logo

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
    • Thư ngỏ
    • Khái quát về Trung tâm
    • Nhân lực Trung tâm
      • Thành viên Trung tâm
      • Cộng tác viên
    • Giới thiệu Khoa Văn hóa học
      • Khái quát về Khoa
      • Nhân lực của Khoa
  • Tin tức
    • Tin nhà (Trung tâm)
    • Tin ngành
    • Tin liên quan
  • Đào tạo - Huấn luyện
    • Các chương trình
    • Tổ chức và Hiệu quả
    • Đào tạo ở Khoa VHH
      • Chương trình đào tạo
      • Kết quả đào tạo
  • Nghiên cứu
    • Lý luận văn hóa học
      • LLVHH: Những vấn đề chung
      • VHH: Phương pháp nghiên cứu
      • VHH: Các trường phái - trào lưu
      • Loại hình và phổ quát văn hóa
      • Các bình diện của văn hóa
      • Văn hóa học so sánh
      • Vũ trụ quan phương Đông
      • Văn hóa và phát triển
      • VHH và các khoa học giáp ranh
    • Văn hóa Việt Nam
      • VHVN: Những vấn đề chung
      • Văn hóa cổ-trung đại ở Viêt Nam
      • Văn hóa các dân tộc thiểu số
      • Văn hóa Nam Bộ
      • Văn hóa nhận thức
      • Văn hóa tổ chức đời sống tập thể
      • Văn hóa tổ chức đời sống cá nhân
      • Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên
      • Văn hóa ứng xử với môi trường xã hội
    • Văn hóa thế giới
      • VH Phương Đông: Những vấn đề chung
      • VH Phương Tây: Những vấn đề chung
      • Quan hệ văn hóa Đông - Tây
      • Văn hóa Trung Hoa và Đông Bắc Á
      • Văn hóa Đông Nam Á
      • Văn hóa Nam Á và Tây Nam Á
      • Văn hóa châu Âu
      • Văn hóa châu Mỹ
      • Văn hóa châu Phi và châu Úc
    • Văn hóa học ứng dụng
      • VHƯD: Những vấn đề chung
      • VHH nghệ thuật
      • Văn hóa đại chúng
      • Văn hóa giao tiếp
      • Văn hóa du lịch
      • Văn hóa đô thị
      • Văn hóa kinh tế
      • Văn hóa quản trị
      • Văn hóa giáo dục - khoa học
    • Tài liệu phổ cập VHH
      • Văn hóa Việt Nam
      • Văn hóa thế giới
      • VHH ứng dụng
    • Tài liệu tiếng nước ngoài
      • Theory of Culturology
      • Vietnamese Culture
      • Applied Culturology
      • Other Cultures
      • 中文
      • Pусский язык
    • Thư Viện Số (Sách - Ảnh - Video)
      • Tủ sách Văn hoá học
      • Thư viện ảnh
      • Thư viện video
    • Các nhà văn hóa học nổi tiếng
  • Tiện ích
    • Dịch vụ Văn hóa học
    • Dịch vụ ngoài VHH
    • Trợ giúp vi tính
    • Từ điển Văn hóa học
    • Thư viện TT và Khoa
    • Tổng mục lục website
    • Tủ sách VHH Sài Gòn
    • Giải đáp thắc mắc
  • Thư giãn VHH
    • Văn chương Việt Nam
    • Văn chương nước ngoài
    • Nghệ thuật Việt Nam
    • Nghệ thuật thế giới
    • Hình ảnh vui
    • Video vui
  • Diễn đàn
  • Liên hệ
  • Trang chủ
  • Đào tạo - Huấn luyện
  • Đào tạo ở Khoa VHH
  • Kết quả đào tạo
Sunday, 10 August 2008 05:11

Trần Duy Khương. Hiện tượng sử dụng ngôn từ tục dưới góc nhìn VHH

Người post bài:  TT VHH

Trần Duy Khương

Năm sinh: 05.03.1981

ĐỀ TÀI LUẬN VĂN:

HIỆN TƯỢNG SỬ DỤNG NGÔN TỪ TỤC

 DƯỚI GÓC NHÌN VĂN HÓA HỌC

 

MỤC LỤC

 

DẪN NHẬP 

1. Lý do chọn đề tài

2. Mục đích nghiên cứu 

3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 

5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn 

6. Phương pháp nghiên cứu, nguồn tài liệu, quy ước cách trình bày 

7. Bố cục của luận văn 

CHƯƠNG MỘT: BẢN CHẤT VÀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH NGÔN TỪ TỤC 

1. Khái quát về ngôn từ tục 

1.1 Sự xuất hiện của cái tục. Mối quan hệ giữa thiêng và tục 

1.2 Từ cái tục đến ngôn từ tục 

1.2.1 Định nghĩa về ngôn từ tục 

1.2.2 Phân loại ngôn từ tục 

1.2.3 Các ngôn từ tục trong tiếng Việt và tiếng Hoa 

2. Quá trình hình thành ngôn từ tục 

2.1 Tiền đề tự nhiên 

2.2 Tiền đề xã hội

3. Từ văn hoá đến ngôn từ tục

4. Tiểu kết

CHƯƠNG HAI: NHỮNG ĐẶC TRƯNG CỦA NGÔN TỪ TỤC 

1. Tính phổ quát (theo không gian)

1.1 Ngôn từ tục trong văn hoá phương Tây 

1.2 Ngôn từ tục trong văn hoá phương Đông 

2. Tính lịch sử (theo thời gian)

2.1 Thời cổ đại

2.2 Thời trung đại

2.3 Thời cận đại

2.4 Thời hiện đại và đương đại

3. Tính giá trị

3.1 Phủ định: tác hại của ngôn từ tục và hiện tượng sử dụng ngôn từ tục 

3.2 Khẳng định: tác dụng của ngôn từ tục trong đời sống xã hội

3.3 Thang đo giá trị của ngôn từ tục dưới góc nhìn văn hoá học 

4. Các đặc trưng khác của ngôn từ tục 

4.1 Tính biểu trưng 

4.2 Tính hệ thống 

4.3 Tính cộng đồng 

5. Tiểu kết

CHƯƠNG BA: SỰ VẬN HÀNH CỦA NGÔN TỪ TỤC 

1. Cơ sở vận hành 

1.1 Sự lựa chọn trong ngôn từ tục 

1.1.1 Thanh điệu, ngữ điệu và âm tiết

1.1.2 Khoảng cách 

1.2 Ngôn từ tục trong quan hệ với uyển ngữ và từ lóng 

2. Các bình diện sử dụng ngôn từ tục  117

2.1 Dưới góc độ giới tính 

2.2 Dưới góc độ tôn giáo - tín ngưỡng 

2.3 Dưới góc độ lứa tuổi

2.4 Dưới góc độ phân tầng ngành nghề xã hội

3. Xu hướng vận hành ngôn từ tục 

3.1 Xu hướng sử dụng tự do 

3.2 Xu hướng cấm sử dụng 

3.3 Xu hướng phá cấm  

4. Tiểu kết

KẾT LUẬN 

TÀI LIỆU THAM KHẢO  

PHỤ LỤC I

PHỤ LỤC II

PHỤ LỤC III

PHỤ LỤC IV 

 

TÓM TẮT LUẬN VĂN

HIỆN TƯỢNG SỬ DỤNG NGÔN TỪ TỤC

 DƯỚI GÓC NHÌN VĂN HOÁ HỌC

Ngôn từ tục luôn là đối tượng bị quản chế bởi đạo đức xã hội và cả những quy ước, nội quy, quy định, thậm chí là pháp luật. Thế nhưng, người ta vẫn chưa định nghĩa và hạn định phạm vi một cách rõ ràng về ngôn từ tục, từ đó, ngôn từ tục trở thành một phạm trù mập mờ, được hiểu theo cảm tính dựa trên tiền lệ chung của một cộng đồng văn hoá nào đó. Đồng thời, cho đến hiện nay, ngôn từ tục vẫn chưa được nhìn nhận một cách tổng quát về bản chất cũng như vị trí của nó trong xã hội.

Công trình nghiên cứu này sẽ mang lại cách nhìn nhận mới bao quát hơn, toàn diện hơn và khách quan hơn đối với hiện tượng xã hội bị xem là cấm kỵ này. Các công trình nghiên cứu trước đây phần lớn đều bị hạn chế bởi dư luận xã hội, bởi tư tưởng “cách mạng văn hoá”, do vậy, những từ ngữ tục tĩu luôn bị cắt xén, lược bỏ hoặc chỉ viết tắt bằng chữ cái đầu của từ ấy.

Ngày nay, với tư tưởng tự do hoá trong nghiên cứu khoa học ở Trung Quốc và Việt Nam, các đề tài liên quan đến những cấm kỵ được nghiên cứu ngày càng nhiều, và đã tạo được sự chín chắn và nghiêm túc trong các công trình nghiên cứu khoa học, phục vụ cho nhu cầu tri thức chính đáng của xã hội. Các công trình ấy phần nhiều liên quan đến hoạt động tính dục của nhân loại, như văn hoá ứng xử của mỗi cộng đồng người trong lĩnh vực tình dục. Thế nhưng, bản thân những từ ngữ thể hiện chúng vẫn chưa được nghiên cứu thấu đáo. Do vậy, công trình này sẽ đóng góp kịp thời cho mảng trống ấy.

***

Mọi sự vật đều mang tính tương đối, quan niệm của xã hội về cái tục cũng không nằm ngoài quy luật này. Nhưng, tất cả các sự vật hiện tượng đều chịu sự chi phối của trật tự, do vậy, khi một sự vật nào đó đặt không đúng vào vị trí vốn có thì nó sẽ làm mất đi hoặc làm sai lệch giá trị và bản chất vốn có. Vì vậy, bài tiết và tính dục khi xuất hiện không đúng vào không gian, thời gian và chủ thể sử dụng thì người ta sẽ gán cho chúng một giá trị mới, một tính chất bề mặt mới, đó là bẩn (bài tiết) hoặc tục (tính dục). Ngôn từ thể hiện liên quan đến hiện tượng này cũng vậy, khi ấy, chúng sẽ bị gọi là tiếng bẩn hoặc từ tục. Như vậy, nếu xét theo nghĩa hẹp thì thông thường, tục là cái gắn liền với tính dục, còn bẩn là cái gắn liền với bài tiết. Thế nhưng, giữa tục và bẩn theo nghĩa hẹp có nhiều khả năng biến hoá và chuyển đổi cho nhau, vì vậy, công trình này xem xét cái tục trên một hàm nghĩa tổng thể, tức là cái tục cộng gộp giữa cái tục từ nguồn gốc tính dục và cái bẩn từ nguồn gốc bài tiết.

Xét về bản chất của cái bẩn, thì bất kỳ một sự xáo trộn vị trí vốn có nào cũng đều có khả năng trở thành cái bẩn. Ví dụ như một đôi giày mới đặt trên bàn ăn; thức ăn ngon bắn toé trên quần áo; quần áo sạch vứt bừa bãi trên bàn tiếp khách, tất cả những cái sạch này đều tạm thời bị biến thành cái bẩn. Đối với thân xác con người cũng vậy, cái bẩn bị quyết định bởi trật tự của khoảng cách: khi càng rời xa cơ thể chủ thể, những cái bình thường đều càng có khả năng trở thành cái bẩn. Khi hôn nhau, người ta không thấy ghê sợ vì nước miếng trong miệng của người yêu, nhưng lại ghê sợ nước miếng của người xa lạ. Nước miếng trong miệng của người yêu lại không tởm lợm như khi nước miếng ấy đã bị nhổ ra ngoài… Đi từ lý luận của nhà nhân loại học nổi tiếng là Mary Douglas thông qua quyển sách “Sạch sẽ và Nguy hiểm”, Zhang Wan Jun đã nhận định: “Cái được gọi là sạch sẽ hay dơ bẩn hoàn toàn không do tự nhiên nó quyết định, mà đó là do sự sắp xếp bố trí của nó vào một vị trí nào đó có được thích hợp hay không”.

Cái tục cũng tương tự như thế. Bản thân tính dục hoàn toàn là một hiện tượng phổ biến ở hầu hết các loài động vật, nhưng nếu hoàn cảnh thể hiện không thích hợp thì nó sẽ trở thành cái tục, và hình thức khác của cái tục chính là dâm. (Trong đó, theo Trần Thanh Mại, tục là một loại phương tiện để biểu đạt trạng thái tình cảm con người, còn dâm là cái cứu cánh).

Như vậy, tính tương đối của các sự vật hiện tượng sẽ được quyết định bởi vị trí thể hiện của nó trong một trật tự phân loại. Sự phân loại vị trí này sẽ đưa trật tự xã hội tiến đến biên giới mang tính tượng trưng (symbolic boundary 象徵性邊界) của không gian - thời gian - đối tượng; đồng thời, nó cũng tạo nên một trật tự tương ứng với quan niệm, niềm tin về đạo đức trong xã hội. Khi các sự vật, hiện tượng cùng với quan niệm, niềm tin đạo đức về những sự vật, hiện tượng ấy bị đụng chạm hoặc hoà trộn vào nhau sẽ hình thành nên sự sắp xếp lại về giá trị và tính chất của các đối tượng, trong đó có trật tự về thiêng liêng - tục tĩu; sạch sẽ - dơ bẩn.

Ngôn ngữ thể hiện tư duy và tình cảm của nhân loại cũng được sắp xếp theo một trật tự trong hệ thống hoàn chỉnh. Trong đó, ngôn từ tục được xuất hiện khi một lớp ngôn từ chuyên chỉ về tính dục và bài tiết bị đặt ở một vị trí không thích hợp. Nhưng vị trí được thiết lập bởi trật tự phân loại này lại bị quyết định bởi không gian, thời gian cùng với chủ thể là con người, do vậy, ở từng nơi, từng thời kỳ mà một từ ngữ nào đó sẽ bị xem là tục hoặc bẩn hay không lại còn tuỳ thuộc vào quan niệm thẩm mỹ, niềm tin tôn giáo, niềm tin đạo đức xã hội… Có nghĩa là, từ tục ở bất kỳ một nơi nào, thời gian nào và chủ thể nào cũng đều có sự tương đồng về một số bản chất chủ yếu, nhưng chúng có thể xuất hiện ở những hình thức khác nhau. Chính vì thế mà ngôn từ tục trở nên rất phức tạp và phong phú, thậm chí, trong những ngôn ngữ khác nhau thì sự khẳng định hay phủ định về tính tục cũng có nhiều cấp bậc khác nhau hoặc trái ngược nhau, hình thành thế đối chọi giữa thiêng và tục trong cách nhìn nhận một sự vật hiện tượng nào đó.

Vào thời cổ đại, lễ nghi được định hình và nhanh chóng trở thành công cụ dùng để quản chế xã hội. “Phú quý sinh lễ nghĩa, lễ nghĩa sinh ẩn ức”, giờ đây, con người phải mang một bộ mặt mới, khoác bên ngoài cái bản ngã của mình, đấy chính là bộ mặt văn hoá của cộng đồng xã hội. Văn hoá chung ấy trở thành một quyền lực chính thống, sẵn sàng cưỡng chế những gì làm trái và đi ngược lại với nó. Những từ ngữ chuyên chỉ về tính dục và bài tiết vốn dĩ đã được sử dụng quen thuộc trước kia nay bị liệt vào hai phạm trù là dâm tục và bẩn thỉu, không được phép thể hiện công khai trong khu vực được quản chế bởi lễ nghi. Thế là, những từ ngữ mới phù hợp với văn hoá chính thống đương thời sẽ được xuất hiện để thay thế cho những từ bị cấm đoán cũ; có nghĩa rằng, lớp từ ngữ bị xem là dâm và bẩn (gọi chung là tục) bị gạt ra ngoài hệ thống từ ngữ chính thống, chúng luôn phải chịu ức chế và bài xích.

Mặc dù vậy, tính dục và bài tiết là hai trong những lĩnh vực quan trọng của con người, do vậy, những từ ngữ dân dã thể hiện chúng bằng những hình thức khác nhau luôn tồn tại một cách bền bỉ theo thời gian và rộng lớn trong không gian. Sự tồn tại của bộ phận từ ngữ này đã chứng minh rằng, việc sử dụng ngôn từ tục cũng mang những đặc tính điển hình như các hiện tượng xã hội khác, trong đó, rõ rệt nhất là tính phổ quát, tính lịch sử và tính giá trị.

Yan Jie từng nhận định, “từ trước đến nay, trên thế giới chưa từng có một thiên đường ngôn ngữ nào. Con người cũng không bị đuổi ra khỏi thiên đường vì cái miệng không sạch của mình”. Ngôn từ tục dù muốn dù không vẫn tồn tại trong xã hội như một bộ phận không thể thiếu được trong hệ thống ngôn ngữ của loài người. Đó chính là vì cái thiêng hay cái tục, cái sạch sẽ hay dơ bẩn đều là những ý niệm do con người tạo nên, ký thác vào các sự vật hiện tượng trong xã hội như là một cách đánh dấu sự hiện diện của văn hoá. Những sự vật hiện tượng với bản chất và giá trị tồn tại của nó vẫn được giữ lại như khi nó được sinh ra, tuy rằng có thể chịu ảnh hưởng và bị biến dạng dưới sự ký thác của văn hoá.

Những ý niệm của con người luôn biến thiên, thay đổi, do vậy, cách nhìn nhận về sự hiện tồn của ngôn từ tục trong những giai đoạn thời gian khác nhau, trên những không gian văn hoá khác nhau và với những chủ thể văn hoá khác nhau sẽ có rất nhiều sự sai lệch nhau, từ đó hình thành nên cái có thể gọi là văn hoá sử dụng ngôn từ tục. Trên một mức độ nào đó, văn hoá sử dụng ngôn từ tục có khả năng trở thành một trong những tiêu chí để nhận biết văn hoá nhận thức và ứng xử của một cộng đồng xã hội trong một giai đoạn nào đó.

Văn hoá là sự lựa chọn của con người khi đứng trước những vấn đề của tự nhiên và xã hội. Trong lĩnh vực xã hội, sự lựa chọn của con người bị quyết định bởi cả điều kiện tự nhiên lẫn những điều kiện ràng buộc do con người tạo nên, với mục đích là nhằm duy trì trật tự, ổn định và phát triển xã hội. Do vậy, ngôn từ tục tuy giữ một vai trò không thể thiếu trong nhu cầu phát tiết tình cảm, cảm xúc của con người, nhưng nó luôn nằm trong phạm vi bị kiểm soát bởi lăng kính đã bị nội hoá ở mỗi con người và sự quy ước của cộng đồng.

Nhưng thực tế đã chứng minh rằng, tính giá trị của bất kỳ một sự vật hiện tượng đã giúp nó tồn tại, và ngôn từ tục cũng đã tồn tại như một đại diện của thành tố văn hoá. Do vậy, công trình này giới thiệu diện mạo của ngôn từ tục với tính phổ quát của nó trong suốt chiều dài lịch sử của loài người, từ đó xác lập lại vị thế đáng có của ngôn từ tục trong hệ thống ngôn ngữ, và thông qua đó mà nhìn nhận giá trị (tính khả dụng) của ngôn từ tục theo cách nhìn của văn hoá học. Đó chính là, ngôn từ tục cũng chính đáng trở thành một trong những đối tượng nghiên cứu của các ngành khoa học, vì bản thân ngôn ngữ không hề có sự phân chia cao thấp về giá trị đạo đức của nó. Đặc tính bẩn hay tục chính là dấu ấn văn hoá được đóng chặt vào từng bộ phận của từ vựng, khiến con người luôn dùng đến định kiến văn hoá đã được nội hoá của mình mỗi khi nhìn nhận sự vật hiện tượng.

Đứng trên góc độ nghiên cứu khoa học, Ruth Wajnryb cũng nhận định: “Chúng ta sẽ không vì con ốc bươu có dáng hình xấu xí mà cấm sách giáo khoa môn sinh vật nhắc đến chúng; các nhà xã hội học khi nghiên cứu tâm lý tội phạm cũng vậy, dù nội dung phạm tội có biến thái đến đâu. Nếu như những chuyên gia này có thể tự do nghiên cứu lĩnh vực mà họ lựa chọn, hoàn toàn không vì sự lựa chọn của mình mà mặc định giá trị một cách thiên lệch cho những đối tượng đó, và cũng không bị giới hạn bởi óc phán đoán thẩm mỹ của những người khác, thế thì tại sao lại không thể xảy ra ở những nhà ngôn ngữ học?”.

Riêng ở lĩnh vực ngôn từ tục, để có thể làm rõ tính bình đẳng của ngôn ngữ, chúng ta phải đi về nguồn gốc hình thành của nó: trước khi mang dấu ấn của sự phân chia thể nhị nguyên, ngôn từ tục hoàn toàn không mang ý nghĩa bẩn hay tục, mà đó chỉ là cách gọi trực tiếp về cơ quan sinh dục và bài tiết, hoạt động tình dục và bài tiết cùng với một số sản phẩm của nó (bao gồm cả một số sản phẩm hình thành từ quá trình phát triển tính dục).

