logo

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
    • Thư ngỏ
    • Khái quát về Trung tâm
    • Nhân lực Trung tâm
      • Thành viên Trung tâm
      • Cộng tác viên
    • Giới thiệu Khoa Văn hóa học
      • Khái quát về Khoa
      • Nhân lực của Khoa
  • Tin tức
    • Tin nhà (Trung tâm)
    • Tin ngành
    • Tin liên quan
  • Đào tạo - Huấn luyện
    • Các chương trình
    • Tổ chức và Hiệu quả
    • Đào tạo ở Khoa VHH
      • Chương trình đào tạo
      • Kết quả đào tạo
  • Nghiên cứu
    • Lý luận văn hóa học
      • LLVHH: Những vấn đề chung
      • VHH: Phương pháp nghiên cứu
      • VHH: Các trường phái - trào lưu
      • Loại hình và phổ quát văn hóa
      • Các bình diện của văn hóa
      • Văn hóa học so sánh
      • Vũ trụ quan phương Đông
      • Văn hóa và phát triển
      • VHH và các khoa học giáp ranh
    • Văn hóa Việt Nam
      • VHVN: Những vấn đề chung
      • Văn hóa cổ-trung đại ở Viêt Nam
      • Văn hóa các dân tộc thiểu số
      • Văn hóa Nam Bộ
      • Văn hóa nhận thức
      • Văn hóa tổ chức đời sống tập thể
      • Văn hóa tổ chức đời sống cá nhân
      • Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên
      • Văn hóa ứng xử với môi trường xã hội
    • Văn hóa thế giới
      • VH Phương Đông: Những vấn đề chung
      • VH Phương Tây: Những vấn đề chung
      • Quan hệ văn hóa Đông - Tây
      • Văn hóa Trung Hoa và Đông Bắc Á
      • Văn hóa Đông Nam Á
      • Văn hóa Nam Á và Tây Nam Á
      • Văn hóa châu Âu
      • Văn hóa châu Mỹ
      • Văn hóa châu Phi và châu Úc
    • Văn hóa học ứng dụng
      • VHƯD: Những vấn đề chung
      • VHH nghệ thuật
      • Văn hóa đại chúng
      • Văn hóa giao tiếp
      • Văn hóa du lịch
      • Văn hóa đô thị
      • Văn hóa kinh tế
      • Văn hóa quản trị
      • Văn hóa giáo dục - khoa học
    • Tài liệu phổ cập VHH
      • Văn hóa Việt Nam
      • Văn hóa thế giới
      • VHH ứng dụng
    • Tài liệu tiếng nước ngoài
      • Theory of Culturology
      • Vietnamese Culture
      • Applied Culturology
      • Other Cultures
      • 中文
      • Pусский язык
    • Thư Viện Số (Sách - Ảnh - Video)
      • Tủ sách Văn hoá học
      • Thư viện ảnh
      • Thư viện video
    • Các nhà văn hóa học nổi tiếng
  • Tiện ích
    • Dịch vụ Văn hóa học
    • Dịch vụ ngoài VHH
    • Trợ giúp vi tính
    • Từ điển Văn hóa học
    • Thư viện TT và Khoa
    • Tổng mục lục website
    • Tủ sách VHH Sài Gòn
    • Giải đáp thắc mắc
  • Thư giãn VHH
    • Văn chương Việt Nam
    • Văn chương nước ngoài
    • Nghệ thuật Việt Nam
    • Nghệ thuật thế giới
    • Hình ảnh vui
    • Video vui
  • Diễn đàn
  • Liên hệ
  • Trang chủ
  • Nghiên cứu
  • Văn hóa Việt Nam
  • VHVN: Những vấn đề chung
Tuesday, 29 December 2015 08:26

Lê Thị Hồng Quyên. Khủng hoảng thị hiếu thẩm mỹ - một biểu hiện của khủng hoảng hệ giá trị dân tộc

Người post bài:  Nguyễn Thị Tuyết Ngân

Additional Info

  • Tiêu đề:

    KHỦNG HOẢNG THỊ HIẾU THẨM MỸ
    MỘT BIỂU HIỆN CỦA KHỦNG HOẢNG HỆ GIÁ TRỊ DÂN TỘC

  • Tác giả:

    ThS. Lê Thị Hồng Quyên

  • Chức danh:

    Trường Đại học Văn hóa TP. Hồ Chí Minh

Lê Thị Hồng Quyên. Khủng hoảng thị hiếu thẩm mỹ - một biểu hiện của khủng hoảng hệ giá trị dân tộc

Sự khủng hoảng thị hiếu thẩm mỹ ở Việt Nam hiện nay do nhiều nguyên nhân nhưng có thể nói, ít nhiều bắt nguồn từ sự khủng hoảng của bảng thang giá trị dân tộc. Có sự mâu thuẫn ngay từ những giá trị truyền thống, có sự mâu thuẫn giữa cái cũ và cái mới… khiến cho văn hóa Việt Nam dường như đang ở vào một giai đoạn phi chuẩn mực. Từ một góc nhìn mang tính khái quát, chúng tôi mong muốn đóng góp thêm một tiếng nói vào việc xem xét xây dựng lại hệ giá trị dân tộc, một lời giải cho bài toán khủng hoảng thị hiếu thẩm mỹ ở Việt Nam hiện nay.

