logo

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
    • Thư ngỏ
    • Khái quát về Trung tâm
    • Nhân lực Trung tâm
      • Thành viên Trung tâm
      • Cộng tác viên
    • Giới thiệu Khoa Văn hóa học
      • Khái quát về Khoa
      • Nhân lực của Khoa
  • Tin tức
    • Tin nhà (Trung tâm)
    • Tin ngành
    • Tin liên quan
  • Đào tạo - Huấn luyện
    • Các chương trình
    • Tổ chức và Hiệu quả
    • Đào tạo ở Khoa VHH
      • Chương trình đào tạo
      • Kết quả đào tạo
  • Nghiên cứu
    • Lý luận văn hóa học
      • LLVHH: Những vấn đề chung
      • VHH: Phương pháp nghiên cứu
      • VHH: Các trường phái - trào lưu
      • Loại hình và phổ quát văn hóa
      • Các bình diện của văn hóa
      • Văn hóa học so sánh
      • Vũ trụ quan phương Đông
      • Văn hóa và phát triển
      • VHH và các khoa học giáp ranh
    • Văn hóa Việt Nam
      • VHVN: Những vấn đề chung
      • Văn hóa cổ-trung đại ở Viêt Nam
      • Văn hóa các dân tộc thiểu số
      • Văn hóa Nam Bộ
      • Văn hóa nhận thức
      • Văn hóa tổ chức đời sống tập thể
      • Văn hóa tổ chức đời sống cá nhân
      • Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên
      • Văn hóa ứng xử với môi trường xã hội
    • Văn hóa thế giới
      • VH Phương Đông: Những vấn đề chung
      • VH Phương Tây: Những vấn đề chung
      • Quan hệ văn hóa Đông - Tây
      • Văn hóa Trung Hoa và Đông Bắc Á
      • Văn hóa Đông Nam Á
      • Văn hóa Nam Á và Tây Nam Á
      • Văn hóa châu Âu
      • Văn hóa châu Mỹ
      • Văn hóa châu Phi và châu Úc
    • Văn hóa học ứng dụng
      • VHƯD: Những vấn đề chung
      • VHH nghệ thuật
      • Văn hóa đại chúng
      • Văn hóa giao tiếp
      • Văn hóa du lịch
      • Văn hóa đô thị
      • Văn hóa kinh tế
      • Văn hóa quản trị
      • Văn hóa giáo dục - khoa học
    • Tài liệu phổ cập VHH
      • Văn hóa Việt Nam
      • Văn hóa thế giới
      • VHH ứng dụng
    • Tài liệu tiếng nước ngoài
      • Theory of Culturology
      • Vietnamese Culture
      • Applied Culturology
      • Other Cultures
      • 中文
      • Pусский язык
    • Thư Viện Số (Sách - Ảnh - Video)
      • Tủ sách Văn hoá học
      • Thư viện ảnh
      • Thư viện video
    • Các nhà văn hóa học nổi tiếng
  • Tiện ích
    • Dịch vụ Văn hóa học
    • Dịch vụ ngoài VHH
    • Trợ giúp vi tính
    • Từ điển Văn hóa học
    • Thư viện TT và Khoa
    • Tổng mục lục website
    • Tủ sách VHH Sài Gòn
    • Giải đáp thắc mắc
  • Thư giãn VHH
    • Văn chương Việt Nam
    • Văn chương nước ngoài
    • Nghệ thuật Việt Nam
    • Nghệ thuật thế giới
    • Hình ảnh vui
    • Video vui
  • Diễn đàn
  • Liên hệ
  • Trang chủ
  • Nghiên cứu
  • Văn hóa Việt Nam
  • Văn hóa tổ chức đời sống tập thể
Thursday, 27 August 2015 07:44

Lê Thị Hồng Hải. Hệ giá trị gia đình Việt Nam hiện nay: sự tiếp nối và biến đổi

Người post bài:  Nguyễn Thị Tuyết Ngân

Additional Info

  • Tiêu đề:

    HỆ GIÁ TRỊ GIA ĐÌNH VIỆT NAM HIỆN NAY: SỰ TIẾP NỐI VÀ BIẾN ĐỔI
    (qua một cuộc khảo sát)

  • Tác giả:

    Lê Thị Hồng Hải

  • Chức danh:

    Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới, Hà Nội

Lê Thị Hồng Hải. Hệ giá trị gia đình Việt Nam hiện nay: sự tiếp nối và biến đổi

Trong bối cảnh toàn cầu hóa, nhất là trong bối cảnh môi trường khủng hoảng giá trị, nhiều tác giả cho rằng, thế giới đang đứng trước hai khuynh hướng: (1) là công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hướng theo những giá trị mới, (2) hậu hiện đại hóa với xu hướng tìm lại những giá trị truyền thống [Inglehart 2008; Putnam 1993; Fukuyama 1995]. Những khuynh hướng này không chỉ thể hiện ở nhóm, ở cộng đồng trong các sinh hoạt đời sống xã hội mà nó cũng thể hiện ở cả trong gia đình nói chung và gia đình Việt Nam nói riêng. Vào tháng 3 năm 2014, Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới đã tiến hành cuộc điều tra “Hệ giá trị gia đình Việt Nam dưới góc nhìn xã hội học” tại một phường trung tâm thành phố và một xã ở vùng nông thôn tỉnh Thái Bình với mẫu khảo sát gồm 281 gia đình thành thị và 299 gia đình nông thôn; tổng cộng là 580 người đại diện gia đình đã được phỏng vấn trực tiếp bằng bảng hỏi. Dựa trên kết quả của cuộc điều tra này, bài viết tìm hiểu và làm sáng tỏ hai khuynh hướng này trong gia đình Việt Nam hiện nay: (1) mở cửa, tiếp nhận những giá trị mới; (2) khôi phục, lưu giữ những giá trị truyền thống.

1. Cởi mở đón nhận cái mới - một biểu hiện trong sự biến đổi hệ giá trị gia đình

Trong công trình Hiện đại hóa và Hậu hiện đại hóa, nhà nghiên cứu Inglehart [2008] có nhận xét là biến đổi kinh tế mang đến những biến đổi chính trị và văn hóa... Công nghiệp hóa mang lại một sự chuyển dịch từ giá trị truyền thống sang giá trị lý tính mang tính bền vững. Phát triển kinh tế gắn kết rất lớn với sự biến đổi văn hóa tiên liệu được [Inglehart 2008: 14]. Chúng tôi nghĩ rằng nhận xét của Inglehart không chỉ đúng ở cấp độ quốc gia - dân tộc, mà còn đúng cả trong sự biến đổi hệ giá trị gia đình ở Việt Nam hiện nay, thể hiện trong cả đời sống vật chất và đời sống tình cảm.

Trong đời sống vật chất, tiện nghi sinh hoạt của các gia đình ở cả nông thôn và thành thị đều có những thay đổi lớn với những vật dụng hiện đại, phù hợp với thời đại và cuộc sống mới.

Nếu như trước đây, các gia đình sử dụng chủ yếu là rơm, rạ, than, củi lá cho việc đun nấu với những chiếc nồi nhọ đen thì ngày nay, hầu như tất cả các gia đình đều có nồi cơm điện và phần lớn đun nấu bằng khí gas. Tại địa bàn nghiên cứu, gần 100% gia đình sử dụng nồi cơm điện (98,8%) và có tới 94% gia đình có bếp gas. Các phương tiện truyền thông như tivi, các sản phẩm công nghệ thông tin (điện thoại di động, máy vi tính/internet) và các tiện nghi sinh hoạt hiện đại (tủ lạnh, máy giặt, bình nóng lạnh, nhà vệ sinh tự hoại)… đều đã xuất hiện trong phần lớn các gia đình tại địa bàn nghiên cứu. Đây đều là những sản phẩm của công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là những giá trị vật chất của xã hội hiện đại. Có thể nói, các gia đình ở địa phương khảo sát hiện nay đã tiếp cận được phần lớn những trang thiết bị, tiện nghi sinh hoạt hiện đại (xem biểu đồ 1, N=580).

Biểu đồ 1. Tỉ lệ các hộ gia đình sở hữu tiện nghi sinh hoạt hiện đại

Biểu đồ 1 đã cho thấy các tiện nghi sinh hoạt, mà xét về bản chất vốn là sản phẩm của thời kỳ công nghiệp hiện đại, đã được đại đa số các gia đình tiếp nhận và sử dụng. Điều cần nhấn mạnh là không chỉ có các gia đình ở đô thị mà cả các gia đình ở nông thôn, không chỉ các gia đình có mức sống khá giả mà cả các gia đình có mức sống trung bình, thậm chí là còn nghèo, đều đã sử dụng hoặc đang hướng theo các giá trị vật chất rất mới này.

