ĐỀ TÀI LUẬN VĂN THẠC SĨ :
TÍNH CÁCH NGƯỜI NÔNG DÂN VIỆT NAM
QUA MỘT SỐ TÁC PHẨM VĂN XUÔI
THỜI KỲ ĐỔI MỚI NHÌN TỪ VĂN HÓA HỌC
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu
6. Bố cục luận văn
Chuơng 1 : NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1. 1. Mối quan hệ văn học và văn hóa. Hướng nghiên cứu văn hóa học văn học
1.1. 1. Mối quan hệ giữa văn học và văn hóa
1.1. 2. Hướng nghiên cứu văn hóa học văn học
1. 2. Tính cách nhân vật trong văn học và hướng nghiên cứu tâm lý nhân cách trong văn hóa
1. 2. 1. Tính cách nhân vật trong văn học
1. 2. 2. Hướng nghiên cứu tâm lý, nhân cách trong văn hóa
1. 3. Đề tài nông thôn và nông dân trong văn xuôi thời kỳ đổi mới
1. 3. 1. Bối cảnh lịch sử
1. 3. 2. Đề tài nông thôn và nông dân trong tác phẩm văn xuôi thời kỳ đổi mới nói chung và trong sáng tác của các nhà văn Nguyễn Minh Châu, Lê Lựu, Nguyễn Khắc Trường, Nguyễn Huy Thiệp nói riêng
Chương 2: TÍNH CÁCH NGƯỜI NÔNG DÂN VIỆT NAM QUA MỘT SỐ TÁC PHẨM VĂN XUÔI THỜI KỲ ĐỔI MỚI TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA NHẬN THỨC
2. 1. Tư duy tổng hợp chú trọng các mối quan hệ
2. 2. Triết lý âm dương và lối sống quân bình hướng tới sự hài hòa
Chương 3: TÍNH CÁCH NGƯỜI NÔNG DÂN VIỆT NAM QUA MỘT SỐ TÁC PHẨM VĂN XUÔI THỜI KỲ ĐỔI MỚI TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA ỨNG XỬ VỚI MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN
3. 1. Tận dụng, đối phó với môi trường tự nhiên trong sản xuất
3.2. Tận dụng, đối phó với môi trường tự nhiên trong ăn, mặc, ở, đi lại
Chương 4: TÍNH CÁCH NGƯỜI NÔNG DÂN VIỆT NAM QUA MỘT SỐ TÁC PHẨM VĂN XUÔI THỜI KỲ ĐỔI MỚI TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA TỔ CHỨC XÃ HỘI NÔNG THÔN
1. 1. Tính cách người nông dân xuất phát từ tính cộng đồng và tính tự trị
1. 2. Tính cách người nông dân xuất phát từ mối quan hệ gia đình - gia tộc, làng - nước
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU KHẢO SÁT, TÀI LIỆU THAM KHẢO
TÓM TẮT ĐỀ TÀI LUẬN VĂN :
TÍNH CÁCH NGƯỜI NÔNG DÂN VIỆT NAM QUA MỘT SỐ
TÁC PHẨM VĂN XUÔI THỜI KỲ ĐỔI MỚI
NHÌN TỪ VĂN HÓA HỌC
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI VÀ MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Ngày nay, nghiên cứu văn hóa đã và đang trở thành một vấn đề bức thiết. Để nghiên cứu văn hóa có nhiều hướng tiếp cận, trong đó, nghiên cứu văn hoá từ văn học, là một hướng quan trọng. Việt Nam là một quốc gia nông nghiệp, có đến hơn 80% dân số là nông dân. Bởi vậy, về bản chất, văn hóa Việt Nam là văn hóa nông thôn.
Văn học là một mảng tư liệu cực kỳ phong phú, nó miêu tả rất cụ thể, tỉ mỉ và rất thành công xã hội nông thôn và người nông dân Việt Nam. Bởi thế, sẽ là rất thiếu sót nếu chưa khai thác tối đa văn học trong nghiên cứu về văn hóa nông thôn, về tính cách người nông dân Việt Nam.
Văn học là một bộ phận của văn hóa. Trong nền văn học Việt Nam thì văn xuôi nói chung và văn xuôi thời kỳ đổi mới (1986- 2000) chiếm một vị trí quan trọng.
