Tên đề tài luận văn:
MỘT SỐ LÀNG NGHỀ THỦ CÔNG TRUYỀN THỐNG
TIÊU BIỂU TỈNH AN GIANG - TIẾP CẬN VĂN HÓA HỌC
4- Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
1.1.1 Khái niệm nghề thủ công và làng nghề thủ công
1.1.3. Lý thuyết địa – văn hoá và lý thuyết vùng văn hoá
1.1.4. Đặc trưng văn hóa của làng nghề
1.2.1. Điều kiện địa lý tự nhiên ở tỉnh An Giang
1.2.2. Các nghề và làng nghề thủ công truyền thống ở tỉnh An Giang
CHƯƠNG 2: MỘT SỐ LÀNG NGHỀ THỦ CÔNG TRUYỀN THỐNG TIÊU BIỂU CỦA TỈNH AN GIANG
CHƯƠNG 3: TIỀM NĂNG VÀ TRIỂN VỌNG PHÁT TRIỀN LÀNG NGHỀ THỦ CÔNG TRUYỀN THỐNG TỈNH AN GIANG
3.1. Tiềm năng phát triển làng nghề
3.1.1. Yếu tố truyền thống của các làng nghề
3.1.3. Lực lượng lao động tại chỗ dồi dào, thời gian nông nhàn lớn
3.2. Triển vọng phát triển làng nghề
3.3. Các giải pháp phát triển làng nghề thủ công truyền thống tỉnh AG
3.3.1. Xây dựng vùng nguyên vật liệu cho làng nghề
3.3.2. Bảo tồn làng nghề truyền thống kết hợp với phát triển du lịch văn hoá dân tộc.
3.3.3. Phát triển thị trường tiêu thụ
3.3.4. Các giải pháp về đào tạo nghề và tập huấn nâng cao tay nghề
3.3.5. Giải pháp về phát triển cơ sở hạ tầng cho làng nghề
3.3.6. Các giải pháp về cơ chế chính sách
3.3.7. Thành lập quỹ khuyến công và tăng cường các hoạt động khuyến công.
TÓM TẮT ĐỀ TÀI:
“MỘT SỐ LÀNG NGHỀ THỦ CÔNG TRUYỀN THỐNG
TIÊU BIỂU TỈNH AN GIANG - TIẾP CẬN VĂN HÓA HỌC"
Ở Nam Bộ nói chung và đồng bằng sông Cửu Long nói riêng ngay từ buổi đầu khẩn hoang lập nghiệp, các cộng đồng người Việt, người Khmer, người Hoa, người Chăm… đã sống trong môi trường văn hóa của nghề thủ công, trong đó có những nghề thủ công được lưu truyền từ miền Bắc, miền Trung. Nghề thủ công tại Nam Bộ nhìn chung khá đa dạng với nhiều ngành nghề truyền thống độc đáo, với những sản phẩm thủ công tiêu biểu tại mỗi xóm nghề, làng nghề, phố nghề và vùng nghề. Chúng biểu hiện và phản ánh sắc nét các đặc điểm, trình độ phát triển kinh tế - xã hội, các sắc thái văn hóa chung của một vùng đất và riêng của mỗi nhóm nghề nghiệp, mỗi cộng đồng cư dân và mỗi thành phần tộc người.
Tỉnh An Giang là vùng đất đa tộc người, đa văn hóa và đa tôn giáo. Người Việt, người Khmer, người Hoa và người Chăm đã chung vai sát cánh xây dựng cơ nghiệp và phát triển các mối quan hệ tộc người gắn bó thân thiết với nhau ngay từ buổi đầu khẩn hoang, lập làng. Ngoài những đóng góp to lớn về mặt kinh tế - xã hội, mỗi tộc người còn tạo ra các giá trị văn hóa truyền thống độc đáo góp phần tô vẽ nên bức tranh đa sắc thái văn hóa của một địa phương.
Ngoài nghề nông trồng lúa và hoa màu được xem là thế mạnh kinh tế hiện nay của tỉnh An Giang, các nghề thủ công đã phát triển từ lâu đời ở đây, hình thành nhiều làng nghề thủ công truyền thống tiêu biểu như nghề mộc và chạm khắc gỗ, nghề gốm, nghề dệt và nhuộm vải lụa, nghề chế biến mắm và nước mắm, nghề nấu đường thốt nốt, nghề đóng ghe xuồng, nghề rèn công cụ sắt, nghề vẽ tranh trên kiếng… Sản phẩm thủ công của nhiều làng nghề có loại độc đáo và trở thành thương hiệu dân gian nổi tiếng khắp cả nước như tơ lụa Tân Châu, chạm khắc gỗ Chợ Thủ, mắm Châu Đốc…
Tuy nhiên, trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế ngày nay, nhiều máy móc thiết bị đã thay thế sức lao động của con người, các sản phẩm công nghiệp được sản xuất hàng loạt khiến cho những sản phẩm thủ công cùng chủng loại phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức trong nền kinh tế thị trường ngày càng rộng mở trên địa bàn Nam Bộ và tại tỉnh An Giang. Một số làng nghề thủ công truyền thống ở tỉnh An Giang đang đứng trước nguy cơ bị mai một hay thậm chí thất truyền như nghề dệt và nhuộm tơ lụa Tân Châu vốn đã nổi tiếng một thời.
