs, fiscal, immigration or sanitary laws and regulations within its territory or territorial sea;

(b) punish infringement of the above laws and regulations committed within its territory or territorial sea.

(24) UNCLOS ch. IV, “EXCLUSIVE ECONOMIC ZONE”
(25) UNCLOS Article 57:Breadth of the exclusive economic zone The exclusive economic zone shall not extend beyond 200 nautical miles from the baselines from which the breadth of the territorial sea is measured.

(26) UNCLOS Article 56: Rights, jurisdiction and duties of the coastal State in the exclusive economic zone

1. In the exclusive economic zone, the coastal State has:

(a) sovereign rights for the purpose of exploring and exploiting, conserving and managing the natural resources, whether living or non-living, of the waters superjacent to the seabed and of the seabed and its subsoil, and with regard to other activities for the economic exploitation and exploration of the zone, such as the production of energy from the water, currents and winds;

(b) jurisdiction as provided for in the relevant provisions of this Convention with regard to:

(i) the establishment and use of artificial islands, installations and structures;

(ii) marine scientific research;

(iii) the protection and preservation of the marine environment;

(c) other rights and duties provided for in this Convention.

(27) UNCLOS Article 58: Rights and duties of other States in the exclusive economic zone

1. In the exclusive economic zone, all States, whether coastal or land-locked, enjoy, subject to the relevant provisions of this Convention, the freedoms referred to in article 87 of navigation and overflight and of the laying of submarine cables and pipelines, and other internationally lawful uses of the sea related to these freedoms, such as those associated with the operation of ships, aircraft and submarine cables and pipelines, and compatible with the other provisions of this Convention.

(28) UNCLOS ch. VI, “CONTINENTAL SHELF”

(29) UNCLOS Article 76: Definition of the continental shelf

4. (a) For the purposes of this Convention, the coastal State shall establish the outer edge of the continental margin wherever the margin extends beyond 200 nautical miles from the baselines from which the breadth of the territorial sea is measured, by either:

(i) a line delineated in accordance with paragraph 7 by reference to the outermost fixed points at each of which the thickness of sedimentary rocks is at least 1 per cent of the shortest distance from such point to the foot of the continental slope; or

(ii) a line delineated in accordance with paragraph 7 by reference to fixed points not more than 60 nautical miles from the foot of the continental slope.

(b) In the absence of evidence to the contrary, the foot of the continental slope shall be determined as the point of maximum change in the gradient at its base.

5. The fixed points comprising the line of the outer limits of the continental shelf on the seabed, drawn in accordance with paragraph 4 (a)(i) and (ii), either shall not exceed 350 nautical miles from the baselines from which the breadth of the territorial sea is measured or shall not exceed 100 nautical miles from the 2,500 metre isobath, which is a line connecting the depth of 2,500 metres.

6. Notwithstanding the provisions of paragraph 5, on submarine ridges, the outer limit of the continental shelf shall not exceed 350 nautical miles from the baselines from which the breadth of the territorial sea is measured. This paragraph does not apply to submarine elevations that are natural components of the continental margin, such as its plateaux, rises, caps, banks and spurs.

(30) Statement of 12 November 1982 by the Government of the Socialist Republic of Vietnam on the Territorial Sea Baseline of Vietnam [VN1982].

(31) [VN1982]: (2) The territorial sea baseline of Viet Nam which starts from point 0 - the meeting point of the two baselines for measuring the breadth of the territorial sea of the Socialist Republic of Viet Nam and that of the People's Republic of Kampuchea, located in the sea on the line linking the Tho Chu Archipelago with Poulo Wai Island – and which ends at Con Co Island shall be drawn following the co-ordinates listed in the attached annex on the 1/100,000 scale charts published by the Vietnamese People's Navy prior to 1979.

(32) [VN1982]

(33) [VN1982]: (3) The Gulf of Bac Bo (Tonkin Gulf) is a gulf situated between the Socialist Republic of Viet Nam and the People's Republic of China; the maritime frontier in the gulf between Viet Nam and China is delineated according to the 26 June 1887 Convention of frontier boundary signed between France and the Qing Dynasty of China.
The part of the gulf appertaining to Viet Nam constitutes the historic waters and is subjected to the juridical régime of internal waters of the Socialist Republic of Viet Nam.
The baseline from Con Co Island to the mouth of the gulf will be defined following the settlement of the problem relating to the closing line of the gulf.

(34) [VN1982]: (4) The baseline for measuring the breadth of the territorial sea of the Hoang Sa and Truong Sa Archipelagos will be determined in a coming instrument in conformity with paragraph 5 of the 12 May 1977 statement of the Government of the Socialist Republic of Viet Nam.

(35) Roach & Smith, Sraight baselines: The need for a Universally Applied Norm, Ocean Development & International Law, 31:47-80, 2000.

(36) Nossum, Straight Baselines of Vietnam, Dissertation 12/2000, Depatment of Public and International Law, University of Oslo, tr. 10: Vietnam's 10 baseline segments run for a total of 846 nautical miles, enclosing an area of 27,000 square nautical miles as internal waters38 (see Map 2)39. The Vietnamese baselines are up to 161.8 nautical miles long,40 and they are situated up to 80.7 nautical miles from the coast.

(37) Declaration of the Government of the People’s Republic of China on the Territorial Sea, 15/5/1996.

(38) UNCLOS: Article 74, Delimitation of the exclusive economic zone between States with opposite or adjacent coasts

1. The delimitation of the exclusive economic zone between States with opposite or adjacent coasts shall be effected by agreement on the basis of international law, as referred to in Article 38 of the Statute of the International Court of Justice, in order to achieve an equitable solution.

(39) Valencia, 1977, Sharing Resources in the South China Sea

(40) Bản đồ đại học Texas ấn hành năm 2000

(41) Yann-huei Song , Academia Sinica, Taiwan và Peter Kien-hong Yu, National Sun Yat-sen University, CHINA'S "HISTORIC WATERS" IN THE SOUTH CHINA SEA: AN ANALYSIS FROM TAIWAN, R.O.C., “The question regarding the legal status of the waters enclosed by the "U"-shaped line has not only been raised by ROC scholars, but also by scholars from the member states of the Association of the Southeast Asian Nations (ASEAN).”

(42) B.A. Hamzah, Conflicting Jurisdiction Problems in the Spratlys: Scope for Conflict Resolution, 1991: “There are parties which have claimed the entire South China Sea as their own on the basis of antiquity. Such claims cannot be serious nor treated with much respect . . . . By no stretch of imagination can the South China Sea be considered by any nations as its internal waters or historic lake as a basis to assert claim. Since such area claims are frivolous, unreasonable and illogical, I urge the Parties concerned to drop area claims and focus instead on their claim to islands and non-islands. I would also urge all parties to reject claims to the entire South China Sea (referring to area claims) as there is no basis in law or history”

(43) Hiệp định ranh giới với Thái Lan 9/8/1997:

Article 1

1. The maritime boundary between the Kingdom of Thailand and the Socialist Republic of Viet Nam in the relevant part of their overlapping continental shelf claims in the Gulf of Thailand is a straight line drawn from Point C to Point K defined by latitude and longitude as follows:
Point C: Latitude N 07° 48' 00".0000, Longitude E 103° 02' 30".0000
Point K: Latitude N 08° 46' 54".7754, Longitude E 102° 12' 11".6542

2. Point C is the northernmost point of the Joint Development Area established by the Memorandum of Understanding between the Kingdom of Thailand and Malaysia on the Establishment of a Joint Authority for the Exploitation of the Resources of the Seabed in a Defined Area of the Continental Shelf of the Two Countries in the Gulf of Thailand, done at Chiangmai on 21 February 1979, and which coincides with Point 43 of Malaysia’s continental shelf claim advanced in 1979.

