logo

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
    • Thư ngỏ
    • Khái quát về Trung tâm
    • Nhân lực Trung tâm
      • Thành viên Trung tâm
      • Cộng tác viên
    • Giới thiệu Khoa Văn hóa học
      • Khái quát về Khoa
      • Nhân lực của Khoa
  • Tin tức
    • Tin nhà (Trung tâm)
    • Tin ngành
    • Tin liên quan
  • Đào tạo - Huấn luyện
    • Các chương trình
    • Tổ chức và Hiệu quả
    • Đào tạo ở Khoa VHH
      • Chương trình đào tạo
      • Kết quả đào tạo
  • Nghiên cứu
    • Lý luận văn hóa học
      • LLVHH: Những vấn đề chung
      • VHH: Phương pháp nghiên cứu
      • VHH: Các trường phái - trào lưu
      • Loại hình và phổ quát văn hóa
      • Các bình diện của văn hóa
      • Văn hóa học so sánh
      • Vũ trụ quan phương Đông
      • Văn hóa và phát triển
      • VHH và các khoa học giáp ranh
    • Văn hóa Việt Nam
      • VHVN: Những vấn đề chung
      • Văn hóa cổ-trung đại ở Viêt Nam
      • Văn hóa các dân tộc thiểu số
      • Văn hóa Nam Bộ
      • Văn hóa nhận thức
      • Văn hóa tổ chức đời sống tập thể
      • Văn hóa tổ chức đời sống cá nhân
      • Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên
      • Văn hóa ứng xử với môi trường xã hội
    • Văn hóa thế giới
      • VH Phương Đông: Những vấn đề chung
      • VH Phương Tây: Những vấn đề chung
      • Quan hệ văn hóa Đông - Tây
      • Văn hóa Trung Hoa và Đông Bắc Á
      • Văn hóa Đông Nam Á
      • Văn hóa Nam Á và Tây Nam Á
      • Văn hóa châu Âu
      • Văn hóa châu Mỹ
      • Văn hóa châu Phi và châu Úc
    • Văn hóa học ứng dụng
      • VHƯD: Những vấn đề chung
      • VHH nghệ thuật
      • Văn hóa đại chúng
      • Văn hóa giao tiếp
      • Văn hóa du lịch
      • Văn hóa đô thị
      • Văn hóa kinh tế
      • Văn hóa quản trị
      • Văn hóa giáo dục - khoa học
    • Tài liệu phổ cập VHH
      • Văn hóa Việt Nam
      • Văn hóa thế giới
      • VHH ứng dụng
    • Tài liệu tiếng nước ngoài
      • Theory of Culturology
      • Vietnamese Culture
      • Applied Culturology
      • Other Cultures
      • 中文
      • Pусский язык
    • Thư Viện Số (Sách - Ảnh - Video)
      • Tủ sách Văn hoá học
      • Thư viện ảnh
      • Thư viện video
    • Các nhà văn hóa học nổi tiếng
  • Tiện ích
    • Dịch vụ Văn hóa học
    • Dịch vụ ngoài VHH
    • Trợ giúp vi tính
    • Từ điển Văn hóa học
    • Thư viện TT và Khoa
    • Tổng mục lục website
    • Tủ sách VHH Sài Gòn
    • Giải đáp thắc mắc
  • Thư giãn VHH
    • Văn chương Việt Nam
    • Văn chương nước ngoài
    • Nghệ thuật Việt Nam
    • Nghệ thuật thế giới
    • Hình ảnh vui
    • Video vui
  • Diễn đàn
  • Liên hệ
  • Trang chủ
  • Nghiên cứu
  • Văn hóa Việt Nam
  • VHVN: Những vấn đề chung
Thursday, 07 April 2016 04:46

Nguyễn Duy Bắc. Kế thừa và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc trong giai đoạn hiện nay

Người post bài:  Nguyễn Thị Tuyết Ngân

Additional Info

  • Tiêu đề:

    KẾ THỪA VÀ PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG CỦA DÂN TỘC
    TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

  • Tác giả:

    PGS.TS. Nguyễn Duy Bắc

  • Chức danh:

    Phó Chủ tịch UBND tỉnh Khánh Hòa

Nguyễn Duy Bắc. Kế thừa và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc trong giai đoạn hiện nay

Có thể khẳng định rằng, đạo đức cách mạng không phải từ trên trời rơi xuống. Nó là sự kế thừa và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc và tiếp thu tinh hoa đạo đức của nhân loại. Chỉ có trên cơ sở hướng về cội nguồn dân tộc, biết giữ gìn và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống thì đạo đức cách mạng mới được xây dựng và hoàn thiện, đạo đức xã hội mới lành mạnh - thực sự trở thành nguồn lực nội sinh cho sự phát triển của dân tộc ta, đất nước ta trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.

1. Các giá trị đạo đức truyền thống

Trước thế kỷ XIX, những kiến thức về giá trị học gắn liền với triết học. Đến đầu thế kỷ XX, giá trị học mới bắt đầu hình thành như một khoa học riêng. Khái niệm “giá trị” trở thành trung tâm của giá trị học và được sử dụng rộng rãi trong triết học, xã hội học, tâm lý học, đạo đức học, kinh tế học... với những nội dung rộng, hẹp, cụ thể khác nhau.

Xung quanh khái niệm giá trị cũng có nhiều cách tiếp cận, do mỗi người xuất phát từ góc độ khoa học khác nhau và nhằm những mục đích khác nhau trong các công trình nghiên cứu của mình. Song, có thể thấy những điểm chung được đề cập đến trong quan niệm về giá trị.