Nhằm mục đích nghiên cứu văn hoá thông qua con đường văn học, chúng tôi muốn nghiên cứu tính cách người nông dân Việt Nam (mà thật ra là nghiên cứu tính cách người Việt Nam, vì suy cho cùng, người Việt Nam nào cũng mang nguồn gốc nông dân!) chủ yếu dựa trên một số tác phẩm văn xuôi thời kỳ đổi mới (1986 -2000).
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề tính cách người nông dân Việt Nam thông qua hình ảnh của họ đã được khắc họa trong một số tiểu thuyết và truyện ngắn giai đoạn 1986 - 2000. Luận văn tập trung khảo sát, nghiên cứu các tác phẩm của các nhà văn Lê Lựu (Thời xa vắng), Nguyễn Khắc Trường (Mảnh đất lắm người nhiều ma) (mảng tiểu thuyết) và Nguyễn Minh Châu (Tuyển tập truyện ngắn), Nguyễn Huy Thiệp (Tuyển tập truyện ngắn) (mảng truyện ngắn).
3. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
- Các nhà nghiên cứu văn hóa nói về tính cách người nông dân Việt Nam: Đào Duy Anh, Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Vĩnh, Trần Quốc Vượng, Nguyễn Văn Hạnh, Phan Ngọc, Trần Ngọc Thêm…Trong đó đáng chú ý nhất là tác giả Trần Ngọc Thêm vì ông đã tổng kết tính cách người nông dân Việt Nam một cách rất khoa học, hệ thống dựa trên cơ sở cấu trúc văn hóa và loại hình văn hóa.
- Các nhà văn, nhà phê bình văn học cũng bàn về tính cách người nông dân Việt Nam qua một số tác phẩm văn học, những bài báo, hội thảo…Chẳng hạn các tác giả: Hoàng Ngọc Hiến, Trần Đăng Khoa, Trịnh Thu Tuyết, Nguyễn Văn Kha, Trần Cương…và rất nhiều người khác
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ NGUỒN TÀI LIỆU
- Phương pháp nghiên cứu văn hóa học-văn học. Phương pháp này chủ yếu dựa trên tư liệu văn học để nghiên cứu văn hóa, từ đó sẽ có những kết luận về văn hóa
- Phương pháp so sánh: Trên cơ sở của những sự tương đồng và khác biệt về tính cách người nông dân Việt Nam có trong các tác phẩm nghiên cứu và tính cách người nông dân truyền thống thể hiện qua tục ngữ, ca dao..
Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác như: phương pháp hệ thống, phương pháp phân tích tác phẩm…
Về nguồn tài liệu, chúng tôi tìm tòi, tra cứu trong các thư viện trường Đại học KHXH& NV Thành phố Hồ Chí Minh, thư viện Khoa học Xã hội và một số nhà sách lớn ở Thành phố Hồ Chí Minh.
5. BỐ CỤC LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn gồm 4 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung
Chương 2: Tính cách người nông dân qua một số tác phẩm văn xuôi thời kỳ đổi mới từ góc nhìn văn hóa nhận thức
Chương 3: Tính cách người nông dân Việt Nam trong một số tác phẩm văn xuôi thời kỳ đổi mới từ góc nhìn văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên
Chương 4: Tính cách người nông dân qua một số tác phẩm văn xuôi thời kỳ đổi mới từ góc nhìn văn hóa tổ chức xã hội ở nông thôn
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1. 1. Mối quan hệ văn học và văn hóa. Hướng nghiên cứu văn hóa học văn học
1. 1. 1. Mối quan hệ giữa văn học và văn hóa
Văn học đồng thời cũng là một bộ phận của văn hoá. Giữa văn học và văn hoá có một mối liên hệ khăng khít. Hơn thế nữa, đó là mối quan hệ biện chứng, đa chiều … trong quá trình phát triển và bảo tồn. Mối quan hệ đó mật thiết đến nỗi giáo sư Phan Ngọc đã từng nhận xét: “Văn hoá trước hết là văn học, và đối với người Việt Nam thì gần như chỉ là văn học” [Phan Ngọc 1994: 37].
Về vấn đề mối quan hệ giữa văn học và văn hóa, một số nhà nghiên cứu có ít nhiều đề cập trong tác phẩm của mình, thông qua việc đánh giá về vị trí, vai trò hay tầm quan trọng… của văn học đối với văn hóa.
