Kỳ 1: "Chuyện trai gái" tại lễ hội táo bạo nhất Việt Nam
Tất cả quy về “hòa hợp âm dương”
Gần nửa đêm, sân miếu Đụ Đị chật kín người, tiếng hò reo rộn rã. Người chơi Trò Trám hát: “Gặp đây em mới hỏi chàng/Cái gì lủng lẳng một gang trong quần”. Lời hát càng “tục”, tiếng cười càng sảng khoái, vỗ tay càng to...
Ông Chủ tịch xã Tứ Xá (Lâm Thao, Phú Thọ) cười gượng, sắc mặt chuyển đỏ, nói với cánh phóng viên: “Đúng 12 đêm là giờ thiêng làm lễ linh tình tình... phộc. Nhưng bây giờ mới là màn độc nhất vô nhị của lễ hội Trò Trám”.
Gần nửa đêm, sân miếu Đụ Đị chật kín người, người xem Trò Trám hò reo rộn rã
Gần 22h đêm, sau phần văn nghệ quần chúng, chúng tôi nói với ông Chủ tịch xã Tứ Xã: “Lễ hội xã mình lạ quá, chỉ diễn ra vào ban đêm”.
Dưới sân miếu Đụ Đị, người đàn ông trong “bộ đồ truyền thống” xanh lòe loẹt, đưa miệng vào loa giấy to như bắp chân, dài cả mét nói: “Loa... loa... loa, xin mời hai hàng sứ giãn ra, để cho phường Trám chúng tôi trình trò, loa... loa... loa”.
Lời ca, tiếng hát, tiếng trống vang lên cùng với nhạc đệm là cối xay, dây đàn bằng chạc, miệng hát "phinh phình phịch, phính phình phinh...”.
Vai nam diễn cảnh người đánh đàn giằng cối xay bước ra, cây đàn còn to hơn cả người, lên dây đàn "két, két, két", rồi thử đàn "phưng, phừng, phưng, phứng, phừng, phưng" hát: “Không đâu vui bằng làng ta/Đàn ông đi tát, đàn bà đi hôi”.
“Diễn viên” của đoàn trò là người nông dân trong làng, họ mang y nguyên nét tự nhiên, mộc mạc lên sân khấu vui nhộn. Và đêm hội làng mở đầu bằng những trò diễn dân gian “Tứ dân chi nghiệp” với hoạt cảnh gắn liền với bốn nghề chính: sĩ, nông, công, thương.
Tiếp tục, vai nam đóng giả nữ chạy lại nắm tay anh đánh đàn hỏi: “Gặp đây em mới hỏi chàng/Cái gì lủng lẳng một gang trong quần”. Chàng trai đáp: “Em hỏi thì anh thưa rằng/Cái đeo lủng lẳng là giằng cối xay.
Khán giả đứng vòng quanh vỗ tay và hát theo. Cô gái trẻ là cán bộ văn hóa xã có khuôn mặt trái xoan nhỏ nhắn, trắng trẻo nói với chúng tôi: “Nếu để ý sẽ thấy, người trong làng từ già trẻ gái trai đều giống như “người lên đồng”, cứ thế vỗ tay theo tiếng trống và hát theo diễn viên một cách say mê, sảng khoái. Nếu ai còn chút gượng gạo bởi câu từ 'táo bạo', đó là người ngoài làng”.
Các trò thợ cày, thợ cấy, thợ mộc, câu cá, đánh lờ, thầy đồ dạy học... trò nào cũng sắc sảo, đùa cợt sâu cay, ngôn từ đầy ẩn ý... tất cả đều quy vào “âm dương hòa hợp”.
Chẳng ai có thể ngờ, sau màn “đánh đàn giằng cối xay” đến lượt ông thầy đồ dạy học bước ra, đám học trò theo sau cứ chực bổ cái nghiên mực xuống đầu thầy. Thỉnh thoảng thầy lại quay lại, đưa roi lên dọa học trò.
Vào chỗ ngồi ngay ngắn, thầy dạy, học sinh đọc theo: “Chữ trên là trên chữ dưới/Chữ dưới nằm dưới chữ trên/Chữ giữa là giữa xung quanh/Xung quanh là vành chữ giữa”. Rồi thầy nói: “Các con học thuộc chữ nào thì trả lại cho thầy chữ ấy để thầy còn đi dạy người khác”. Thế là chữ thầy trả lại cho thầy.
Tiếng reo hò chưa hết, một ông lão râu tóc trắng như cước hai bên hai quang gánh, ngất nghểu vừa đi vừa hát: “Ai ơi chớ bảo tôi già/ Tôi còn gánh nổi cả ba cái lờ”. Khán giả hỏi vui: “Cụ ơi, già thế mà vẫn đi đánh lờ à?” Cụ nói đầy ẩn ý: “Muốn ăn cá diếc thì phải đi đánh lờ chứ”.
Cụ lại đi, thỉnh thoảng vờ ngã vào khán giả, cụ hát: “Công tôi đắp đập be bờ/Không cho người khác đem lờ đến đơm/Ai ơi chớ bảo tôi già/Tôi còn tráng kiện bằng ba đương thì”.