Vì vậy, vấn đề cấp bách đặt ra hiện nay và trong tương lai là cần có sự quan tâm tìm hiểu, nghiên cứu toàn diện về làng nghề và nghề thủ công truyền thống ở tỉnh An Giang, đặc biệt là tìm hiểu, nghiên cứu chuyên sâu đối với một số làng nghề thủ công truyền thống tiêu biểu của địa phương để làm cơ sở, luận cứ khoa học góp phần vào việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa, kinh tế, xã hội của làng nghề. Với ý nghĩa đó, chúng tôi chọn đề tài “Một số làng nghề thủ công truyền thống tiêu biểu ở tỉnh An Giang: Tiếp cận văn hoá học” làm đề tài luận văn của mình.
* Bố cục của luận văn:
Luận văn được chia làm 3 chương:
Chương 1: Chương này trình bày cơ sở lý luận, một số khái niệm về làng nghề và nghề thủ công truyền thống, một số lý thuyết nghiên cứu làng nghề thủ công truyền thống dưới góc nhìn văn hoá học; trình bày cơ sở thực tiễn, tập trung tìm hiểu về điều kiện tự nhiên và môi trường sinh thái tác động đến sự hình thành và phát triển làng nghề thủ công truyền thống, giới thiệu khái quát về làng nghề, đặc trưng văn hoá của làng nghề và nghề thủ công truyền thống ở tỉnh An Giang.
Chương 2: Nghiên cứu chuyên sâu một số làng nghề thủ công truyền thống tiêu biểu ở tỉnh An Giang như làng nghề mộc và chạm khắc gỗ của người Việt, làng nghề dệt của người Chăm và làng nghề gốm của người Khmer; tập trung phân tích chủ thể văn hoá, thời gian văn hóa, không gian văn hóa và các giá trị văn hóa, kinh tế, xã hội của làng nghề.
Chương 3: Tìm hiểu tiềm năng, triển vọng phát triển một số làng nghề thủ công truyền thống tiêu biểu ở tỉnh An Giang; đề xuất một số giải pháp bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá, kinh tế, xã hội của làng nghề, quy hoạch phát triển bền vững làng nghề.
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Vận dụng một số lý thuyết văn hóa học để nghiên cứu đề tài:
- Các đặc trưng của văn hoá
- Hệ tọa độ ba chiều của Văn hóa
- Lý thuyết địa văn hóa
- Lý thuyết vùng văn hóa
- Một số tiêu chí xác định làng nghề
- Khái niệm nghề và làng nghề
1.2. Tổng quan về làng nghề thủ công tỉnh An Giang
Lịch sử ghi nhận việc di dân do cuộc chiến Trịnh Nguyễn kéo dài được khởi sự từ 1627. Lúc đó nhiều dòng người đã rời bỏ quê hương, đi tìm đất sống trước hết là ở Đông Nam Bộ, rồi đến đồng bằng sông Cửu Long theo tuyến đường Mỹ Tho, Vĩnh Long chạy dọc hai bên bờ sông Tiền, sông Hậu. Vào năm 1699, khi Nguyễn Hữu Cảnh đến An Giang thì cù lao Tiêu Mộc (nay là cù lao Ông Chưởng) đã có dân cư sinh sống. Các cộng đồng người Việt, người Khmer, người Chăm, người Hoa... ở đây đã xúc tiến công cuộc khẩn hoang, lập làng và triển khai nhiều loại hình hoạt động kinh tế thích hợp nhằm khai thác những lợi thế, tiềm năng sẵn có tại địa phương. Và, vào buổi đầu lập nghiệp, các cộng đồng cư dân này cũng đã tìm kiếm, khai thác những nguồn nguyên vật liệu sẵn có của thiên nhiên để sản xuất, chế biến làm thành các sản phẩm thủ công cần thiết, quen dùng phục vụ cho yêu cầu sản xuất và nhu cầu sinh hoạt hàng ngày của họ.
Họ khai thác những sản vật sẵn có xung quanh mình để tạo chế tạo công cụ lao động (nông cụ và ngư cụ), nhào nặn đất sét làm đồ gốm; dùng sợi mây đan đát đồ dùng, ngư cụ, nhổ lác đan đệm, chẻ tre, trúc làm ghế, giường, bàn, tủ, kệ, chặt đốn cây gỗ dựng nhà, đóng ghe xuồng, xe bò, chằm lá dừa nước để lợp mái, che vách nhà, đánh bắt cá tôm làm khô, mắm, nước mắm...
Riêng đối với người Khmer và người Chăm, họ cũng đã triển khai một số loại hình hoạt động kinh tế truyền thống của mỗi tộc người. Theo Châu Đạt Quan, thì người Khmer đã quen với công việc làm gốm, trồng bông, dệt vải, làm bún, tương, nấu rượu, đóng xe bò, ghe xuồng [29:226]. Trong khi đó, dệt vải lụa, đánh bắt cá trên sông rạch và trao đổi, buôn bán dạo vốn là những hoạt động kinh tế truyền thống của người Chăm.
Đến đầu thế kỷ XVIII, cư dân ở An Giang đã bắt đầu có cuộc sống ổn định nhưng đa số còn rất nghèo, họ khai thác từng lõm đất làm ruộng, phá rừng làm nương rẫy. Vào thời kỳ này, người Việt từ miền Trung tiếp tục được đưa vào đây, trong số đó có những sĩ phu, người thợ thủ công và một bộ phận tù binh được chúa Nguyễn cho làm lao công khai thác đất hoang. Để mở mang vùng đất này, từ năm 1818 trở về sau Thoại Ngọc Hầu vận động cư dân đào kênh Thoại Hà từ Long Xuyên thông qua biển Kiên Giang, đào kênh Vĩnh Tế thông từ Châu Đốc ra biển Hà Tiên, đắp đường đi đến tận Lò Gò và đào kênh thông lên Tân Châu mở ra một vùng rộng lớn, tạo điều kiện thuận lợi cho các cộng đồng cư dân tụ cư, lập nghiệp.
Năm 1832, tỉnh An Giang được thành lập và đến năm 1836 đã có rất nhiều làng được hình thành. Đời sống kinh tế - xã hội của các cộng đồng cư dân ở tỉnh An Giang đã phát triển hơn so với trước đây và nhiều nghề thủ công cũng đã ra đời để đáp ứng nhu cầu sản xuất, tiêu dùng, nhất là đối với nhu cầu ăn, mặc, ở. Ngoài các loại nông cụ, dụng cụ như cày, cối xay lúa, giã gạo, nia, thúng, rổ… được chú ý làm ra từ trước thì làm đồ mộc gia dụng, đóng xuồng độc mộc, chế biến nước mắm, cá, tôm khô, làm gốm, dệt vải...cũng đã bắt đầu phát triển, chủ yếu sử dụng nguyên vật liệu và phụ gia sẵn có của địa phương. Tuy chất lượng sản phẩm của những nghề thủ công trên đây chưa cao nhưng cũng đã đáp ứng được nhu cầu đời sống của cư dân ở tỉnh An Giang lúc bấy giờ.
Người Việt, người Chăm, người Khmer ở An Giang đã xúc tiến việc trồng bông kéo sợi dệt vải và trồng dâu nuôi tằm ươm tơ dệt lụa tạo ra nhiều loại vải có màu sắc và hoa văn độc đáo phục vụ cho may mặc thường ngày và trong các ngày lễ, tết cổ truyền của họ. Người Khmer ở huyện Tri Tôn đã làm đồ gốm từ lâu đời. Đồ gốm như lu đựng nước, nồi nấu cơm, cà ràng, lò than, khuôn đổ bánh khọt, bình bát… đã được ưa chuộng trên thị trường gần xa. Còn người Hoa thường cư trú tập trung ở các thị tứ, chuyên buôn bán và làm một số nghề thủ công chế biến lương thực thực phẩm. Các sản phẩm thủ công làm ra lúc này được mang đi trao đổi, buôn bán ở phạm vi chợ phiên và trong thôn xóm tại địa phương.
Từ giữa thế kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX và về sau này, cư dân ở An Giang đã đông đảo, tập trung. Họ sản xuất ra nhiều loại nông sản hàng hóa, nhất là lúa gạo được tiêu thụ rộng khắp cả nước và xuất khẩu. Nhiều ngành nghề thủ công được phát huy, các làng nghề thủ công được hình thành và phát triển tạo ra thị trường mua bán sản phẩm thủ công phong phú và đa dạng.
Đến trước năm 1975, các làng nghề và nghề thủ công truyền thống ở An Giang sản xuất sản phẩm tiêu dùng rất chú trọng đến mẫu mã, hoa văn, màu sắc... để có thể cạnh trạnh với những mặt hàng công nghiệp và ngoại nhập cùng chủng loại. Tuy nhiên, có không ít làng nghề thủ công truyền thống ở An Giang do không cạnh tranh nổi trên thị trường đã mai một lần hồi như nghề tơ lụa Tân Châu vốn nổi tiếng một thời.
Trong thời gian đầu sau năm 1975, hầu hết hộ gia đình và cơ sở sản xuất của các làng nghề thủ công truyền thống ở An Giang đã tham gia vào làm ăn tập thể trong các hợp tác xã. Đây là mô hình mới và có thể nói là hoàn toàn mới lạ so với cách thức tổ chức sản xuất đã có trước đây của họ. Các hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp thời bao cấp tham gia sản xuất chủ yếu đáp ứng yêu cầu theo chỉ tiêu, kế hoạch được giao nên phần nào đó có ảnh hưởng tiêu cực đến việc tăng năng suất lao động, phát huy sự sáng tạo của những nghệ nhân và những người thợ lành nghề.
Từ năm 1986 đến nay, sau hơn 20 đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, các làng nghề thủ công truyền thống ở tỉnh An Giang được khuyến khích bằng cách hỗ trợ vốn sản xuất nhằm mục đích bảo tồn làng nghề, phát huy các giá trị kinh tế - xã hội và văn hoá của làng nghề, kỹ năng, kỹ xảo của nghệ nhân.
Hiện nay, nhiều làng nghề thủ công truyền thống ở tỉnh An Giang đã được phục hồi và phát triển trở lại trong các cộng đồng cư dân địa phương. Tuy nhiên, trên thực tế cũng đã có một số làng nghề có dấu hiệu suy yếu và mai một dần. Trong khi đó, một số làng nghề thủ công truyền thống tiêu biểu của tỉnh An Giang đã tìm được hướng đi riêng và có bước phát triển mới trong nền kinh tế thị trường, vừa bảo tồn, vừa phát huy các sắc thái văn hóa truyền thống của mỗi làng nghề, trong mỗi thành phần cư dân và mỗi cộng đồng tộc người. Các nghệ nhân thủ công đã không ngừng tìm tòi, sáng tạo cải tiến công cụ, kỹ thuật, đổi mới mẫu mã sản phẩm, mở rộng qui mô sản xuất. Kỹ thuật – công nghệ hiện đại được đưa vào thay thế lần hồi một số khâu trong qui trình sản xuất của một số nghề thủ công nhằm tăng năng suất lao động, tạo ra hàng loạt sản phẩm có kích cỡ, mẫu mã giống nhau, đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trên thị trường nội địa và xuất khẩu.
Thế nhưng tính độc đáo và đa dạng của sản phẩm thủ công vẫn được lưu giữ thông qua "bí quyết" nghề nghiệp "cha (hay mẹ) truyền con nối" và bằng bàn tay khéo léo, điêu luyện chăm chút mỗi sản phẩm thủ công của các nghệ nhân tại mỗi làng nghề nhất định. Các sản phẩm thủ công nổi tiếng thường được gắn với tên địa danh, nơi sản sinh ra chúng như mắm Châu Đốc, đồ mộc chạm khắc Chợ Thủ, vải thổ cẩm Chăm Châu Phong, gốm Khmer Châu Lăng…
CHƯƠNG 2: MỘT SỐ LÀNG NGHỀ THỦ CÔNG TRUYỀN THỐNG TIÊU BIỂU CỦA TỈNH AN GIANG
2.1 Làng nghề mộc - chạm khắc gỗ của người Việt ở Chợ Thủ, xã Long Điền A, huyện Chợ Mới (gọi tắt làng mộc Chợ Thủ)
Làng mộc Chợ Thủ đã để lại nhiều dấu ấn mỹ thuật, phần nào chứng minh được công phu điêu khắc, chạm trỗ của các thợ chạm còn lưu giữ qua nhiều thế hệ thông qua các sản phẩm tại các đình, chùa ở An Giang (quan sát ngôi đình Chợ Thủ và chiếc ghế Cửu Long ở chùa Ông Đạo Nằm sẽ hiểu được điều đó). Tất cả đều là những công trình kiến trúc bằng gỗ với nghệ thuật trang trí, điêu khắc tinh xảo thể hiện trên các hoành phi, liễn đối, trang thờ, phù điêu… Đề tài trang trí trong các tác phẩm chạm khắc gỗ cũng rất phong phú, thường đề cập đến những đề tài có tính truyền thống nghệ thuật dân gian như Tứ linh, Tứ thời, Ngũ phúc, Bát tiên, Bát bửu, …
Sản phẩm của làng mộc Chợ Thủ thể hiện đậm nét giá trị văn hóa tinh thần. Mỗi sản phẩm thủ công được xem là tác phẩm nghệ thuật, là nét tiêu biểu và độc đáo mang đậm yếu tố văn hóa truyền thống của dân tộc, đồng thời thể hiện sắc thái riêng, đặc tính riêng của mỗi làng nghề. Các sản phẩm của làng nghề chính là sự kết tinh, sự giao lưu và phát triển các giá trị văn hóa, văn minh của dân tộc. Sự thể hiện phong cách, bản sắc văn hóa còn được thể hiện qua kiểu dáng và sản phẩm đặc trưng của làng nghề.
Giá trị văn hóa của làng nghề còn biểu hiện ở lối sống, phong tục tập quán của làng. Mỗi làng nghề thủ công truyền thống là một cộng đồng dân cư sinh sống cùng có chung các thiết chế văn hóa như phong tục, tập quán, nếp sống, tín ngưỡng…điều này thể hiện yếu tố chung của văn hóa dân tộc, vừa mang nét riêng của mỗi làng nghề.
Ngoài ra làng mộc Chợ Thủ còn là nơi bảo lưu các tinh hoa nghệ thuật và kỹ thuật sản xuất từ đời này sang đời khác của các nghệ nhân Tám Dinh, Chín Sếu, Tư Chia,…..Đội ngũ nghệ nhân này trong suốt thời gian qua đã luôn tiếp nối và phát huy tinh hoa nghề nghiệp, dẫn dắt nhiều thế hệ trẻ học tập và kế thừa kỹ thuật sản xuất truyền thống của làng nghề.
Tóm lại, Làng mộc Chợ Thủ có vai trò và ý nghĩa rất to tớn, không những mang lại những giá trị về kinh tế, xã hội mà còn khẳng định các giá trị văn hóa độc đáo của mình thông qua việc bảo lưu và phát huy các kỹ thuật chạm khắc gỗ thủ công truyền thống hết sức tinh xảo, đòi hỏi rất nhiều kỹ năng, óc sáng tạo, được xem là vốn quý trong kho tàng di sản văn hóa phi vật thể của địa phương cần được bảo tồn.
2.2 Làng nghề dệt của người Chăm ấp Phũm Soài, xã Châu Phong, huyện Tân Châu, tỉnh An Giang (gọi tắt làng dệt Châu Phong)
Giá trị văn hóa làng dệt Châu Phong thể hiện qua cách ứng xử của cư dân với môi trường tự nhiên, khai thác và tận dụng các vật liệu từ thiên nhiên để tạo ra nét riêng, nét độc đáo cho từng loại sản phẩm thủ công. Làng nghề này đến nay vẫn còn bảo lưu đậm nét các yếu tố văn hóa truyền thống của dân tộc thể hiện qua việc thiết kế, sử dụng khung dệt phóng thoi, các thao tác kỹ thuật dệt vải, các mẫu hoa văn sản phẩm, trong đó độc đáo hơn cả vẫn là kỹ thuật dệt ikat, cách chế biến, sử dụng các phẩm nhuộm được chiết xuất từ thiên nhiên, cách phối màu trên sản phẩm vải. Nếu như thổ cẩm của người Êdê chủ yếu sử dụng 2 màu đen, đỏ; người Bana thì lấy màu vàng làm màu chủ đạo thì sản phẩm dệt Chăm Châu Phong hầu như hội đủ các màu. Trên quần áo, những túi, ví nhỏ được lấp đầy những hoa văn đủ các màu sắc nhưng không sặc sở, lòe loẹt. Tùy theo mẫu hoa văn, đôi khi việc phối màu được làm trực tiếp ngay trên khung dệt. Để đa dạng hóa sản phẩm, thỏa mãn nhu cầu khách hàng, đòi hỏi các nghệ nhân nơi đây không ngừng sáng tạo hàng loạt các mẫu hoa văn, cách phối màu khác nhau...
Ngoài ra, điểm đặc sắc của sản phẩm dệt Chăm còn thể hiện trên các mẫu hoa văn trang trí. Các đồ án này chủ yếu dựa vào mẫu mã hoa văn truyền thống của người Chăm do tổ tiên truyền lại hoặc dựa trên cảnh trí của thiên nhiên, môi trường xung quanh.
Hoa văn dựa vào các mẫu cổ xưa để lại thường là vân mây, mắc võng, bông lúa, kéo nhà, kiểu dệt ikat… Căn cứ vào các mẫu hoa văn gốc này, các thế hệ sau phát triển thêm, đôi khi có biến tấu đôi chút theo yêu cầu của khách hàng nhưng cốt lõi vẫn phải hàm chứa đặc trưng văn hóa của dân tộc. Đặc biệt là hoa văn mây trôi là một sáng tạo độc đáo của người thợ dệt Chăm An Giang. Với sản phẩm ikat của kỹ thuật nhuộm thiền, hoa văn mây trôi được thiết kế trên nền vải màu tím, hoặc xanh lục hoặc trên nền vải sọc, caro. Nếu là sản phẩm thổ cẩm, thì cũng có rất nhiều môtíp như hoa văn ô trám ở chân, hoa văn zíc zắc viền hai bên đường biên, hoa văn nổi chữ ở thân và hoa văn sóng nước theo đoạn của tấm vải.
Giá trị văn hóa làng nghề còn thể hiện ở tính cộng đồng, phong tục tập quán làng nghề. Trong môi trường làng nghề mọi người đều giúp đỡ đùm bọc, yêu thương nhau, người lớn tuổi truyền đạt kinh nghiệm cho người nhỏ tuổi, người đến trước hướng dẫn người đến sau, cứ như thế mà đến nay làng nghề dệt của người Chăm Châu Phong ngày càng mở rộng và phát triển.
Tuy nhiên, kỹ thuật nhuộm màu, kỹ thuật ikat, thiết kế hoa văn trên vải vẫn được xem là những bí quyết của từng gia đình, dòng họ, thể hiện sự khéo léo, sáng tạo và vượt trội giữa những nghệ nhân với nhau và những bí quyết này thường chỉ được lưu truyền trong gia đình, dòng họ.
Tựu trung lại, có thể nói làng dệt Châu Phong đã góp phần to lớn trong việc giữ gìn, bảo lưu bản sắc văn hóa của dân tộc mình nói riêng và làm đa dạng các sắc thái văn hóa của tỉnh An Giang nói chung. Kỹ thuật – công nghệ dệt Chăm đã biến những nguyên liệu thô sơ thành những sản phẩm thủ công vô cùng phong phú, thẩm mỹ. Những công cụ của nghề dệt Chăm như các khung dệt, khung kéo canh, con thoi… hàm chứa giá trị văn hóa phi vật thể rất cao về sự khéo léo, óc sáng tạo của nhiều thế hệ nghệ nhân người Chăm.
2.3 Làng nghề gốm của người Khmer ấp An Thuận, xã Châu Lăng, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang (gọi tắt làng gốm Châu Lăng)
Làng nghề gốm đã góp phần làm phong phú thêm đời sống văn hóa, tinh thần của người Khmer tại xã Châu Lăng huyện Tri Tôn nói riêng và tỉnh An Giang nói chung. Những kiểu dáng sản phẩm, những hoa văn được thể hiện trên thân gốm, những thao tác nắn, dập, vuốt, chuốt láng hoặc in hoa văn cho sản phẩm đều bằng những động tác thủ công, tất cả đều được người thợ gốm thao tác một cách thuần thục. Mỗi một món hàng như: lu, nồi, cà ôm, cà ràng, chậu hoa, bình hoa, bình bát… đều hàm chứa sự sáng tạo, kinh nghiệm sống hay thậm chí nó còn phản ánh trình độ nhận thức đặc trưng người thợ trong từng thời điểm, từng giai đoạn thể hiện qua kiểu dáng, đường nét đặc trưng, sự tô điểm cho sản phẩm thêm phần duyên dáng và xinh xắn bởi sự kết hợp và pha trộn những kiểu mẫu hoa văn dập chìm như trên thân nồi, đắp nổi như trên cổ lu, cổ bình hoa hay các ngấn xoắn quanh phần vành ở bụng cà ràng… Do vậy nó được xem như giá trị văn hóa - nghệ thuật của cộng đồng, phản ánh một nét sinh hoạt đời thường trong từng giai đoạn lịch sử của dân tộc Khmer tại địa phương.
Nét văn hóa của nghề gốm còn được thể hiện qua tính cộng đồng của làng nghề. Mỗi người thợ trong làng nghề thường gắn bó, giúp đỡ lẫn nhau, tạo nên không khí nhộn nhịp có tổ chức, có ý thức về vai trò và trách nhiệm cao trong quá trình hoạt động sản xuất. Bước vào tham quan làng nghề trong thời điểm các hộ sản xuất, chúng ta nhận thấy một không khí làm việc thật nhộn nhịp nhưng nghiêm túc, mỗi người mỗi việc nhịp nhàng, ăn ý và nhuần nhuyễn. Người trước luôn nhiệt tình cầm tay chỉ việc cho người sau, không có sự tị hiềm, giấu giếm kinh nghiệm hay tay nghề. Đặc biệt nghề gốm người Khmer không có tục thờ tổ nghề như những ngành nghề thủ công khác.