Công trình Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam” của tác giả Trần Ngọc Thêm (NXB. Tổng hợp TP.HCM, 2004).
Công trình Bản sắc Việt Nam qua giao lưu văn học của tác giả Nguyễn Bá Thành (NXB. Đại học Quốc gia, HN, 2006) có sự quan tâm nhiều hơn đối với mối quan hệ văn học và văn hóa.
Công trình Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học của tác giả Đỗ Thị Minh Thúy (NXB. Văn hóa Thông tin, HN, 1997) có thể nói, là dày dặn nhất (334 trang) bàn về vấn đề mối quan hệ văn học và văn hóa.
1. 1. 2. Hướng nghiên cứu văn hóa học văn học
Văn hóa học văn học là một phân môn của văn hóa học, cũng tương tự như văn hóa học địa lý, văn hóa học lịch sử, văn hóa học tôn giáo, văn hóa học kinh tế, văn hóa học chính trị, văn hóa học nghệ thuật…Hướng nghiên cứu văn hóa học văn học cũng dựa trên quan hệ văn học phản ánh cuộc sống và con người, văn học phản ánh văn hóa để đặt vấn đề tìm hiểu văn hóa qua sự phản ánh của văn học.
Về hướng nghiên cứu này trên thế giới có thể kể đến trước hết là Hippolyte Taine và trường phái văn hóa - lịch sử.
Hippôlyte Taine cũng là người đã đưa ra khái niệm “Ba động lực đầu tiên” (chủng tộc, môi trường và thời điểm) để giải thích những đặc điểm mang tính cách dân tộc của con người”.
H. Taine đã đặt văn học trong quan hệ ba chiều của đời sống văn hóa con người” [Đỗ Thị Minh Thúy 1997: 101, 102].
Ngoài ra, còn có một số công trình tiêu biểu khác, chẳng hạn, công trình của M.M. Bakhtin: “Sáng tác của Francois Rabelais và nền văn hóa dân gian Trung cổ và Phục hưng”. Chuyên khảo “Sáng tác của Francois Rabelais và nền văn hóa dân gian Trung cổ và Phục hưng” từ lâu đã được công luận thế giới thừa nhận không chỉ như một sự kiện lớn trong lịch sử nghiên cứu và kiến giải Rabelais, mà còn như một công trình kiệt xuất về lý luận và triết học văn hóa nhân loại. Nó đưa ra luận thuyết về kiểu hình tượng nghịch dị đặc trưng không riêng cho Rabelais, mà còn cho tất cả các tác phẩm văn nghệ trào tiếu gắn với văn hóa dân gian.
Đây là một công trình tiêu biểu, mẫu mực cho hướng nghiên cứu văn hóa học văn học.
Nghiên cứu văn hóa học văn học là một hướng nghiên cứu tuy không mới mẻ ở Việt Nam nhưng nó chưa thực sự sâu rộng. có thể kể tên một số tác giả, với những công trình nghiên cứu dạng bài viết nhỏ, lẻ: “Tính văn hóa của tác phẩm văn học” của tác giả Lê Nguyên Cẩn, bài “Tiếp cận văn học bằng văn hóa học” của tác giả Nguyễn Văn Dân. Hoặc, bài “Mối quan hệ giữa nghiên cứu văn học và văn hóa học” của tác giả Nguyễn Văn Hiệu...
Với những bài nghiên cứu dạng nhỏ, lẻ như trên nhìn chung chưa thể xây dựng một nền tảng lý thuyết một cách cơ bản cho hướng nghiên cứu văn hóa học văn học.
Hiện nay, việc nghiên cứu văn hóa học văn học ở Việt Nam chưa có nhiều tác giả, nhiều công trình nghiên cứu lớn. Một trong số ít các nhà nghiên cứu có công trình tương đối thành công, nổi trội là tác giả Đỗ Lai Thúy với tác phẩm Từ cái nhìn văn hóa (NXB. Văn hóa dân tộc, HN, 1999).