3. Point K is a point situated on the maritime boundary between the Socialist Republic of Viet Nam and the Kingdom of Cambodia, which is the straight line equidistant from Tho Chu Islands and Poulo Wai drawn from Point O Latitude N09°35'00".4159 and Longitude E105°10'15".9805.

4. The coordinates of the points specified in the above paragraphs are geographical coordinates derived from the British Admiralty Chart No. 2414 which is attached as an annex to this Agreement.15(1) The geodetic and computational bases used are the Ellipsoid Everest - 1830 - Indian Datum.

5. The maritime boundary referred to in paragraph 1 above shall constitute the boundary between the continental shelf of the Kingdom of Thailand and the continental shelf of the Socialist Republic of Viet Nam, and shall also constitute the boundary between the exclusive economic zone of the Kingdom of Thailand and the exclusive economic zone of the Socialist Republic of Viet Nam.

6. The actual location of the above Points C and K at sea and of the straight line connecting them shall, at the request of either Government, be determined by a method to be mutually agreed upon by the hydrographic experts authorized for this purpose by the two Governments.

(44) Nguyen Manh Dong, 2005, Settlement of Disputes Under the 1982 United Nations Convention on the Law of the Sea: The Case of the South China Sea Dispute, trang 51, US-Nippon Foundation: The delimitation line constitutes the continental shelf and the economic zone boundary in which the Vietnamese side received 32.50 % of the overlapping area.

(45) Hiệp định ranh giới với Thái Lan 9/8/1997:

Article 1, Point3. Point K is a point situated on the maritime boundary between the Socialist Republic of Viet Nam and the Kingdom of Cambodia, which is the straight line equidistant from Tho Chu Islands and Poulo Wai drawn from Point O Latitude N09°35'00".4159 and Longitude E105°10'15".9805.

(46) International Boundaries Research Unit

(47) Introduction of the Main Issues of the Law of the Sea in Vietnam, 2003.

(48) Tọa độ theo Bộ Ngoại Giao, bản đồ theo Vũ Hữu San, Vịnh Bắc Việt.

Nguồn: http://www.seasfoundation.org

RANH GIỚI TRUNG QUỐC – VIỆT NAM

Ngô Bắc dịch

Họa Sư Bản Đồ

Văn Phòng Họa Sư Bản Đồ

Phòng Tình Báo và Nghiên Cứu

Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ

NGHIÊN CỨU RANH GIỚI QUỐC TẾ

Số 38 – Ngày 15 Tháng Mười Hai, 1978

RANH GIỚI TRUNG QUỐC – VIỆT NAM

(Các Ám Số Quốc Gia: CH-VN)

 

Lời Người Dịch:

Tài liệu này được Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ soạn thảo ngày 15 Tháng Mười Hai, 1978, ngay trước khi có cuộc thăm viếng nước Mỹ của Phó Thủ Tướng Trung Quốc Đặng Tiểu Bình.  Cuộc chiến tranh biên giới Trung – Việt năm 1979 đã xảy ra ngay sau khi Đặng Tiểu Bình quay trở về Trung Quốc.

***

I. ĐẠI LƯỢC RANH GIỚI

Ranh giới Trung Quốc – Việt Nam trải dài 796.4 dặm Anh (miles) về hướng đông từ ngã ba Lào đến nhánh phía bắc đổ ra biển của Pei-lun (Bắc Luân) tại Vịnh Bắc Việt. 1 Trên 505.9 dặm Anh (63.5 phần trăm tổng số), ranh giới đi theo đường phân chia giòng nước, lớn lẫn nhỏ, trong phạm vi cao nguyên Vân Nam và các vùng thượng du của Miền Đông Tonkin (Bắc Kỳ).  Các con sông và suối tạo thành biên cương cho một chiều dài bổ túc 218.4 dặm Anh (27.5 phần trăm).  Phần còn lại 9 phần trăm của biên giới được phân định bởi các đoạn đường thẳng hàng (23.3 dậm) hay bởi các địa hình khác (48.8 dặm Anh).

Toàn thể ranh giới đã được phân định và không có sự tranh chấp lãnh thổ được hay biết nào.

II. BỐI CẢNH ĐỊA DƯ

    A. Hình Thế:

Biên cương Trung Quốc – Việt Nam chạy ngang qua một vùng địa văn (physiographic) với sự phức tạp cao độ cả về mặt cấu trúc lẫn trắc diện (relief).  Các rặng núi được cấu thành chính yếu bởi nham thạch cao sừng sững nhìn xuống các cao nguyên thấp và các thung lũng được tạo thành bởi đá vôi bị soi mòn và sa thạch.  Phần lớn các rặng núi có cấu hình cánh cung với một trục thông thường trải dài theo hướng tây bắc xuống đông nam.  Các cao độ chính yếu vượt quá 6,000 bộ Anh (feet) hiện ra tại vùng cực tây nhưng thấp hơn rõ ràng ở phía đông.  Một đồng bằng duyên hải hẹp nằm ven theo Vịnh Bắc Việt.

Hệ thống sông ngòi, được phát triển mạnh mẽ tại vùng biên giới, có khuynh hướng phản ảnh sự sắp xếp theo hình cánh cung của các ngọn núi.  Phần lớn các con sông, ngoại trừ nơi cắt ngang các rặng núi, chảy theo hướng tây bắc xuống đông nam.  Các sự nâng cao diện địa gần đây đã dẫn đến việc làm trẻ lại giòng nước và các thượng nguồn của nhiều con sông chảy qua các khe hẹp song song hay thẳng góc với đường sắp xếp cấu trúc chính. Nhờ ở lượng nước mưa thích đáng, sự tiêu thoát nước diễn ra thường trực ngoại trừ các khu vực đá vôi thủng lổ.

Về thời tiết, vùng này bị khống chế bởi gió mùa điển hình của Đông Nam Á.  Chế độ nhiết độ có bản chất vùng cận nhiệt đới; tháng nóng nhất là Tháng Sáu (khoảng 850F ) và lạnh nhất là Tháng Một (khoảng 640F).  Mức tối đa và tối thiểu thứ yếu của nhiệt độ không phát triển một cách bình thường.  Các khoảng nhiệt độ trung bình hàng ngày tương tự như khoảng trung bình hàng năm.  Mùa mưa bắt đầu trong Tháng Tư và kéo dài cho đến Tháng Mười Một.  Tuy nhiên, vũ lượng tối đa xảy ra trong Tháng Bảy và Tháng Tám, khi độ mười phân Anh (inch) nước mưa đổ xuống mỗi tháng.  Ngoài ra, mỗi Tháng Năm, Tháng Sáu và Tháng Chín nhận từ năm phân Anh hay nhiều hơn nước mưa.  Không tháng nào hoàn toàn không có mưa mặc dù Tháng Mười Hai và Tháng Một là các tháng khô ráo nhất.  Phần lớn lượng rơi xuống trong mùa đông là mưa và gây ra các cơn gió lốc.  Tổng cộng., các trạm vùng đất thấp có vũ lượng  trung bình hơn sáu mươi phân Anh hàng năm trong khi vùng thượng du và các địa điểm duyên hải nhận được trong khoảng từ 80 đến 120 phân Anh.

Vùng biên cương có ba hệ sinh thái thực vật khác nhau – rừng thượng du, khu đất thấp đã được khai quang hay trồng trọt, và rừng cây đước ven biển.  Trên phần lớn diện tích, khuôn mẫu rừng thương du chế ngự phần chính của biên giới.

      Phần phủ rừng biên cương được hợp thành bởi hoặc rừng nhiệt đới (rain forest) hay rừng gió mùa khô ráo hơn.  Rừng tiêu biểu luôn luôn xanh tươi, mặc dù nạn hạn hán kéo dài và/hay nền đất thủng lỗ có thế gây ra nạn rụng lá, nhiều lớp và dễ thẩm thấu.  Bình thường, rừng nhiệt đới ít khi có các khu vực kết hợp cây thuần chủng [pure stands of trees, chỉ một loại cây chiếm tới 80% tập hợp các thứ cây khác nhau trên một khu vực, chú của ngườidịch], mà đúng hơn, có nhiều loại cây khác nhau.  Do hậu quả của cách canh tác “đốt nương và làm rấy” khá phổ biến, rừng nhiệt đới thực sự hay chính yếu có thể bị giới hạn vào các khu vực biệt lập hay xa xôi.  Một rừng nhiệt đới bị biến đổi hay thứ yếu, có cùng hệ thực vật nguyên thủy nhưng thiếu mất các loại cây gỗ cứng tăng trưởng chậm và có giá trị, giờ đây đang chiếm phần đa số khu vực.

Trong một dải hẹp chạy song song với bờ biển và tại một số các thung lũng rộng lớn, hệ thực vật nguyên thủy đã bị loại bỏ và được thay thế bằng sự canh tác cánh đồng lúa gạo.  Tại các khu vực này, hiếm có thể tìm thấy bất kỳ dấu vết nào của thực vật bản xứ.

Rừng đước chiếm cứ dải duyên hải mỏng và một khu vực hạn chế đầm lầy sâu hơn về phía nội địa.  Khu vực này rất khó khăn để xâm nhập. và không có sự hữu dụng về kinh tế.

B. Văn Hóa

Mặc dù các cao nguyên nằm giữa Bắc Kỳ và miền nam Trung Hoa là các khu vực đồi núi có mật độ dân cư đông nhất của Đông Dương, mật độ vẫn còn tương đối thấp theo các tiêu chuẩn Á Châu.  Sự tập trung dân chúng đông đảo nhất xảy ra tại thung lũng sông Hồng quanh Lào Cai nơi mật độ địa phương lên tới hơn năm mươi người trên mỗi cây số vuông.  Ở các nơi khác mật độ cư dân trung bình nằm trong khoảng từ mười một đến năm mươi người mỗi cây số vuông.

Giống như các ranh giới khác tại Đông Dương, vùng biên cương Trung – Việt được cư ngụ gần như hoàn toàn bởi các dân tộc ít người.  Chỉ ở mũi cực đông, người Trung Hoa gốc Hán mới tạo thành một thành phần đáng kể trong số cư dân.  Người gốc Việt cũng được tìm thấy trên cùng dải ven biển hẹp cũng như chung quanh Lào Cai trên Sông Hồng.  Tại các nơi khác, dân tộc ít người sinh sống lẫn lộn.

Tại phía tây, các sắc dân Akha và Ha-ni (Tạng-Miến) chiếm cứ vùng ngã ba biên giới Trung Quốc – Lào – Việt Nam.  Họ trải dài về hướng đông vào khoảng năm mươi dặm trước khi bị thay thế bởi người Miao (Mèo) và người Yao (Mán).  Các nhóm dân này, kế đó, nhường chỗ dọc theo sông Hồng cho một sự tập trung biệt lập của người Việt.  Các nhóm Miao-Yao trải dài bên phía đông của con sông cho khoảng 150 dặm khác.  Trong khi các sự xâm nhập của người Miao nhiều hơn nữa diễn ra, ở phía đông vùng thượng du, sắc dân Tai chiếm ưu thế trong khuôn mẫu định cư cho  mãi đến đồng bằng duyên hải.  Sự phân tán tổng quát các sắc dân, tuy thế, rất phức tạp với sự trộn lẫn cả theo chiều dọc lẫn chiều ngang.

C. Kinh Tế

Kinh tế trồng lúa gạo đã phát triển tại phần thượng lưu sông Hồng và tại đồng băng duyên hải.  Các trung tâm rải rác khác đã được thiết lập tại một số vùng đất thấp ven sông nào đó được dẫn nước hoàn hảo.  Ở các nơi khác, cách “đốt rừng làm rẫy” của sự du canh thịnh hành.  Nó được đặt căn bản trên lúa gạo, khoai lang, ngô (bắp), và đến một mức độ nào đó, thuốc phiện.  Tại phần lớn khu vực, kinh tế làng xã có tính chất sơ khai và tự túc.

Hai đường rày xe hỏa khẩu độ hẹp chạy băng qua biên giới quốc tế.  Tại phía tây, tuyến đường sinh tử Hà Nội – Lào Kay – Côn Minh mang lại sự nối kết bằng đường rầy duy nhất từ bờ đại dương đến Vân Nam và nội địa tây nam Trung Quốc.  Tuyến đường thứ nhì nối liền Bắc Việt Nam với mạng đường rầy miền đông (và đông dân hơn) của Trung Quốc tại P’ing-hsiang (Bằng Tường), Cao Bằng đến Ching-his, miền tây bắc Cao Bằng, Hà Giang đến Vân Nam, và từ Lào Kay dọc theo tuyến đường rầy.  Ngoài ra, sông Hồng có thể đi thuyền đến Mạn Hảo, thuộc Vân Nam.

D. Lịch Sử

Lịch sử ghi chép về vùng biên cương có nhật kỳ từ sự thành lập hồi thế kỷ thứ nhì Trước Công Nguyên Vương Quốc Nam Việt.  Vào lúc bắt đầu thế kỷ thứ nhất Trước Công Nguyên, đế quốc nhà Hán đã sáp nhập vương quốc vào Trung Hoa, lập Tonkin (Bắc Kỳ) (sau này là An Nam) thành tỉnh cực nam của nó.  Một sự du nhập mạnh mẽ sự tổ chức kinh tế, xã hội và văn hóa Trung Hoa đi theo sau, đặt nền móng cho quốc gia An Nam hiện đại.

Sau mười thế kỷ kiểm soát, Bắc Kỳ đã phá bỏ các sự trói buộc của Trung Hoa trong năm 939 và đã thiết lập vương quốc Đại Cồ Việt.  Được bảo vệ bởi các cao nguyên phía bắc châu thổ Bắc Kỳ, quốc gia mới đã tìm cách duy trì nền độc lập của mình với Trung Hoa trong hơn ba thế kỷ.  Một cách đại cương, biên giới hiện tại rõ ràng đã hiện hữu giữa hai quốc gia.  Với ít ngoại lệ, các quan hệ giữa hai quốc gia có tính chất hòa bình trong khi sự chú ý của An Nam được hướng xuống phá nam nhắm vào Chiêm Thành.  Trong năm 1407, quốc gia Chàm, bị áp lực của An Nam, đã kêu cứu sự giúp đỡ từ Trung Hoa.  An Nam đã bị khuất phục trước các đội quân hỗn hợp và đã bị chiếm đóng bởi các lực lượng Trung Hoa trong hai thập niên.  Một vương quốc An Nam được tái lập mau chóng bị phân chia thành hai đàng giao tranh được tập trung tại Hà Nội (Bắc Kỳ) và Huế (Trung Kỳ).  Mặc dù cuộc nội chiến đã lên xuống trong nhiều thế kỷ, cùng một khuôn mẫu trong thực chất đã hiện hữu cho đến khi người Pháp tiến vào khung cảnh.

Sự kiểm soát của Pháp trước tiên được hành sử trên một số phần của Đông Dương vào cuối thế kỷ thứ mười chín.  Tuy nhiên, vào năm 1820, nó đã thực sự bị biến mất, để rồi được tái lập trong thập niên 1850.  Khi sông Mekong được chứng minh là một tuyến đường không thực tiễn cho sự mậu dịch với Trung Hoa, sự chú ý của Pháp hướng dến Bắc Kỳ.  Các nỗ lực ngoại giao đã được thực hiện để đạt được các quyền hải hành trên sông Hồng, nhưng nạn thủy khấu tiếp tục đã dẫn đến sự mở rộng sự bảo hộ của Pháp trong các năm 1882 và 1883.  Năm kế tiếp, Trung Hoa đồng ý triệt thoái tất cả bộ đội của nó ra khỏi Bắc Kỳ và sự kiểm soát của Pháp đã được bảo đảm.

Ranh giới chung giữa Bắc Kỳ và Trung Hoa đã được phân định bởi các hiệp ước năm 1887 và 1895.  Các ủy ban phân định ranh giới đã đánh dấu đường ranh giới không lâu sau đó.

 E. Chính Trị

Không có sự tranh chấp tích cực về ranh giới giữa Trung Cộng và Bắc Việt do cộng sản quản trị hiện diện ở thời điểm hiện tại.  Ranh giới đã được thừa nhận và chấp nhận từ lâu và đã không có văn thư chính thức liên quan đến các vấn đề ranh giới hay đề nghị các sự thay đổi biên giới kể từ khi có sự thành lập cái gọi là “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa”.  Trừ khi mối quan hệ chính trị chặt chẽ hiện thời giữa hai nước trở nên tồi tệ, nhiều phần sẽ không có một vấn đề biên giới nghiêm trọng nào phát sinh.  Nếu một sự tranh chấp về sự phân định chính xác một đoạn của được ranh giới có xảy ra, không có khả tính rằng nó sẽ ảnh hưởng đến trung tâm dân cư hay các thung lũng canh tác bởi vì biên giới, trong phần lớn, chạy theo các đỉnh của các dẫy núi đồi tại các khu vực nói chung hiểm trở và hẻo lánh.

Các chế độ cộng sản hiện thời của Trung Quốc và Bắc Việt không có các khó khăn về các nhóm dân tộc ít người, mặc dù vài sự va chạm giữa Pháp và Trung Hoa về sự quấy rối bị tố giác của dân thiểu số Trung Hoa tại Việt Nam hoành hành trong thời kỳ tiếp theo sau Thế Chiến II.  Phần lớn các người gốc Hoa tại Bắc Việt hiện sinh sống tại các thành phố lớn hơn, không phải tại khu vực biên giới.  Cùng với người Hoa và người Việt Nam, nhiều nhóm bộ tộc khác nhau nói chung hiện diện ở cả lục địa Trung Hoa lẫn Bắc Việt, cư trú tại vùng biên giới.  Mặc dù cả hai chính phủ đã tổ chức các nhóm này thành nhiệu loại đơn vị hành chính khác nhau, các sự thay đổi này dường như không ảnh hưởng đến tự do truyền thống của sự di chuyển băng ngang biên giới.  Vì thế, các vấn đề biên giới phát sinh tư quy chế của các nhóm dân tộc ít người này nhiều phần không xuất hiện vào thời điểm này.

Các hiệp ước chi phối ranh giới đã được thương thảo hay chấp nhận bởi Trung Hoa Dân Quốc [và triều đình nhà Thanh, bổ túc bởi người dịch].

III. PHÂN TÍCH SỰ SẮP XẾP BIÊN GIỚI

Từ ngà ba biên giới Trung Quốc – Lào – Việt Nam ở khoảng 22034’00” Bắc và 102008’30” Đông, ranh giới giữa Trung Quốc và Việt Nam trải dài theo hướng đông và sau đó theo hướng bắc dọc theo sự phân chia đường thoát nước (drainage divide) chính yếu.  Nhập vào suối Nam Nop, ranh giới đi theo đường trung tuyến đến sông Đà (Black River) trước khi đi theo hạ lưu sông Đà vào khoảng hai dặm.  Ranh giới rời sông Đà để nhập vào suối Nam La trước khi nối lại với đường phân chia thoát nước.  Các phần ba con sông của ranh giới có tổng số khoảng mười tám dặm.  Trên khoảng bảy mươi năm dặm, ranh giới trùng với đường phân chia thoát nước phía bắc sông Đà.  Một số giới hạn các trụ (cột mốc) phân định đánh dấu vùng hiểm trở và tương đối không người cư ngụ này.

Nhập vào nguồn suối Nam Le, ranh giới được phân định bởi đường trung tuyến của con suối này đến Nam La, kế đó đổ xuống trên một quãng rất ngắn, trước khi hướng lên phía bắc để nhập vào phụ lưu của nó, Nam Coum.   Đoạn sông này có tổng số chiều dài khoảng ba mươi dặm.  Nhập lại vào đường phân chia thoát nước một lần nữa, ranh giới đi theo các dãy núi theo hường đông nam trên hai mươi lăm dặm đến sông Hung Ngau Ho, dẫn biên cương chạy theo hướng đông bắc đến sông Hồng.  Đường trung tuyến của nó kế đó được dùng để hội tụ với chi lưu tả ngạn, Nam Ti Ho, tây bắc của Lào Kay.  Đường trung tuyến của Nam Ti và kế đó của Kan mang ranh giới trở lại đường phân chia thoát nước khoảng tám dặm bắc Lào Kay.  Như tại đoạn trước đây, một đoạn hai mươi lăm dặm của đường dẫy núi (được đánh dấu bởi 25 trụ (cột mốc) dẫn ranh giới trở lại các con sông, trước tiên sông T’ieng-lang Ho và kế đó Sông Chảy, một phụ lưu của sông Hồng.  Tổng số khoảng cách giữa hai con sông đo được mười hai dặm.  Tại nơi hội tụ của sông Tong Kai Ho, ranh giới rời Sông Chay để đi theo, theo hướng đông bắc, đường phân chia thoát nước nằm giữa hai giòng nước này.  Tám cột mốc đánh dấu đoạn dài hai mươi hai dặm này.  Nhập lại vào sông Chảy, đường trung tuyến của nó và của phụ lưu của nó, Nam Kiong Ho, tạo thành biên giới cho một đoạn ngắn dài 5.5 dặm.

Sư tiếp tục của ranh giới ở vào tình trạng phức tạp nhất.  Trên khoảng bảy mươi lăm dặm, ranh giới nói chung trải dài theo hướng đông bắc dọc theo các đường phân chia thoát nước nhỏ.  Tuy nhiên, nó băng qua sông Lô (Claire River) 1.5 dặm tây bắc Thanh Thủy, cũng như Sông Mien [?], trước khi nhập vào sông Chin Chiang ở điểm cực bắc của biên cương.  Đi theo phụ lưu này của sông Lô trên khoảng 7.5 dặm, đổ xuống hạ lưu, ranh giới kế đó được phân định bởi một chuỗi các đường thẳng hàng xuyên qua một khu vực đá vôi trước khi một lần nữa nó chập vào đường phân chia thoát nước.  Trên khoảng sáu mươi dặm, các đường phân chia thoát nước nhỏ tạo thành ranh giới mặc dù sông Gầm có cắt ngang tại cột mốc biên giới 129.  Sau một phần mười dặm được phân định bởi các đường thẳng hàng và các tính chất phi địa thế khác gần Sac Giang [?], đường phân chia thoát nước một lần nữa phân định ranh giới trên quãng khoảng năm mươi năm dặm.   Các ngoại lệ được thực hiện khi ba con suối nhỏ cắt ngang biên cương.

Ranh giới đến điểm này nói chung uốn khúc về hướng đông.  Tuy nhiên, tại 22048’ Bắc và 106052’ Đông, nó quẹo gắt xuống phía nam.  Vùng trên đó ranh giới giờ đây ngang qua được hợp thành bởi địa thế đá vôi (karst) không có đường thoát nước trên mặt thường trực.  Hậu quả, sự sắp đặt thành phức tạp; một mật độ gia tăng của các cột mốc ranh giới, tuy thế, đánh dấu một cách rõ ràng các giới hạn của hai quốc gia.  Nhập vào sông Ba Veng [?], ranh giới tiếp tục theo hướng nam trước khi băng ngang trước tiên sông Lung Chiang và sau đó, sông Sung-hsing Ho.  Trong khi cấu tạo cảnh trí nổi bật vẫn là địa thế đá vôi, đường thoát nước trên mặt có xuất hiện với một mức độ lớn hơn phía bắc.  Hướng xuôi nam của ranh giới chấm dứt tại Ải Porte de Chine [Ải Nam Quan] nổi tiếng, ngay sát phía bắc của Đồng Đăng.  Tại đây, tuyến đường rầy Tonkin – Hồ Nam – Quảng Tây băng qua biên cương.

Quay sang hướng đông, biên cương đi theo các đường phân chia thoát nước nhỏ nhưng cắt ngang đầu nguồn của vài con suối nhỏ ở khoảng 22039’ Bắc và 106029’ Đông. Ở đây, nó nhập với đường trung tuyến của vài con suối nhỏ.  Sau khi đi theo các đường này trong khoảng mười dặm, ranh giới tiếp tục chạy theo hướng đông tại một loạt các đoạn thẳng hàng, ngắn, đến đầu nguồn sông Pei-lun Ho (Bắc Luân Hà).  Đường trung tuyến của con sông này tạo thành ranh giới trên khoảng ba mươi bảy dặm đến Vịnh Bắc Việt.  Ở phía Đông Móng Cáy, nhánh thoát nước phía bắc trở thành luồng ranh giới đổ ra biển điểm giữa các hòn đảo Trà Cổ và Man-wei.

Ranh giới được phân định bởi ít nhất 285 cột mốc trong khoảng bảy chuỗi.  Chuỗi ít nhất, tại vùng cực tây chỉ có một trụ mốc trong khi chuỗi nhiều nhất, tại phía đông trung tâm, bao gồm 140 cột mốc được đánh số cùng với vài các cột mốc không được đánh số. 2

IV. CÁC HIỆP ƯỚC

Các hiệp ước Trung – Pháp kể sau đã được dùng để phân định ranh giới Trung Quốc – Việt Nam (và Lào):

  1. Hiệp Ước Thiên Tân giữa Pháp và Trung Hoa liên quan đến sự phân định biên cương Pháp – Trung, được ký ngày 9 Tháng Sáu, 1885, với các sự phê chuẩn được trao đổi vào ngày 28 Tháng Mười Một, 1885. (Hertslet China Treaties 1:296)

Theo các điều khoản của hiệp ước này, Pháp và Trung Hoa đồng ý chỉ định các ủy viên để xác định biên cương chung.  

  1. Công Ước liên hệ đến biên cương giữa Trung Hoa và Bắc Kỳ (Trung Hoa và Pháp), được ký hôm 26 Tháng Sáu, 1887, sau một Sự Trao Đổi Các Văn Thư  đề ngày 23 Tháng Sáu, 1887, (cùng nơi dẫn trên, 1:314 và BFSP 85:747)

Điều III phân định, với chi tiết, ranh giới giữa Trung Hoa và Bắc Kỳ từ Vịnh Bắc Việt theo hướng tây đên sông Đà trên căn bản công việc của các ủy hội phân định ranh giới (xem A ở trên).  Công thư không gồm toàn thể ranh giới Việt Nam, cũng không ảnh hưởng đến Lào).

  1. Công Ước liên hệ đến sự phân định biên cương giữa Pháp và Trung Hoa … được ký hôm 20 Tháng Sáu, 1895 (Hertslet, tài liệu đã dẫn: op. cit. 1:332).

Ranh giới phía đông sông Đà được sửa đổi và đường phía tây của con sông được hoàn tất cho cả Việt Nam lẫn Lào.

  1. Công Ước Nam Kinh giữa Pháp và Trung Hoa, được ký ngày 16 Tháng Năm 1930, với các sự phê chuẩn được trao đổi ngày 20 Tháng Bẩy, 1935.

Công ước liên quan đến các quan hệ giữa Đông Dương và các tỉnh miền nam Trung Hoa, Vân Nam, Quảng Tây, và Quảng Đông.  Sự sắp xếp ranh giới không bị sửa đổi.

V. TỔNG KẾT

Ranh giới 796.4 dặm giữa Việt Nam và Trung Hoa đã được phân định bởi các văn kiện quốc tế và được phân định bởi các ủy hội ranh giới chính thức thiết lập bởi Trung Hoa và Pháp.  Khoảng 285 cột mốc đánh dấu 578 dặm biên cương trên đất liền (tức khoảng một cột mốc cho mỗi hai dặm, ít hơn tại phần phía tây ít người cư trú và nhiều hơn tại phần phía đông đã được định cư).

___

CHÚ THÍCH:

  1. Được đo theo bản đồ Carte de l’Indochine tỷ lệ 1:100,000 được ấn hành bởi Sở Địa Dư Đông Dương.
  2. Sự vạch đường ranh giới được biểu thị một cách chính xác trên Bản Đồ Đông Dương (Carte de l’Indochine) tỷ lệ 1:100,000 được ấn hành bởi Sở Địa Dư Pháp tại Đông Dương (French Service Géographique de l’Indochine) và trên các loạt bản đồ Indochine – Carte de la Frontière du nord-est 1:200:000 được ấn hành bởi cùng cơ quan.  Các bản đồ Trung Hoa phân định ranh giới theo cùng cách thức.

***

CÁC PHỤ LỤC

  1. CHỨNG  LIỆU
  2. Công Ước Hòa Bình Sơ Bộ giữa Pháp và Trung Hoa.  Được ký tại Thiên Tân, ngày 11 Tháng Năm, 1884.  Hertslet China Treaties, Quyển 1, các trang 185-187 (bằng tiếng Pháp).
  3. Hiệp Ước Hòa Bình, Hữu Nghị và Thương Mại giữa Pháp và Trung Hoa.  Được ký tại Thiên Tân ngày 9 Tháng Sáu, 1885 [các sự phê chuẩn được trao đổi tại Bắc Kinh, ngày 28 Tháng 11, 1885].  Hertslet China Treaties, Quyển 1, các trang 185-187 (bằng tiếng Pháp). Hertslet China Treaties, Quyển 1, các trang 187-191 (bằng tiếng Pháp).
  4. Công Ước giữa Trung Hoa và Pháp về Sự Phân Định Biên Cương giữa Trung Hoa và Pháp.  Được ký tại Bắc Kinh ngày 26 Tháng Sáu, 1887.  Hertslet China Treaties, Quyển 1, các trang 314-316 (bằng tiếng Pháp) và British Foreign and State Papers (BFSP), Quyển 85 (1892-93), các trang 748-750 (bằng tiếng Pháp).

4.Công Ước giữa Pháp và Trung Hoa bổ túc cho Công Ước về Sự Phân Định Biên Cương giữa Tonkin (Bắc Kỳ) với Trung Hoa ngày 26 Tháng Sáu, 1887.  Được ký tại Bắc Kinh, ngày 20 Tháng Sáu, 1895 [các sự phê chuẩn được trao đổi tại Bắc Kinh ngày 7 Tháng Tám, 1896]. Hertslet China Treaties, Quyển 1, các trang 321-323 (bằng tiếng Pháp).

  1. Công Ước về Các Quan Hệ giữa Trung Hoa và Pháp liên quan đến Đông Dương thuộc Pháp và Các Tỉnh Trung Hoa Kề Cận, và Các Phụ Lục, được ký tại Nam Kinh, ngày 16 Tháng Năm, 1930, với các sự trao đổi các Văn Thư liên hệ đính kèm, Nam Kinh, ngày 2 và ngày 9 Tháng Chín, 1933 và ngày 4 Tháng Năm, 1935, và Nghị Định Thư thiết lập Các Danh Sách A và B, và Bản Tuyên Bố, được ký tại Nam Kinh, ngày 4 Tháng Năm, 1935.  Leagues of Nations Treaty Series Quyển 162, Hiệp Ước Số 3738, các trang 147-156).
  1. Công Ước giữa Trung Hoa và Pháp về Sự Phân Định Biên Cương giữa Trung Hoa và Tonkin (Bắc Kỳ).  Được ký tại Bắc Kinh, ngày 26 Tháng Sáu, 1887.

Sự Phân Định Ranh Giới Giữa Trung Hoa và Tonkin (Bắc Kỳ)

Xét rằng Các Ủy Viên được chỉ định bởi Tổng Thống Cộng Hòa Pháp Quốc và Hoàng Đế Trung Hoa, chiếu theo Điều 3 của Hiệp Ước ngày 9 Tháng Sáu, 1885, cho mục đích thừa nhận ranh giới giữa Trung Hoa và Tonkin (Bắc Kỳ) giờ đây đã hoàn tất công tác của họ;

Ông Ernest Constans, cựu Bộ Trưởng Nội Vụ và Thờ Phụng, Ủy Viên Chính Phủ, và đặc sứ của Cộng Hòa Pháp Quốc, cùng

Thân Vương King (Cung?), vương tước hạng nhì, Chủ Tịch Tsoung-li Yamen (Tổng Lý Nha Môn) 1, được trợ giúp bởi ông Souen-Yu Quen, nhân viên của Tổng Lý Nha Môn và Phó Chủ Tịch Thứ Nhất của Bộ Công (Ministry of Public Works);

Hành động nhân danh các Chính Phủ của họ,

Đã quyết định ghi nhận nơi đây các điều khoản kể sau cho sự phân định chính thức ranh giới nói trên:

  1. Các báo cáo, các bản đồ, và các phụ lục được soạn thảo và ký tên bởi các đại diện Pháp quốc và Trung Hoa đã được chấp thuận.
  2. Các điểm trên đó hai ủy hội đã không thể đạt được sự thỏa thuận và các sự tu chính liên hệ đến Điều 3(2) Bản Hiệp Ước ngày 9 Tháng Sáu, 1885 đã được quyết định như sau:

Tại Kouang-Tong (Quảng Đông), các điểm tranh chấp tọa lạc tại phía đông và tây bắc Moncai (Móng Cái) bên ngoài ranh giới được xác định bởi ủy hội phân định, được trao nhuợng cho Trung Hoa.  Các hòn đảo phía đông trung tuyến Paris 105043’ đông kinh tuyến, tức, của đường bắc-nam chạy xuyên qua mũi phía đông của đảo Tch’a Kou hay Ouan-chan (Trà Cổ) và tạo thành ranh giới, cũng được trao nhượng cho Trung Hoa.  Đảo Gotho [Cô Tô?] và các đảo khác tọa lạc tại phía tây đường trung tuyến này thuộc về An Nam.

Người Trung Hoa phạm hay bị truy tố vì các tội ác hay các vi phạm tìm cách ẩn náu tại các hòn đảo sẽ, chiếu theo các sự dự liệu của Điều 17, Hiệp Ước ngày 25 Tháng Tư, 1886, sẽ bị truy tìm, bắt giữ, và dẫn độ bởi các nhà cầm quyền Pháp.

Về ranh giới Vân Nam, đường phân định chạy như sau:

Từ Keou-teou-tchai (Cao-đao-trai [?]) ven bờ bên trái của Siao-tou-tcheou-ho (Tien-do-chu-ha), điểm M trên bản đồ của đoạn thứ nhì, được phân định chạy trên 50 lí (20 cây sô) theo chiều tây-đông, dành cho Trung Hoa các địa phương Tsui-kiang-choo hay Tsui-y-cho (Tụ Nghĩa xã), Tsui-mi-cho (Tu-Mi-Xa [?]), Kiang-fei-cho hay Y-fei-cho (Nghia-fi-xa [?]), nằm ở phía bắc của đường phân định đó, và dành cho An Nam các địa phương Yeou-p’ong-cho (Hu-bang-xa [?]), nằm ở phía nam của đường đó, đến các địa điểm được đánh dấu bằng chữ P và Q trên bản đồ đính kèm, nơi đường phân định băng ngang qua hai chi lưu của phụ lưu thứ nhì bên tay phải của Hei-ho (Hắc Hà [?]) hay Tou-tcheou-ho (Do-chu-ha: Đỗ Chú Hà [?]).  Từ điểm Q, đường phân định chạy theo hướng đông nam một quảng khoảng 15 lý (6 cây số) đến điểm R, dành cho Trung Hoa phần đất tại Nan-tan (Nam-don) phía bắc của điểm R.  Từ điểm R, đường phân định chạy theo hướng đông bắc đến điểm S, theo chiều được vẽ trên bản đồ bởi đường từ R đến S, giòng chảy của sông Nan-teng-ho (Nam-dang-ha [?]) và các lãnh thổ của Man-mei (Man-mi [?]), Meng-tong-chang-ts’oun (Muang-dong-troung-thon [Mường đông trung thôn ?], Mong-toung-chan (Muong-dong-son: Mường Đông Sơn?), Meng-toung-tchoung-ts’oun (Muong-dong-troung-thon [?]), và Meng-toung-chia-ts’oun (Muong-dong-ha-thon [Mường Đông hạ thôn ?]) vẫn còn là phần đất thuộc An Nam.

 Từ điểm S (Meng-toung-chia-ts’oun hay Muang-dong-hạthon), ranh giới đi theo trung tuyến của sông Tsing-chouei-ho (Than-thuy ha: Thanh Thủy Hà[?]) đến nơi hội tụ của nó với sông Lô tại điểm T.

Từ điểm T ranh giới đi theo trung tuyến của sông Lô đến điểm X tại Tch’oúanteou (Thuyen dan [?]).

Từ điểm X nó chạy theo hướng bắc đến điểm Y và ngang qua Paiche-yai (Bach-thach-giai [?]) và Lao-ai-K’an [?]), dành nửa phần bên phía đông của hai địa phương này cho An Nam và phần phía tây cho Trung Hoa.

Từ điểm Y ranh giới chạy theo hướng bắc dọc theo hữu ngạn của phụ lưu nhỏ, bên tay trái của sông Lô, hội tụ với con sông nằm giữa Pien-pao-kia (Dien-bao-kha[?]) và Pei-pao (Bắc bao [?]), và từ đó tiếp tục chạy đến Kao-Ma-Pai (Cao-ma-bac\[?]), điểm Z, nơi nó nối liền với đường phân định thuộc đoạn thứ ba.

Từ Long-po-tchai (đoạn thứ năm), ranh giới chung giữa Vân Nam và An Nam chạy theo giòng chảy của con sông Lung-po-ho đến điểm hội tụ của nó với con sông Ts’ing-chouei-ho, được đánh dấu chữ A trên bản đồ.  Từ điểm A nó di chuyển nói chung theo hướng đông bắc – tây nam đến điểm được ghi chữ B trên bản đồ, nơi Mien-chouei-ouan  đổ vào sông Sai-kiang-ho, để lại giòng chảy của Ts’ing-chouei-ho bên phía Trung Hoa của ranh giới.

Từ điểm B, ranh giới chạy theo trục đông-tây đến điểm C nơi nó gặp Teng-tiao-tchiang bên dưới Ta-chou-tchio.  Mọi phần đất phía nam đường này thuộc về An Nam và mọi phần phía bắc đường này thuộc về Trung Hoa.

Từ điểm C ranh giới di chuyển theo hướng nam theo trung tuyến của con sông Teng-tiao-Tchiang đến chỗ hội tụ của nó tại điểm D với sông Tsin-tse-ho.

Đường phân định kế đó đi theo sông Tsin-tse-ho cho khoảng 30 lý và tiếp tục theo một hướng đông-tây đến điểm D [sic E?] nơi nó gặp một suối nhỏ đổ vào Sông Đà (Black River, Hei-tciang hay Hắc Giang) phía đông của rãnh Meng-pang.  Trung tuyến của con suối này được dùng làm ranh giới từ điểm E đến điểm F.

Từ điểm F, trung tuyến của sông Đà được dùng làm ranh giới phía tây.

Các nhà chức tránh Trung Hoa địa phương và nhân viên được chỉ định bởi Tổng Trú Sứ Của Cộng Hòa Pháp Quốc tại An Nam và Tonkin sẽ được chỉ thị để đánh dấu các ranh giới phù hợp với các bản đồ đã được vẽ và ký tên bởi Ủy Hội Phân Định và với đường ranh giới được mô tả ở trên.

Đính kèm theo đây là ba bản đồ trong hai bản được ký tên và áp triện.  Trên các bản đồ đường ranh giới mới được vè bằng mực đỏ và được chỉ trên các bản đồ của Vân Nam với các từ bằng mẫu tự Pháp ngữ và các Hán tự vòng tròn.

Lập tại Bắc Kinh thành hai bản vào ngày 26 Tháng Sáu, 1887.

Contans

(Triện của Phái Bộ Pháp Quốc tại Bắc Kinh)

(Chữ ký và triện của đại diện toàn quyền Trung Hoa)

________________

CHÚ THÍCH:

  1. Các địa danh [và cơ quan chính phủ, bổ túc bởi người dịch] bằng Hán Tự và tiếng Việt được giữ y nguyên như được ghi trong văn bản tiếng Pháp của Công Ước.

_____

  1. Công Ước giữa Pháp và Trung Hoa bổ túc Công Ước Về Sự Phân Định Biên Cương giữa Tonkin (Bắc Kỳ) và Trung Hoa ngày 26 Tháng Sáu 1887.  Được ký tại Bắc Kinh, 20 Tháng Sáu, 1895.

Xét rằng các Ủy Viên chỉ định bởi hai chính phủ đã xác định đoạn cuối cùng của ranh giới giữa Trung Hoa và Tonkin (từ sông Hồng đến sông Mekong), đã hoàn tất công việc của họ,

Ông Auguste Gerard, Sứ Thần Toàn Quyền, Đặc Sứ của Cộng Hòa Pháp Quốc tại Trung Hoa, Huy Chương Danh Dự Bội Tinh, Huy Chương Độc Lập Đại Thập Tự của Montenegro, Đại Huy Chương Của Hoàng Gia Charles III Tây Ban Nha, Đại Huy Chương của Hoàng Gia Ý Đại Lợi, v.v… và

Thân Vương King (Cung Thân Vương?), Vương Tước Đệ Nhất Đẳng, Tổng Lý của Tổng Lý Nha Môn, cùng với ngài Siu Yong-Yi, nhân viên của Tổng Lý Nha Môn và Đại Hội Đồng của Đế Quốc, Thứ Trưởng Nội Vụ, v.v…

Hành động nhân danh các chính phủ của họ và được ủy nhiệm vì mục đích đó với đầy đủ thẩm quyền mà họ đã thông đạt với nhau và tìm thấy trong khuôn khổ thích đáng và hữu hiệu, đã quyết định ghi nhận nơi đây các điều khoản cho sự tu chính và hoàn thành Công Ước đã được ký kết tại Bắc Kinh ngày 26 Tháng Sáu, 1887.  Các báo cáo và các bản đồ đã công bố và được ký kết bởi các Ủy Viên Pháp và Trung Hoa được chấp thuận.

Điều I

Đường ranh giới được vẽ giữa Vân Nam và An Nam (bản đồ đoạn thứ nhì) từ điểm R đến điểm S được thay đổi như sau:

Đường ranh giới bắt đầu tại điểm R chạy theo hướng đông bắc đến Man-mai 1 và sau đó theo hướng đông đến Nan-na trên sông Ts’ing-chouei-ho, dành Man-mei cho An Nam, và các lãnh thổ của Mong-t’ong-chang-ts’ouen, Mong-t’ong’chan, Mong-t’óngtchong’ts’ouen, và Mong-t’ong-hia-ts’ouen cho Trung Hoa.

Điều II

Đoạn thứ năm giữa Long-po-tchai và sông Đà được thay đổi như sau:

Từ Long-po-tchai (đoạn thứ năm), ranh giới giữa Vân Nam và An Nam đi theo giòng chảy của sông Long-po-ho đến chỗ hội tụ của nó với sông Hong-yai-ho tại điểm được đánh dấu chữ A trên bản đồ.  Từ điểm A, nó chạy theo một hướng tổng quát bắc-tây bắc dọc theo đỉnh của đường phân ranh  giòng nước  đến đầu nguồn sông P’ing-ho.

Từ đó đường ranh giới đi theo trước tiên, giòng chảy của sông P’ing-ho, kế đó, sông Mou-k’i-ho đến điểm tụ hội của nó với sông Ta-pao-ho, theo sông Ta-pao-ho đến điểm hội tụ của nó với sông Nan-Kong-ho, và theo sông Nan-Kong-ho đến điểm hội tụ của nó với sông Non-na-ho.

Từ đó ranh giới đi theo giòng chảy của sông Pa-Pao-ho đến điểm hội tụ của nó với sông Kouang-Sse-ho, kế đó theo giòng chảy của sông Kouang-Sse-ho, và sau đó theo đỉnh của đường phân chia luồng nước đến nơi hội tụ của sông Nam-la-pi và sông Nam-la-ho.  Từ đó nó đi theo sông Nam-la-ho đến điểm hội tụ của nó với sông Đà và sau đó theo đường trung tuyến của Sông Đà đến sông Nam-nap hay Nan-ma-ho.

Điều III

Ranh giới chung của Vân Nam và An Nam giữa sông Đà, tại điểm hội tụ của nó với sông Nam-nap, và sông Mekong như sau:

Từ điểm hội tụ của sông Đà với sông Nam-nap, ranh giới đi theo giòng chảy của sông Nam-nap đến đầu nguồn của nó, sau đó chạy theo hướng tây nam và tây dọc theo đỉnh của đường phân chia giòng nước 2 đến các đầu nguồn của các con sông Nam-Kang và Nam-wou.

Từ các đầu nguồn của sông Nam-wou, ranh giới đi theo đỉnh của đường phân chia giòng nước nằm giữa Lưu Vực sông Nam-wou và Lưu Vực sông Nam-la, dành cho Trung Hoa, bên phía tây, Ban-noi, I-pang, I-wou, và sáu Ngọn Núi Trà (Tea Mountains), và dành cho An Nam, bên phía đông, Mong-wou và Wou-te và liên hợp Hua-panh-ha-tang-hoc.  Ranh giới kế đó chảy theo hướng đông nam đến đầu nguồn của sông Nan-nou-ho; từ đó nó chạy theo hướng tây-tây bắc dọc theo đỉnh của đường phân chia giòng nước, các thung lũng của sông Nam-ouo-ho, và các phụ lưu bên trái của sông Nam-la đến điểm hội tụ của sông Mekong và sông Nam-la, tây bắc của Muong-poung.  Lãnh thổ của Muong-mang và Muong-jouen được dành cho Trung Hoa.  Lãnh thổ của tám nguồn muối (Pa-fa-tchai) là tài sản của An Nam.

Điều IV

Các ủy viên hay các nhà chức trách chỉ định bởi hai chính phủ sẽ được chỉ thị để đánh dấu các ranh giới phù hợp với các bản đồ đã được công bố và ký tên bởi Ủy Hội Phân Định và phù hợp với đường ranh giới được mô tả bên trên.

Điều V

Mọi điều khoản về sự phân định ranh giới giữa Pháp và Trung Hoa không được tu chính bởi văn kiện này vẫn còn đầy đủ hiệu lực.

Công Ước bổ túc này, cùng với Công Ước Phân Định ngày 26 Tháng Sáu, 1887, sẽ được phê chuẩn bởi Hoàng Đế Trung Hoa và, tiếp theo sau sự phê chuẩn của Tổng Thống Cộng Hòa Pháp Quốc, các sự phê chuẩn sẽ được trao đổi tại Bắc Kinh ở nhật kỳ sớm nhất có thể được.

Lập tại Bắc Kinh thành bốn bản, vào ngày 20 Tháng Sáu, 1895, tức ngày 28 tháng Năm, năm Quang Tự thứ 21.

(đã ký) A. Gerard

(đã ký) Cung Thân Vương

___

CHÚ THÍCH

  1. Các địa danh [và cơ quan chính phủ, bổ túc bởi người dịch] bằng Hán Tự và tiếng Việt được giữ y nguyên như được ghi trong văn bản tiếng Pháp của Công Ước.
  2. Ranh giới Trung Hoa – Việt Nam trải dài từ ngã ba biên giới với Lào trên núi được gọi là Khoang[l?]axan.  Theo hướng tây từ ngã ba trên núi Khoanglaxan, công ước này phân định ranh giới Trung Hoa – Lao hiện nay đến đầu nguồn các sông Nam Khang và Nam Du và kế đó tiếp tục đến ngã ba Miến Điện trên sông Mekong./-

_____

Nguồn: The Geographer, China-Vietnam Boundary (Country Codes: CH-VN), International Boundary Study, No. 38 – December 15, 1978, Office of the Geographer, Bureau of Intelligence and Research, U.S. Department of State, Washington D.C.

Ngô Bắc dịch và phụ chú

01.12.2014

Nguồn: http://www.gio-o.com

Lên trên

Cùng chủ đề

  • Khuất Thị Thu Hiền. Tăng cường công tác ngoại giao kinh tế nhằm phát triển kinh tế nhanh và bền vững

  • Nguyễn Ngọc Quỳnh, Tạ Quốc Khánh. Sự du nhập và ảnh hưởng củavăn hóa Ấn Độ ở người Việt trong lịch sử

  • Nguyễn Cảnh Huệ. Ủng hộ sự nghiệp đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam từ 1945 đến nay

  • Nguyễn Đức Hiệp. Cộng đồng người Ấn và thương mại ở Sài Gòn

  • Vũ Đức Liêm. Thủy quân và ngai vàng ở Việt Nam cuối thế kỷ XVIII: Kỷ nguyên của những con cắt biển

Thông báo

Tư vấn khoa học và kỹ năng nghiên cứu…

Tủ sách văn hoá học Sài Gòn

  • Thư viện ảnh
  • Thư viện video
  • Tủ sách VHH

Phóng sự ảnh: Toạ đàm khoa học: Xây dựng…

Hình ảnh văn hóa Tết xưa (sưu tầm)

Phóng sự ảnh: Lễ hội truyền thống VHH 2011

Phóng sự ảnh Lễ hội truyền thống VHH 2010

Thành phố Sankt-Peterburg, Nga

Bộ ảnh: Việt Nam quê hương tôi 2

Tranh Bùi Xuân Phái

Bộ tem tượng Phật chùa Tây Phương

Bộ ảnh: Đá cổ Sapa

Bộ ảnh: Phong cảnh thiên nhiên

Bộ ảnh: Việt Nam quê hương tôi

"Biển, đảo Việt Nam - Nguồn cội tự bao đời":…

Con dê trong văn hóa và văn hóa Việt Nam

Văn hóa Tết ở Tp.HCM (Chương trình truyền…

Văn hóa Tp. HCM: Một năm nhìn lại và động…

Phong tục Tết cổ truyền của người Nam Bộ

Bánh tét và Tết phương Nam

Con ngựa trong văn hóa và văn hóa Việt Nam

Điện Biên Phủ - Cuộc chiến giữa hổ và voi

Nhìn lại toàn cảnh thế giới từ 1911-2011…

Tọa độ chết - một bộ phim Xô-Việt xúc động…

Video: Lễ hội dân gian Việt Nam

Văn hoá Việt từ phong tục chúc Tết

Văn hoá Tết Việt qua video

Tết ông Táo từ góc nhìn văn hoá học

“Nếp nhà Hà Nội” trên “Nhịp cầu vàng”: tòa…

Văn hóa Thăng Long - Hà Nội qua video: từ…

Hướng về 1000 năm TL-HN: Xem phim “Tử Cấm…

Hướng về 1000 năm TL-HN: Người Thăng Long…

Phim "Chuyện tử tế" – tập 2 (?!) của “Hà…

Default Image

Hướng về 1000 năm TL-HN: "Chuyện tử tế" -…

Sách “Di sản Ấn Độ trong văn hóa Việt Nam”

Nguyễn Văn Bốn. Tín ngưỡng thờ Mẫu của người…

Sách: Quản lý và khai thác di sản văn hóa…

Hồ Sĩ Quý. Con người và phát triển con người

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 3

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 2

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 1

Hồ Sỹ Quý. Tiến bộ xã hội: một số vấn đề về…

Hồ Sỹ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á (Phụ…

Hồ Sỹ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á…

Hồ Sĩ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á…

Sách: Chuyên đề Văn hoá học

Sách: Một số vấn đề về hệ giá trị Việt Nam…

FitzGerald. Sự bành trướng của Trung Hoa…

Hữu Đạt. Đặc trưng ngôn ngữ và văn hoá giao…

Sống chụ son sao (Tiễn dặn người yêu)

Gs. Mai Ngọc Chừ. Số phận & Tâm linh

Trần Văn Cơ. Những khái niệm ngôn ngữ học…

Đoàn Văn Chúc. Văn hóa học (Phần 3 - hết)

Đoàn Văn Chúc. Văn hóa học (Phần 2)

Các nhà VHH nổi tiếng

Julian Haynes Steward

Wen Yi'duo (Văn Nhất Đa)

Leslie Alvin White

Huang Wen'shan (Hoàng Văn Sơn)

Radcliff-Brown, Alfred Reginald

Sapir, Edward

Margaret Mead

Thăm dò ý kiến

Bạn thích cuốn "Cơ sở văn hoá VN" của tác giả nào nhất?

Chu Xuân Diên - 4.8%
Lê Văn Chưởng - 0.9%
Trần Diễm Thuý - 1%
Trần Ngọc Thêm - 37.4%
Trần Quốc Vượng - 53%
The voting for this poll has ended on: 26 06, 2020

Tổng mục lục website

tong muc luc

Tủ sách VHH Sài Gòn

tu sach VHH SG

Thống kê truy cập

  • Đang online :
  • 330
  • Tổng :
  • 3 7 7 3 7 0 1 5
  • Đại học quốc gia TPHCM
  • Đại học KHXH&NV
  • Tran Ngoc Them
  • T.c Văn hóa-Nghệ thuật
  • Tc VHDG
  • Viện NCCN
  • Khoa Văn hóa học
  • Khoa Đông phương học
  • Phòng QLKH
  • Khoa Việt Nam học
  • Khoa Hàn Quốc học
  • BM Nhật Bản học
  • Khoa Văn học - Ngôn ngữ
  • Khoa triết học
  • Khoa Quan hệ quốc tế
  • Khoa Xã hội học
  • Bảo tàng Lịch sử - Văn hóa
  • viettems.com
  • myfaifo.com
Previous Next Play Pause

vanhoahoc.vn (các tên miền phụ: vanhoahoc.edu.vn ; vanhoahoc.net)
© Copyright 2007-2015. Bản quyền thuộc Trung tâm Văn hóa học Lý luận và Ứng dụng, Trường Đại học KHXH & NV - ĐHQG Tp. HCM
ĐT (028) 39104078; Email: ttvanhoahoc@hcmussh.edu.vn; ttvanhoahoc@gmail.com. Giấy phép: số 526/GP-BC, do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 27-11-2007
Ghi rõ nguồn vanhoahoc.vn khi phát hành lại các thông tin từ website này.

Website được phát triển bởi Nhà đăng ký tên miền chính thức Việt Nam trực thuộc Trung Tâm Internet VNNIC.

Văn hóa ứng xử với môi trường xã hội