Giá trị được coi là khái niệm chỉ ý nghĩa của những hiện tượng vật chất hay tinh thần có khả năng thoả mãn nhu cầu tích cực của con người, là những thành tựu góp phần vào sự phát triển xã hội. Thế giới các giá trị rất phong phú và rộng lớn bao chứa các mối quan hệ của con người với tự nhiên, với xã hội, kỹ thuật, công nghệ, lao động kinh tế, chính trị...

Giá trị có tính lịch sử khách quan, nghĩa là sự xuất hiện, tồn tại hay mất đi của một giá trị nào đó không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người mà do yêu cầu của từng thời đại lịch sử, trong đó con người sống và hoạt động.

Giá trị chứa đựng các yếu tố nhận thức, tình cảm, hành vi của chủ thể trong quan hệ với sự vật, hiện tượng mang giá trị, thể hiện sự đánh giá, lựa chọn của chủ thể. Vì vậy cần phân biệt bản chất, quy luật của các sự vật, hiện tượng với giá trị của sự vật, hiện tượng. Giá trị đóng vai trò rất quan trọng trong cuộc sống của con người. Nó là cái con người dựa vào để xác định mục đích, phương hướng cho hoạt động của mình, là cái mà con người mong muốn được theo đuổi. Giá trị là cơ sở của các chuẩn mực, quy tắc xác định cách thức hành động của con người, nói cách khác, cách thức và hành động của con người trong xã hội được chỉ đạo bởi các giá trị - người ta dựa vào giá trị được xã hội chấp nhận để lựa chọn cách thức suy nghĩ và hành động phù hợp nhất. Giá trị là động cơ thúc đẩy hoạt động của con người vì các nguyện vọng và mục đích của cá nhân đều được đối chiếu với các giá trị nằm trong cấu trúc của nhân cách. Các giá trị, nhất là các giá trị chung, phổ biến, được coi như phương tiện cơ bản để tạo nên sự liên kết, hợp tác của mọi thành viên trong nhóm, cộng đồng, dân tộc.

Nhìn chung, "nói đến giá trị tức là muốn khẳng định mặt tích cực, mặt chính diện, nghĩa là đã bao hàm quan điểm coi giá trị gắn liền với cái đúng, cái tốt, cái hay, cái đẹp; là nói đến cái có khả năng thôi thúc con người hành động và nỗ lực vươn tới" [Nguyễn Trọng Chuẩn 1998: 16].

Trong việc nghiên cứu giá trị, do những mục đích cụ thể khác nhau mà người ta thường phân loại giá trị theo cách riêng của mình. Ở cấp độ chung nhất, các giá trị được chia thành giá trị vật chất (thỏa mãn nhu cầu vật chất của con người) và giá trị tinh thần (thỏa mãn nhu cầu tinh thần của con người).

Giá trị tinh thần được chia thành các loại giá trị cơ bản như: giá trị khoa học (cái chân lý), giá trị đạo đức (cái tốt, cái thiện), giá trị thẩm mỹ (cái đẹp), giá trị chính trị (cái chính nghĩa, cách mạng), giá trị pháp luật (cái hợp pháp)... Giá trị khoa học gắn với quá trình con người vươn lên nắm bắt bản chất, quy luật của hiện thực khách quan để ngày càng làm chủ những điều kiện sinh hoạt tự nhiên và xã hội của mình. Giá trị thẩm mỹ gắn với nhu cầu thưởng thức, đánh giá, hưởng thụ và sáng tạo cái đẹp trong cuộc sống và trong nghệ thuật. Giá trị đạo đức gắn với nhu cầu điều chỉnh quan hệ giữa cá nhân và xã hội theo hướng tạo nên sự thống nhất hài hoà giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội...

Tuy nhiên, sự khác biệt các giá trị như trên chỉ có ý nghĩa tương đối vì các giá trị có liên quan chặt chẽ với nhau; chẳng hạn, giá trị đạo đức và giá trị thẩm mỹ có sự khác biệt nhau: giá trị đạo đức có quan hệ trực tiếp với những lợi ích xã hội nên bản chất xã hội của nó bộc lộ trực tiếp và rõ nét hơn giá trị thẩm mỹ; giá trị đạo đức là cơ sở của các chuẩn mực điều tiết hành vi của con người còn các giá trị thẩm mỹ thoả mãn nhu cầu hưởng thụ cái đẹp, đem lại cho con người những khoái cảm tinh thần; giá trị đạo đức thể hiện rõ rệt trong các chuẩn mực đạo đức, còn giá trị thẩm mỹ thể hiện tập trung ở các hình tượng nghệ thuật... Tuy nhiên, giữa chúng có sự thống nhất với nhau vì chúng cùng có nguồn gốc từ trong lao động, đều phản ánh tồn tại xã hội và có vai trò to lớn trong việc hình thành nhân cách của con người. Mọi cái đẹp đều chứa đựng ý nghĩa đạo đức và mọi giá trị đạo đức đều bộc lộ một vẻ đẹp nhất định.

Nhìn chung, có thể coi giá trị đạo đức là những cái được con người lựa chọn và đánh giá như việc làm có ý nghĩa tích cực, tiến bộ, nhân văn đối với đời sống xã hội và con người, được lương tâm đồng tình và dư luận biểu dương. Các giá trị đạo đức là kết quả của các mối quan hệ giữa người và người trong những hoàn cảnh xã hội nhất định, là sản phẩm của những điều kiện lịch sử cụ thể. Các giá trị đạo đức thể hiện rõ rệt trong các chuẩn mực đạo đức có vai trò to lớn trong việc hình thành nhân cách của con người, thúc đẩy sự phát triển tiến bộ của xã hội.