1. 2. Tính cách nhân vật trong văn học và hướng nghiên cứu tâm lý, nhân cách trong văn hóa
1. 2. 1. Tính cách nhân vật trong văn học
“Tính cách là khái niệm chỉ toàn bộ những điểm đặc thù về lối sống, cách suy nghĩ, ứng xử của một nhân vật do nhà văn tạo nên, góp phần khu biệt với các nhân vật khác. Tính cách là hình ảnh con người được phác họa đến mức đủ rõ và đủ tính xác định, thông qua đó làm bộc lộ một dạng hành vi, suy nghĩ, lời nói có căn nguyên lịch sử, đồng thời cũng làm bộc lộ một quan điểm của tác giả về tồn tại con người. Tính cách (của văn học, nghệ thuật) là sự thống nhất hữu cơ giữa cái chung, cái mang sự trùng lặp, và cái cá thể, cái riêng, là sự thống nhất giữa cái có tính khách quan và cái mang tính chủ quan”
Chính vì tính cách nhân vật, đặc biệt là tính cách điển hình, là tổng hòa giữa cái chung và cái riêng, nét khái quát và nét cá tính độc đáo cho nên qua phân tích những nhân vật nông dân được xây dựng thành công như những tính cách điển hình trong văn xuôi thời kỳ đổi mới ta có thể thấy được đặc điểm tính cách người nông dân, thậm chí tính cách con người Việt Nam đã được phản ánh một cách sinh động, đầy thuyết phục.
1. 2. 2. Hướng nghiên cứu tâm lý, nhân cách trong văn hóa
Nghiên cứu tâm lý, nhân cách trong các nền văn hóa là một đặc điểm quan trọng của tiến hóa luận, được xem như là một phương pháp nghiên cứu văn hóa. Từ giữa thế kỉ XIX đã hình thành một xu hướng độc lập, trong đó Tâm lý học dân tộc đã trở thành trung tâm nghiên cứu của xu hướng này. Hai nhà bác học người Đức là M. Laxarutx (1824- 1903) và H. Stêintan (1823- 1899) đã đề xuất phân môn này.
Trong tâm lý học dân tộc có thể phân ra hai bình diện Bình diện thứ nhất có tên là Tâm lý học lịch sử - tộc người; bình diện thứ hai là Dân tộc học tâm lý. Những bình diện nghiên cứu trên đây thực tế đã là bộ phận bắt buộc của bất cứ trào lưu văn hóa học nào.
Vào cuối những năm 20, đầu những năm 30 của thế kỉ XX, phương hướng “Văn hóa - và - nhân cách” đã thực hiện một bước ngoặt trong văn hóa học. Chủ đề trung tâm của hướng nghiên cứu này, đặc biệt trong những thời kỳ phát triển đầu tiên, là nghiên cứu sự gia nhập của văn hóa, nghiên cứu ý nghĩa của tuổi thơ đối với những đặc điểm hoạt động của nhân cách trưởng thành.
Từ những thành tựu của những nhà nghiên cứu đi trước như vậy, có thể thấy hướng nghiên cứu tính cách, tâm lý dân tộc từ dữ liệu tác phẩm văn học, qua tính cách nhân vật là hướng nghiên cứu có ý nghĩa, có triển vọng.
1. 3. Đề tài nông thôn và nông dân trong văn xuôi thời kỳ đổi mới
1. 3. 1. Bối cảnh lịch sử
Năm 1986 là một mốc lịch sử quan trọng, đánh dấu nhiều thay đổi lớn lao. Đó là thời kỳ đất nước bắt đầu có những sự đổi mới, những chuyển mình căn bản, sâu rộng về chính trị, kinh tế, văn hóa…
Thời kỳ 1986- 2000 là những năm đổi mới cuối thế kỷ 20. Đây là thời kỳ đất nước đang chuyển mình từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nông thôn Việt Nam đang có những thay đổi to lớn: nông thôn đang dần bị đô thị hóa, văn hóa nông thôn chuyển dần sang văn hóa đô thị. Văn xuôi viết về đề tài nông thôn thời kỳ này cũng chuyển mình, đổi mới trong phong trào đổi mới chung của đất nước. Tất nhiên, mốc 1986 không thể là cứng nhắc vì sự đổi mới của văn học nói chung và văn xuôi nói riêng đã có bước chuyển mình từ một vài năm trước đó. Tương tự, mốc 2000 cũng chỉ là tương đối vì quá trình đổi mới và văn học thời kỳ này vẫn chảy liền mạch sang thế kỷ 21, cho đến những ngày tháng hôm nay.