Không chỉ dừng lại ở đời sống vật chất, sự biến đổi của hệ giá trị gia đình hiện nay còn thể hiện cả trong đời sống tinh thần và tình cảm của các thành viên. Chẳng hạn, nếu như trong đời sống gia đình Việt Nam trước đây chỉ quan tâm đến việc cúng giỗ cho những người đã mất, thì hiện nay việc tổ chức, kỷ niệm ngày sinh các thành viên của gia đình đang dần trở nên phổ biến. Tỉ lệ các gia đình tại địa bàn nghiên cứu có tổ chức kỷ niệm sinh nhật của con cái là 57,2%, thậm chí sinh nhật của vợ/chồng cũng được 20,3% gia đình thực hiện hàng năm. Có một sự chênh lệch nhất định giữa các thế hệ trong việc tổ chức kỷ niệm ngày sinh. Điều này cho thấy “sự biến đổi văn hóa cơ bản diễn ra vững chắc hơn ở bên trong các nhóm trẻ so với ở các nhóm lớn tuổi, từ đó dẫn tới những khác biệt giữa các thế hệ [Inglehart 2008: 49]. Kết quả tương quan hai biến cũng cho thấy có sự khác biệt rõ nét giữa các nhóm gia đình khác nhau trong việc tổ chức sinh nhật cho con. Gia đình có mức sống khá giả có tỉ lệ tổ chức sinh nhật cho con cao hơn gia đình ở mức sống trung bình và nghèo, tỉ lệ lần lượt là 81,1%; 56,2% và 38,0%. Gia đình ở thành thị cũng có tỉ lệ tổ chức sinh nhật cho con cao hơn so với gia đình nông thôn (74,1% so với 46,6%). Nhóm có độ tuổi thấp hơn hoặc có trình độ học vấn cao hơn cũng có tỉ lệ tổ chức sinh nhật cho con cao hơn.

Một trong những sự kiện trong đời sống tinh thần được phần lớn (61,2%) các gia đình tổ chức hàng năm đó là kỷ niệm ngày phụ nữ: 8-3 (ngày Quốc tế phụ nữ) và 20-10 (ngày phụ nữ Việt Nam). Đó là dịp người phụ nữ Việt Nam được tôn vinh không chỉ trong gia đình mà cả trong toàn xã hội. Điều này cho thấy đã có sự thay đổi đáng kể trong đời sống gia đình Việt Nam hiện nay khi vị thế, vai trò của người phụ nữ ngày càng được nhìn nhận, đánh giá cao. Nếu như trước đây, trong gia đình truyền thống, những hy sinh của người phụ nữ được coi là sự hy sinh thầm lặng và các thành viên gia đình mặc nhiên được thụ hưởng sự hy sinh đó thì ngày nay họ đã nhìn nhận và đánh giá đúng hơn công lao của những người phụ nữ trong gia đình. Có sự khác biệt lớn giữa các nhóm gia đình trong việc tổ chức kỷ niệm ngày phụ nữ hàng năm. Gia đình khá giả, gia đình ở thành thị có tỉ lệ tổ chức kỷ niệm ngày phụ nữ cao hơn. Nhóm học vấn càng cao thì tỉ lệ có tổ chức kỷ niệm ngày phụ nữ hàng năm trong gia đình càng cao (xem biểu đồ 2, N=580).

Biểu đồ 2. Tỉ lệ gia đình có tổ chức kỷ niệm ngày phụ nữ (8-3 và 20-10)

Bên cạnh việc kỷ niệm ngày sinh nhật, ngày quốc tế phụ nữ, thì trong thời gian nghỉ ngơi, thư giãn, 85% người trả lời cho biết họ có xem tivi, một phương tiện truyền thông khá phổ biến trong các gia đình Việt Nam hiện nay. Ngoài ra, người dân cũng có các hình thức thư giãn giải trí khá hiện đại khác như vào mạng internet (10,2%), nghe nhạc (14%). Việc tiếp cận với các sản phẩm công nghệ thông tin và sử dụng các tiện ích của nó như một hình thức giải trí quả thực là một hình thức hưởng thụ văn hóa rất mới mẻ trong đời sống gia đình Việt Nam hiện nay.

Tuy nhiên, những phát hiện quan trọng nhất của cuộc nghiên cứu này về sự vận hành của các giá trị mới nói riêng cũng như sự biến đổi hệ giá trị gia đình nói chung, là ở khía cạnh quan hệ gia đình. Ở một khía cạnh nào đó, có thể nói rằng “Hiện đại hóa phá hủy một thế giới truyền thống” [Inglehart 2008: 57] của gia đình Việt Nam bởi những thay đổi mạnh mẽ trong các giá trị về khuôn mẫu ứng xử giữa nam và nữ, giữa người già và người trẻ và thậm chí ở cả tiếng nói của trẻ em trong gia đình.