Truyền thống là phức hợp những tư tưởng, tình cảm; những tập quán thói quen, những phong tục lối sống, cách ứng xử... của một cộng đồng người đã hình thành trong lịch sử, đã trở nên ổn định và được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Giá trị đạo đức truyền thống là một bộ phận trong hệ giá trị tinh thần của dân tộc ta. Trong hệ giá trị truyền thống Việt Nam, các giá trị đạo đức chiếm vị trí nổi bật, tạo nên cốt lõi của nó. Nói đến các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc ta là nói đến đặc thù của đạo đức Việt Nam với những phẩm chất tốt đẹp đã hình thành và được bảo lưu cho đến thời điểm hiện tại. Đó là các giá trị nhân văn mang tính cộng đồng, tính ổn định tương đối, được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, thể hiện trong các chuẩn mực mang tính phổ biến có tác dụng điều chỉnh hành vi giữa cá nhân và cá nhân, giữa cá nhân và xã hội. Xét trong tương quan với thế giới và khu vực, đặc biệt là với các dân tộc phương Đông, giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc ta có những nét chung với nhiều dân tộc khác vì các dân tộc trong quá trình hình thành và phát triển của mình đều phải giải quyết những vấn đề chung như xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, ổn định và phát triển đời sống xã hội... Mặt khác, sự giao lưu quốc tế diễn ra thường xuyên ở mức độ này hay mức độ khác, nhất là với các nước gần nhau, đã ảnh hưởng đến nhau khá rõ rệt. Cái khác nhau ở đây là trật tự sắp xếp các giá trị đạo đức, mối tương quan giữa chúng và những sắc thái riêng hình thành trong điều kiện lịch sử đặc thù của từng dân tộc qua suốt chiều dài lịch sử phát triển của nó. Giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc ta là do cộng đồng người Việt Nam tạo dựng trong lịch sử phát triển lâu dài trên đất nước Việt Nam với tất cả những điều kiện lịch sử đặc thù tạo nên bản sắc độc đáo của nó.

Các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc hình thành gắn với điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam trải qua hàng ngàn năm lịch sử. Đó là kết quả và là động lực to lớn của quá trình dựng nước, giữ nước và phát triển đất nước của dân tộc mang đậm nét đặc thù của sự phát triển xã hội trong lịch sử Việt Nam. Đó còn là kết quả của quá trình tiếp thu sáng tạo tinh hoa của nhiều trào lưu tư tưởng, văn hóa lớn của thế giới để bồi đắp thêm cho những giá trị đạo đức - văn hóa vốn có của mình, nhất là khi có sự du nhập của chủ nghĩa Mác - Lênin, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh.

2. Các giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam

Lâu nay, việc nghiên cứu để xác định các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam đã được nhiều nhà khoa học quan tâm.

GS. Nguyễn Hồng Phong cho rằng, tính cách dân tộc gần như là tất cả nội dung của giá trị đạo đức truyền thống, bao gồm: "tính tập thể - cộng đồng; trọng đạo đức; cần kiệm; giản dị; thực tiễn; tinh thần yêu nước bất khuất và lòng yêu chuộng hoà bình, nhân đạo, lạc quan" [Nguyễn Hồng Phong 1963: 254].

GS. Trần Văn Giàu cho rằng, giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam bao gồm: "yêu nước, cần cù, anh hùng, sáng tạo, lạc quan, thương người, vì nghĩa" [Trần Văn Giàu 1980: 94].

GS. Vũ Khiêu cho rằng, trong những truyền thống quý báu của dân tộc ta nổi bật lên nhất là truyền thống đạo đức và khẳng định các giá trị đạo đức truyền thống cao đẹp của dân tộc ta bao gồm: "lòng yêu nước, truyền thống đoàn kết, lao động cần cù và sáng tạo; tinh thần nhân đạo, lòng yêu thương và quý trọng con người, trong đó yêu nước là bậc thang cao nhất trong hệ thống giá trị đạo đức của dân tộc" [Vũ Khiêu (cb) 1974: 74-86].

Những giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cũng được đề cập đến trong nhiều văn kiện của Đảng, Nhà nước ta. Nghị quyết 09 của Bộ Chính trị khóa VII về một số định hướng lớn trong công tác tư tưởng hiện nay, khẳng định: "Những giá trị văn hóa truyền thống vững bền của dân tộc Việt Nam là lòng yêu nước nồng nàn, ý thức cộng đồng sâu sắc, đạo lý "thương người như thể thương thân", đức tính cần cù, vượt khó, sáng tạo trong lao động... Đó là nền tảng và sức mạnh tinh thần to lớn để nhân dân ta xây dựng một xã hội phát triển, tiến bộ, công bằng, nhân ái" [Đảng CSVN 1995]. Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đã khẳng định: "Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống... " [Đảng CSVN 1998: 56].

Từ những nhận định trên có thể rút ra một số nhận xét sau:

Một là, trong hệ thống giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc ta, giá trị đạo đức chiếm vị trí nổi bật. Vì vậy, khi đề cập đến các giá trị văn hóa, giá trị tinh thần truyền thống hầu hết các ý kiến đều nhấn mạnh đến giá trị đạo đức.

Hai là, trong các giá trị đạo đức truyền thống, chủ nghĩa yêu nước được khẳng định là giá trị cốt lõi, giá trị định hướng các giá trị khác.

Ba là, những phẩm chất đạo đức phổ biến của con người Việt Nam như tinh thần đoàn kết, lòng nhân ái, đức tính cần cù, tinh thần lạc quan... cũng được đề cập và coi đó là những giá trị đạo đức truyền thống quý báu của dân tộc ta.

3. Đạo đức truyền thống và đạo đức cách mạng

Sự nghiệp cách mạng của Đảng và của dân tộc đòi hỏi phải xây dựng và hoàn thiện đạo đức cách mạng. Từ rất sớm, Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức cách mạng là gốc của người cách mạng; muốn làm cách mạng thắng lợi thì người cán bộ phải có đạo đức cách mạng. Trong tác phẩm Đường kách mệnh, Hồ Chí Minh đã nêu lên "Tư cách một người cách mệnh" trong ba mối quan hệ: đối với tự mình; đối với người; đối với công việc. Theo Người, "làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp vẻ vang, nhưng đó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa, Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang" [Hồ Chí Minh 1995: 283-284]. Hồ Chí Minh coi đạo đức cách mạng như gốc của cây, như nước của sông. Người viết: "Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân" [Hồ Chí Minh 1995: 252-253].