1. 3. 2. Đề tài nông thôn và nông dân trong văn xuôi thời kỳ đổi mới nói chung và trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu, Lê Lựu, Nguyễn Khắc Trường, Nguyễn Huy Thiệp nói riêng
Nông thôn và nông dân là một đề tài lớn, phức tạp và rất hấp dẫn, được nhiều những thế hệ nhà văn quan tâm khai thác. Nông thôn trước năm 1986 trong các tác phẩm văn xuôi là một xã hội bình ổn, ít có những xáo trộn, những mâu thuẫn và sự đấu tranh. Thực trạng của nông thôn chỉ được phản ánh đúng sự thực vốn có của nó, một cách không che đậy trong văn xuôi sau năm 1986. Viết về đề tài nông thôn và người nông dân Việt Nam thời kỳ đổi mới có khá nhiều tác giả: Nguyễn Khải, Dương Hướng (mảng tiểu thuyết), Sơn Nam, Phùng Gia Lộc, Nguyễn Ngọc Tư (mảng truyện ngắn)… Nhưng, nổi bật nhất, là bốn tác giả: Nguyễn Minh Châu, Lê Lựu, Nguyễn Khắc Trường, Nguyễn Huy Thiệp.
Nguyễn Minh Châu là nhà văn quân đội. Ông viết nhiều về đề tài chiến tranh và những người lính. Nhưng những truyện ngắn hay nhất, nổi tiếng nhất của Nguyễn Minh Châu lại là truyện ngắn viết về đề tài nông thôn và người nông dân. Đó là cặp đôi Khách ở quê ra và Phiên chợ giát. Có thể nói, những truyện ngắn đó là tất cả những gì tinh hoa nhất trong sự nghiệp viết văn của ông. Như lời nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến nhận định:“Truyện này là một giả thuyết văn học về bản chất và thân phận người nông dân”.
Lê Lựu là nhà văn, nhưng trước hết, ông là một nông dân “thứ thiệt một trăm phần trăm”. Nông thôn Việt Nam, dưới ngòi bút tài hoa của Lê Lựu đã hiện lên rất sinh động thông qua cái làng Hạ Vị quê ông. Thời xa vắng là một bước đột phá mới trong cách nhìn về người nông dân Việt Nam. Tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu phản ánh sinh động và chân thực quá trình chuyển biến trong cách nhìn nhận, đánh giá lại thực tại đó. Ở đây không chỉ đơn thuần là một bi kịch tình yêu của anh nông dân Giang Minh Sài nào đó mà là những vấn đề tâm lý- xã hội chung của thời đại.
Nguyễn Khắc Trường thuộc lớp nhà văn trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Mỹ. Mảnh đất lắm người nhiều ma là tiểu thuyết viết về đề tài nông thôn đầu tiên của tác giả. Nguyễn Khắc Trường miêu tả lề thói và thành kiến hủ lậu vùng Giếng Chùa, đã thâm nhập vào đời sống nông thôn, đã chi phối nếp nghĩ và cách ứng xử của nông dân. Đánh giá sự thành công của nhà văn Nguyễn Khắc Trường viết về đề tài nông thôn, nhà thơ Trần Đăng Khoa khẳng định: “Có thể nói tắt từ Nam Cao, qua một chút Kim Lân, đến Nguyễn Khắc Trường và Lê Lựu, chúng ta mới lại có nhà văn nông thôn thứ thiệt”.