1. Thực trạng khủng hoảng thị hiếu thẩm mỹ ở Việt Nam hiện nay

Thị hiếu, theo Từ điển Tiếng Việt, là “xu hướng ham thích một lối, một kiểu nào đó đối với những thứ sử dụng hoặc thưởng thức hàng ngày” [Hoàng Phê (cb) 1998: 905]. Hiểu một cách khái quát, thị hiếu là sở thích, sự lựa chọn của cá nhân hay cộng đồng trong một thời gian, không gian văn hóa - xã hội nhất định. Thị hiếu có thể xuất phát từ những nhu cầu lành mạnh, cũng có thể xuất phát từ những nhu cầu thấp hèn. Vì vậy, nói đến thị hiếu là đề cập đến một vấn đề phức tạp, nhất là trong bối cảnh kinh tế ngày càng phát triển và con người ngày càng có nhiều hơn sự lựa chọn cho các nhu cầu vật chất và tinh thần của mình.

Thị hiếu thẩm mỹ là “sở thích của con người về phương diện thẩm mỹ. Đó là tình cảm thẩm mỹ của con người trước cái đẹp, cái xấu, cái bi, cái hài, cái trác tuyệt trong cuộc sống và trong nghệ thuật” [Đỗ Văn Khang, Đỗ Huy 1985: 192]. Thị hiếu thẩm mỹ là một “phạm trù biểu hiện” [Phạm Ngọc Trung 2012: 150] của quan hệ thẩm mỹ trong mối quan hệ giữa con người và hiện thực khách quan được thể hiện trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống.

Thị hiếu thẩm mỹ một mặt mang tính chất riêng, cá nhân nhưng mặt khác lại bắt nguồn từ cái chung, hình thành từ chuẩn mực xã hội, giá trị xã hội ở mỗi nền văn hóa. Thị hiếu thẩm mỹ là sự phản ánh đời sống thẩm mỹ của con người trong một cộng đồng nhất định. Nó thể hiện nhu cầu hướng đến cái đẹp của con người thông qua các phương diện khác nhau trong đời sống xã hội. Chính vì vậy, có sự thống nhất biện chứng hữu cơ giữa tính cá nhân và tính cộng đồng, giữa cảm tính và lý tính trong thị hiếu thẩm mỹ.

Thị hiếu thẩm mỹ có mối liên hệ mật thiết với giá trị thẩm mỹ – sự đánh giá của con người đối với hiện thực. Sự đánh giá ấy một mặt được quy định bởi tính chất của đối tượng; mặt khác tuỳ thuộc vào chủ thể thẩm mỹ trong quá trình hoạt động thực tiễn. Bởi chính thông qua hoạt động thực tiễn, sự đánh giá thẩm mỹ luôn phản ánh những nhu cầu, lợi ích, lý tưởng thẩm mỹ, thể hiện ở tính mục đích của chủ thể đánh giá. Việc xác định mức độ hoàn thiện và ý nghĩa thẩm mỹ của đối tượng được thể hiện ở tính phong phú, đa dạng và toàn diện, hệ thống của các thuộc tính, những mối liên hệ trong các hiện tượng thẩm mỹ được chủ thể đánh giá, thẩm định thông qua hệ chuẩn thẩm mỹ nhất định. Từ sự rèn luyện, tích lũy và những trải nghiệm vừa mang tính cá nhân vừa mang tính cộng đồng, thị hiếu thẩm mỹ trở thành những giá trị thẩm mỹ, chi phối một cách tức thời đến chủ thể thẩm mỹ. Nói cách khác, giá trị thẩm mỹ vừa mang tính khách quan vừa mang tính chủ quan. Đặc trưng này chi phối rất lớn đến thị hiếu thẩm mỹ. Về cơ bản, thị hiếu thẩm mỹ không phải là cái tự nhiên, sẵn có, bẩm sinh mà nó được xây dựng, biểu hiện thông qua năng lực thực tiễn, năng lực cải tạo xã hội và năng lực cải tạo chính bản thân mình của con người. Nghĩa là đời sống xã hội có ảnh hưởng vô cùng to lớn đến sự hình thành và phát triển, đến tính chất cũng như mức độ đúng - sai, tích cực - tiêu cực của thị hiếu thẩm mỹ. Điều này cũng có nghĩa thị hiếu thẩm mỹ không phải là cái hoàn toàn không giải thích được mà nó bắt nguồn từ cuộc sống, từ môi trường tự nhiên, môi trường xã hội. Chính sự phản ánh một cách mau lẹ trước hoàn cảnh xã hội khiến cho thị hiếu thẩm mỹ luôn có xu hướng tìm đến cái mới.

Tuy nhiên, điều kiện khách quan không phải là cơ sở duy nhất của việc hình thành thị hiếu thẩm mỹ, bởi thị hiếu thẩm mỹ thuộc về con người, do đó bao giờ cũng mang tính chủ quan. Sự thâu tóm những giá trị khách quan thông qua sự rèn luyện, nhu cầu thẩm mỹ mang tính chủ quan đã làm cho thị hiếu thẩm mỹ trở thành một vấn đề phức tạp và nhiều chiều. Thực tế cho thấy có những hiện tượng mà dân tộc này cho là đẹp, dân tộc khác lại cho là không. Chính tính chủ quan của thị hiếu thẩm mỹ đã khiến cho yếu tố này vừa mang hơi thở của thời đại vừa mang tính dân tộc sâu sắc.

Ngày nay, quan niệm về thị hiếu thẩm mỹ không chỉ bó hẹp trong lĩnh vực văn hóa - nghệ thuật mà còn mở rộng ra trên hầu hết các phương diện, lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, “thẩm mỹ trong xây dựng, trang trí nội thất nhà ở, quán cà phê, cửa hàng, tiệm ăn... Nhất là trong "ngôn ngữ giao tiếp" và "ứng xử văn hóa" [Nguyễn Thị Hậu 2013]… cho thấy khái niệm thị hiếu thẩm mỹ đang dần được con người tiếp cận rất gần với khái niệm văn hóa.

Trong xu thế toàn cầu hóa mạnh mẽ như hiện nay, mọi quốc gia dân tộc đang đứng trước bài toán giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc, trong đó có văn hóa. Toàn cầu hóa được xem như tấm gương phản chiếu, chi phối toàn diện đến cấu trúc của văn hóa, tác động đến mọi yếu tố nhỏ nhất của văn hóa. Tuy nhiên, sự phản chiếu ở mỗi cộng đồng lại không giống nhau, yêu cầu các quốc gia phải sắp xếp lại hệ giá trị dân tộc. Sự phản chiếu này thể hiện rõ ở cả phong tục, thói quen, nếp sống, lối sống, quan niệm… Bởi trong xu thế toàn cầu hóa, giao lưu văn hóa diễn ra như một quy luật tất yếu của đời sống văn hóa. Nó mang đến sự dung hợp, tổng hợp của các yếu tố văn hóa khác nhau từ các nền văn hóa khác nhau. Thị hiếu thẩm mỹ cũng không nằm ngoài quy luật này. Ngạn ngữ Ấn Độ có câu: “Khi ta mở cửa hưởng luồng gió mới thì ánh sáng và cát bụi cũng theo nhau vào”. Có nghĩa là việc mở cửa đồng thời cũng là sự tiếp nhận cả hai luồng: ánh sáng (tích cực) và cát bụi (tiêu cực). Việc mở cửa đón nhận nhiều luồng văn hóa, tư tưởng khác nhau ở nước ta hiện nay đã dẫn đến hiện tượng đan xen, chồng lấn, mâu thuẫn, thậm chí là tranh giành ảnh hưởng lẫn nhau giữa các luồng văn hóa. Hiện tượng sùng bài văn hóa nước ngoài, từ cách ăn mặc, nói năng, cư xử, lối sống, quan niệm… đến các hiện tượng phim ảnh, ca nhạc, thần tượng… ở một bộ phận không nhỏ giới trẻ hiện nay là một minh chứng cho điều đó. Nó cho thấy sự khủng hoảng trong năng lực thẩm mỹ của giới trẻ hiện nay được thể hiện thông qua cách cảm nhận, thưởng thức, đánh giá các giá trị văn hóa, giá trị thẩm mỹ; làm thay đổi quan niệm về chân-thiện-mỹ theo cách hiểu truyền thống. Có thể nói, cái chung và cái riêng, cá nhân và cộng đồng chưa tìm được tiếng nói chung trong vấn đề thị hiếu thẩm mỹ ngày nay. Hiện tượng giới trẻ “mê” phim, thời trang Hàn Quốc, chạy theo những giá trị văn hóa phương Tây, đi ngược lại thuần phong mỹ tục đang dần trở nên phổ biến, thậm chí có nguy cơ lấn át những giá trị văn hóa dân tộc. Không ít bạn trẻ bắt đầu có tư tưởng bài xích những giá trị văn hóa truyền thống dân tộc. Bài toán mâu thuẫn giữa cái mới và cái cũ, giữa hiện đại và truyền thống, giữa phương Đông và phương Tây… được đặt ra như là một trong những vấn đề cơ bản nhất của đời sống văn hóa hiện nay. Sự mâu thuẫn này thể hiện ngay trong từng gia đình với các thế hệ khác nhau, với cách cảm nhận, đánh giá, thưởng thức, quan niệm về thẩm mỹ cũng khác nhau. “Trong xã hội Việt Nam đã xuất hiện những thị hiếu không lành mạnh ở một bộ phận dân cư sống theo kiểu “trưởng giả học làm sang”, tiêu dùng nghệ thuật một cách khoe khoang, kệch cỡm... ” [Phạm Ngọc Trung 2012: 163]. Chính sự biến đổi của thị hiếu thẩm mỹ đã góp phần “đào sâu” hơn những khoảng trống giữa các thế hệ vốn đang là bài toán nhức nhối của văn hóa Việt Nam thời kỳ đổi mới. Văn kiện Hội nghị lần thứ V của Ban chấp hành Trung ương khoá VIII Đảng CCSVN đã viết: “Tệ sùng bái nước ngoài, coi thường những giá trị văn học dân tộc, chạy theo lối sống thực dụng, cá nhân, vị kỷ… đang gây hại đến thuần phong mỹ tục của dân tộc”. Điều này đặt ra yêu cầu xác định lại các giá trị văn hóa trong thời kỳ mới trong mối quan thống nhất biện chứng giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại.

2. Nhu cầu xây dựng lại hệ giá trị dân tộc – lời giải cho bài toán khủng hoảng thị hiếu thẩm mỹ ở Việt Nam hiện nay

“Giá trị văn hóa của mỗi cộng đồng (tộc người, quốc gia...) bao giờ cũng tạo nên một hệ thống, với ý nghĩa là các giá trị ấy nảy sinh, tồn tại trong sự liên hệ, tác động hữu cơ với nhau. Chúng ta nói hệ giá trị (Value System) hay bảng giá trị văn hóa của mỗi cộng đồng thì thường hàm hai ý nghĩa: (1) Các giá trị riêng lẻ liên kết nhau tạo nên một hệ thống các giá trị, (2) Có sự sắp đặt trước sau, độ nhấn về tầm quan trọng của từng nhân tố giá trị trong một bảng giá trị” [Ngô Đức Thịnh 2011]. Như vậy, có thể hiểu, hệ giá trị là sự tương tác biện chứng giữa các giá trị văn hóa, trong đó có những giá trị được xem là giá trị chính, làm nền tảng, cơ sở và tạo thành gốc rễ bền vững của bản sắc văn hóa dân tộc, chi phối và định hướng toàn bộ hoạt động của con người trong nền văn hóa đó; có những giá trị phụ, phái sinh, có thể phai nhạt và mất đi trong những điều kiện lịch sử nhất định. Trong phạm vi bài viết này chúng tôi bước đầu tìm hiểu, lý giải mối quan hệ giữa hệ giá trị văn hóa và thị hiếu thẩm mỹ từ đó nhìn nhận ở mức độ khái quát những nguyên nhân của thực trạng khủng hoảng thị hiếu thẩm mỹ ở nước ta hiện nay. Để tìm hiểu về mối quan hệ này, chúng tôi bắt đầu từ một vấn đề cơ bản của lý luận văn hóa: đó là cấu trúc của văn hóa.

Cũng như bất kì sự vật hiện tượng nào khác, văn hóa cũng có cấu trúc riêng của nó. Đã có rất nhiều quan niệm trình bày về vấn đề này. Ở đây chúng tôi xin sử dụng quan niệm của GS. Phạm Đức Dương khi cho rằng cấu trúc của văn hóa bao gồm cơ tầng và biểu tầng trong đó biểu tầng là yếu tố biến số (luôn biến đổi) còn cơ tầng là yếu tố hằng số (ít biến đổi) và chi phối sự biến đổi của biểu tầng. “Cấu trúc bề mặt bao gồm tất cả các hệ thống ký hiệu văn hóa nằm trên biểu tầng (tức là những biểu hiện văn hóa) được thay đổi liên tục. Ta gọi đó là những biến số, là yếu tố động của văn hóa. Đó chính là đời sống văn hóa của một cộng đồng người nhất định. Cấu trúc chiều sâu là bộ phận chìm khó nhìn thấy nằm dưới cơ tầng (tức là nằm trong tâm thức của con người), là yếu tố tĩnh của văn hóa. Đó chính là những hệ giá trị văn hóa” [Phạm Đức Dương 2013: 105] (x. hình 1).

Ở cấu trúc bề mặt chúng ta thấy mọi sự sáng tạo văn hóa đều được thực hiện thông qua các hoạt động xã hội của con người. Văn hóa như là những gì diễn ra hàng ngày trong cuộc sống và, vì thế, hoạt động văn hóa được bao chứa trong các hoạt động xã hội cũng như hoạt động chính trị, kinh tế…

Ở cấu trúc chiều sâu, văn hóa với những hệ giá trị của nó sẽ là động lực, là cái gốc điều chỉnh mọi sinh hoạt đời sống và giữ tính liên tục và ổn định xã hội. Như vậy, văn hóa được quan niệm như là những hệ giá trị xã hội mang tính kế thừa. Đây chính là những yếu tố mang tính hằng số của văn hóa.

Mối quan hệ tương tác giữa cấu trúc bề mặt và cấu trúc chiều sâu là mối quan hệ biện chứng. Cấu trúc chiều sâu đóng vai trò định hướng và điều chỉnh những biến đổi trên bề mặt. Do đó, những biến đổi trên bề mặt dù thiên biến vạn hóa như thế nào chăng nữa thì cũng không phải là sự biến đổi hỗn loạn mà có tổ chức, tuân theo một trật tự nhất định. Còn các yếu tố trên bề mặt, trong quá trình biến đổi, dần dần thẩm thấu và tác động đến cấu trúc chiều sâu, làm cho cấu trúc này cũng phải biến đổi theo dù rất chậm rãi.

Hình 1

Như vậy, theo quan niệm trên, thị hiếu thẩm mỹ thuộc về cấu trúc bề mặt, yếu tố động, biến số, luôn luôn vận động và biến đổi. Điều này giúp chúng ta lý giải vì sao các hiện tượng thuộc về thẩm mỹ, thị hiếu thẩm mỹ như gu ăn mặc, mốt, thời trang, cách thưởng thức, đánh giá các tác phẩm văn học-nghệ thuật... lại có xu hướng thay đổi, biến đổi một cách nhanh chóng. Sự biến đổi này diễn ra hàng ngày, hàng giờ, đặc biệt trong bối cảnh mạng xã hội trở thành một trong những “thế lực ngầm”chi phối, tác động rất lớn đến các phương diện thẩm mỹ, trong đó có thị hiếu thẩm mỹ.

Tuy nhiên, sự biến đổi của thị hiếu thẩm mỹ không phải ngẫu nhiên mà có, nó được chi phối bởi hệ giá trị, tức là chịu sự tác động của cấu trúc chiều sâu. Điều này cũng có nghĩa một khi hệ giá trị dưới sự tác động của đời sống xã hội ít nhiều có sự biến đổi cũng kéo theo sự biến đổi của nhu cầu thẩm mỹ, thị hiếu thẩm mỹ. Bởi hệ giá trị xã hội, về nguyên tắc, mang tính cộng đồng cho nên nó chi phối một cách ngầm ẩn đối với hoạt động của cá nhân hay cộng đồng. Giá trị xã hội giúp cá nhân hay nhóm dựa vào vị thế xã hội của mình mà xác định phương hướng hành động cho phù hợp với lý tưởng xã hội. Sự khủng hoảng thị hiếu thẩm mỹ hiện nay vì vậy cũng có thể xem là sự khủng hoảng của hệ giá trị dân tộc. Một khi hệ giá trị mất phương hướng, bất định, thì khó có thể đòi hỏi ở thị hiếu thẩm mỹ của cộng đồng một hướng đi lành mạnh thuần nhất. Suy rộng ra, hiện tượng lệch chuẩn văn hóa trong giao tiếp, ứng xử, lối sống, quan niệm… của một bộ phận không nhỏ giới trẻ ngày nay cũng bắt nguồn từ sự mất phương hướng của hệ giá trị dân tộc. Thực tế của nền văn hóa Việt Nam hiện nay cho thấy có những cái cũ đang dần trở nên lạc hậu, lỗi thời nhưng vẫn ít nhiều chi phối, đóng vai trò quan trọng trong đời sống cộng đồng, bên cạnh đó là những cái mới bước đầu được chấp nhận trong sự dè dặt, nghi ngờ và luôn được đặt trong sự tương quan so sánh với cái cũ. Nghĩa là nếu chúng ta xem xét hệ giá trị dưới góc độ lịch đại, có thể thấy, ở bất kì dân tộc nào cũng luôn tồn tại hai hệ giá trị văn hóa: giá trị truyền thống và giá trị hiện đại. Tất nhiên, sự phân chia này chỉ mang tính tương đối, bản thân truyền thống cũng luôn luôn vận động và biến đổi để hướng đến hiện đại và các giá trị hiện đại cũng cần phải khẳng định mình qua thời gian để bổ sung vào truyền thống. Khách quan mà nói, hệ giá trị Việt Nam hiện nay chưa có sự giao hòa giữa hai hệ giá trị này. Chính vì vậy, việc trong cùng một gia đình, người già, người lớn tuổi thường thích nghe nhạc dân ca, nhạc trữ tình, chịu ảnh hưởng bởi quan niệm phương Đông truyền thống trong cách ăn mặc, giao tiếp ứng xử; trong khi đó, thế hệ trẻ lại thích nghe nhạc quốc tế, nhạc trẻ, có xu hướng “Tây hóa” trong thời trang, lối sống, quan niệm… là điều dễ hiểu. Điều đáng nói là hai thế hệ không chịu dung hòa và không chịu cảm thông trước thị hiếu thẩm mỹ khác biệt của nhau. Điều này có nghĩa bảng thang giá trị dân tộc đang có sự dịch chuyển, vận động, sắp xếp lại, tuy nhiên chưa tìm được một hệ chuẩn mực nhất định. Cũng có thể xem đây là khoảng trống, sự “đứt gãy” của thị hiếu thẩm mỹ, một biểu hiện của sự “đứt gãy” của hệ giá trị dân tộc.

Vì vậy, theo chúng tôi, để định hướng thị hiếu thẩm mỹ cho giới trẻ phải bắt đầu từ việc xây dựng lại hệ giá trị dân tộc. Đi tìm lời giải cho bài toán này cần phải tính đến cả cơ sở lý luận và thực tiễn. Về cơ sở lý luận, cần tính đến quy luật kế thừa, quy luật giao lưu tiếp biến trong sự phát triển văn hóa. Tránh khuynh hướng phủ định sạch trơn cái cũ mà phải dựa trên những giá trị truyền thống để làm nền tảng, cơ sở cho sự ra đời của cái mới. Nhưng cũng không vì thế mà ôm khư khư cái cũ. Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tác phẩm “Đời sống mới” đã viết: “Không phải cái gì cũ cũng bỏ hết, không phải cái gì cũng làm mới. Cái gì cũ là xấu, thì phải bỏ. Thí dụ: ta phải bỏ hết tính lười biếng, tham lam. Cái gì cũ mà không xấu nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp lý. Thí dụ: đơn cử cưới hỏi quá xa xỉ, ta phải làm bớt đi “Cái gì cũ mà tốt thì phát triển thêm. Thí dụ, ta phải tương thân, tương ái, tận trung với nước, tận hiếu với dân hơn khi trước. Cái gì mới mà hay thì ta phải làm. Thí dụ, ăn ở cho hợp vệ sinh, làm việc cho có ngăn nắp” [Hồ Chí Minh 2004: 94-95].

Về cơ sở thực tiễn, cần tính đến những nhu cầu thị hiếu phổ biến của giới trẻ ngày nay thông qua các cuộc khảo sát, đề tài nghiên cứu mang tính ứng dụng. Các con số có thể chưa nói lên tất cả nhưng sẽ là kênh thông tin tham khảo quan trọng trong việc đề xuất một hệ giá trị phù hợp với thời đại mới. Ví dụ việc giới trẻ ngày nay xem vấn đề chung sống trước hôn nhân là vấn đề đang dần trở nên bình thường hóa, liệu điều này có chi phối quan niệm, cách đánh giá về giá trị đạo đức của người Việt Nam, đặc biệt là đối với người phụ nữ? Câu trả lời chắc chắn là có. Vì vậy, việc đánh giá, xây dựng hệ giá trị dân tộc trong thời kỳ mới cũng cần tính đến những hiện tượng có thể sẽ trở thành những giá trị mới. Sự kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong việc định hướng thị hiếu thẩm mỹ cho giới trẻ ngày nay cũng là cách chúng ta làm mới hệ giá trị dân tộc bằng những giá trị truyền thống.

Thomas L.Friedman trong cuốn Chiếc Lexus và cây ô liu đã viết: "Một đất nước không có rặng cây ô liu khỏe khoắn sẽ không bao giờ có được cảm giác nguồn gốc được duy trì hay an tâm để hội nhập với thế giới. Nhưng một đất nước chỉ có rặng cây ô liu không thôi, chỉ lo cội rễ mà không có xe Lexus thì sẽ không bao giờ tiến xa được. Giữ cân bằng hai yếu tố trên là cuộc vật lộn triền miên" [Friedman Thomas 2005: 72]. Cuộc “vật lộn” giữa cây oliu (biểu trưng cho gốc rễ dân tộc - truyền thống) và xe Lexus (biểu trưng cho hiện đại) được xem là vấn đề “sống còn” của bất kì nền văn hóa nào trong tiến trình hội nhập ngày nay.