Trong di sản tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, chúng ta thấy Người đã xác định rõ những chuẩn mực của nền đạo đức mới, đạo đức cách mạng.

Một là, trung với nước, trung với Đảng, hiếu với dân, quyết tâm phấn đấu suốt đời hy sinh vì độc lập, tự do, vì chủ nghĩa xã hội. Vô luận trong hoàn cảnh nào, người đảng viên cũng phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết.

Hai là, yêu thương, quý trọng con người, sống có nghĩa tình; hoà mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng.

Ba là, cần kiệm liêm chính chí công vô tư.

Bốn là, giàu sang không quyến rũ, nghèo khó không chuyển lay, uy vũ không khuất phục.

Năm là, nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm.

Sáu là, tinh thần yêu lao động, tinh thần trách nhiệm và nỗ lực học tập, cầu tiến bộ, đức khiêm tốn, thật thà, đoàn kết.

Bảy là, có tinh thần quốc tế trong sáng.

Những chuẩn mực giá trị của đạo đức cách mạng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên rõ ràng là được hình thành và phát triển trong bốn điều kiện chính sau đây: Thứ nhất, từ những giá trị của đạo đức truyền thống. Đây được xem là tiền đề, là cơ sở trực tiếp; Thứ hai, ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin. Thứ ba, từ thực tiễn phong trào cách mạng của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng và Hồ Chí Minh. Thứ tư, là sự tiếp thu tinh hoa văn hóa đạo đức của nhân loại.

Từ khi giai cấp công nhân Việt Nam xuất hiện và bước lên vũ đài lịch sử, truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc ta đã được nâng lên một tầm cao mới do hấp thu được hệ tư tưởng tiên tiến của thời đại là chủ nghĩa Mác-Lênin qua việc truyền bá của Chủ tịch Hồ Chí Minh và sự giáo dục, rèn luyện của Đảng ta. Đúng như GS. Trần Văn Giàu khẳng định: "... Chính Cộng sản là những người có công phát kiến lại một cách có cơ sở khoa học và có hệ thống các giá trị đạo đức, giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam" [Trần Văn Giàu 1980: 81].

Đạo đức cách mạng trước hết bắt nguồn từ sự kế thừa và phát triển những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam.

Chủ nghĩa yêu nước chân chính ngày nay gắn liền với chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng. Trung - hiếu là những khái niệm đã có trong đạo đức truyền thống, "trung với vua, hiếu với cha mẹ". Ngày nay phải trung với nước, trung với Đảng, phải hiếu với dân với đồng bào, bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền lợi đều của dân. Cán bộ đảng viên là đầy tớ của nhân dân.

Lòng thương người vốn có của Việt Nam được nâng cao bởi chủ nghĩa nhân đạo Mác-Lênin, chủ nghĩa nhân đạo cộng sản.

Việc nghĩa không thể không làm, làm không tính toán thiệt hơn, chữ "nghĩa" ngày trước là lẽ phải, việc "đại nghĩa" là việc cứu nước, việc vì dân trừ bạo, chữ "nghĩa" đó đã lôi cuốn người Việt Nam làm biết bao nhiêu điều tốt đẹp. Chữ "nghĩa" ngày nay chẳng những là cứu nước, cứu nhà, vì nước vì dân mà cũng là lý tưởng xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa.

Ngày xưa, ông cha ta cần kiệm vì cuộc sống buộc phải cần kiệm nên dần thành đức tính. Bây giờ cần kiệm là yêu lao động, là xây dựng xã hội không có người bóc lột người, làm cho nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.

Liêm, chính là lý tưởng, đạo đức, lối sống của nhiều trí thức chân chính ở nước ta. Đó là sự coi khinh và phản đối lối sống chạy theo lợi ích vật chất tầm thường, ích kỷ cá nhân, gắn hạnh phúc với đạo đức, phản đối việc mưu cầu hạnh phúc bằng con đường bất chính… Hồ Chí Minh đã kế thừa, phát triển tư tưởng đạo đức đó thành một nguyên tắc của đạo đức cách mạng “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”. Người giải thích, cần tức là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng dẻo dai, kiệm là tiết kiệm, không xa xỉ, không lãng phí, không bừa bãi. Cuộc sống cần kiệm là cuộc sống giản dị, thoải mái, hạnh phúc, dễ thích nghi, dễ hoà đồng với mọi người, được mọi người gần gũi yêu mến. Liêm là trong sạch, không tham lam, không tham ô, ăn hối lộ, không tham tiền của, địa vị, danh tiếng, không tham ăn ngon, mặc đẹp, không tham sống sợ chết. Chính nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn. Chính gắn liền với cần kiệm vì một người không cần kiệm mà biếng nhác, lãng phí, tham ô thì tất phải sống bất chính. Chính cũng gắn liền với chí công vô tư. Người bất chính là người bất chấp lợi ích chung của xã hội, bất chấp pháp luật, kỷ cương chỉ vì lợi ích nhỏ nhen của cá nhân, gia đình mình.

Như vậy, tinh thần tập thể, chí công vô tư, mình vì mọi người - đặc điểm lớn của đạo đức cách mạng không phải hoàn toàn mới có mà nó được hình thành trên cơ sở chủ nghĩa yêu nước, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng đức tính cần kiệm của dân tộc ta vốn có tự ngàn năm. Chủ nghĩa quốc tế trong sáng cũng bắt nguồn từ tinh thần hòa hiếu, yêu chuộng hòa bình của dân tộc ta.

Đạo đức truyền thống tạo nhiều điều kiện cho đạo đức cách mạng hình thành và hoàn thiện. Đạo đức cách mạng tiếp nối và phát huy đạo đức truyền thống trên một nền cao hơn trước dưới ánh sáng của chủ nghĩa nhân đạo cộng sản, của tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Đạo đức cách mạng không phải từ trên trời rơi xuống mà chính là từ sự kế thừa các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc. Mặt khác, đạo đức cách mạng phát triển tạo ra những nội dung khác về chất so với đạo đức truyền thống. Hồ Chí Minh đã từng nói: "Có người cho đạo đức cũ và đạo đức mới không có gì khác nhau. Nói như vậy là lầm to. Đạo đức cũ và đạo đức mới khác nhau nhiều. Đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất, chân chổng lên trời. Đạo đức mới như người hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngửng lên trời. Bọn phong kiến ngày xưa nêu ra cần, kiệm, liêm chính, nhưng không bao giờ làm mà lại bắt nhân dân phải tuân theo để phụng sự quyền lợi của chúng. Ngày nay chúng ta đề ra cần, kiệm, liêm, chính cho cán bộ thực hiện làm gương cho nhân dân theo để lợi cho nước cho dân" [Hồ Chí Minh 2000: 320-321]. Sự khác biệt về chất của đạo đức cũ và đạo đức cách mạng không phải ở bản thân khái niệm mà chính là ở động cơ người sử dụng nó, cũng tức là động cơ về quan hệ lợi ích. Chính động cơ về quan hệ lợi ích mới quyết định hành vi đạo đức và chính hành vi đạo đức mới là cơ sở cho quan niệm mới về nội dung đạo đức cách mạng. Đạo đức cách mạng ngày nay thừa hưởng những giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc ta để lại đồng thời phải khắc phục những tàn dư tiêu cực trong đạo đức truyền thống.

Cái cũ không phải cái gì cũng tốt đẹp. Cũ mà hủ bại cũng còn rất nhiều. Đạo đức hủ bại, phong tục hủ bại... đều có khả năng sống lại dưới nhiều hình thức.

GS. GS. Trần Văn Giàu cho rằng những tàn dư đạo đức hủ bại còn lại là: "Thứ nhất: Tư tưởng đức trị, nhân trị, điều này trở ngại cho đường lối pháp trị xã hội chủ nghĩa. Thứ nhì: Chủ nghĩa gia đình, chủ nghĩa đồng tộc, phương châm trị đạo thân nhân, điều này trở ngại cho sự thực hiện dân chủ, động viên tài năng. Thứ ba: Tư tưởng trọng quan khinh dân, nó làm nền cho thứ chủ nghĩa quan liêu, thơ lại mới" [Hồ Chí Minh 2000: 320-321].

Những mặt tiêu cực này trong đạo đức truyền thống phải được khắc phục trong quá trình xây dựng đạo đức cách mạng. Đồng thời để xây dựng đạo đức cách mạng cần đấu tranh không khoan nhượng với các chứng bệnh nguy hiểm khác như: bệnh quan liêu, bệnh tham ô lãng phí, bệnh lười biếng, bệnh thiếu kỷ luật, bệnh kiêu ngạo hiếu danh, bệnh hẹp hòi, bệnh địa phương chủ nghĩa, bệnh tự cho mình là lãnh tụ, bệnh cá nhân chủ nghĩa...

4. Kế thừa và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống trong xây dựng đạo đức cách mạng ở nước ta hiện nay

Có thể nói trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước và hội nhập quốc tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay thì việc chuyển đổi các giá trị đạo đức truyền thống là điều không tránh khỏi. Bên cạnh sự xuất hiện những giá trị đạo đức mới, nếp sống văn hóa mới, lành mạnh, phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đã có những giá trị đạo đức truyền thống, nếp sống văn hóa truyền thống tốt đẹp bị xâm hại và có nguy cơ bị mai một đi. "Không ít trường hợp vì đồng tiền và danh dự mà chà đạp lên tình nghĩa gia đình, quan hệ thầy trò, đồng chí, đồng nghiệp. Buôn lậu và tham nhũng phát triển. Ma tuý, mại dâm và các tệ nạn xã hội khác gia tăng. Nạn mê tín dị đoan khá phổ biến. Nhiều hủ tục cũ và mới lan tràn... Nghiêm trọng hơn là sự suy thoái về đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ có chức có quyền" [Đảng CSVN 1998: 46-47].

Trước thực trạng đó, vấn đề giữ gìn và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống trong xây dựng đạo đức cách mạng đang trở nên cấp bách và hết sức cần thiết.

Nhận thức một cách sâu sắc tầm quan trọng, ý nghĩa to lớn và tính bức thiết của việc giữ gìn và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta hiện nay, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII đã khẳng định: "Trong điều kiện kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu quốc tế, phải đặc biệt quan tâm giữ gìn và nêu cao bản sắc văn hóa dân tộc, kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức, tập quán tốt đẹp và lòng tự hào dân tộc. Tiếp thu tinh hoa của các dân tộc trên thế giới, làm giàu đẹp thêm nền văn hóa Việt Nam; đấu tranh chống sự nhập của các loại văn hóa độc hại, những khuynh hướng sùng ngoại, lai căng, mất gốc. Khắc phục tâm lý sùng bái đồng tiền, bất chấp đạo lý, coi thường các giá trị nhân văn" [Đảng CSVN 1996: 111]. Tiếp tục thực hiện chủ trương đó, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, X, XI đã chỉ rõ, mọi hoạt động văn hóa nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, lối sống có văn hóa, quan hệ hài hoà trong gia đình, cộng đồng và xã hội. Văn hóa trở thành nhân tố thúc đẩy con người tự hoàn thiện nhân cách, kế thừa truyền thống cách mạng của dân tộc, phát huy tinh thần yêu nước, ý chí tự lực tự cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Để giữ gìn và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, một mặt, chúng ta cần xác định rõ phải kế thừa, giữ gìn và phát triển những yếu tố nào, giá trị nào; phê phán gạt bỏ những yếu tố nào trong đạo đức truyền thống và quy tắc ứng xử nảy sinh trong quá trình hình thành và phát triển kinh tế thị trường. Chỉ có trên cơ sở đó, chúng ta mới có thể xây dựng được một hệ giá trị đạo đức cách mạng Việt Nam mới, trong sáng, lành mạnh, giàu tính dân tộc và hiện đại, mang đậm tính nhân đạo, nhân văn, phù hợp với những đòi hỏi mới của quá trình tự hoàn thiện nhân cách của con người Việt Nam hiện đại, phù hợp và thích nghi với những biến đổi mới trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở nước ta hiện nay.

Giữ gìn và phát huy giá trị đạo đức truyền thống trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi chúng ta phải có cách nhìn nhận, thẩm định khách quan và khoa học không chỉ đối với các giá trị đạo đức truyền thống ấy, mà cả với những giá trị đạo đức mới nảy sinh để vừa kế thừa và phát huy những giá trị tốt đẹp, vừa chọn lọc và tiếp thu những giá trị mới phù hợp với dân tộc và con người Việt Nam nhằm xây dựng một hệ giá trị đạo đức mới, tiến bộ. Nói cách khác, phải biết kết hợp các giá trị đạo đức truyền thống với các giá trị đạo đức hiện đại, phải xuất phát từ cái truyền thống đi đến cái hiện đại, tạo ra hệ giá trị đạo đức mới tiến bộ, từ các giá trị đạo đức truyền thống. Cũng như mọi giá trị tinh thần khác trong đời sống xã hội, giá trị đạo đức là cái vừa có tính chuẩn mực, tính ổn định, bền vững, lại vừa có tính mềm dẻo, linh hoạt và luôn vận động, biến đổi cùng với sự vận động, biến đổi của đời sống kinh tế - xã hội. Những giá trị đạo đức truyền thống của con người Việt Nam như chủ nghĩa yêu nước, lòng nhân ái, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng, khoan dung, trọng tình nghĩa... vẫn đang được tiếp tục củng cố, duy trì và phát huy trong xã hội Việt Nam hiện đại, là sự nối tiếp truyền thống, sự khẳng định bản sắc, bản lĩnh của dân tộc Việt Nam, con người và nền văn hóa Việt Nam. Cùng với đó, theo sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã có sự xuất hiện, thậm chí đã có sự định hình của những giá trị đạo đức mới. Chính vì vậy, sẽ là phi khoa học, phản nhân văn nếu chúng ta chấp nhận quan niệm cho rằng khi chuyển sang kinh tế thị trường thì cần phải gạt bỏ những giá trị đạo đức truyền thống hoặc đẩy những giá trị ấy xuống bậc thứ dưới trong hệ các giá trị tinh thần của đời sống xã hội. Trong thời đại ngày nay, một hệ thống các giá trị đạo đức xã hội sẽ không thể phát triển theo hướng tiến bộ nếu phủ nhận sạch trơn các giá trị đạo đức truyền thống và không hướng tới mục tiêu ngày càng nhân đạo hóa con người, ngày càng phát triển và hoàn thiện nhân cách con người. Chỉ có trên cơ sở hướng về cội nguồn dân tộc, biết giữ gìn và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống mới trở thành nguồn lực nội sinh cho sự phát triển lâu bền của dân tộc ta, đất nước ta cả trong hiện tại lẫn tương lai.

Nhận thức rõ điều đó, Đảng ta đã nhiều lần khẳng định việc xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống lành mạnh trong xã hội, trước hết là trong các tổ chức Đảng và bộ máy Nhà nước, trong các đoàn thể quần chúng và trong từng gia đình, tạo ra được sự chuyển biến mạnh mẽ về tư tưởng, đạo đức, lối sống - một lĩnh vực then chốt trong đời sống văn hóa của dân tộc, là một nhiệm vụ trọng tâm. Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hóa, vì xã hội công bằng, dân chủ văn minh, con người phát triển toàn diện, giữ gìn và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống trong bối cảnh phát triển. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải hướng tới mục tiêu hoàn thiện hệ giá trị mới của con người Việt Nam, phát triển con người Việt Nam về trí tuệ, bản lĩnh, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống, nhân cách, hướng con người tới giá trị chân-thiện-mỹ, xây dựng con người Việt Nam có tinh thần yêu nước, có ý thức cộng đồng, có lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng tình nghĩa, có ý thức tự cường dân tộc, phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Để kế thừa và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống trong xây dựng đạo đức cách mạng hiện nay cần quan tâm thực hiện tốt một số giải pháp lớn sau đây:

Thứ nhất, nâng cao nhận thức về tầm quan trọng, ý nghĩa to lớn và tính cấp thiết của việc giữ gìn và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc trong xây dựng đạo đức cách mạng thời kỳ Đổi Mới.

Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày càng sâu sắc và mạnh mẽ phải đặc biệt nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của việc giữ gìn và nêu cao bản sắc văn hóa dân tộc, kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức, tập quán tốt đẹp và lòng tự hào dân tộc. Trên cơ sở đó mà tiếp thu tinh hoa của các dân tộc trên thế giới, làm giàu đẹp thêm nền văn hóa Việt Nam; đấu tranh chống sự du nhập của các loại văn hóa độc hại, những khuynh hướng sùng ngoại, lai căng, mất gốc. Khắc phục tâm lý sùng bái đồng tiền, bất chấp đạo lý, coi thường các giá trị nhân văn. Việc bảo tồn và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống là cơ sở để giáo dục, nâng cao đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên, nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, lối sống có văn hóa, quan hệ hài hoà trong gia đình, cộng đồng và xã hội.

Thứ hai, đẩy mạnh "Nghiên cứu và giáo dục sâu rộng những đạo lý dân tộc tốt đẹp do cha ông để lại" [Đảng CSVN 1998: 63].

Đẩy mạnh việc nghiên cứu và giáo dục những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc nhằm kế thừa, giữ gìn và phát huy những "giá trị đạo đức tốt đẹp của cha ông"; phê phán, gạt bỏ những "phản giá trị" trong văn hóa đạo đức truyền thống; chuyển đổi giá trị đạo đức truyền thống phù hợp với điều kiện mới. Trên cơ sở đó, xây dựng một hệ giá trị đạo đức cách mạng Việt Nam trong sáng, lành mạnh, giàu tính dân tộc và hiện đại, mang đậm tính nhân đạo, nhân văn phù hợp với những đòi hỏi mới của quá trình tự hoàn thiện nhân cách của người cán bộ cách mạng Việt Nam hiện đại, phù hợp và thích nghi với những biến đổi mới trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở nước ta hiện nay; vừa kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp, vừa chọn lọc và tiếp thu những giá trị đạo đức mới của nhân loại phù hợp với dân tộc và con người Việt Nam.

Thứ ba, đẩy mạnh xây dựng và chỉnh đốn Đảng, xây dựng văn hóa trong Đảng, nhằm xây dựng và hoàn thiện đạo đức cách mạng cho mỗi cán bộ, đảng viên.

Đảng ta đã khẳng định văn hóa đạo đức và lối sống lành mạnh phải được thể hiện trước hết trong mỗi tổ chức Đảng, Nhà nước, đoàn thể, trong cán bộ, đảng viên công chức, viên chức nhà nước, trong từng hội viên... Vì vậy, phải đẩy mạnh xây dựng và chỉnh đốn Đảng, xây dựng văn hóa trong Đảng nhằm tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ về tư tưởng, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt các cấp.

Thứ tư, kết hợp đức trị và pháp trị trong xây dựng đạo đức cách mạng.

Kế thừa và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, biểu dương và nhân rộng những tấm gương đạo đức cách mạng, cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư¬, đồng thời xử lý kỷ luật kịp thời, nghiêm minh, công khai theo kỷ luật Đảng và pháp luật nhà nước đối với các cán bộ, đảng viên hủ bại, suy thoái về đạo đức, lối sống. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân - cơ sở điều chỉnh các hành vi của mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân theo Hiến pháp và pháp luật.

Thứ năm, đẩy mạnh phong trào học tập và làm theo tư tưởng và tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương tiêu biểu cho sự tiếp nối biện chứng giữa đạo đức truyền thống và đạo đức cách mạng, dân tộc và quốc tế. Vì vậy xây dựng đạo đức cách mạng trong giai đoạn hiện nay phải đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng tấm gương đạo đức của chủ tịch Hồ Chí Minh.

Có thể khẳng định rằng, đạo đức cách mạng không phải từ trên trời rơi xuống. Nó là sự kế thừa và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc và tiếp thu tinh hoa đạo đức của nhân loại. Chỉ có trên cơ sở hướng về cội nguồn dân tộc, biết giữ gìn và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống thì đạo đức cách mạng mới được xây dựng và hoàn thiện, đạo đức xã hội mới lành mạnh - thực sự trở thành nguồn lực nội sinh cho sự phát triển của dân tộc ta, đất nước ta trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.

Tài liệu tham khảo và trích dẫn

1.      Đảng CSVN 1995: Nghị quyết 09 của Bộ Chính trị khoá VII ngày 18-2-1995 về một số định hướng lớn trong công tác tư tưởng hiện nay. – H.: Lưu hành nội bộ.

2.      Đảng CSVN 1996: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. – H.: NXB Chính trị Quốc gia.

3.      Đảng CSVN 1998: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII. – H.: NXB Chính trị Quốc gia.

4.      Hồ Chí Minh 1995: Toàn tập, tập 9. – H.: NXB Chính trị Quốc gia.

5.      Hồ Chí Minh 2000: Toàn tập, tập 6. – H.: NXB Chính trị Quốc gia.

6.      Nguyễn Hồng Phong 1963: Tìm hiểu tính cách dân tộc. – H.: NXB KHXH.

7.      Nguyễn Trọng Chuẩn 1998: Vấn đề khai thác các giá trị truyền thống vì mục tiêu phát triển. – H.: Tạp chí Triết học, số 2.

8.      Trần Văn Giàu 1980: Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam. – H.: NXB KHXH.

9.      Vũ Khiêu (cb) 1974: Đạo đức mới. – H.: NXB KHXH.

Nguồn: Bài viết tham gia hội thảo “Hệ giá trị Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”. Kỷ yếu hội thảo in thành sách “Một số vấn đề về hệ giá trị Việt Nam trong giai đoạn hiện tại”

Lên trên

Cùng chủ đề

  • Bùi Hoài Sơn, Đỗ Thị Thanh Thủy. Cơ hội và thách thức đối với sự nghiệp phát triển văn hóa Việt Nam đến năm 2030

  • Joseph Caspermeyer. Nghiên cứu mới cho thấy sự đa dạng di truyền của người Việt Nam

  • Nguyễn Chu Hồi. Biển, đảo Việt Nam - Bảo vệ không gian sinh tồn của dân tộc

  • Nguyễn Huy Phòng. Thách thức trong kiến tạo hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người Việt Nam hiện nay

  • Nguyễn Văn Thanh. Xây dựng nền văn hóa Việt Nam trước tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0

Thông báo

Tư vấn khoa học và kỹ năng nghiên cứu…

Tủ sách văn hoá học Sài Gòn

  • Thư viện ảnh
  • Thư viện video
  • Tủ sách VHH

Phóng sự ảnh: Toạ đàm khoa học: Xây dựng…

Hình ảnh văn hóa Tết xưa (sưu tầm)

Phóng sự ảnh: Lễ hội truyền thống VHH 2011

Phóng sự ảnh Lễ hội truyền thống VHH 2010

Thành phố Sankt-Peterburg, Nga

Bộ ảnh: Việt Nam quê hương tôi 2

Tranh Bùi Xuân Phái

Bộ tem tượng Phật chùa Tây Phương

Bộ ảnh: Đá cổ Sapa

Bộ ảnh: Phong cảnh thiên nhiên

Bộ ảnh: Việt Nam quê hương tôi

"Biển, đảo Việt Nam - Nguồn cội tự bao đời":…

Con dê trong văn hóa và văn hóa Việt Nam

Văn hóa Tết ở Tp.HCM (Chương trình truyền…

Văn hóa Tp. HCM: Một năm nhìn lại và động…

Phong tục Tết cổ truyền của người Nam Bộ

Bánh tét và Tết phương Nam

Con ngựa trong văn hóa và văn hóa Việt Nam

Điện Biên Phủ - Cuộc chiến giữa hổ và voi

Nhìn lại toàn cảnh thế giới từ 1911-2011…

Tọa độ chết - một bộ phim Xô-Việt xúc động…

Video: Lễ hội dân gian Việt Nam

Văn hoá Việt từ phong tục chúc Tết

Văn hoá Tết Việt qua video

Tết ông Táo từ góc nhìn văn hoá học

“Nếp nhà Hà Nội” trên “Nhịp cầu vàng”: tòa…

Văn hóa Thăng Long - Hà Nội qua video: từ…

Hướng về 1000 năm TL-HN: Xem phim “Tử Cấm…

Hướng về 1000 năm TL-HN: Người Thăng Long…

Phim "Chuyện tử tế" – tập 2 (?!) của “Hà…

Default Image

Hướng về 1000 năm TL-HN: "Chuyện tử tế" -…

Sách “Di sản Ấn Độ trong văn hóa Việt Nam”

Nguyễn Văn Bốn. Tín ngưỡng thờ Mẫu của người…

Sách: Quản lý và khai thác di sản văn hóa…

Hồ Sĩ Quý. Con người và phát triển con người

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 3

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 2

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 1

Hồ Sỹ Quý. Tiến bộ xã hội: một số vấn đề về…

Hồ Sỹ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á (Phụ…

Hồ Sỹ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á…

Hồ Sĩ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á…

Sách: Chuyên đề Văn hoá học

Sách: Một số vấn đề về hệ giá trị Việt Nam…

FitzGerald. Sự bành trướng của Trung Hoa…

Hữu Đạt. Đặc trưng ngôn ngữ và văn hoá giao…

Sống chụ son sao (Tiễn dặn người yêu)

Gs. Mai Ngọc Chừ. Số phận & Tâm linh

Trần Văn Cơ. Những khái niệm ngôn ngữ học…

Đoàn Văn Chúc. Văn hóa học (Phần 3 - hết)

Đoàn Văn Chúc. Văn hóa học (Phần 2)

Các nhà VHH nổi tiếng

Julian Haynes Steward

Wen Yi'duo (Văn Nhất Đa)

Leslie Alvin White

Huang Wen'shan (Hoàng Văn Sơn)

Radcliff-Brown, Alfred Reginald

Sapir, Edward

Margaret Mead

Thăm dò ý kiến

Bạn thích cuốn "Cơ sở văn hoá VN" của tác giả nào nhất?

Chu Xuân Diên - 4.8%
Lê Văn Chưởng - 0.9%
Trần Diễm Thuý - 1%
Trần Ngọc Thêm - 37.4%
Trần Quốc Vượng - 53%
The voting for this poll has ended on: 26 06, 2020

Tổng mục lục website

tong muc luc

Tủ sách VHH Sài Gòn

tu sach VHH SG

Thống kê truy cập

  • Đang online :
  • 496
  • Tổng :
  • 3 7 7 1 8 1 3 0
  • Đại học quốc gia TPHCM
  • Đại học KHXH&NV
  • Tran Ngoc Them
  • T.c Văn hóa-Nghệ thuật
  • Tc VHDG
  • Viện NCCN
  • Khoa Văn hóa học
  • Khoa Đông phương học
  • Phòng QLKH
  • Khoa Việt Nam học
  • Khoa Hàn Quốc học
  • BM Nhật Bản học
  • Khoa Văn học - Ngôn ngữ
  • Khoa triết học
  • Khoa Quan hệ quốc tế
  • Khoa Xã hội học
  • Bảo tàng Lịch sử - Văn hóa
  • viettems.com
  • myfaifo.com
Previous Next Play Pause

vanhoahoc.vn (các tên miền phụ: vanhoahoc.edu.vn ; vanhoahoc.net)
© Copyright 2007-2015. Bản quyền thuộc Trung tâm Văn hóa học Lý luận và Ứng dụng, Trường Đại học KHXH & NV - ĐHQG Tp. HCM
ĐT (028) 39104078; Email: ttvanhoahoc@hcmussh.edu.vn; ttvanhoahoc@gmail.com. Giấy phép: số 526/GP-BC, do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 27-11-2007
Ghi rõ nguồn vanhoahoc.vn khi phát hành lại các thông tin từ website này.

Website được phát triển bởi Nhà đăng ký tên miền chính thức Việt Nam trực thuộc Trung Tâm Internet VNNIC.

VHVN: Những vấn đề chung