Nguyễn Huy Thiệp là nhà văn lớp đàn em so với Nguyễn Minh Châu, Lê Lựu, và Nguyễn Khắc Trường. Đề tài nông thôn và người nông dân chiếm một tỉ trọng khá lớn trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp. Nguyễn Huy Thiệp không xây dựng nhân vật điển hình, hoàn cảnh điển hình trong truyện ngắn của mình kiểu như Nguyễn Minh Châu, Lê Lựu, Nguyễn Khắc Trường, nhưng những truyện ngắn của ông viết về nông thôn và người nông dân vẫn có điều gì đó gợi cho người đọc cảm nhận về những điều sâu thẳm nhất, nhức nhối, bức bách của xã hội nông thôn; những mảnh đời, những số phận nông dân cay đắng “dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”, cùng với những ước mơ về một cuộc sống hạnh phúc, ấm no…
Chương 2
TÍNH CÁCH NGƯỜI NÔNG DÂN VIỆT NAM QUA MỘT SỐ TÁC PHẨM VĂN XUÔI THỜI KỲ ĐỔI MỚI TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA NHẬN THỨC
2. 1. Tư duy tổng hợp chú trọng các mối quan hệ
Nghề nông sống phụ thuộc vào thiên nhiên, không chỉ một hoặc hai hiện tượng riêng lẻ nào mà cùng lúc phụ thuộc vào tất cả: trời đất, nắng mưa, gió bão…Bởi vậy người nông nghiệp Việt Nam có lối tư duy tổng hợp chú trọng các mối quan hệ. Nghĩa là lối tư duy dựa trên mối quan hệ qua lại giữa các yếu tố riêng rẽ, có cái này ắt có cái kia. Kiểu như: quạ tắm thì ráo, sáo tắm thì mưa; Được mùa lúc thì úa mùa cau; Thâm đông thì mưa, thâm dưa thì khú, thâm vú thì chửa…
Lối tư duy này thể hiện tính cách của người nông dân , được các tác giả miêu tả rất rõ trong các tác phẩm văn xuôi của mình. Đó là, sự chuyển hóa âm dương, may rủi qua câu chuyện hổ vằn (Mảnh đất lắm người nhiều ma), tham thì thâm: nhân vật Pành (truyện Đất quên)…
2. 2. Triết lý âm dương và lối sống quân bình hướng tới sự hài hòa
Người nông nghiệp Việt Nam có lối nhận thức, tư duy mang đậm tính cách âm dương từ tận trong máu tủy. Chính nhờ nắm vững qui luật “trong âm có dương, trong dương có âm” và qui luật âm dương chuyển hóa mà người nông dân có triết lý sống quân bình, hướng tới sự hài hòa như là một tính cách điển hình. Tính cách nổi trội đó của người nông dân được các nhà văn Nguyễn Minh Châu, Lê Lựu, Nguyễn Khắc Trường khắc họa khá rõ nét trong các tác phẩm văn xuôi của họ. Đó là ông tướng thuấn (truyện Tướng về hưu), bà cụ Lâm (Những bài học nông thôn), là nhân vật Giang Minh Sài với lối sống ở sao cho vừa lòng người…
Chương 3
TÍNH CÁCH NGƯỜI NÔNG DÂN VIỆT NAM QUA MỘT SỐ TÁC PHẨM VĂN XUÔI THỜI KỲ ĐỔI MỚI TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA ỨNG XỬ
VỚI MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN
3. 1. Tận dụng, đối phó với môi trường tự nhiên trong sản xuất
Môi trường tự nhiên có một tầm quan trọng hết sức lớn lao đối với đời sống con người nói chung và người nông dân nói riêng. Con người sống trong môi trường tự nhiên, có mối quan hệ chặt chẽ với môi trường tự nhiên thông qua cách ứng xử của mình. Và đó chính là sự thể hiện văn hóa của con người đối với tự nhiên. Thông qua việc ứng xử, tận dụng, đối phó của các nhân vật trong các tác phẩm văn học có thể thấy được tính cách của người nông dân Việt Nam bộc lộ.
Do cơ chế sản xuất nông nghiệp gắn liền với sự ổn định, lâu dài, phụ thuộc rất nhiều vào môi trường tự nhiên, vậy nên người nông dân Phương Đông nói chung và Việt Nam nói riêng có lối ứng xử tôn trọng và hoà hợp với tự nhiên, tận dụng và đối phó với tự nhiên trong sản xuất và sinh hoạt: “Ơn trời mưa nắng phải thì. Nơi thì bừa cạn nơi thì cày sâu”; “Lạy trời mưa xuống, lấy nước tôi uống, lấy ruộng tôi cày”…Lối ứng xử đó được thể hiện rất rõ qua tính cách của nhân vật Khúng (Khách ở quê ra), là một lão nông có tình yêu đặc biệt đối với đất dai, ruộng vườn. Ngoài lão Khúng còn có nhiều những nhân vật khác, như lão Hàm, bà Son, lão Quềnh…
3. 2. Tận dụng, đối phó với môi trường tự nhiên trong ăn, mặc, ở, đi lại…
Ăn, mặc, ở, đi lại…là nét văn hoá là ứng xử của người nông nghiệp Việt Nam. Đó là việc tận dụng, đối phó với môi trường tự nhiên, là truyền thống văn hoá nông nghiệp lúa nước của người Việt Nam.