Thay lời kết luận

Việc đi tìm lời giải cho bài toán khủng hoảng thị hiếu thẩm mỹ ở nước ta hiện nay là cả một quá trình cần phải được xem xét từ nhiều góc độ, nhiều phương diện khác nhau. Tuy nhiên, theo chúng tôi, một khi hệ giá trị dân tộc còn chưa tìm được con đường đi lành mạnh thì khó có thể có sự định hướng đúng đắn cho thị hiếu thẩm mỹ của giới trẻ ngày nay. Vì vậy, thay vì trách cứ thế hệ trẻ, chúng ta nên đánh giá, xem xét xây dựng lại một bảng thang giá trị mới phù hợp với bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện nay.

Tài liệu tham khảo và trích dẫn

1.  Đỗ Huy 2013: Văn hóa Việt Nam trên con đường giải phóng, đổi mới, hội nhập và phát triển. – H.: NXB Thông tin và Truyền thông.

2.  Đỗ Văn Khang, Đỗ Huy 1985: Mỹ học Mác-Lênin. – H.: NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp.

3.  Friedman Thomas 2005: Chiếc Lexus và cây oliu, Lê Minh dịch. – H.: NXB Khoa học xã hội.

4.  Hồ Chí Minh 2004: Toàn tập, tập 5. – H.: NXB Chính trị Quốc gia.

5.  Hoàng Phê (cb) 1998: Từ điển Tiếng Việt. - NXB Đà Nẵng & Trung tâm Từ điển học.

6.  Ngô Đức Thịnh 2011: Một số vấn đề lý luận nghiên cứu hệ giá trị văn hóa truyền thống trong đổi mới và hội nhập. - http://vanhoanghean.com.vn/goc-nhin-van-hoa3/những-góc-nhìn-văn-hóa/mot-so-van-de-ly-luan-nghien-cuu-he-gia-tri-van-hoa-truyen-thong-trong-doi-moi-va-hoi-nhap

7.  Nguyễn Thị Hậu 2013: Thị hiếu thẩm mỹ của giới trẻ TP.Hồ Chí Minh. – H.: NXB Văn hóa - Văn nghệ.

8.  Phạm Đức Dương 2013: Dẫn luận văn hóa học. – H.: NXB Văn hóa - Thông tin.

9.  Phạm Ngọc Trung 2012: Giáo trình Lý luận văn hóa. – H.: NXB Chính trị Quốc gia.

10.     Trần Ngọc Thêm 2010: Giá trị và sự chuyển đổi hệ giá trị Việt Nam. - http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/van-hoa-viet-nam/vhvn-nhung-van-de-chung/1683-tran-ngoc-them-gia-tri-va-su-chuyen-doi-he-gia-tri-van-hoa-truyen-thong-.html

Nguồn: Bài viết tham gia hội thảo “Hệ giá trị Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”. Kỷ yếu hội thảo in thành sách “Một số vấn đề về hệ giá trị Việt Nam trong giai đoạn hiện tại”

Lên trên

Cùng chủ đề

  • Bùi Hoài Sơn, Đỗ Thị Thanh Thủy. Cơ hội và thách thức đối với sự nghiệp phát triển văn hóa Việt Nam đến năm 2030

  • Joseph Caspermeyer. Nghiên cứu mới cho thấy sự đa dạng di truyền của người Việt Nam

  • Nguyễn Chu Hồi. Biển, đảo Việt Nam - Bảo vệ không gian sinh tồn của dân tộc

  • Nguyễn Huy Phòng. Thách thức trong kiến tạo hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người Việt Nam hiện nay

  • Nguyễn Văn Thanh. Xây dựng nền văn hóa Việt Nam trước tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0

Thông báo

Tư vấn khoa học và kỹ năng nghiên cứu…

Tủ sách văn hoá học Sài Gòn

  • Thư viện ảnh
  • Thư viện video
  • Tủ sách VHH

Phóng sự ảnh: Toạ đàm khoa học: Xây dựng…

Hình ảnh văn hóa Tết xưa (sưu tầm)