Giá trị văn hóa độc đáo và nổi bật nhất của làng gốm Châu Lăng chính là kỹ thuật chế tác đồ gốm, tất cả đều được làm bằng tay cộng với kinh nghiệm và khối óc sáng tạo của con người, người Khmer Châu Lăng chưa biết đến kỹ thuật dùng bàn xoay như hiện nay. Đây là kỹ thuật làm gốm khá nguyên thủy, còn bảo lưu ở một số ít cư dân các dân tộc ở nước ta.
Chính nét giản dị, mộc mạc mà độc đáo của làng gốm Châu Lăng đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước như Mỹ, Úc, Nhật… Vì vậy nghề gốm của người Khmer ở Tri Tôn ngoài giá trị kinh tế, cần có sự quan tâm nghiên cứu bảo vệ nhằm phục vụ cho các mục đích văn hóa, khoa học và du lịch…
Tóm lại, có bao nhiêu làng nghề là có bấy nhiêu giá trị văn hóa lịch sử của riêng nó, nó phản ánh nếp sinh hoạt, nhận thức, văn hóa của từng giai đoạn. Do vậy, mỗi một làng nghề tại địa phương đều được xem là những di sản văn hóa quý báu của đồng bào dân tộc còn lưu lại trên vùng đất An Giang này bởi nó vừa bảo lưu được sự tinh xảo trong kỹ thuật chế tác truyền thống vừa phục vụ cho sinh hoạt của cộng đồng dân tộc, đồng thời vừa là hàng hóa để trao đổi, giao thương với bên ngoài. Tuy nhiên, do những thăng trầm của lịch sử, sự hiện đại hóa công nghệ sản xuất dần thay thế những công cụ thủ công đã tạo nên sự cạnh tranh gay gắt giữa các sản phẩm làng nghề với hàng công nghiệp trên mọi khía cạnh. Đó chính là nguyên nhân dẫn đến sự suy vong của các làng nghề trong tỉnh An Giang vì sản xuất không có "đầu ra", kéo theo thu nhập bấp bênh, nghệ nhân phải bỏ nghề tìm một công việc khác để mưu sinh, các thế hệ sau chán nản không nối tiếp nghề truyền thống của gia đình dẫn đến thất truyền... Do vậy cần có sự quan tâm, định hướng và hỗ trợ từ chính quyền để làng nghề có thể duy trì, hoạt động hiệu quả và phát triển bền vững, góp phần bảo vệ sắc thái văn hóa độc đáo của địa phương, đồng thời tạo việc làm thêm cho người lao động ở nông thôn. Trong xu thế hội nhập ngày hôm nay, nếu hoạt động kinh tế làng nghề được quan tâm đúng mức, chắc chắn sẽ tạo đà cho các làng nghề phát triển để hoà nhịp cùng đất nước trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
CHƯƠNG 3: TIỀM NĂNG VÀ TRIỂN VỌNG PHÁT TRIỀN LÀNG NGHỀ THỦ CÔNG TRUYỀN THỐNG TỈNH AN GIANG
An Giang là một tỉnh biên giới có nhiều đặc thù nhất ĐBSCL, vừa có sông ngòi, rừng núi, đặc biệt là tỉnh có 4 dân tộc Chăm, Hoa, Khmer, Kinh cùng chung sống. Sự đa dạng về dân tộc đã tạo nên sự đa dạng và phong phú của nền văn hoá tại địa phương. Các làng nghề truyền thống thường là nơi đất chật, người đông; người nông dân muốn tồn tại được đều phải bươn chải kiếm thêm các nghề phụ ngoài nông nghiệp. Hơn nữa, truyền thống văn hóa và bản chất cần cù khéo léo, sáng tạo của cư dân ở đây đã làm cho các làng nghề thủ công trở nên nổi tiếng như nghề dệt Chăm ở ấp Phũm Soài, xã Châu Phong, huyện Tân Châu, nghề mộc Chợ Thủ, xã Long Điền A, huyện Chợ Mới, nghề làm mắm ở thị xã Châu Đốc, nghề làm gốm, làm đường Thốt nốt của người Khmer ở huyện Tri Tôn…
Yếu tố truyền thống của các làng nghề là một tiềm năng to lớn của địa phương. Trong đó, có nhiều làng nghề đã tồn tại lâu đời và làm ra những sản phẩm mang tính đặc trưng, được thị trường trong và ngoài nước ưa chuộng. Truyền thống của làng nghề từ lâu đã trở thành một bộ phận không thể thiếu được của văn hóa dân gian, làm phong phú và sâu sắc thêm truyền thống văn hóa dân tộc. Lợi thế của các làng nghề truyền thống là có thể tập trung một lực lượng lao động lớn, giá nhân công rẻ, bên cạnh đó, đa số các làng nghề hình thành ban đầu đều xuất từ nguồn nguyện vật liệu vô cùng phong phú tại địa phương hoặc vùng lân cận. Do vậy, tiềm năng của các làng nghề nghề truyền thống tỉnh An Giang, cần nghiên cứu, định hướng và phát triển một cách hiệu quả, bền vững
* KẾT LUẬN:
Làng nghề truyền thống ở An Giang có vị trí, vai trò hết sức quan trọng trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương; trong những năm vừa qua, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, làng nghề truyền thống được phục hồi và phát triển, sản phẩm làm ra ngày càng đa dạng và phong phú, đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Sự phát triển mạnh mẽ của làng nghề cho phép khai thác triệt để tiềm năng về lao động, về nguyên liệu và trình độ tinh xảo của các nghệ nhân. Song làng nghề truyền thống hiện nay đang đứng trước những khó khăn rất lớn như khả năng tiêu thụ yếu, thiết bị sản xuất quá cũ kỹ, lạc hậu, thiếu vốn, nguồn nguyên liệu không ổn định…đã làm cho không ít làng chưa phục hồi được, nhiều nghề truyền thống đang đứng trước nguy cơ bị mai một, đời sống người lao động trong một số làng nghề gặp khó khăn (như nghề gốm Châu Lăng)... hay nổ lực tìm được thị trường đầu ra thì do kỹ thuật sản xuất thủ công lạc hậu nên không đáp ứng được nhu cầu của thị trường (làng dệt Châu Phong). Tuy nhiên, với trí thông minh sáng tạo của người lao động và truyền thống lịch sử của làng nghề, nếu được sự quan tâm hỗ trợ đúng mức của Đảng và Nhà nước, trong thời gian tới các làng nghề truyền thống sẽ từng bước phục hồi và phát triển.
Qua nghiên cứu một số làng nghề thủ công truyền thống tiêu biểu ở An Giang, có thể rút ra kết luận chung như sau:
1. Sự hình thành và phát triển làng nghề truyền thống là một tất yếu khách quan, nó gắn bó hữu cơ với nông nghiệp và công nghiệp, đồng thời góp phần thúc đẩy nhanh quá trình phân công lao động xã hội và công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Phát triển làng nghề truyền thống là một nhiệm vụ có tính chiến lược, có vai trò to lớn đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động ở nông thôn. Mặt khác, sự phát triển của làng nghề truyền thống là bộ phận cơ bản nhất cấu thành lịch sử văn hóa của địa phương và của vùng. Trong quá khứ cũng như hiện tại, nó chính là yếu tố biểu hiện tập trung nhất bản sắc dân tộc của địa phương, do vậy cần được bảo tồn, kế thừa và phát huy hơn nữa.
2. Làng nghề thủ công truyền thống ở An Giang trong các năm qua đã phát triển đáng kể về số lượng (hơn 83 làng nghề), đóng góp khá quan trọng vào sự tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, góp phần làm thay đổi bộ mặt nông thôn. Các sản phẩm do làng nghề sản xuất ra, bước đầu đã đáp ứng được nhu cầu thiết yếu của đời sống dân cư nông thôn và phần nào đó cho xuất khẩu.
3. Bên cạnh các đóng góp, trong quá trình phát triển, các làng nghề cũng gặp phải nhiều khó khăn, trong đó đáng kể là thị trường tiêu thụ, vốn và thiết bị sản xuất, trình độ chuyên môn của lao động. Bên cạnh đó, Nhà nước chưa có một hệ thống chính sách đầy đủ, đồng bộ tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển làng nghề và làng nghề thủ công truyền thống. Sự quan tâm của các cấp chính quyền đối với làng nghề cũng còn hạn chế, nhất là thiếu sự hỗ trợ giúp đỡ về định hướng phát triển, vốn, thị trường. Các làng nghề phát triển sản xuất kinh doanh còn mang nặng tính tự phát, không đều giữa các địa phương và thiếu cơ sở vững chắc.
4. Để phát huy vai trò và ý nghĩa to lớn của làng nghề truyền thống cần phải thực hiện một hệ thống các giải pháp, trong đó các giải pháp trọng tâm là tổ chức lại quan hệ sản xuất tại các làng nghề theo hướng khuyến khích phát triển kinh tế hợp tác tại các làng nghề có trình độ phát triển thấp; phát triển doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp hữu hạn, công ty cổ phần tại các làng nghề có trình độ phát triển cao; đào tạo nâng cao tay nghề, đầu tư vốn, đa dạng hoá sản phẩm, xây dựng thượng hiệu… Đồng thời, các địa phương cần sớm ban hành hoặc cụ thể hoá các chính sách khuyến khích khôi phục và phát triển làng nghề như chính sách thuế, cho vay vốn, chính sách khen thưởng… và tăng cường hơn nữa vai trò quản lý nhà nước đối với làng nghề thủ công.