Tận dụng tự nhiên một cách triệt để, linh hoạt và hài hòa trong việc ăn, mặc, ở, đi lại…là văn hóa ứng xử của người Việt Nam, thể hiện tính cách của người làm nông nghiệp lúa nước. Tính cách đó đã được các nhà văn Nguyễn Minh Châu, Lê Lựu, Nguyễn Khắc Trường, Nguyễn Huy thiệp khắc họa khá đậm nét trong tác phẩm, thông qua những nhân vật nông dân nổi trội. Có thể thấy rõ tính cách đó của người nông dân qua cơ cấu bữa ăn (như bữa cơm của gia đình Lâm- truyện Những bài học nông thôn): cơm, rau, cá là những thức ăn chính. Và họ luôn biết tận dụng thời tiết để đánh bắt cá, tôm…
Chương 4
TÍNH CÁCH NGƯỜI NÔNG DÂN VIỆT NAM QUA MỘT SỐ TÁC PHẨM
VĂN XUÔI THỜI KỲ ĐỔI MỚI TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA
TỔ CHỨC XÃ HỘI NÔNG THÔN
Việt Nam là quốc gia có nền văn hoá gốc nông nghiệp điển hình. Bởi vậy, tổ chức nông thôn là vấn đề quan trọng nhất, thiết yếu nhất của xã hội. Nó có tính quyết định hình thành nên bộ mặt xã hội nông thôn, cũng như tính cách của người nông dân.
4. 1. Tính cách người nông dân xuất phát từ tính cộng đồng và tính tự trị
Tổ chức xã hội nông thôn Việt Nam có hai đặc trưng cơ bản là tính cộng đồng và tính tự trị. Từ hai đặc trưng cơ bản đó đã hình thành nên tính cách người nông dân Việt Nam.
Tính cộng đồng nhấn mạnh sự đồng nhất nên nảy sinh tinh thần đoàn kết tương trợ lẫn nhau (…) “lá lành đùm lá rách”, tính tập thể rất cao và cũng chính là ngọn nguồn của nếp sống dân chủ, bình đẳng. Sự đồng nhất còn dẫn đến thói dựa dẫm, ỷ lại vào tập thể: nước nổi thì bèo nổi (…) thói cào bằng, đố kỵ…
Tính tự trị chú trọng nhấn mạnh vào sự khác biệt tạo nên tinh thần tự lập tính chịu thương chịu khó. Mặt khác, cũng chính do nhấn mạnh vào sự khác biệt mà người Việt Nam có thói xấu là óc tư hữu, ích kỷ, “Ai có thân người ấy lo” (…) óc bè phái, địa phương cục bộ…
Những tính cách đó được các nhà văn Nguyễn Minh Châu, Lê Lựu, Nguyễn Khắc Trường, Nguyễn Huy Thiệp khắc hoạ khá rõ nét, sinh động và đặc sắc thông qua những nhân vật, những con người, những hoàn cảnh cụ thể trong tác phẩm văn xuôi viết về đề tài nông thôn của họ. Đó là nếp sống dân chủ trong gia đình Lâm, tinh thần đoàn kết tương trợ của nhân vật Son, đầu óc tư hữu của Lão Khúng, thói ích kỷ của anh em nhà Khảm, Đoài (Không có vua) óc bè phái cục bộ của Trịnh Bá Thủ, Hàm. Phúc…, thói gia trưởng của ông bố Giang Minh Sài…
4. 2. Tính cách người nông dân xuất phát từ mối quan hệ gia đình - gia tộc, làng - nước
Nói đến nông thôn là nói đến cộng đồng làng xã mà hạt nhân của nó là gia đình, gia tộc. Gia đình là hạt nhân, tuy nhiên để đảm bảo cho tính bền vững, ổn định thì vấn đề liên kết, hỗ trợ cho nhau (để chống lại thiên tai, lũ lụt hay sản xuất kịp thời vụ…) là rất quan trọng. Vì vậy, vai trò của gia tộc và cộng đồng làng xã trở nên quan trọng hơn rất nhiều so với gia đình hạt nhân.