Thấy tôi cười khoái chí, cô gái trẻ cán bộ xã đứng cạnh tôi nói: “Chỉ có chất giọng đặc biệt của người làng Tứ Xã mới diễn được hoạt cảnh này hay và tự nhiên”. Quả đúng như cô gái trẻ nói, cái giọng người Tứ Xã rất nặng, nhầm dấu hỏi ngã, nếu đã nhấn nhá vào chữ nào là... đỏ mặt chữ ấy.
Ông lão râu tóc trắng như cước hát: “Ai ơi chớ bảo tôi già/Tôi còn gánh nổi cả ba cái lờ”
Sau màn diễn “cụ đánh lờ”, đến lượt anh chàng câu cá, cầm cần câu to, dài mắt cứ đong đưa, chĩa cần câu về phía khán giả, miệng đọc vè: “Người ta câu diếc câu rô/Tôi nay câu lấy một cô không chồng/Người ta câu bể câu sông/Tôi nay câu lấy con ông cháu bà”...
Đúng như cô gái trẻ nói, nếu ai không tìm hiểu về “tín ngưỡng phồn thực” sẽ thấy lời ca tiếng hát dung tục, có khi là bậy bạ. Trước khi chúng tôi đến với lễ hội, GS Trần Ngọc Thêm (tác giả cuốn sách Cơ sở Văn hóa Việt Nam) nói rằng, tín ngưỡng phồn thực hiển nhiên là nó phải liên quan đến chuyện "rất con người", tức là chuyện tình dục, chuyện sinh đẻ. Phần phồn thực chính là “giá trị nhất, đặc trưng nhất” của lễ hội này.
Dưới sân miếu, các cô gái làng trong Trò Trám đang hát ví: “Người ta đi cấy lấy công/Tôi nay đi cấy lấy ông chủ nhà/Khi cấy nhớ chổng gốc lên/Ngọn thời cắm xuống mới nên mùa màng”.
“Xem giao hợp, may mắn cả năm”
Gần hai tiếng đồng hồ, hàng nghìn người tại miếu Đụ Đị mệt lả vì những trận cười Trò Trám. Thời khắc 0h đến, miếu Đụ Đị như muốn sập bởi hàng nghìn người xô đẩy, chen nhau cố để nhìn tận mắt “hai vật thiêng” đang cất trong miếu, chỉ mang ra khi làm “lễ mật”.
Cô cán bộ xã đứng cạnh nói với tôi: “Người dân quan niệm, nếu được nhìn thấy tận mắt cảnh giao hợp trong lễ mật sẽ được may mắn”. Cô cán bộ nửa đùa nửa thật nói thêm, sau lễ mật, cụ chủ lễ hô “tháo khoán” là lúc các đôi trai gái được tự do “tâm tình” vượt trên mọi khuôn phép.
Thời khắc đặc biệt đã đến, cụ chủ lễ đã 85 tuổi, râu tóc bạc phơ cẩn trọng lấy chiếc hòm sơn son từ trên “ngăn bí mật” phía trên bàn thờ trong miếu. Không gian yên ắng hơn, nghe rõ cả tiếng thở mạnh của những người hồi hộp đứng xem.
Cụ mở chiếc hòm, lấy ra bộ gỗ sơn son mô tả giống như dương vật và chiếc mảng hình âm vật. Hai vật được làm “giống y như thật” đến mức “người ngoài làng” trông thấy có chút đỏ mặt, một số người trong miếu tủm tỉm cười.
Cụ chủ lễ mở hộp, lấy ra hai vật linh là bộ gỗ sơn son mô tả giống như dương vật và chiếc mảng hình âm vật
Đúng 0h đèn tắt, ông chủ lễ hô khẩu lệnh: “linh tinh tình phộc”. Sau khẩu lệnh, đôi nam nữ “phộc” dương vật - âm vật bằng gỗ vào nhau 3 lần.
Trong bóng tối, dân làng nín thở chờ đợi bởi họ tin rằng nếu đôi trai gái đâm trúng cả 3 lần thì năm đó, âm dương hòa hợp, mùa màng tươi tốt... Sau đủ 3 tiếng “cạch”, đèn lại sáng, “lễ mật – tinh tinh tình phộc” đã thành công .
Sau lễ mật, cụ chủ lễ lại hô to “tháo khoán”, lúc này, các đôi trai gái được “tự do” mọi chuyện, thỏa sức làm “chuyện trai gái” nếu muốn. Nếu 9 tháng 10 ngày sau sinh con, đứa con ấy được coi là “trời ban”, cả làng sẽ cùng nhau nuôi dưỡng.
Phần quan trọng nhất lễ hội: Màn mô phỏng chuyện giao hợp cầu cho mùa màng tươi tốt, làm ăn phát đạt
Tuy vậy, theo các cụ trong làng, trước kia, nơi đây là rừng trám nên các đôi trai gái có chỗ kín đáo trong rừng tâm sự. Nếu ai yêu nhau nhưng bị lễ giáo phong kiến không cho thành vợ thành chồng, đây là lúc để vượt qua mọi ngăn cản, có nhau một đêm xuân tình yêu mặn nồng.
Nhưng thời nay, rừng không còn nữa, trai gái không còn chỗ kín đáo. Phần nữa, có thể do ngày nay tình yêu được tự do, cởi mở hơn nên nhu cầu “tâm sự” tại chỗ cũng phần nào hạn chế.
Kỳ 2: Kỳ lạ ngôi miếu thờ bộ phận sinh sản
“Vật linh” - mô tả hình ảnh dương vật, âm vật
Thời khắc 0h đêm ngày 11 rạng 12 tháng Giêng, miếu Đụ Đị (xã Tứ Xã, Lâm Thao, Phú Thọ) như muốn sập bởi hàng trăm người xô đẩy, chen nhau cố để nhìn tận mắt “hai vật thiêng” đang thờ trong miếu, chỉ được mang ra khi làm “lễ mật”.
Theo các nhà văn hóa, tín ngưỡng phồn thực ở Việt Nam được thể hiện ở việc thờ cơ quan sinh dục của cả nam lẫn nữ và thờ hành vi giao phối. Trên thế giới, nhiều quốc gia có tín ngưỡng nhưng chỉ thờ sinh thực khí của nam. |
Năm nay, người duy nhất được lấy vật này ra là cụ Chử Bá Thơ (85 tuổi). Cụ Thơ là người trông coi miếu, đồng thời là chủ lễ mật.
Cụ chủ lễ cẩn trọng lấy ra chiếc hòm sơn son từ “ngăn bí mật” được đặt phía trên bàn thờ trong miếu. Cụ mở chiếc hòm, lấy ra bộ gỗ sơn son mô tả giống như dương vật của nam và chiếc mảng hình âm vật của nữ làm “lễ mật”...
Cụ Thơ cho biết, ngôi Miếu Trò này là nơi duy nhất còn thờ sinh thực khí (hiểu nôm là công cụ nảy nở, sinh đẻ) trong tín ngưỡng phồn thực của cư dân Việt cổ. Ngôi miếu này thờ một nữ thần rất đặc biệt có tên là Ngô Thị Thanh – thời Hùng Vương. Bà là con của đức ông Ngô Quang Điện - người có công khai dân, lập ấp. Bà Thanh có công dạy dân làng biết cách trồng trọt, chăn nuôi, múa hát và tổ chức các lễ hội.
Sau khi bà Thanh mất, để tưởng nhớ công ơn, dân làng đã lập miếu thờ bà tại làng Trám. Tuy vậy, bởi những trò chơi rất “khác biệt” nên người dân gọi bà là “bà Đụ Đị”, cái tên mang ý nghĩa phồn thực. Miếu cũng được gọi tên là “Đụ Đị”.
Ngôi miếu Trò thờ "linh vật" hiếm hoi tại Phú Thọ
Bên trong ngôi miếu, phía trên bàn thờ bà Đụ Đị là hai "linh vật". Người dân nơi khác có thể gọi là dương vật gỗ – âm vật gỗ hay nõ (bộ phận sinh dục nam) và nường (bộ phận sinh dục nữ)... nhưng dân làng này gọi là “linh vật”. Bởi họ tin rằng, đó là hai vật sinh tồn, nếu đêm “lễ mật”, hai vật đâm trúng cả 3 lần thì năm đó, âm dương hòa hợp, mùa màng tươi tốt...
Người dân Tứ Xã làm hai “linh vật” bằng gỗ mít, gói trong dải khăn son, đặt trong hòm nhỏ sơn son rồi cất trong “ngăn bí mật” phía trên bàn thờ trong miếu. “Vật linh” luôn được gìn giữ tôn nghiêm, cẩn thận, “ngăn bí mật” và chiếc hòm luôn được khóa kín.
Duy nhất một lần trong năm, thời điểm “giờ thiêng” khi làm lễ mật, hai “vật linh” mới được đưa ra để thực hiện nghi thức lễ. Theo quan niệm của người dân, nếu được nhìn thấy tận mắt hai “vật linh” và cảnh giao hợp của hai vật này sẽ được may mắn cả năm.
Người dân quan niệm, ai nhìn tận mắt hai "vật linh" sẽ gặp may mắn
Sân khấu của Trò Trám
Trước khi lễ mật diễn ra, trước ngôi miếu Đụ Đị, đêm hội làng mở đầu bằng những trò diễn dân gian “Tứ dân chi nghiệp” với hoạt cảnh gắn liền với bốn nghề chính: sĩ, nông, công, thương. Đây chính là Trò Trám “độc nhất vô nhị” - hoạt cảnh đặc sắc, tôn vinh giống nòi và sinh thực khí.
Hoạt cảnh luôn vui nhộn bởi tiếng trống, tiếng hát và hàng trăm câu thơ mộc mạc trong sáng, khôi hài, táo bạo. “Diễn viên” của đoàn trò là người nông dân trong làng, họ mang y nguyên nét tự nhiên, mộc mạc tế nhị và dí dỏm lên sân khấu.
Sau hoạt cảnh, cũng tại ngôi miếu thiêng này, sẽ diễn ra “lễ mật”. Đúng 0h, ông chủ lễ lấy đôi “vật linh” trêm khám miếu đưa cho đôi trai gái được làng chọn sẵn. Đèn tắt, ông chủ lễ hô khẩu lệnh: “linh tinh tình phộc”. Sau khẩu lệnh, đôi nam nữ “phộc” dương vật - âm vật bằng gỗ vào nhau 3 lần. Nếu cả 3 lần đều trúng, năm đó cả làng may mắn, làm ăn phát đạt.
Cụ chủ lễ lại hô to “tháo khoán”, lúc này, các đôi trai gái được “tự do” mọi chuyện, thỏa sức làm “chuyện trai gái” nếu muốn.
Cụ Chử Bá Thơ - người trông coi miếu đồng thời là chủ lễ mật đang làm lễ chuẩn bị cho thời khắc thiêng liêng "âm dương giao hợp"
Theo cụ chủ lễ, ngày xưa, các đôi trai gái phải “tâm sự” tại khu rừng trám và xung quanh ngôi miếu Trám. Họ có thể “nghịch” hay “sàm sỡ”, giao hợp xung quanh khu “đất thiêng” này. Đồng thời, đó cũng là cách để làng “kiểm soát” các đôi trai gái có đúng thụ thai khi tham dự đêm “tháo khoán” không. Nếu 9 tháng 10 ngày sau sinh con, đứa con ấy được coi là “trời ban”, cả làng sẽ cùng nhau nuôi dưỡng.
Ngày nay, tục “tháo khoán” không còn, sau khi lễ mật, các đôi trai gái không đi tìm “nơi tâm sự”. Họ trải chiếu trước miếu, cùng nhau thụ lộc, tâm tình. Gần 1 giờ sáng, tiếng hát, tiếng cười vẫn rộn ràng trước ngôi miếu thiêng...
Kỳ 3: Xem lễ hội phồn thực: Sao phải ngượng?
Nước ta có những lễ hội tôn vinh tín ngưỡng phồn thực - liên quan đến chuyện tình dục, sinh đẻ. Một số ý kiến cho rằng, lễ hội này có phần “dung tục”, không phù hợp văn hóa Việt. Do vậy, đề xuất bỏ phần “phồn thực” trong lễ hội đi. Để hiểu rõ hơn về lễ hội phồn thực, PV có cuộc trao đổi với GS. TSKH Trần Ngọc Thêm – tác giả cuốn sách nổi tiếng Cơ sở Văn hóa Việt Nam, Giám đốc Trung tâm Văn hóa học: Lý luận và ứng dụng (Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn TP.HCM).
GS.VS Trần Ngọc Thêm
- PV: Thưa Giáo sư, ông có suy nghĩ gì về ý kiến cho rằng lễ hội phồn thực như Trò Trám ở Phú Thọ “dung tục” bởi tái hiện cảnh nam nữ giao hợp hoặc diễn trò hoạt cảnh với những câu hát, câu thơ đều “quy về chuyện ấy”?
GS Trần Ngọc Thêm: Cái gì cũng có tính hai mặt. Bởi văn hóa một mặt khắc phục cái tự nhiên hoang dã, đưa trình độ tư duy, trình độ sống của con người lên mức cao hơn, “người hơn”; mặt khác, văn hóa có nhiệm vụ giữ cho con người không quá xa rời, tự nhiên, sống gần với thực tế, tránh cái gọi là “đạo đức giả”.
Văn hóa truyền thống Đông Nam Á vốn là văn hóa nông nghiệp gần gũi với tự nhiên, con người chất phác, thuần hậu cho nên có tín ngưỡng phồn thực rất mạnh. Tín ngưỡng này nhằm cầu mong mùa màng tốt tươi nhưng hiển nhiên cũng liên quan đến chuyện "rất con người" là chuyện tình dục, sinh đẻ.
Tuy nhiên, một thời gian dài nước ta bị ảnh hưởng bởi Nho giáo. Để phục vụ cho mục đích quản lý, Nho giáo đưa con người vào những khuôn khổ chặt chẽ. Do vậy có một số mặt gần như đối lập với văn hóa truyền thống của Đông Nam Á, chuyện nam nữ, trai gái thuộc loại như thế.
- Nhưng thưa ông, nhiều người lo ngại những hình ảnh liên quan đến tình dục sẽ ảnh hưởng không tốt đến trẻ em và người chưa hiểu biết về tín ngưỡng phồn thực?
Ở các nước tiên tiến, trẻ em đã bắt đầu được giáo dục giới tính sớm để hiểu biết người nam khác người nữ như thế nào, cơ chế tình dục, sinh sản thế nào..., nhờ thế họ làm tốt được chuyện giữ gìn sức khỏe, sinh đẻ có kế hoạch...
Trong khi đó, người Việt ta bị ảnh hưởng nặng của Nho giáo nên cứ nói đến chuyện nam nữ là “xấu hổ”, không dám nhìn vào sự thật. Giáo trình giáo dục giới tính của chúng ta chưa tốt, ngay thầy cô giáo chưa được rèn luyện môn học giới tính kỹ càng... Trong giờ giáo dục giới tính ở nhà trường, thầy cô đỏ mặt, bỏ qua không nói hoặc nói đại khái qua loa. Kết quả là thanh thiếu niên thiếu hiểu biết, không được giáo dục tốt về giới tính, số trẻ em nữ vị thành niên phải đi nạo phá thai thuộc vào loại cao nhất thế giới.
Do vậy, cần phải phân biệt rõ môi trường nào được nói ra chuyện tình dục, sinh sản, môi trường nào không được nói. Lễ hội Trò Trám nên xem là một hình thức văn hóa đễ giáo dục về sinh sản và giới tính.
Lễ mật tái hiện lại cảnh giao hợp nam nữ
- Có ý kiến cho rằng, nên bỏ những phần phồn thực trong Lễ hội Trò Trám như dựng cảnh giao hợp, lời ca hát nhiều ẩn ý liên quan đến “chuyện trai gái”... sẽ giúp lễ hội phù hợp hơn với xã hội hiện nay. Bản thân lễ hội từng phải dừng lại những năm sau 1945, phần vì đất nước chiến tranh, phần vì bị đánh giá “dung tục”, Giáo sư nghĩ sao về ý kiến này?
Lễ hội Trò Trám có mức độ phồn thực đậm đặc nhất so với những lễ hội khác cũng liên quan đến tín ngưỡng phồn thực, vì Phú Thọ là đất tổ, một vùng đất cổ.
Giá trị nhất, đặc trưng nhất của cái lễ hội nằm ở phần phồn thực nên không thể bỏ đi. Nó sẽ gây tò mò, khiến những người chưa hiểu về tín ngưỡng phồn thực, về sự khác biệt giữa bản sắc truyền thống Đông Nam Á của văn hóa Việt Nam với phần tiếp nhận ảnh hưởng Trung Hoa sau này sẽ bắt tay vào tìm hiểu thêm. Không nên vì mình chưa hiểu được mà yêu cầu bỏ phần phồn thực.
Từ năm 1993, chúng ta bắt đầu khôi phục được Lễ hội Trò Trám là một điều rất tốt.
Hiện nay, trên thế giới, một số quốc gia rất phát triển vẫn còn giữ được những lễ hội văn hóa mang đậm chất phồn thực. Ví dụ như Nhật Bản duy trì rất tốt lễ hội khoả thân nam Hadaka Matsuri (ở đó người tham dự chỉ được phép đóng khố) được tổ chức tại 12 ngôi đền linh thiêng vào mùa hè hoặc mùa đông. Hay lễ hội phồn thực Hounen mà những người đàn ông tham dự khênh trên vai một pho tượng gỗ to cao hình cái dương vật cương cứng, các cô gái trẻ ôm những pho tượng gỗ hình dương vật nhỏ hơn đi hai bên đường, đoàn rước đi từ đền Shinmei Sha tới đền Tagata jinja. Hàng năm, các lễ hội này thu hút rất đông khách du lịch trong và ngoài Nhật Bản.
- Nếu có mặt ở lễ hội Đụ Đị (Phú Thọ) sẽ thấy, người trong dân làng hào hứng với điều mà “người ngoài làng”, khách thập phương cho là tục. Ví dụ như xem hoạt cảnh trong Trò Trám, nghệ nhân hát càng tục, dân trong làng càng hò reo, vỗ tay to. Vì sao có chuyện này, thưa Giáo sư?
Đúng như vậy! Người ngoài làng không được sống trong truyền thống, chưa hiểu biết hết về lễ hội nên không có cảm giác như dân địa phương. Văn hóa không có chuyện đúng sai, văn hóa thể hiện quan niệm, triết lý.
Vì vậy lễ hội trước hết là của làng, sau đó dần được mở rộng ra. Người ngoài nếu muốn đến thì phải “nhập gia tùy tục”, tôn trọng chủ nhà, tranh thủ mà tìm hiểu, quan sát, chứ không nên cười cợt. Chính sự cười cợt mới là thiếu văn hóa.
Mỗi câu hát, trò chơi đều quy vào bộ phận sinh sản nam nữ và chuyện giao hợp trai gái.
- Một phần quan trọng của lễ hội trước đây là “tháo khoán”. Nghĩa là sau Lễ mật, các đôi trai gái có thể tự do yêu đương, có thể giao hợp tại lễ hội. Nhưng nay lễ “tháo khoán” không còn. Sau Lễ mật, các đôi trai gái trải chiếu trước miếu thụ lộc xôi, thịt rượu. Như vậy, một phần giá trị lễ hội đã mất đi, thưa Giáo sư?
Ngày xưa, lễ hội khoanh vùng chủ yếu trong phạm vi một làng. Vì vậy việc “tháo khoán” không phải là sự tự do tùy tiện mà thực ra đã có sự ưng ý của cả đôi bên, những ai có tình ý với nhau, người ta đứng gần nhau, lúc đó dắt nhau đi. Không phải như cách hiểu thông tục là đến đấy quờ tay sang bên cạnh vớ được ai là được dắt người ta đi. Cho nên, trước đây có một số thanh niên Hà Nội nghe đồn “thích làm gì thì làm” nên đã đến lễ hội với hy vọng sờ soạng vài cô nhưng không những không được mà còn bị “ăn tát” nổ đom đóm mắt.
Xã hội ngày nay khác xưa, nhu cầu tâm sự yêu đương đã cởi mở hơn. Bên cạnh đó, phạm vi lễ hội ngày nay quá rộng, không còn thuần khiết. Nếu duy trì “tháo khoán” sẽ không quản lý được và có thể xảy ra những chuyện không hay.
Còn “Lễ mật” - tái hiện cảnh giao hợp không gây ảnh hưởng gì, không làm mất an toàn xã hội. Mà đó là cái tinh hoa nhất của Lễ hội Trò Trám.
Xin trân trọng cảm ơn Giáo sư!
Kỳ 4: Xem “chuyện ấy” để gặp may
Gần nửa đêm 11 tháng Giêng, hàng nghìn người nhảy múa hát, vỗ tay, reo hò “như lên đồng” đứng vây xung quanh sân miếu Đụ Đị. Dưới sân, bà cụ 70 tuổi đánh trống lắc như theo tiếng rộn rã nhịp nhàng, ông lão râu tóc trắng hai bên quang gánh, ngất nghểu vừa đi vừa hát: “Ai ơi chớ bảo tôi già/ Tôi còn gánh nổi cả ba cái lờ” (lờ là dụng cụ đánh cá- PV).
Sau mỗi câu hát “tục” tiếng cười càng sảng khoái...
Cứ thế, gần hai tiếng đồng hồ, trò Trám với hoạt cảnh gắn liền với bốn nghề chính: sĩ, nông, công, thương làm hàng nghìn người tại miếu Đụ Đị mệt lả vì những trận cười. Mỗi câu hát, trò chơi đều quy vào bộ phận sinh sản nam nữ và chuyện giao hợp trai gái... Hiếm có lễ hội nào ở Việt Nam lại táo bạo đến thế!
Có lẽ chả có lễ hội nào lại chỉ “đặc sắc” về đêm như này, sau hoạt cảnh trò Trám diễn ra lúc 22h đêm, hàng nghìn người lại chờ đợi thời khắc 0h làm Lễ mật. “Giờ thiêng” đến, miếu Đụ Đị như muốn sập bởi hàng nghìn người xô đẩy, chen nhau tìm chỗ thuận tiện để chứng kiến nghi lễ. Bởi họ quan niệm, nếu được nhìn thấy tận mắt bộ gỗ sơn son mô tả sinh thực khí nam, sinh thực khi nữ (bộ phận sinh sản nam và nữ) và cảnh quan hệ trong Lễ mật sẽ được may mắn cả năm... Đây cũng là nơi duy nhất ở nước ta còn có lễ hội tái hiện lại cảnh giao hợp của hai bộ phận sinh sản đàn ông, đàn bà.
Cụ Chử Bá Thơ - người trông coi miếu đồng thời là chủ lễ mật đang làm lễ chuẩn bị cho thời khắc thiêng liêng "âm dương giao hợp"
Cùng chứng kiến đêm Đụ Đị, cô cán bộ xã này đứng cạnh nói như giải thích: “Để ý, các anh sẽ nhận ra, khán giả trong làng “như lên đồng”, say mê soảng khoái... Nếu ai còn chút gượng gạo bởi câu từ “táo bạo” chắc chắn không phải người làng này”.
“Được chọn diễn cảnh giao hợp tại Lễ mật là vinh dự”
Ông chủ tịch xã Tứ Xã (Lâm Thao, Phú Thọ) – Nguyễn Hồng Toàn tự hào nói rằng, lễ hội quê ông rất đặc biệt, có “một không hai” ở nước ta. Đáng chú ý nhất chính là diễn trò Trám và Lễ mật như chúng tôi vừa chứng kiến.
Phần lễ hội phồn thực, tưởng như có chút “dung tục” này được ông chủ tịch xã cho là “rất hay”, ngày càng có nhiều người đến xem. Ông cũng cho biết, phần phồn thực chính là nét đặc sắc nhất trong lễ hội.
Nếu hiểu rõ văn hóa, tín ngưỡng phồn thực sẽ thấy lễ hội Trò Trám không có chút gì dung tục. Thay vào đó, sẽ thấy niềm tin, tín ngưỡng, phong tục... Người ta tin “sự giao hòa âm dương” mang lại sự tốt đẹp trong cuộc sống, sinh sôi này nở, con người khỏe mạnh. Ngược lại, người không hiểu nhìn lễ hội theo hướng dung tục, nghĩ về chuyện bậy. Không nên lấy ý nghĩ, lăng kính của mình để áp đặt người khác. GS Ngô Đức Thịnh, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu và bảo tồn văn hoá tín ngưỡng |
Ông Chử Bá Thơ (85 tuổi) có nhiều năm trông coi miếu Đụ Đị đồng thời là chủ Lễ mật kể lại: “Khi còn nhỏ, chúng tôi hay bị người nơi khác chế giễu, mỉa mai là cái đồ linh tinh tình phộc. Hồi đó, chúng tôi nghe mà trong lòng tức tối lắm”.
Theo ông, ngay cả đến bây giờ, không phải ai cũng hiểu rõ về lễ hội phồn thực này, nhất là những người dân nơi khác. Hẳn nhiên, lễ hội phồn thực phải động đến chuyện sinh sản, trai gái. Qua đó, lễ hội này đề cao và tôn trọng con người.
Ví dụ, câu hát tại hoạt cảnh trò Trám: “Chơi xuân cho hết xuân đi /Nay lần mai nữa còn gì là xuân”. Thực ra, câu này có nghĩa: Một đời con người là vậy, trai khôn lấy vợ, gái lớn gả chồng, nếu kén chọn hay quá lứa, lỡ thì.
Nói về sự thiêng liêng của lễ hội, ông Thơ cho hay người dân ở đây vẫn truyền nhau câu hát: “Nửa đêm 11 tháng Giêng / Mật giao một lễ thiêng liêng mở đầu”. Hay nói về giá trị, tục truyền câu ví: “Gần xa nô nức khắp vùng / Về dự chật ních sân trong đường ngoài / Phải chăng hết thảy mọi người / Văn hóa muôn đời từ đó tiến lên”.
Một số ý kiến đề nghị không có “phần phồn thực” trong lễ hội. Nhưng theo ông, bỏ phần phồn thực “lễ hội Trò Trám sẽ không còn giá trị”.
Ông cũng cho hay, bộ gỗ sơn son mô tả sinh thực khí nam, sinh thực khi nữ đang thờ tại ngôi miếu Trò (miếu Đụ Đị) được dân làng gọi là “vật linh”. Bởi họ tin rằng, đó là hai vật sinh tồn, nếu đêm “lễ mật”, hai vật đâm trúng cả 3 lần thì năm đó, âm dương hòa hợp, mùa màng tươi tốt...
Người dân Tứ Xã làm hai “linh vật” bằng gỗ mít, gói trong dải khăn son, đặt trong hòm nhỏ sơn son rồi cất trong “ngăn bí mật” phía trên bàn thờ trong miếu. “Vật linh” luôn được gìn giữ tôn nghiêm, cẩn thận, “ngăn bí mật” và chiếc hòm luôn được khóa kín, chỉ được đưa ra vào “giờ thiêng” - 0h đêm 11 rạng 12 tháng Giêng.
Hai người được chọn cầm hai vật linh diễn cảnh giao hợp trong Lễ mật phải được lựa chọn, có sức khỏe, đạo đức... Ông Thơ nói: “Người được chọn thấy đây là vinh dự”.
GS Ngô Đức Thịnh cho hay, nói lễ hội Trò Trám “dung tục” nghĩa là “không đồng cảm về văn hóa”. Từ xưa lễ hội chỉ diễn ra trong một cộng đồng nhất định. Lễ hội là để thỏa mãn quan niệm đời sống tâm linh người cộng đồng đó, không phải phục vụ người nơi khác. Ông Thịnh cho rằng, nếu có ý kiến muốn bỏ “phần phồn thực”, hãy để tự dân họ bỏ. Ông nói: “Không ai có quyền lên án hoặc đòi xóa bỏ, nếu không phải chính cộng đồng đó”. Theo GS Ngô Đức Thịnh, còn sót lại lễ hội phồn thực Trò Trám là “may mắn cho văn hóa”. |
Kỳ 5: Lễ hội phồn thực: Không ai có quyền cấm “yêu”
Lễ hội không thiêng cho tất cả mọi người
Ông Nguyễn Ngọc Ân, Giám đốc Sở Văn hóa - Thể thao và du lịch tỉnh Phú Thọ cho rằng, lễ hội Trò Trám (xã Tứ Xã, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ) thể hiện tín ngưỡng phồn thực hiếm có trên đất nước ta.
Theo ông, nếu ai hiểu rõ về tín ngưỡng phồn thực sẽ thấy đây là lễ hội “rất đặc sắc”. Đương nhiên, “phồn thực” liên quan đến chuyện sinh sản, “âm dương giao hòa” được thể hiện trong lễ hội một cách hài hước, nhẹ nhàng và nhân văn.
Ông cũng giới thiệu, nổi bật và mang tính phồn thực đậm đặc nhất là Trò Trám và Lễ mật. Trong đó, trò Trám với hoạt cảnh vui nhộn gắn liền với bốn nghề chính: sĩ, nông, công, thương.
Ngôi miếu Đụ Đị tối 11 tháng Giêng hàng năm trở thành sân khấu của hoạt cảnh đặc sắc này. Mỗi câu hát, trò chơi đều chứa đầy ẩn ý làm người xem phải tưởng tượng đến bộ phận sinh sản nam nữ và “chuyện yêu”... Trò Trám luôn hấp dẫn, người xem bao giờ cũng có trận cười nghiêng ngả.
Theo ông Ân, trò Trám tái hiện lại cuộc sống người dân và thể hiện tinh thần đoàn kết, thống nhất, đề cao con người...
Phần quan trọng nhất lễ hội: Màn mô phỏng chuyện giao hợp cầu cho mùa màng tươi tốt, làm ăn phát đạt
Lễ mật – tái hiện cảnh “âm dương giao hòa” diễn ra lúc 0h đêm chính là tái hiện quy luật sinh tồn của con người. Đây là nét văn hóa đặc sắc, hiếm có của đất nước ta được giữ lại tới ngày nay.
Vị Giám đốc Sở cũng cho hay, một thời gian dài trước đây, lễ hội này bị gián đoạn (từ 1945). Nguyên nhân, do điều kiện chiến tranh và “nhận thức” về nghi lễ. Đến năm 1993 lễ hội bắt đầu được khôi phục trở lại. Hiện nay, lễ hội thu hút khá đông người đến tham dự.
Ông Vương Duy Bảo, Phó Cục trưởng Cục Văn hóa Cơ sở (Bộ VH, TT&DL) cho rằng, bản chất lễ hội, nghi lễ phồn thực là của riêng cư dân trong một vùng. Họ quan niệm vật nuôi, vật trồng giống con người phải có “quan hệ âm dương” mới sinh sôi nảy nở, tốt tươi. Đó là quan niệm giản đơn của người xưa, cư dân nông nghiệp.
Ông cũng lưu ý, mỗi lễ hội chỉ linh thiêng với cộng đồng dân cư một vùng nhất định, không thiêng với tất cả mọi người. Ví dụ, quan niệm “xem Lễ mật để gặp may” chỉ có giá trị với người dân Tứ Xã (Lâm Thao), không thiêng liêng với tất cả mọi người.
Chính vì vậy, lễ hội là của riêng một làng, phục vụ cư dân làng, không mời người nơi khác đến xem.
Chỉ có cộng đồng đó mới có quyền bỏ “phần phồn thực”
Các nhà văn hóa đánh giá đây là lễ hội mang đậm tính dân tộc, tuy nhiên, nếu là “người ngoài làng” hoặc chưa hiểu rõ về tín ngưỡng dân gian phồn thực... sẽ thấy lễ hội có phần “dung tục”. Chính vì vậy, có ý kiến cho rằng, nên bỏ “phần phồn thực” - tái hiện “chuyện trai gái” trong lễ hội để phù hợp hơn với xã hội văn minh.
Ông Nguyễn Ngọc Ân nhớ lại, khi lễ hội Trò Trám khôi phục, đã có cuộc tranh cãi về việc có nên bỏ “phần phồn thực” trong lễ hội hay không?. Sau đó, lễ hội các nhà quản lý quyết định giữ nguyên, bởi nếu bỏ đi sẽ mất cái đẹp, bản sắc lễ hội.
Ông nói: “Ai chưa biết, nên tìm hiểu thêm tín ngưỡng phồn thực để có nhận thức đúng về lễ hội, tránh hiểu sai lệch văn hóa dân tộc”.
“Lễ hội thể hiện tính nhân văn, đề cao con người của ông bà ngày xưa, ngày nay cần tiếp tục gìn giữ”.
Gần nửa đêm, sân miếu Đụ Đị chật kín người, người xem Trò Trám hò reo rộn rã
Ông Vương Duy Bảo cũng cho rằng, không ai có quyền can thiệp vào lễ hội, chỉ có quyền “tham gia ý kiến”. Cụ thể, nếu lễ hội “có vấn đề”, các nhà quản lý văn hóa mới tham gia ý kiến “nên hay không làm việc gì đó”. Ví dụ, nếu lễ hội có nghi thức dã man sai pháp luật như lấy người làm vật tế thần, lễ hội gây bẩn thỉu, nhếch nhác, mất vệ sinh, ảnh hưởng môi trường....
Còn lại, phải tôn trọng văn hóa, không ai có quyền can thiệp vào lễ hội của cộng đồng dân cư. Cũng như vậy, theo ông, người dân nơi khác không nên lấy cái nhìn chủ quan của mình để bình xét về “văn hóa người khác”.
Hiện nay, trên thế giới, một số quốc gia rất phát triển vẫn còn giữ được những lễ hội văn hóa mang đậm chất phồn thực. Ví dụ như Nhật Bản duy trì rất tốt lễ hội khoả thân nam Hadaka Matsuri (ở đó người tham dự chỉ được phép đóng khố) được tổ chức tại 12 ngôi đền linh thiêng vào mùa hè hoặc mùa đông. Hay lễ hội phồn thực Hounen mà những người đàn ông tham dự khênh trên vai một pho tượng gỗ to cao hình cái dương vật cương cứng, các cô gái trẻ ôm những pho tượng gỗ hình dương vật nhỏ hơn đi hai bên đường, đoàn rước đi từ đền Shinmei Sha tới đền Tagata jinja. Hàng năm, các lễ hội này thu hút rất đông khách du lịch trong và ngoài Nhật Bản. |
Nguồn: http://khampha.vn