Thứ nhất, về quan hệ giữa nam giới và phụ nữ trong gia đình, có vẻ như quyền uy của người nam giới trong gia đình truyền thống đã không còn giữ được vị thế tuyệt đối trong gia đình Việt Nam hiện nay, vì sự bình đẳng nam nữ đang ngày càng được xã hội đón nhận. Thực tế cho thấy, 95,2% người tham gia trả lời cho rằng bình đẳng nam nữ là cần thiết và rất cần thiết trong ứng xử gia đình. Điều này gần như thay đổi hoàn toàn với quan niệm của ông cha ta trước đây khi cho rằng “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”. Tỉ lệ đánh giá này có sự khác biệt giữa các nhóm học vấn, độ tuổi và địa bàn khảo sát. Trong đó, học vấn càng cao, tỉ lệ ủng hộ càng cao. Độ tuổi càng cao tỉ lệ ủng hộ càng thấp. Tỉ lệ ủng hộ ở thành thị, và ở nhóm có mức sống khá giả cao hơn ở nông thôn và ở nhóm có mức sống nghèo. Inglehart cũng đã nói rằng: “Các vai trò về giới đối lập nhau một cách rõ rệt vốn là đặc tính của mọi xã hội tiền công nghiệp hầu như không thể tránh khỏi phải được thay thế bởi các vai trò về giới ngày càng giống nhau ở xã hội công nghiệp tiên tiến [Inglehart 2008: 29].

Thứ hai, về quyết định trong gia đình, trong xã hội truyền thống, người chồng là người toàn quyền từ việc lớn đến việc nhỏ, kể cả việc quản lý tài chính. Tuy nhiên, kết quả điều tra tại địa bàn nghiên cứu cho thấy điều này đã có sự thay đổi: tỉ lệ vợ chồng cùng quyết định ngang nhau những việc quan trọng chiếm đến 34,7%, trong khi tỉ lệ người chồng hoàn toàn quyết định chỉ chiếm 4,1%. Gắn liền với quyền quyết định của người chồng trong đời sống gia đình trước đây là quan niệm “nam tôn nữ ty”, tức là coi trọng con trai hơn con gái. Những gì tốt đẹp nhất sẽ được ưu tiên cho người con trai, từ cái ăn, cái mặc, và đặc biệt là việc học hành. Trong nhiều gia đình khó khăn, các trẻ em gái không được đến trường hoặc phải nghỉ học giữa chừng để nhường cơ hội cho các anh/em trai của mình đi học. Nhưng, hiện nay, 95,6% gia đình khẳng định không phân biệt con trai hay con gái mà họ đầu tư cho việc học của con theo sức học của trẻ.

Cũng tương tự, một điều đáng ghi nhận trong sự thay đổi trong hệ giá trị gia đình hiện nay là sự bình đẳng giữa người già và người trẻ. 90% người tham gia điều tra có ý kiến cho rằng việc ứng xử bình đẳng giữa người già và người trẻ trong gia đình là cần thiết và rất cần thiết. Cố nhiên, sự bình đẳng ở đây không có gì giống với sự cào bằng để trở thành “cá mè một lứa”. Sự bình đẳng ở đây chỉ hàm nghĩa là tôn trọng lẫn nhau về quan niệm và sự lựa chọn giá trị, sở thích, còn trong đời sống hàng ngày lớp trẻ vẫn kính trọng các thế hệ cha anh, còn các thế hệ cha anh vẫn yêu thương và bảo ban con trẻ.

Một khi quyền bình đẳng giữa nam và nữ, giữa già và trẻ bắt rễ sâu vào trong đời sống hiện thực, thì đương nhiên quyền tự do cá nhân của các thành viên gia đình cũng được tôn trọng. Điều này cho thấy có sự khác biệt lớn giữa gia đình Việt Nam truyền thống và gia đình hiện nay. Trong xã hội truyền thống, giá trị cộng đồng được coi là quan trọng nhất, gia đình là một cộng đồng và các thành viên gia đình “phải kìm nén, dập tắt những ý muốn, nguyện vọng riêng tư nếu nó trái với các chuẩn mực cộng đồng” và trong các ứng xử, trong mọi hành động, mọi quyết định của mình đều vì cộng đồng gia đình [Mai Huy Bích 1993]. Trong gia đình gia trưởng, con cái không được nhận xét, đánh giá hành vi của cha mẹ, mà phải mặc nhiên thừa nhận vô điều kiện rằng cha mẹ bao giờ cũng tuyệt đối đúng và họ có quyền tối cao đối với cuộc sống, tự do của con cái [Mai Huy Bích 1993]. Nhưng trong các gia đình Việt Nam hiện nay, các bậc cha mẹ đã có sự tôn trọng quyền tự do cá nhân của con cái thể hiện ở việc trao quyền cho con cái trong các quyết định hôn nhân và lựa chọn nghề nghiệp. Đối với việc hôn nhân, có 21,8% người tham gia điều tra cho biết con cái trong gia đình họ hoàn toàn quyết định. Trường hợp cha mẹ hoàn toàn quyết định chỉ chiếm 0,4%. Tỉ lệ con quyết định có tham khảo ý kiến cha mẹ là 77,1% so với 0,8% trường hợp cha mẹ quyết định có hỏi ý kiến con. Kết quả chạy tương quan hai biến cho thấy, tỉ lệ cha mẹ cao tuổi (từ 55 tuổi trở lên) cho biết con họ nắm quyền quyết định chính việc hôn nhân của mình là 98,3%, tỉ lệ này ở những nhóm tuổi dưới 55 đều là 100%. Cha mẹ có học vấn càng cao thì tỉ lệ con cái tự quyết định việc hôn nhân càng cao (100% ở nhóm cha mẹ học vấn từ trung học phổ thông trở lên; 98,2% ở nhóm cha mẹ có học vấn trung học cơ sở và 94,1% ở nhóm cha mẹ có trình độ tiểu học trở xuống). Tỉ lệ cha mẹ khá giả dành quyền quyết định hôn nhân cho con là 100%, ở nhóm nghèo 97,4%.

Cùng với việc hôn nhân, việc chọn nghề nghiệp của con hiện nay cũng do con quyết định là chính. Số liệu điều tra cho thấy có tới 17,2% con cái quyết định hoàn toàn so với 0,9% cha mẹ hoàn toàn quyết định. 75,7% con cái quyết định có tham khảo ý kiến cha mẹ so với 6,2% cha mẹ quyết định có bàn bạc, thuyết phục con cái. Điều này cũng thể hiện sự thay đổi đáng kể trong việc lựa chọn các khuôn mẫu ứng xử trong gia đình. Sự đối nghịch giữa hai câu thành ngữ “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” và “con cái đặt đâu cha mẹ ngồi đấy” đã nói lên rất nhiều về sự chuyển đổi này. Quyền quyết định lựa chọn nghề nghiệp của con cái cũng có sự khác biệt nhất định giữa các gia đình ở hai khu vực nông thôn và đô thị, cũng như ở các nhóm gia đình có mức sống, độ tuổi và trình độ học vấn khác nhau. Cha mẹ tuổi càng trẻ, học vấn càng cao thì tỉ lệ trao quyền quyết định cho con càng nhiều. Tỉ lệ con quyết định chính nghề nghiệp của mình ở các gia đình khu vực đô thị và gia đình có mức sống khá giả cao hơn so với con cái ở các gia đình khu vực nông thôn và ở các gia đình có mức sống thấp hơn. Tuy nhiên, sự chênh lệch là không đáng kể, dao động từ 87 đến 97%.

Sự thay đổi giá trị về quyền/quyền tự do của các thành viên trong gia đình không chỉ biểu hiện rõ ở việc trao quyền cho những người con lớn/trưởng thành trong các quyết định liên quan đến đời sống cá nhân, mà ngay cả với trẻ em nhỏ tuổi, xu hướng những bậc ông bà - cha mẹ công nhận quyền của các em cũng có những thay đổi rõ rệt. Kết quả điều tra cho thấy tỉ lệ người tham gia khẳng định trẻ em cũng có quyền của mình trong các ứng xử trong gia đình chiếm 95,2%, và không có sự khác biệt giữa nông thôn và thành thị trong việc ủng hộ giá trị này. Tỉ lệ người trả lời ở thành thị ủng hộ cao hơn không đáng kể so với tỉ lệ này ở nông thôn (96,1% so với 94,4%).

Tóm lại, xu hướng biến đổi giá trị của gia đình Việt Nam hiện nay là tiếp nhận giá trị mới của xã hội hiện đại hóa, công nghiệp hóa như tôn trọng quyền con người, tôn trọng tự do cá nhân, xóa bỏ sự khác biệt giới và sự phổ biến ưa thích những tiện nghi sinh hoạt hiện đại phục vụ cho đời sống vật chất và tinh thần của gia đình. Những biến đổi giá trị trong gia đình Việt Nam thể hiện những khác biệt theo thế hệ: lớp trẻ là thế hệ có những thay đổi rõ rệt hơn, đáng kể hơn so với lớp người thuộc thế hệ cha mẹ, ông bà họ, vì “họ không phải vượt qua sức đề kháng của kiến thức không phù hợp thu được trước đây” [Inglehart 2008: 49]. Những biến đổi giá trị trong các gia đình Việt Nam hiện nay cũng có sự khác biệt theo mức độ hiện đại hóa, mức độ phát triển theo khu vực sống. Cụ thể là có sự khác biệt giữa nông thôn và thành thị, giữa những nhóm có trình độ học vấn cao và nhóm có trình độ học vấn thấp, và giữa những nhóm có các mức sống khác nhau.

2. Khôi phục, lưu giữ những giá trị truyền thống

Các nhà lý thuyết hiện đại hóa cổ điển nghĩ rằng cùng với công nghiệp hóa và phát triển kinh tế, tôn giáo và truyền thống dân tộc sẽ mất hẳn, song bản thân nó lại chứng minh rằng nó vẫn hiện diện trên khắp thế giới [Inglehart 2008: 14]. Huntington (1996), Putnam (1993) và Fukuyama (1995) lập luận rằng ngày nay truyền thống văn hóa có sức sống đáng kể và nó định hình hành vi kinh tế và chính trị trong xã hội [dẫn theo Inglehart 2008: 15].

Cũng theo Inglehart, hậu hiện đại là quá trình lập lại giá trị truyền thống. Điều đó đã đảo ngược một trong những khuynh hướng nổi bật nhất gắn với hiện đại hóa. Thời kỳ đầu hiện đại hóa, những thành tựu về khoa học và công nghiệp đã tạo nên một huyền thoại về tiến bộ và sự mất lòng tin về cơ bản đối với truyền thống. Nhưng gần đây, tính hợp lý về công cụ của hiện đại không được tin cậy, mở ra con đường cho truyền thống giành lại địa vị và tạo ra nhu cầu về một huyền thoại hợp thức mới. Trong thế giới quan hậu hiện đại, truyền thống một lần nữa lại có giá trị tích cực. Nhưng trả lại giá trị cho truyền thống là một quá trình chọn lọc gắt gao [Inglehart 2008: 61].

Gia đình Việt Nam đã trải qua nhiều biến động cùng với những thay đổi của kinh tế, chính trị. Gia đình Việt Nam đã tiếp nhận những giá trị mới được cho là tiến bộ phù hợp với thời đại như bình đẳng giới, quyền cá nhân, quyền trẻ em cũng như các tiện nghi hiện đại. Tuy nhiên, bên cạnh đó, những giá trị truyền thống cũng vẫn được lưu giữ và thậm chí đang lấy lại vị thế ngày càng mạnh mẽ. Đúng như Inglehart từng nói “Tư tưởng hậu hiện đại là sự lập lại giá trị của truyền thống vì hiện đại hóa đã làm cho truyền thống mất đi giá trị ghê gớm nên sự thoái vị của nó mở đường cho quá trình lập lại giá trị này [Inglehart 2008: 56].

Những giá trị trong đời sống vật chất

Những vật dụng gia đình gắn liền với văn hóa truyền thống như sập gụ, tủ chè/tủ thờ, bàn trà và tràng kỷ vẫn được lưu giữ ở một số gia đình tại địa phương tiến hành nghiên cứu. Tỉ lệ gia đình có tủ chè/bàn thờ là 52,2%; có bàn trà là 65,3%; có sập gụ là 4% và có tràng kỷ là 3%.

Những giá trị trong đời sống tinh thần - tâm linh

Các hình thức tưởng nhớ đến những người đã mất hay các nghi lễ trong các dịp tuần tiết sóc vọng vẫn được lưu giữ trong các gia đình Việt Nam trong thời kỳ hiện đại ngày nay. Điều này thể hiện khá rõ trong tỉ lệ khá cao các hộ gia đình tại địa bàn nghiên cứu có thực hành các lễ - tết hàng năm trong gia đình.

Biểu đồ 3. Tỉ lệ gia đình thực hành các lễ - tết trong năm

         Những giá trị trong quan hệ gia đình - dòng họ

Trong quan hệ cha mẹ con cái, giá trị truyền thống “Cha mẹ nhân từ, con cháu hiếu thảo (Cha từ con hiếu)” - của gia đình Việt Nam vẫn còn nguyên giá trị với 96% người tham gia nghiên cứu khẳng định đúng hoàn toàn và 4% cho rằng đúng một phần.

Trong quan hệ anh em, giá trị “Anh độ lượng, em lễ phép” cũng được hầu hết người tham gia điều tra khẳng định là vẫn còn đúng với tỉ lệ 99,1% (trong đó 88,1% cho là đúng hoàn toàn và đúng một phần là 11%).

Sự gắn kết giữa ông bà cha mẹ và con cháu; sự kế thừa, tiếp nhận những hệ quả của thế hệ sau với thế hệ trước qua câu dặn cha mẹ ông bà rằng “Ăn ở hiền lành để phúc cho con cháu” vẫn còn nguyên giá trị trong các gia đình tại địa bàn nghiên cứu với 90% số người được phỏng vấn cho đó là điều quan trọng.

Những giá trị gắn kết bao đời nay trong quan hệ dòng họ vẫn được lưu giữ trong các gia đình tại địa bàn nghiên cứu. Tỉ lệ những người tham gia điều tra cho biết thường xuyên tham gia giỗ tổ họ là 82,9%; thường xuyên tham gia các việc hiếu, hỉ trong họ là 89% và thường xuyên tham gia hội họp trong họ là 76%.

Bàn luận và kết luận

Sự vận hành và biến đổi của gia đình Việt Nam dường như đã khẳng định những nhận định của Inglehart về giá trị và sự biến đổi giá trị trong quá trình phát triển của xã hội. Một mặt, tiếp nhận những giá trị mới của một xã hội hiện đại hóa, công nghiệp hóa như tôn trọng quyền con người, tôn trọng tự do cá nhân, xóa bỏ sự khác biệt giới cùng với những tiện nghi hiện đại. Mặt khác, những giá trị truyền thống tốt đẹp vẫn được lưu giữ, thậm chí đang ngày càng được phục hưng.

Những biến đổi giá trị của gia đình Việt Nam cũng thể hiện những khác biệt theo thế hệ. Lớp trẻ được cho là có những thay đổi rõ rệt hơn, đáng kể hơn so với lớp người có tuổi thuộc thế hệ cha mẹ, ông bà họ.

Những biến đổi giá trị trong các gia đình cũng có sự khác biệt theo mức độ hiện đại hóa, mức độ phát triển. Cụ thể là có sự khác biệt giữa nông thôn và thành thị, giữa những nhóm có trình độ học vấn cao và nhóm có trình độ học vấn thấp.

Việc nắm được những xu hướng biến đổi của gia đình giúp chúng ta có cái nhìn lạc quan hơn với những thay đổi của xã hội hiện nay nói chung và những thay đổi trong đời sống gia đình nói riêng. Từ đó, có cách xử lý thoả đáng với những diễn biến trong đời sống hàng ngày. Không quá bi quan trước những thay đổi và cũng không quá hoang mang trước những cái được lưu giữ. Tất cả đều vận hành theo quy luật của nó, đó là cuộc chiến, cuộc cạnh tranh hay, nói cách khác, là “sự thanh lọc gay gắt”. Cái gì là giá trị sẽ trường tồn. Gia đình Việt Nam một mặt hướng đến những giá trị mới, hiện đại nhằm tạo nên gia đình tiến bộ, hạnh phúc và mặt khác vẫn giữ gìn và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp.

Tài liệu tham khảo và trích dẫn

1.      Đảng CSVN 1998: Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương khóa VIII Đảng Cộng sản Việt Nam. - H.: NXB Chính trị Quốc gia.

2.      Inglehart R. 2008: Hiện đại hóa và hậu hiện đại hóa. - H.: NXB Chính trị Quốc gia.

3.      Lê Ngọc Văn 2011: Gia đình và biến đổi gia đình ở Việt Nam. - H.: NXB Khoa học xã hội.

4.      Mai Huy Bích 1993: Đặc điểm gia đình đồng bằng sông Hồng. - H.: NXB Văn hóa - Thông tin.

5.      Nguyễn Từ Chi 2004: Góp phần nghiên cứu văn hóa tộc người. – H.: NXB Văn hóa dân tộc.

Nguồn: Bài viết tham gia hội thảo “Hệ giá trị Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”. Kỷ yếu hội thảo in thành sách “Một số vấn đề về hệ giá trị Việt Nam trong giai đoạn hiện tại”

Lên trên

Cùng chủ đề

  • Nguyễn Huy Phòng. Vai trò của văn hóa công sở với sự phát triển nền hành chính công vụ ở nước ta hiện nay

  • Phan Xuân Sơn, Nguyễn Thị Thanh Dung. Các yếu tố văn hóa - tâm lý trong quản lý và giải tỏa xung đột xã hội

  • Nguyễn Nhâm, Lê Thị Tình. Cách mạng công nghiệp 4.0 - Cơ hội để Việt Nam “đi tắt, đón đầu”

  • Lương Thanh Cường. Văn hóa công vụ và bồi dưỡng văn hóa công vụ ở nước ta hiện nay

  • Lê Xuân Hậu. Đình làng của người Việt ở Đồng Nai

Thông báo

Tư vấn khoa học và kỹ năng nghiên cứu…

Tủ sách văn hoá học Sài Gòn

  • Thư viện ảnh
  • Thư viện video
  • Tủ sách VHH

Phóng sự ảnh: Toạ đàm khoa học: Xây dựng…

Hình ảnh văn hóa Tết xưa (sưu tầm)

Phóng sự ảnh: Lễ hội truyền thống VHH 2011

Phóng sự ảnh Lễ hội truyền thống VHH 2010

Thành phố Sankt-Peterburg, Nga

Bộ ảnh: Việt Nam quê hương tôi 2

Tranh Bùi Xuân Phái

Bộ tem tượng Phật chùa Tây Phương

Bộ ảnh: Đá cổ Sapa

Bộ ảnh: Phong cảnh thiên nhiên

Bộ ảnh: Việt Nam quê hương tôi

"Biển, đảo Việt Nam - Nguồn cội tự bao đời":…

Con dê trong văn hóa và văn hóa Việt Nam

Văn hóa Tết ở Tp.HCM (Chương trình truyền…

Văn hóa Tp. HCM: Một năm nhìn lại và động…

Phong tục Tết cổ truyền của người Nam Bộ

Bánh tét và Tết phương Nam

Con ngựa trong văn hóa và văn hóa Việt Nam

Điện Biên Phủ - Cuộc chiến giữa hổ và voi

Nhìn lại toàn cảnh thế giới từ 1911-2011…

Tọa độ chết - một bộ phim Xô-Việt xúc động…

Video: Lễ hội dân gian Việt Nam

Văn hoá Việt từ phong tục chúc Tết

Văn hoá Tết Việt qua video

Tết ông Táo từ góc nhìn văn hoá học

“Nếp nhà Hà Nội” trên “Nhịp cầu vàng”: tòa…

Văn hóa Thăng Long - Hà Nội qua video: từ…

Hướng về 1000 năm TL-HN: Xem phim “Tử Cấm…

Hướng về 1000 năm TL-HN: Người Thăng Long…

Phim "Chuyện tử tế" – tập 2 (?!) của “Hà…

Default Image

Hướng về 1000 năm TL-HN: "Chuyện tử tế" -…

Sách “Di sản Ấn Độ trong văn hóa Việt Nam”

Nguyễn Văn Bốn. Tín ngưỡng thờ Mẫu của người…

Sách: Quản lý và khai thác di sản văn hóa…

Hồ Sĩ Quý. Con người và phát triển con người

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 3

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 2

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 1

Hồ Sỹ Quý. Tiến bộ xã hội: một số vấn đề về…

Hồ Sỹ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á (Phụ…

Hồ Sỹ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á…

Hồ Sĩ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á…

Sách: Chuyên đề Văn hoá học

Sách: Một số vấn đề về hệ giá trị Việt Nam…

FitzGerald. Sự bành trướng của Trung Hoa…

Hữu Đạt. Đặc trưng ngôn ngữ và văn hoá giao…

Sống chụ son sao (Tiễn dặn người yêu)

Gs. Mai Ngọc Chừ. Số phận & Tâm linh

Trần Văn Cơ. Những khái niệm ngôn ngữ học…

Đoàn Văn Chúc. Văn hóa học (Phần 3 - hết)

Đoàn Văn Chúc. Văn hóa học (Phần 2)

Các nhà VHH nổi tiếng

Julian Haynes Steward

Wen Yi'duo (Văn Nhất Đa)

Leslie Alvin White

Huang Wen'shan (Hoàng Văn Sơn)

Radcliff-Brown, Alfred Reginald

Sapir, Edward

Margaret Mead

Thăm dò ý kiến

Bạn thích cuốn "Cơ sở văn hoá VN" của tác giả nào nhất?

Chu Xuân Diên - 4.8%
Lê Văn Chưởng - 0.9%
Trần Diễm Thuý - 1%
Trần Ngọc Thêm - 37.4%
Trần Quốc Vượng - 53%
The voting for this poll has ended on: 26 06, 2020

Tổng mục lục website

tong muc luc

Tủ sách VHH Sài Gòn

tu sach VHH SG

Thống kê truy cập

  • Đang online :
  • 491
  • Tổng :
  • 3 7 7 1 8 0 9 0
  • Đại học quốc gia TPHCM
  • Đại học KHXH&NV
  • Tran Ngoc Them
  • T.c Văn hóa-Nghệ thuật
  • Tc VHDG
  • Viện NCCN
  • Khoa Văn hóa học
  • Khoa Đông phương học
  • Phòng QLKH
  • Khoa Việt Nam học
  • Khoa Hàn Quốc học
  • BM Nhật Bản học
  • Khoa Văn học - Ngôn ngữ
  • Khoa triết học
  • Khoa Quan hệ quốc tế
  • Khoa Xã hội học
  • Bảo tàng Lịch sử - Văn hóa
  • viettems.com
  • myfaifo.com
Previous Next Play Pause

vanhoahoc.vn (các tên miền phụ: vanhoahoc.edu.vn ; vanhoahoc.net)
© Copyright 2007-2015. Bản quyền thuộc Trung tâm Văn hóa học Lý luận và Ứng dụng, Trường Đại học KHXH & NV - ĐHQG Tp. HCM
ĐT (028) 39104078; Email: ttvanhoahoc@hcmussh.edu.vn; ttvanhoahoc@gmail.com. Giấy phép: số 526/GP-BC, do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 27-11-2007
Ghi rõ nguồn vanhoahoc.vn khi phát hành lại các thông tin từ website này.

Website được phát triển bởi Nhà đăng ký tên miền chính thức Việt Nam trực thuộc Trung Tâm Internet VNNIC.

Văn hóa tổ chức đời sống tập thể