Phóng sự ảnh: Lễ hội truyền thống VHH 2011

Phóng sự ảnh Lễ hội truyền thống VHH 2010

Thành phố Sankt-Peterburg, Nga

Bộ ảnh: Việt Nam quê hương tôi 2

Tranh Bùi Xuân Phái

Bộ tem tượng Phật chùa Tây Phương

Bộ ảnh: Đá cổ Sapa

Bộ ảnh: Phong cảnh thiên nhiên

Bộ ảnh: Việt Nam quê hương tôi

"Biển, đảo Việt Nam - Nguồn cội tự bao đời":…

Con dê trong văn hóa và văn hóa Việt Nam

Văn hóa Tết ở Tp.HCM (Chương trình truyền…

Văn hóa Tp. HCM: Một năm nhìn lại và động…

Phong tục Tết cổ truyền của người Nam Bộ

Bánh tét và Tết phương Nam

Con ngựa trong văn hóa và văn hóa Việt Nam

Điện Biên Phủ - Cuộc chiến giữa hổ và voi

Nhìn lại toàn cảnh thế giới từ 1911-2011…

Tọa độ chết - một bộ phim Xô-Việt xúc động…

Video: Lễ hội dân gian Việt Nam

Văn hoá Việt từ phong tục chúc Tết

Văn hoá Tết Việt qua video

Tết ông Táo từ góc nhìn văn hoá học

“Nếp nhà Hà Nội” trên “Nhịp cầu vàng”: tòa…

Văn hóa Thăng Long - Hà Nội qua video: từ…

Hướng về 1000 năm TL-HN: Xem phim “Tử Cấm…

Hướng về 1000 năm TL-HN: Người Thăng Long…

Phim "Chuyện tử tế" – tập 2 (?!) của “Hà…

Default Image

Hướng về 1000 năm TL-HN: "Chuyện tử tế" -…

Sách “Di sản Ấn Độ trong văn hóa Việt Nam”

Nguyễn Văn Bốn. Tín ngưỡng thờ Mẫu của người…

Sách: Quản lý và khai thác di sản văn hóa…

Hồ Sĩ Quý. Con người và phát triển con người

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 3

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 2

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 1

Hồ Sỹ Quý. Tiến bộ xã hội: một số vấn đề về…

Hồ Sỹ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á (Phụ…

Hồ Sỹ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á…

Hồ Sĩ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á…

Sách: Chuyên đề Văn hoá học

Sách: Một số vấn đề về hệ giá trị Việt Nam…

FitzGerald. Sự bành trướng của Trung Hoa…

Hữu Đạt. Đặc trưng ngôn ngữ và văn hoá giao…

Sống chụ son sao (Tiễn dặn người yêu)

Gs. Mai Ngọc Chừ. Số phận & Tâm linh

Trần Văn Cơ. Những khái niệm ngôn ngữ học…

Đoàn Văn Chúc. Văn hóa học (Phần 3 - hết)

Đoàn Văn Chúc. Văn hóa học (Phần 2)

Các nhà VHH nổi tiếng

Julian Haynes Steward

Wen Yi'duo (Văn Nhất Đa)

Leslie Alvin White

Huang Wen'shan (Hoàng Văn Sơn)

Radcliff-Brown, Alfred Reginald

Sapir, Edward

Margaret Mead

Thăm dò ý kiến

Bạn thích cuốn "Cơ sở văn hoá VN" của tác giả nào nhất?

Chu Xuân Diên - 4.8%
Lê Văn Chưởng - 0.9%
Trần Diễm Thuý - 1%
Trần Ngọc Thêm - 37.4%
Trần Quốc Vượng - 53%
The voting for this poll has ended on: 26 06, 2020

Tổng mục lục website

tong muc luc

Tủ sách VHH Sài Gòn

tu sach VHH SG

Thống kê truy cập

  • Đang online :
  • 482
  • Tổng :
  • 3 7 7 1 7 9 5 6
  • Đại học quốc gia TPHCM
  • Đại học KHXH&NV
  • Tran Ngoc Them
  • T.c Văn hóa-Nghệ thuật
  • Tc VHDG
  • Viện NCCN
  • Khoa Văn hóa học
  • Khoa Đông phương học
  • Phòng QLKH
  • Khoa Việt Nam học
  • Khoa Hàn Quốc học
  • BM Nhật Bản học
  • Khoa Văn học - Ngôn ngữ
  • Khoa triết học
  • Khoa Quan hệ quốc tế
  • Khoa Xã hội học
  • Bảo tàng Lịch sử - Văn hóa
  • viettems.com
  • myfaifo.com
Previous Next Play Pause

vanhoahoc.vn (các tên miền phụ: vanhoahoc.edu.vn ; vanhoahoc.net)
© Copyright 2007-2015. Bản quyền thuộc Trung tâm Văn hóa học Lý luận và Ứng dụng, Trường Đại học KHXH & NV - ĐHQG Tp. HCM
ĐT (028) 39104078; Email: ttvanhoahoc@hcmussh.edu.vn; ttvanhoahoc@gmail.com. Giấy phép: số 526/GP-BC, do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 27-11-2007
Ghi rõ nguồn vanhoahoc.vn khi phát hành lại các thông tin từ website này.

Website được phát triển bởi Nhà đăng ký tên miền chính thức Việt Nam trực thuộc Trung Tâm Internet VNNIC.

VHVN: Những vấn đề chung