“Một giọt máu đào hơn ao nước lã”. Câu tục ngữ đó thể hiện đầy đủ tính chất và tầm quan trọng của gia tộc trong cơ cấu tổ chức xã hội nông thôn Việt Nam.
Viết về đề tài nông thôn, mà cụ thể là vấn đề quan hệ gia đình, dòng tộc, có lẽ nhà văn Nguyễn Khắc Trường với tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma là cây bút thành công nhất những năm gần đây.
Lợi ích của cá nhân, gia đình, dòng tộc là mối quan tâm hàng đầu của người nông dân. Bởi vậy, một khi quyền lợi, danh dự của dòng họ bị đụng chạm hoặc có nguy cơ bị xâm hại thì chắc chắn người nông dân không thể để yên. Và, cuộc chiến tàn khốc, không khoan nhượng, kéo dài từ đời này qua đời khác xảy ra giữa hai dòng họ Trịnh Bá và Vũ Đình, với đủ mọi mưu mô xảo quyệt và hành vi độc ác, đê tiện, được nhà văn Nguyễn Khắc Trường miêu tả một cách sắc sảo, sống động trong tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma.
Ranh giới làng - nước trong quan niệm của người Việt Nam là không rõ ràng. Ở nước hay ở làng thì lối sống, cách ứng xử vẫn không hề thay đổi. Điều này có thể thấy rất rõ trong tiểu thuyết Thời xa vắng của nhà văn Lê Lựu và tiểu thuyết Mảnh đất Lắm người nhiều ma của nhà văn Nguyễn Khắc Trường.
Ranh giới làng - nước trong quan niệm của người Việt Nam là không rõ ràng. Ở nước hay ở làng thì lối sống, cách ứng xử vẫn không hề thay đổi. Điều này có thể thấy rất rõ trong tiểu thuyết Thời xa vắng của nhà văn Lê Lựu và tiểu thuyết Mảnh đất Lắm người nhiều ma của nhà văn Nguyễn Khắc Trường. Giang Minh Sài cùng những đồng chí của anh, những Hiểu, Hiền, Chính ủy trung đoàn… là những quân nhân, là “người nhà nước”, sống ở nước, nhưng tính cách, lối sống, lối xử sự của họ vẫn như ở nhà, ở làng. Lối ứng xử của Trịnh Bá Thủ, Vũ Đình Phúc cùng các cán bộ xã, làng Giếng Chùa cũng dựa trên mối quan hệ tình cảm cá nhân là chính. Tuy là việc của xã - việc nước, nhưng “Bí thư Đảng ủy xã” Trịnh Bá Thủ và “Chủ nhiệm” Vũ Đình Phúc luôn coi như là việc nhà, việc họ.
KẾT LUẬN
Dưới cái nhìn văn hóa, tính cách của người nông dân Việt Nam thể hiện qua văn hóa nhận thức, văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên, văn hóa ứng xử với môi trường xã hội trong một số tác phẩm văn xuôi hiện đại viết về các đề tài nông thôn và người nông dân của các nhà văn Nguyễn Minh Châu, Lê Lựu, Nguyễn Khắc Trường, Nguyễn Huy Thiệp đã bộc lộ một cách sinh động, điển hình và rõ nét. Những tính cách nổi trội của người nông dân Việt Nam được thể hiện qua các tác phẩm văn học bao gồm cả ưu điểm và nhược điểm.
Tính ích kỷ, nhỏ nhen, thói háo danh, thói gia trưởng, bè phái, cục bộ… Những tính cách nhược điểm này là hệ quả của tính tự trị, một trong những đặc trưng cơ bản nhất của tổ chức xã hội nông thôn. Tinh thần lạc quan, lối sống tình nghĩa, nhân hậu, bao dung, lối cư xử hài hòa, tôn trọng tự nhiên…là những tính cách tốt, nổi trội, điển hình của người nông dân Việt Nam. Họ đồng thời cũng là những con người vừa tích cực, vừa tiêu cực, tốt , xấu lẫn lộn , mang “tính cách nước đôi” của cư dân nông nghiệp điển hình.
So với những tính cách tiêu cực thì những tính cách cách tích cực của người nông dân hiện đại gần với người nông dân trong xã hội truyền thống hơn, nó được bảo tồn, lưu giữ và phát huy như một nét đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam.