logo

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
    • Thư ngỏ
    • Khái quát về Trung tâm
    • Nhân lực Trung tâm
      • Thành viên Trung tâm
      • Cộng tác viên
    • Giới thiệu Khoa Văn hóa học
      • Khái quát về Khoa
      • Nhân lực của Khoa
  • Tin tức
    • Tin nhà (Trung tâm)
    • Tin ngành
    • Tin liên quan
  • Đào tạo - Huấn luyện
    • Các chương trình
    • Tổ chức và Hiệu quả
    • Đào tạo ở Khoa VHH
      • Chương trình đào tạo
      • Kết quả đào tạo
  • Nghiên cứu
    • Lý luận văn hóa học
      • LLVHH: Những vấn đề chung
      • VHH: Phương pháp nghiên cứu
      • VHH: Các trường phái - trào lưu
      • Loại hình và phổ quát văn hóa
      • Các bình diện của văn hóa
      • Văn hóa học so sánh
      • Vũ trụ quan phương Đông
      • Văn hóa và phát triển
      • VHH và các khoa học giáp ranh
    • Văn hóa Việt Nam
      • VHVN: Những vấn đề chung
      • Văn hóa cổ-trung đại ở Viêt Nam
      • Văn hóa các dân tộc thiểu số
      • Văn hóa Nam Bộ
      • Văn hóa nhận thức
      • Văn hóa tổ chức đời sống tập thể
      • Văn hóa tổ chức đời sống cá nhân
      • Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên
      • Văn hóa ứng xử với môi trường xã hội
    • Văn hóa thế giới
      • VH Phương Đông: Những vấn đề chung
      • VH Phương Tây: Những vấn đề chung
      • Quan hệ văn hóa Đông - Tây
      • Văn hóa Trung Hoa và Đông Bắc Á
      • Văn hóa Đông Nam Á
      • Văn hóa Nam Á và Tây Nam Á
      • Văn hóa châu Âu
      • Văn hóa châu Mỹ
      • Văn hóa châu Phi và châu Úc
    • Văn hóa học ứng dụng
      • VHƯD: Những vấn đề chung
      • VHH nghệ thuật
      • Văn hóa đại chúng
      • Văn hóa giao tiếp
      • Văn hóa du lịch
      • Văn hóa đô thị
      • Văn hóa kinh tế
      • Văn hóa quản trị
      • Văn hóa giáo dục - khoa học
    • Tài liệu phổ cập VHH
      • Văn hóa Việt Nam
      • Văn hóa thế giới
      • VHH ứng dụng
    • Tài liệu tiếng nước ngoài
      • Theory of Culturology
      • Vietnamese Culture
      • Applied Culturology
      • Other Cultures
      • 中文
      • Pусский язык
    • Thư Viện Số (Sách - Ảnh - Video)
      • Tủ sách Văn hoá học
      • Thư viện ảnh
      • Thư viện video
    • Các nhà văn hóa học nổi tiếng
  • Tiện ích
    • Dịch vụ Văn hóa học
    • Dịch vụ ngoài VHH
    • Trợ giúp vi tính
    • Từ điển Văn hóa học
    • Thư viện TT và Khoa
    • Tổng mục lục website
    • Tủ sách VHH Sài Gòn
    • Giải đáp thắc mắc
  • Thư giãn VHH
    • Văn chương Việt Nam
    • Văn chương nước ngoài
    • Nghệ thuật Việt Nam
    • Nghệ thuật thế giới
    • Hình ảnh vui
    • Video vui
  • Diễn đàn
  • Liên hệ
  • Trang chủ
  • Nghiên cứu
  • Văn hóa Việt Nam
  • Văn hóa ứng xử với môi trường xã hội
Wednesday, 10 August 2016 13:38

Li Tana. Gạo từ Sàigòn: người Hoa tại Singapore và công cuộc mậu dịch tại Sàigòn trong thế kỷ thứ mười chín

Người post bài:  Nguyễn Thị Tuyết Ngân

Additional Info

  • Tiêu đề:

    GẠO TỪ SÀIGÒN: NGƯỜI HOA TẠI SINGAPORE
    VÀ CÔNG CUỘC MẬU DỊCH TẠI SÀIGÒN TRONG THẾ KỶ THỨ MƯỜI CHÍN

  • Tác giả:

    Li Tana

    College of Asia and the Pacific

    Australian National University

  • Chức danh:

    Ngô Bắc dịch

Li Tana. Gạo từ Sàigòn: người Hoa tại Singapore và công cuộc mậu dịch tại Sàigòn trong thế kỷ thứ mười chín

Thời kỳ từ giữa thế kỷ thứ mười tám đến giữa thế kỷ thứ mười chín là một thời khoảng có một số ý nghĩa quan trọng trong lịch sử của Đông Nam Á. Nó đã được tái khảo sát như một thời kỳ đánh dấu một sự bành trướng thương mại lớn lao giữa “kỷ nguyên thương mại” và thời kỳ cao độ của chủ nghĩa thực dân (1870-1940). 1 Bài viết này xem xét sự phát triển của công cuộc mậu dịch lúa gạo Sàigòn trong khung cảnh này, nhấn mạnh đến hoạt đông mậu dịch trong phạm vi Đông Nam Á để đặc trưng những thay đổi và những tương phản của thời kỳ này. Trong thực chất, điều này liên can đến sự xuất hiện của một công cuộc mậu dịch có tính chất địa phương hơn đường trường, về thực phẩm với khối lượng to lớn (bulk goods) hơn là các xa xỉ phẩm, và được thực hiện bởi người Hoa ở Nanyang (Nam Dương: biển phía nam) chứ không phải bởi người Hoa tại miền nam Trung Hoa. Đặc biệt, tôi sẽ đặt tiêu điểm nhắm vào hoạt động mậu dịch của các thương nhân Trung Hoa có cơ sở tại Singapore về lúa gạo Sàigòn và ý nghĩa của nó cho lịch sử thương mại của người Hoa tại Đông Nam Á.

Một Chiều Hướng Mới: Mậu Dịch Địa Phương bởi Người Hoa Đã Địa Phương Hóa tại Đông Nam Á

Trong khi mậu dịch thuyền buồm Đông Nam Á hay Nam Dương trong các thế kỷ thứ mười sáu và mười bẩy điển hình là đường trường, hướng tới một nơi đến, thí dụ, từ Đông Nam Á đến Nhật Bản hay Trung Hoa, và chủ yếu là các xa xỉ phẩm, thế kỷ thứ mười tám chứng kiến một sự thay đổi lớn lao trong các khuôn mẫu mậu dịch, như tác giả Lieberman vạch ra, sang các khối lượng thực phẩm to lớn cồng kềnh, phần nhiều trong phạm vi vùng. 2 Sự trổi dậy của Sàigòn có thể được nhìn như một hậu quả trực tiếp của chiều hướng này, trong sự tương phản rõ rệt với Hội An, một trạm trung chuyển tại miền trung Việt Nam ngày nay, vốn được phát triển trong thế kỷ thứ mười bẩy và suy giảm từ giữa thế kỷ thứ mười tám. Trong khi sự trổi dậy của Hội An song hành với nhu cầu về gỗ hương (calambac), vàng và các xa xỉ phẩm khác từ Trung Hoa và Nhật Bản, Sàigòn rõ ràng đã được thiết lập trên hoạt động mậu dịch về các khối hàng to lớn chẳng hạn như gạo, đường và muối với các hải cảng Đông Nam Á khác.

Sự thay đổi này được gây ra bởi vài yếu tố. Như nhiều học giả vạch ra, nhu cầu của Trung Hoa về số gạo thặng dư từ Đông Nam Á, vốn trở nên cấp bách trong thế kỷ thứ mười tám, đã là công cụ trong việc thúc đẩy mậu dịch thuyền buồm phát triển tại Đông Nam Á trong nửa sau của thế kỷ thứ mười tám và đầu thế kỷ thứ mười chín. 3 Đặc điểm này của thời kỳ đã trở nên rõ ràng hơn khi chúng ta đặt định hai trung tâm thương mại mới được thành lập, Bangkok và Sàigòn, vào trong bức cảnh trí. Điều nổi bật là Bangkok đã được thành lập (1782) gần như cùng lúc với Sàigòn, vốn đã trở thành thị trấn vào năm 1772. 4 Ý nghĩa về thời gian và không gian này xứng đáng nhận được sự chú ý nghiêm chỉnh của các học giả về Đông Nam Á lục địa. Chưa từng thấy trước đây hai trung tâm thương mại nào lại được xây dựng gần cận nhau như thế bởi hai nước to lớn tại Đông Nam Á lục địa. Điều xảy ra này, sẽ có tác động lớn lao trên các khuôn mẫu kinh tế và chính trị của vùng, chắc chắn đã khích lệ mậu dịch giữa hai trung tâm, và hẳn phải là một trong các yếu tố to lớn góp phần vào sự thịnh vượng của hoạt động mậu dịch thuyền buồm Trung Hoa hồi đầu thế kỷ thứ mười chín, đặc biệt rõ nét tại chung quanh khu vực Vịnh Xiêm La. 5

Song, sự thịnh vượng và phạm vi thương mại trong vùng sẽ bị hạn chế rất nhiều nếu không có các sự khích lệ đã diễn ra như hải cảng Singapore trong năm 1819, gần như ngay sau khi có sự thành lập Sàigòn và Bangkok. Hải cảng tự do của Anh Quốc này, với dân số gia tăng mau chóng của nó bằng các di dân, đã mang lại nhu cầu mạnh mẽ nhất về gạo, đường và muối trong vùng, các món hàng đã biến Bangkok và Sàigòn thành các đối tác mậu dịch quan trọng nhất và sớm nhất của nó. Như John Crawfurd đã nhận xét hồi đầu thập niên 1820: “Cho đến giờ nhánh đáng kể nhất của sự giao thương này [của Singapore] là nhánh với Xiêm La, và bên cạnh đó là với hải cảng của Sàigòn”. 6

Thay Đổi Các Tay Chơi: Sự Địa Phương Hóa Nhiều Hơn

Sự thiết lập ba trung tâm thương mại quan trọng trong vùng đã đánh dấu bước khởi đầu của một sự tham gia của người Hoa địa phương hóa nhiều hơn vào mậu dịch thuyền buồm tại vùng Đông Nam Á. Trường hợp Sàigòn có lẽ đích xác. Các báo cáo cho thấy rằng 300 thuyền buồm đã mua bán hàng năm tại Sàigòn vào đầu thập niên 1800 7, trong đó chỉ có 30 thuyền là đến từ Trung Hoa. 8 Nếu thế, khi đó 90 phần trăm các thuyền buồm đó sẽ phải đến từ các hải cảng khác nằm trong Đông Nam Á. Chắc chắn nhiều thuyền đã đến từ Bangkok. Điều được tường thuật trong thập niên 1820 rằng có khoảng 200 thuyền buồm có cơ sở tại Bangkok, 80 trong số thuyền mậu dịch với Trung Hoa và 50 với Việt Nam, và rằng phần lớn được sở hữu bởi người Hoa đã địa phương hóa tại Xiêm La. 9

Công cuộc mậu dịch của người Hoa tại Xiêm La và Sàigòn với Singapore trong những ngày sớm sủa nhất của nó được kiện chứng một cách rõ ràng tại một trong các bi ký Trung Hoa sớm nhất được tìm thấy tại Singapore có ghi niên đại 1830 tại Heng Shan Ting. Bi ký cho hay rằng ngôi chùa, thành lập trong năm 1828, đã được cấp ngân khoản bởi các số quyên tặng từ “các thuyền buồm Tang (nhà Đường [tức Trung Hoa], các thuyền buồm Xiêm La và các thuyền buồm An Nam”, các thuyền thuộc các chủ nhân có nguyên quán ở các huyện Zhang và Quan, tỉnh Phúc Kiến. 10 Điều này sẽ nêu lên ý kiến rằng đã không chỉ có khuôn mẫu mậu dịch và hàng hóa chủ yếu đã được trao đổi, mà còn cả bản thân các thương nhân nữa. Nhiều người trong họ không còn là các khách trú (sojourners) giữa Trung Hoa và Nanyang (Nam Dương); họ đã là người Hoa địa phương hóa “giờ đây đã tìm được các hải cảng mới đủ sức chống đỡ cho mậu dịch liên tục và thường lệ và đã khai mở các mạng lưới mậu dịch địa phương cho chính họ, khiến thấy ít cần thiết phải quay về các thị trường hạn chế và bị kiểm soát tại Trung Hoa”. 11

Điều này đã phải là yếu tố địa phương to lớn góp sức vào sự bột phát của mậu dịch trong phạm vi Đông Nam Á trong “thế kỷ Trung Hoa” 1740-1840. 12 Mậu dịch cấp vùng này đã được thực hiện bởi các thương nhân Trung Hoa đã địa phương hóa, sau hết là nhằm phục vụ thị trường Trung Hoa; thí dụ, các kẻ cư ngụ tại khu vực Bangkok, thường lui tới “Patani, Kalantan, Tringano, Pahang, Rhio, Singapore, Melaka, Penang, Batavia, Samarang, Cheribon, Palembang, và Pontianak”, thu lượm các sản phẩm địa phương, Anh Quốc và Ấn Độ cho thị trường Trung Hoa. 13 Mậu dịch giữa Việt Nam và Trung Hoa hẳn đã phải gia tăng lớn lao. Một báo cáo bởi tổng đốc Quảng Đông và Quảng Tây cho biết rằng 60-70 phần trăm tiền đồng lưu hành tại Quảng Đông được đúc tại Việt Nam, 14 làm liên tưởng đến một khối lượng đáng kể trong sự tương tác mậu dịch và thương mại giữa Trung Hoa và Việt Nam vào thời điểm này.

Các Thương Nhân Người Hoa Tích Cực tại Singapore

Chính trên căn bản của hoạt động mậu dịch địa phương tích cực này trong phạm vi Đông Nam Á, và các thông tin quý giá được chuyển tải cùng với nó, mà một số thương nhân người Hoa tại Singapore đã dựng lên các mạng lưới kinh doanh của họ. Các tài liệu giữa thế kỷ thứ mười chín về một số các thương nhân người Hoa ở Singapore, thí dụ, cho thấy Sàigòn, Bangkok, Hà Tiên và hải cảng Campot của Căm Bốt đã tham gia vào nhiều mối liên kết mậu dịch như thế ở thời điểm này. Thật khó để ấn định một cách chính xác thời điểm khi người Hoa ở Singapore khởi sự mậu dịch với Sàigòn trên một tầm mức đáng kể. Từ Hình 1, có vẻ như thập niên 1840 đã ghi nhận một sự gia tăng rõ rệt trong khối lượng mậu dịch chắc chắn dẫn đến một sự gia tăng mạnh mẽ trong việc vận tải bằng tàu; nhưng, gần đúng như thế, chính trong thập niên 1830 mà người Hoa tại Singapore khởi sự giành được một chân đứng trong mậu dịch Việt Nam – Singapore, không lâu sau khi các baba ở Malacca di chuyển đến Singapore vào cuối thập niên 1820. 15 Vào năm 1855, họ đã kinh doanh mãi đến tận miền trung Việt Nam, bởi: “các thông dịch viên tại Quảng Nam gôm một người đảo Hải Nam, và hai người Singapore có thể nói tiếng Anh. Tên của họ là Yuen và Hong, người kể tên sau có yêu cầu người Anh lập ông ta làm đại lý thị trường của họ, và hứa hẹn mua được hàng hóa với các giá cả phải chăng”. 16

Một sự quan sát năm 1856 bởi một người gốc Anh Quốc, Edward Brown xác nhận tầm quan trọng của người Hoa ở Singapore trong mậu dịch của Sàigòn: “Mậu dịch của thành phố thì đáng kể. Hàng trăm các thuyền buồm Trung Hoa đến đây mỗi năm, cũng như nhiều thuyền của Xiêm La, và một ít tàu đóng bởi Âu Châu. Nhưng tàu kể sau đều được sở hữu bởi các thường trú nhân Trung Hoa tại Singapore, hay tại Eo Biển [Malacca?] 17 Người Hoa tại Singapore cũng được nhận thấy tích cực tại Vịnh Xiêm La: “Tàu The Punch, thuyền trưởng George Anderson, tại chiếc thuyền trong đó ông Quong [mandarin, quan trong tiếng Việt] của Artien [Hà Tiên] đã thu xếp chuyến đi cho tôi tới Singapore. Thuyền hai buồm này là một thuyền buôn bán thường lệ giữa Singapore và Campot, và được sở hữu bởi Ho-chung-lee, một thương nhân người Hoa cư trú tại Singapore”. 18 Ở đây, Brown chắc chắn nói đến Ho Chong Lay (1821-1861), một thương nhân người Hoa tại Singapore có sở hữu vài thuyền buồm và các tàu lái bằng buồm buôn bán với Xiêm La và Sàigòn thời đó. 19 Đầu mối này dẫn chúng ta đến việc truy tìm sự can dự của một số các cá nhân khác trong tầng lớp thương nhân Singapore giữa thế kỷ thứ mười chín, đặc biệt các thương nhân lúa gạo.

“Các Vua Gạo” Singapore Có Buôn Bán Với Sàigòn

Gần như tất cả các chủ tàu gốc Hoa tại Singapore ban sơ, chẳng hạn như Cheang Hong Lim, Tan Kim Tian và Ang Choon Seng, 20 đều có buôn bán với Sàigòn. Ang Choon Seng (1805-1852), một baba sinh ra tại Malacca, sở hữu hai thuyền hai buồm nhỏ (schooners), chiếc Patah Salam và chiếc Kong Kek, buôn bán tại Sàigòn và Bangkok. 21 Tan Kim Tian, cũng là một người Hoa sinh ra tại Eo Biển, hẳn đã buôn bán với Việt Nam từ thập niên 1850 đến 1860 khi đứa con trai nuôi của ông, Tan beng Wan, được sinh ra tại An Nam năm 1851. 22 Trong năm 1871, ông mua chiếc Rangoon, một tàu chạy bằng hơi nước trọng tải 549 tấn, nhằm thúc đẩy một cách tích cực hơn các sự quan tâm của ông trong các sự giao thương giữa Singapore, Bangkok, Sàigòn và Amoy”, theo Niên Giám Straits Directory năm 1872. 23

Như được chỉ dẫn bởi các trường hợp của Ang Choon Seng và Tan Kim Tian, người Hoa có cơ sở tại Singapore, đặc biệt các baba sinh ra tại Eo Biển, đã đóng giữ một vai trò quan trọng trong mậu dịch Saigòn thế kỷ thứ mười chín. Tan Kim Ching (1829-1892) – kẻ trở thành “vua gạo” của Singapore trong thập niên 1870 24 – và người anh [hay em] rể của ông ta, Lee Cheng Tee (1833-1901) là hai thí dụ khác nữa. Trong danh sách liên hệ của các baba Singapore vào mậu dịch Sàigòn, chúng ta có thể bổ túc Kim Seng & Co., sở hữu bởi Tan Kim Seng (1805-1864), một trong những người Hoa tại Singapore nổi bật nhất hồi giữa thế kỷ thứ mười chín.

Ông vua gạo trước đó Khoo Cheng Tiong (mất năm 1896) không phải là một baba, mặc dù sẽ không quá thậm xưng để nói rằng ông đã xây dựng sự giàu có của mình gần như chỉ trên gạo Sàigòn. Thương nghiệp của ông, Heng Chun, tại Boat Quay (Bến Tàu) được nói là có mua bán “sâu rộng về gạo Sàigòn” và sở hữu các nhà máy xay lúa to lớn tại Sàigòn. 26 Người em [hay anh] của ông, Khoo Cheng Teow (mất năm 1896), cũng là một thương nhân về gạo, hoạt động dưới thương hiệu (chop) “Aik Seng & Co.” 27, và đã dính líu một cách tích cực trong các sự vụ cộng đồng người Hoa tại khu vực Sàigòn – Chợ Lớn; tên ông ta được nhận thấy trong các bia ký liệt kê người tặng dữ của các năm 1871 và 1885 cho Hội Quán Xia Zhang (Hạ Chương?) Huiguan trong Chợ Lón. 28

Một thí dụ khác về sự liên can của các thương nhân Singapore ban sơ với Sàigòn là trường hợp của Sim Ah Kay, một người Triều Châu (Teochiu) từ Swatow là kẻ thuộc tầng lớp tinh hoa của thế hệ già lão hơn trong các thương nhân gốc Hoa tại Singapore trước 1850. 29 Công ty của ông ta, Ah Kye, Lim Chap Hee & Co. chop “Teo Hin”, tọa lạc tại số 40 Boat Quay, có các chi nhánh tại Sàigòn, Bangkok, và Swatow. 30 Với vài chiếc tàu, đặc biệt một xà-lan 218 tấn Kim Quang Hong, qua lại một cách đều đặn giữa Sàigòn và Singapore, Ah Kye, Lim Chap Hee & Co. đã là một trong các thương nghiệp tích cực nhất trong mậu dịch ở Sàigòn trong các thập niên 1860 và 1870. 31 Đáng chú ý, công ty này cũng có một xà lan Xiêm La 262 tấn du hành giữa Singapore và Kampot vào lúc đó.

Các thương nhân người Hoa đặt cơ sở tại Singapoire thì quá nhiều và tích cực tại Sàigòn vào giữa thế kỷ thứ mười chín đên nỗi ba bang (congregations) người Hoa tại Sàigòn có bang trưởng được chỉ định bởi người Pháp không lâu sau khi họ chiếm đoạt Nam Kỳ (Cochinchina) là bang Quanzhou, Phúc Kiến và Singapore. 32 Có cả một “Phố Baba” tại Saùigòn hồi cuối thế kỷ thứ mười chín, được chiếm ngụ chính yếu bởi người Hoa từ Singapore. 33 Một số học giả Việt Nam còn nêu ra xa hơn rằng trang phục thông dụng nhất cho người đàn ông và đàn bà tại miền nam, “áo bà ba” [tiếng Việt trong nguyên bản, chú của người dịch], đặc trưng là không có cổ áo, bắt chước theo kiểu của baba từ các Khu Định Cư ở Eo Biển [Malacca] là các kẻ buôn bán với Sàigòn trong thế kỷ thứ mười chín. Một thời trang trước tiên trong số các người đàn ông giàu có, kế đó với phụ nữ, rồi dần dần được chấp nhận tại toàn thể khu vực châu thổ sông Mekong. 34

Tại Sao Mậu Dịch Sàigòn Đã Được Ưa Thích?

Một câu hỏi phát sinh từ cuộc thảo luận trước đây: Tại sao Sàigòn lại quá được ưa thích? Có phải vì sự mua bán gao giữa Sàigòn và Singapore bảo đảm cho một lợi nhuận cao? Hoàn toàn ngược lại. Theo Wong Lin Ken, các thương nhân người Hoa ở Singapore chở đến Sàigòn “các hàng bông vải Anh Quốc, đặc biệt vải may áo màu xám, thường được đổi lỗ vốn lấy gạo”. 35 Chính các giao dịch tiếp theo sau đó mới làm cho việc chuyến chở hàng có lợi nhuận. Buôn bán gạo, phần lớn, là một sự kinh doanh có tính chất đầu cơ: chỉ có một phần trăm hạn chế là được bán và tiêu thụ tại ngay Singapore; phần còn lại được bán lại cho Trung Hoa và trong phạm vi các quần đảo.

Nơi đây, Lee Cheng Tee và việc kinh doanh của ông ta có thể dùng làm thí dụ. Ông Lee nổi tiếng tại Singapore vì công cuộc mậu dịch của ông với các hải cảng ở đảo Java, 36 Melaka và Penang. 37 Nhưng công ty ông Lee đã buôn bán gì với các quần đảo? Một nguồn tài liệu Hòa Lan cho chúng ta biết: “Sản vật quan trọng nhất mà người Trung Hoa nhập cảng từ vùng Ấn Độ thuộc Hòa Lan là gạo từ Rangoon, Sàigòn và Xiêm La”. 38 Đây là chỗ mà công ty của ông Lee thích hợp. Theo tờ Straits Time Overland Journal năm 1869, các tàu của họ Lee, đặc biệt chiếc Anna Maria, một xà-lan 407 tấn, thường qua lại giữa Singapore và Sàigòn. 39 Sau khi rời Sàigòn, thường các chuyến chở gạo đã chuyển qua tay vài lần trước khi giao hàng sau cùng, theo cả các nguồn tin của Hòa Lan lẫn Anh Quốc. 40 Sự đầu cơ gạo này là điều sau hết khiến cho mậu dịch Sàigòn trở nên sinh lợi.

Buôn bán gạo với Sàigòn, vì thế, tạo thành một chi nhánh liên hợp trong việc kinh doanh của họ Lee chắc chắn đã nuôi dưỡng cho sự kinh doanh khác của ông ta với các quần đảo. Quan điểm này được xác nhận bởi Singapore Directory năm 1878, phát hiện rằng các văn phòng chi nhánh của công ty ông Lee được mở ra tại “Sàigòn, Samarang, Sourabaya, Batavia, và Cheriboon”. 41 Việc kinh doanh của ông Lee hẳn có liên hệ và trợ lực vào việc củng cố vị thế người anh em rể của ông, Tan Kim Ching, ông vua gao thập niên 1870, kẻ được tường thuật, có thể toan tính để “vét thị trường gạo tại Singapore và nâng giá thực phẩm tại thuộc địa”. 42

Không phải là ngẫu nhiên mà việc mua bán gạo lại chỉ được đảm trách bởi các thương nhân uy thế nhất tại tất cả các thành phố hải cảng – Singapore, Sàigòn, Bangkok, và sau này, Hồng Kông. Bởi có việc đòi hỏi cả sự chi trả vốn liếng to lớn và các tiện nghi cất trữ, cũng như các rủi ro trong việc vận tải bằng tàu, mậu dịch lúa gạo chỉ có thể được kiểm soát và đầu cơ bởi các người Hoa quyền thế lớn nhất đó. Điều này được xác nhận bởi một nguồn tài liệu về người Hoa ở Nanyang (Nam Dương): “Các thương nhân Phúc Kiến gọi [những công ty đó] có sở đắc số vốn lớn với năng lực khổng lồ cho việc vận tải là “jiao” … Tại Nanyang, “jiao” lớn nhất là “jiao” gạo, vốn không thể hoạt động được nếu không có hàng trăm nghìn đô la làm vốn”. 43

Vì thế, việc chi dùng một số vốn lớn lao có tính chất trọng yếu cho sự tham gia vào mậu dịch lúa gạo, và mậu dịch lúa gạo kế đó đã gia tốc sự tập trung vốn trong số các người Hoa ở khu vực Nanyang. Điều rõ rệt rằng công cuộc mậu dịch gạo của Sàigòn đã được tài trợ phần lớn bởi các thương nhân của Singapore … [và] gần như hoàn toàn nằm trong tay các thương nhân Trung Hoa”. 44 Mặc dù trong thập niên 1860 nó được tài trợ với một hệ thống tín dụng ba tháng được chấp thuận bởi các thương nhân Âu Châu tại Singapore, 45 trong thời kỳ sớm hơn, hụi Trung Hoa truyền thống hay các hiệp hội tài chính nhiều phần đã đóng một vai trò quan trọng trong việc tài trợ công cuộc buôn bán gạo. Keng Tek Whay, một tổ chức trợ giúp thương mại trong giới các baba Singapore từ Malacca, rất có thể đã thực hiện một sự đóng góp như thế; một trong những người sáng lập của nó trong năm 1831 là Ang Choon Seng, thương nhân buôn bán giữa Sàigòn, Bangkok và Singapore đã nói tới trước đây. 46

Vào lúc bắt đầu bài viết này, tôi đã rút ra sự chú ý đến ý nghĩa của sự thành lập Sàigòn, Bangkok, và Singapore ở một thời điểm và địa điểm cá biệt. Sự phát triển mậu dịch của người Hoa giữa thập niên 1740 và 1840 đặc biệt hiển hiện giữa ba hải cảng này. Như tác giả Anthony Reid trình bày, mậu dịch người Hoa tập trung trên Bangkok đã gia tăng gấp hơn mười lần cho đến thập niên 1820, và của Sàigòn tăng gấp khoảng năm lần. 47 Sự tăng trưởng mạnh mẽ trong mậu dịch gạo của Sàigòn đã xảy ra từ 1841 đến 1845: trong thời khoảng ngắn ngủi này các số xuất cảng gạo đã gia tăng khoảng mười lần; trong năm 1848 khối lượng này đã tăng gấp đôi. 48 Mậu dịch giữa Sàigòn, Bangkok và Singapore chắc chắn đã biến Đông Nam Á lục địa thành một khu vực có tầm quan trọng chưa từng thấy đối với các quần đảo và góp phần đáng kể cho “thế kỷ Trung Hoa” được xác định trong học thuật gần đây.

Thời biểu và địa dư này đặc biệt trọng yếu cho sự tích lũy và nâng cao số vốn của người Hoa địa phương tại Đông Nam Á. Sự kiện rằng hầu hết mọi thương nhân người Hoa thế lực tại Singapore vào lúc đó đã tham gia vào việc buôn bán gạo Sàigòn khiến liên tưởng rằng việc mậu dịch lúa gạo, và sau này kỹ nghệ lúa gạo, vào khoảng giữa thế kỷ thứ mười chín đã trở thành một trong các khu vực đầu tư quan trọng nhất đối với người Hoa giàu có tại vùng Nanyang. Điều này kế đó đã đẩy mạnh sự bành trướng kinh doanh trung gian của người Hoa trong vùng trong các ngành kinh doanh như vận tải đường sông tại Châu Thổ sông Mekong, và các nha kho (godowns) tại bờ sông của Singapore, Chao Phraya và sông Tàu (tại Chợ Lớn). Việc vận tải bằng tàu chạy bằng hơi nước và các công ty bảo hiểm phát triển trong thập niên 1860 cũng được thiết lập phần lớn trên các căn bản như thế. Bởi mậu dịch lúa gạo có tính chất đầu cơ và do đó đặc biệt lệ thuộc vào các quan hệ tốt với cả các nhà sản xuất lẫn các người tiêu thụ, cũng cần phải gia tốc sự thành lập các mạng lưới thông tin và mậu dịch có hệ thống trong hoạt động thương mại nội vi Đông Nam Á.

Kết Luận

Thời kỳ từ cuối thế kỷ thứ mười tám đến nửa đầu thế kỷ thứ mười chín – tiêu điểm của tuyển tập này – đã là một đoạn nối trọng yếu trong lịch sử thương mại của người Hoa tại Đông Nam Á. Trước thời kỳ này, mậu dịch người Hoa tại Đông Nam Á chính yếu là sự quan tâm của các doanh nghiệp nhỏ và việc mua bán nhỏ, và đã mang lại các mối liên kết không mấy thường xuyên và rải rác giữa Đông Nam Á lục địa và hải đảo. Sự thành lập Sàigòn, Bangkok, và hải cảng tự do Singapore liên tiếp trong khoảng năm mươi năm đã làm biến đổi cảnh tượng này vĩnh viễn. Thời biểu của mối quan hệ mậu dịch mạnh mẽ này càng trở nên có ý nghĩa hơn nữa khi chúng ta cứu xét đến nhu cầu gấp bội về gạo cả của miền nam Trung Hoa lẫn từ các dân số gia tăng mau lẹ trong các công nhân Trung Hoa tại các quần đảo.

Như đã phác họa nơi phần mở đầu của bài viết này, mậu dịch với khối lượng lớn đã trở thành trọng tâm của mậu dịch hàng hải tại Đông Nam Á từ thế kỷ thứ mười tám, và mậu dịch lúa gạo đã là nền tảng đánh dấu sự biến chuyển này. Với sự tăng cường các liên lạc người Hoa địa phương khắp vùng Đông Nam Á, điều này có nghĩa mậu dịch lúa gạo tất nhiên đã trở thành nguồn cội to lớn cho sự tích lũy tư bản người Hoa ban đầu. Sự tập trung vốn người Hoa tại Singapore thế kỷ thứ mười chín vào lúa gạo, không bị hạn chế bởi các ranh giới thuộc địa và chính thức, đã là nguyên do quan trọng cho sự kiểm soát chặt chẽ của người Hoa trên ngành lúa gạo tại Sàigòn và Bangkok, biến việc buôn bán lúa gạo thành lãnh vực duy nhất nằm trong tay người Hoa trong suốt thời kỳ cao độ của chính sách thực dân tại Đông Nam Á./-

___

CHÚ THÍCH

1. Anthony Reid, “A New Phase of Commercial Expansion in Southeast Asia, 1760-1850”, trong sách biên tập bởi Anthony Reid, The Last Stand of Asian Autonomies (London: Macmillan Press, 1997), các trang 57-82.

2. Victor Lieberman, “Local Integration and Eurasian Analogies: Structuring Southeast Asian History, c. 1350-1830”, Modern Asian Studies 27, 3 (1993), trang 491.

3. Tian Rukang, Shiqi zhi shiji zhongye Zhongguo fanchuan zai Dongnanya [Shanghai: Shanghai remin chubanshe] , trang 41. Cũng xem Ng Chin-keong, Trade and Society: The Amoy Network on the China Coast, 1683-1735 (Singapore: National University of Singapore Press, 1983); Sarasin Viraphol, Tribute and Profit: Sino-Siamese Trade, 1652-1833 (Cambridge, Mass.: Council of East Asian Studies, Harvard University, 1977); Jennifer Cushman, Fields from the Sea: Chinese Junk Trade with Siam during the Late Eighteenth and Early Nineteenth Centuries (Ithaca: Southeast Asian Program, Cornell University, 1983).

4. Nguyễn Đình Đầu, “Địa Lý Lịch Sử Thành Phố”, trong sách biên tập bởi Trần Văn Giàu và các tác giả khác, Địa Chí Văn Hóa Thành Phố Hồ Chí Minh (Hochiminh City: Press of Hochiminh City, 1987), trang 168.

5. Tian, Shiqi zhi shijiu shiji, các trang 33-34; Lieberman, “Local Integration”, các trang 490-491.

6. John Crawfurd, Journal of an Embassy to the Courts of Siam and Cochin China (bản in lại; Kuala Lumpur: Oxford University Press, 1987), trang 542.

7. Cùng nơi dẫn trên, các trang 520n [?]

8. “Crawfurd’s paper”, trong sách biên tập bởi Alastair Lamb, The Mandarin Road to Old Hue (Toronto: Clarke, Irwin & Co. Ltd, 1970), các trang 264-265.

9. Crawfurd, Journal, trang 414.

10. Chen Chingho và Tan Yoek Seong, đồng biên tập, Xingapo huawen beaming jilu (Hong Kong: Chinese University Press, 1972), trang 223.

11. Wang Gungwu, “Sojourning: The Chinese Experience in Southeast Asia”, trong sách biên tập bởi Anthony Reid, Sojourners and Settlers: Histories of Southeast Asia and the Chinese (Sydney: Allen & Unwin, 1996), các trang 7-8.

12. Anthony Reid, “Introduction”, trong sách biên tập bởi Reid, The Last Stand, các trang 11-14.

13. Crawfurd, Journal, trang 414.

14. Ming Qing shiliao, geng bian (Taipei: Academia Sinica, 1960), ser. G, vol. 3.

15. Lim How Seng, Xingapo huashe yu huashang (Singapore: Singapore Society of Asian Studies, 1995), các trang 20-21.

16. “Wade’s Narrative”, trong sách biên tập bởi Lamb, The Mandarin Road, các trang 314-315.

17. Edward Brown, Cochin-China and My Experience of it. A Seaman’s Narrative of His Adventures and Sufferings during a Captivity among Chinese Pirates, on the Coast of Cochin-China, and Afterwards during a Journey on Foot Across that Country, in the years 1857-1858 (sách in lại; Taipei: Cheng Wen Publishing Co., 1971), trang 267.

18. Cùng nơi dẫn trên, Cochin-China, trang 289.

19. Song Ong Siang, One Hundred Years History of the Chinese in Singapore (sách in lại; Singapore: University of Malaya Press, 1967), trang 67; Ke Mulin, biên tập, Xinhua lishi renwu liezhuan (Singapore: Singapore Fed. Of Chinese Clan Assocs., 1995), trang 99.

20. Song, One Hundred Years, trang 119.

21. Cùng nơi dẫn trên, trang 81.

22. Cùng nơi dẫn trên, trang 264.

23. Singapore Almanac and Directory, 1872, trang 80.

24. Song, One Hundred Years, trang 165.

25. Kim Seng & Co., khi đó được sở hữu bởi con trai của Tan King Seng, tức Tan Beng Swee, đã có các tàu hơi nước đi lại giữa Singapore, Penang, và Sàigòn trong năm 1875; đại diện của nó tại Sàigòn là Heng Ann. Xem Singapore Almanac and Directory, 1875.

26. Song, One Hundred Years, trang 101; Ke, biên tập, Xinhua lishi renwu, trang 101.

27. Song, One Hundred Years, trang 101.

28. Li Tana và Nguyễn Cam Thuy [?] (đồng biên tập) (giới thiệu và chú giải bởi Li Tana), Chinese Epigraphic Materials in Ho Chi Minh City (Hà Nội: Nhà Xuất Bản Khoa Học Xã Hội, 1999), trang 132.

29. Song, One Hundred Years, các trang 82-83. Xem thư đề ngày 23 Tháng Ba 1850 gửi Toàn Quyền Butterworth được ký tên bởi Tan Kim Seng, Cheang Sam Teo, Sim Ah Kay, và Ang Choon Seng, thỉnh cầu sự đối xử nhiều tình cảm hơn.

30. Singapore Almanac and Directory, 1867, trang 45. Tại Sàigòn, chi nhánh là dưới thương hiệu (chop) “Bang Hin”, và tại Bangkok, thương hiệu (chop) “Bee Hin”.

31. Straits Times Overland Journal, số 173, tập X, 8 Tháng Mười 1869. Thương nghiệp Kim Quang Hong được đăng ký bởi Lim Chap Hee (hay Lim Cheap Hee) trong năm 1864.

32. “Đề cử số 31”, Sàigòn, 18 Tháng Hai 1863, trong sách của Jean Bouchot, Documents pour server à l’histoire de Saigon, 1859-1865 (Saigon: Éditions Albert Portail, 1927), trang 373.

33. Claudine Salmon và Tạ Trọng Hiệp, “De Batavia à Saigon: Notes de voyage d’un marchand chinois (1890)”, Archipel 47 (1994), trang 188; “Chongyou yuenan ji”(1893) trong sách biên tập bởi Ye Zhong Ling, Chen Sing Tang wen ji (Singapore: Singapore Soc. Of Asian Studies, 1994), trang 39.

34. Phan Thị Yến Tuyết {?}, Nhà ở, trang phục, ăn uống của các dân tộc vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long (Hà Nội: Khoa Học Xã Hội, 1993), các trang 62-63. Một cách mỉa mai, áo bà ba được phổ biến xa hơn đến miền trung và miền bắc Việt Nam trong thế kỷ thứ 20 và trở nên gần giống hệt như quần áo của du kích quân Việt Cộng.

35. Wong Lin Ken, “The Trade of Singapore, 1819-1869”, Journal of the Malayan Branch of the Royal Asiatic Society 33, pt. 4 (1960), trang 158.

36. Song, One Hundred Years, trang 165.

37. Ke, biên tập, Xinhua lishi renwu, trang 50.

38. M. R. Fernando và D. Bulbeck, Chinese Economic Activity in Netherlands India (Singapore: Institute of Southeast Asian Studies, 1992), trang 124.

39. Xem, thí dụ, Straits Times Overland Journal, X, no. 157 vol. X, 9 Tháng Ba 1869, no. 162, vol. X, 6 Tháng Năm 1869. Chiếc tàu được đăng ký dưới tên của Tan Seng Poh trong năm 1863. Tan đã trở thành người hợp tư kinh doanh của Lee trong năm 1871.

40. Fernando và Bulbeck, đồng biên tập, Chinese Economic Activity, trang 126; Wong, “The Trade of Singapore”, trang 158.

41. Straits Directory, 1878.

42. Carl Trocki, Opium and Empire: Chinese Society in Colonial Singapore, 1800-1910 (Ithaca: Cornell Unversity Press, 1990), trang 116.

43. Nanyang mingren jizhuan [Who’s Who in the South Seas], tập 2 (Penang: penang Publishing Room, 1924), các trang 202-203.

44. Wong, “The Trade of Singapore”, trang 158.

45. Cùng nơi dẫn trên.

46. Ông ta sở hữu hai thuyền hai buồm nhỏ (schooners), “Patah Salam” và “Kong Kek”, buôn bán với Sàigòn và Bangkok. Song, One Hundred Years, trang 81; Lim, Xingiapo huashe, trang 104.

47. Reid, “Introduction”, trang 12.

48. Li Tana, “Vietnam’s Overseas Trade in the 19th Century: The Singapore Connection”, bài tham luận trình bày tại Hội Nghị Quốc Tế về Việt Nam Học”, 14-17 Tháng Bảy, 1998, Hà Nội.

_____

Nguồn: Li Tana, Rice from Saigon, “The Singapore Chinese and the Saigon Trade of the nineteenth century”, trong sách đồng biên tập bởi Wang Gungwu và Ng. Chin-Keong, Maritime China in transition 1750-1850, South China and Maritime Asia, 12, 2004, Wiesbaden: Harrassowitz Verlag, 2004, các trang 261-270.

Ngô Bắc dịch và phụ chú

25.08.2014

http://www.gio-o.com

Lên trên

Cùng chủ đề

  • Khuất Thị Thu Hiền. Tăng cường công tác ngoại giao kinh tế nhằm phát triển kinh tế nhanh và bền vững

  • Nguyễn Ngọc Quỳnh, Tạ Quốc Khánh. Sự du nhập và ảnh hưởng củavăn hóa Ấn Độ ở người Việt trong lịch sử

  • Nguyễn Cảnh Huệ. Ủng hộ sự nghiệp đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam từ 1945 đến nay

  • Nguyễn Đức Hiệp. Cộng đồng người Ấn và thương mại ở Sài Gòn

  • Vũ Đức Liêm. Thủy quân và ngai vàng ở Việt Nam cuối thế kỷ XVIII: Kỷ nguyên của những con cắt biển

Thông báo

Tư vấn khoa học và kỹ năng nghiên cứu…

Tủ sách văn hoá học Sài Gòn

  • Thư viện ảnh
  • Thư viện video
  • Tủ sách VHH

Phóng sự ảnh: Toạ đàm khoa học: Xây dựng…

Hình ảnh văn hóa Tết xưa (sưu tầm)

Phóng sự ảnh: Lễ hội truyền thống VHH 2011

Phóng sự ảnh Lễ hội truyền thống VHH 2010

Thành phố Sankt-Peterburg, Nga

Bộ ảnh: Việt Nam quê hương tôi 2

Tranh Bùi Xuân Phái

Bộ tem tượng Phật chùa Tây Phương

Bộ ảnh: Đá cổ Sapa

Bộ ảnh: Phong cảnh thiên nhiên

Bộ ảnh: Việt Nam quê hương tôi

"Biển, đảo Việt Nam - Nguồn cội tự bao đời":…

Con dê trong văn hóa và văn hóa Việt Nam

Văn hóa Tết ở Tp.HCM (Chương trình truyền…

Văn hóa Tp. HCM: Một năm nhìn lại và động…

Phong tục Tết cổ truyền của người Nam Bộ

Bánh tét và Tết phương Nam

Con ngựa trong văn hóa và văn hóa Việt Nam

Điện Biên Phủ - Cuộc chiến giữa hổ và voi

Nhìn lại toàn cảnh thế giới từ 1911-2011…

Tọa độ chết - một bộ phim Xô-Việt xúc động…

Video: Lễ hội dân gian Việt Nam

Văn hoá Việt từ phong tục chúc Tết

Văn hoá Tết Việt qua video

Tết ông Táo từ góc nhìn văn hoá học

“Nếp nhà Hà Nội” trên “Nhịp cầu vàng”: tòa…

Văn hóa Thăng Long - Hà Nội qua video: từ…

Hướng về 1000 năm TL-HN: Xem phim “Tử Cấm…

Hướng về 1000 năm TL-HN: Người Thăng Long…

Phim "Chuyện tử tế" – tập 2 (?!) của “Hà…

Default Image

Hướng về 1000 năm TL-HN: "Chuyện tử tế" -…

Sách “Di sản Ấn Độ trong văn hóa Việt Nam”

Nguyễn Văn Bốn. Tín ngưỡng thờ Mẫu của người…

Sách: Quản lý và khai thác di sản văn hóa…

Hồ Sĩ Quý. Con người và phát triển con người

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 3

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 2

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 1

Hồ Sỹ Quý. Tiến bộ xã hội: một số vấn đề về…

Hồ Sỹ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á (Phụ…

Hồ Sỹ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á…

Hồ Sĩ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á…

Sách: Chuyên đề Văn hoá học

Sách: Một số vấn đề về hệ giá trị Việt Nam…

FitzGerald. Sự bành trướng của Trung Hoa…

Hữu Đạt. Đặc trưng ngôn ngữ và văn hoá giao…

Sống chụ son sao (Tiễn dặn người yêu)

Gs. Mai Ngọc Chừ. Số phận & Tâm linh

Trần Văn Cơ. Những khái niệm ngôn ngữ học…

Đoàn Văn Chúc. Văn hóa học (Phần 3 - hết)

Đoàn Văn Chúc. Văn hóa học (Phần 2)

Các nhà VHH nổi tiếng

Julian Haynes Steward

Wen Yi'duo (Văn Nhất Đa)

Leslie Alvin White

Huang Wen'shan (Hoàng Văn Sơn)

Radcliff-Brown, Alfred Reginald

Sapir, Edward

Margaret Mead

Thăm dò ý kiến

Bạn thích cuốn "Cơ sở văn hoá VN" của tác giả nào nhất?

Chu Xuân Diên - 4.8%
Lê Văn Chưởng - 0.9%
Trần Diễm Thuý - 1%
Trần Ngọc Thêm - 37.4%
Trần Quốc Vượng - 53%
The voting for this poll has ended on: 26 06, 2020

Tổng mục lục website

tong muc luc

Tủ sách VHH Sài Gòn

tu sach VHH SG

Thống kê truy cập

  • Đang online :
  • 332
  • Tổng :
  • 3 7 7 3 6 9 8 4
  • Đại học quốc gia TPHCM
  • Đại học KHXH&NV
  • Tran Ngoc Them
  • T.c Văn hóa-Nghệ thuật
  • Tc VHDG
  • Viện NCCN
  • Khoa Văn hóa học
  • Khoa Đông phương học
  • Phòng QLKH
  • Khoa Việt Nam học
  • Khoa Hàn Quốc học
  • BM Nhật Bản học
  • Khoa Văn học - Ngôn ngữ
  • Khoa triết học
  • Khoa Quan hệ quốc tế
  • Khoa Xã hội học
  • Bảo tàng Lịch sử - Văn hóa
  • viettems.com
  • myfaifo.com
Previous Next Play Pause

vanhoahoc.vn (các tên miền phụ: vanhoahoc.edu.vn ; vanhoahoc.net)
© Copyright 2007-2015. Bản quyền thuộc Trung tâm Văn hóa học Lý luận và Ứng dụng, Trường Đại học KHXH & NV - ĐHQG Tp. HCM
ĐT (028) 39104078; Email: ttvanhoahoc@hcmussh.edu.vn; ttvanhoahoc@gmail.com. Giấy phép: số 526/GP-BC, do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 27-11-2007
Ghi rõ nguồn vanhoahoc.vn khi phát hành lại các thông tin từ website này.

Website được phát triển bởi Nhà đăng ký tên miền chính thức Việt Nam trực thuộc Trung Tâm Internet VNNIC.

Văn hóa ứng xử với môi trường xã hội