Hiện nay, trên thế giới thường có xu hướng bình thường hoá ngôn từ tục, đưa nó trở về thể nhị nguyên ban đầu: bất kỳ một sự phá cấm nào cũng đều hàm chứa một khi giá trị gây sốc (shock value震驚值), giá trị này đương nhiên sẽ có sự biến đổi, được quyết định tuỳ thuộc các điều kiện như chủ thể sử dụng thuộc khu vực văn hoá nào, trong thời đại nào và được hàm dưỡng những giá trị văn hoá nào. Nếu ngôn từ tục được tiếp tục dùng một cách mạch lạc rõ ràng thì giá trị gây sốc tất sẽ dần dần giảm xuống, và có thể sẽ dần trở thành ngôn ngữ trung tính như những lớp từ ngữ khác.

Tuy vậy, văn hoá là sự tiếp biến và đào thải những giá trị trong suốt quá trình con người tương tác với tự nhiên và xã hội. Việc sử dụng ngôn từ tục không đúng vào không gian văn hoá, thời gian văn hoá và chủ thể văn hoá sẽ thực sự trở thành một biểu hiện của cái bẩn, cái tục; đó chính mới chính là đối tượng bài xích của khoa học, của văn hoá văn minh, của đạo đức con người. Nhưng ngược lại, việc sử dụng ngôn từ tục cũng có thể mang trong mình giá trị nhân sinh, nhân đạo, nhân văn; giúp bộc lộ và cải thiện thực trạng xã hội, thúc đẩy con người hướng đến cái chân - thiện - mỹ và sống có giá trị hơn. Đó mới chính là mục đích cuối cùng của tất cả mọi hành vi văn hoá.

Chính vì thế, trong bài giảng về “Văn hoá bài tiết”, GS. Trần Ngọc Thêm nhận định: “Văn hoá là cái đẹp, nhưng không chỉ ở cái đẹp nhất, tốt nhất, mà còn là việc làm tốt hơn, đẹp hơn ở những phạm vi bị xem là dơ bẩn. Thái độ vô trách nhiệm, không làm đẹp hơn, tốt hơn đối với các hiện tượng bị xem là xấu, là dơ thì mới gọi là vô văn hoá”.

Nói một cách khác, bản thân ngôn từ tục không phải là ngôn ngữ xấu xa (bad language), chỉ có cách nhìn của con người đối với nó mới có sự phân chia cao thấp, sang hèn, đẹp xấu. Trong giới hạn giá trị, người ta vẫn có thể tìm thấy giá trị của ngôn từ tục từ những con người sử dụng chúng một cách có văn hoá.

Lên trên

Cùng chủ đề

  • Danh sách học viên đã bảo vệ luận văn Thạc sĩ Khóa 9 (2008-2011)

  • Danh sách học viên đã bảo vệ luận văn Thạc sĩ Khóa 8 (2007-2010)

  • Danh sách học viên đã bảo vệ luận văn Thạc sĩ Khóa 7 (2006-2009)

  • Ngô Thị Thanh. Tìm hiểu ý thức về bản sắc văn hóa Việt Nam …

  • Nguyễn Văn Long, Quá trình hòa nhập cộng đồng của người khiếm thị …

Thông báo

Tư vấn khoa học và kỹ năng nghiên cứu…

Tủ sách văn hoá học Sài Gòn

  • Thư viện ảnh
  • Thư viện video
  • Tủ sách VHH

Phóng sự ảnh: Toạ đàm khoa học: Xây dựng…

Hình ảnh văn hóa Tết xưa (sưu tầm)

Phóng sự ảnh: Lễ hội truyền thống VHH 2011

Phóng sự ảnh Lễ hội truyền thống VHH 2010

Thành phố Sankt-Peterburg, Nga

Bộ ảnh: Việt Nam quê hương tôi 2

Tranh Bùi Xuân Phái

Bộ tem tượng Phật chùa Tây Phương

Bộ ảnh: Đá cổ Sapa

Bộ ảnh: Phong cảnh thiên nhiên

Bộ ảnh: Việt Nam quê hương tôi

"Biển, đảo Việt Nam - Nguồn cội tự bao đời":…

Con dê trong văn hóa và văn hóa Việt Nam

Văn hóa Tết ở Tp.HCM (Chương trình truyền…

Văn hóa Tp. HCM: Một năm nhìn lại và động…

Phong tục Tết cổ truyền của người Nam Bộ

Bánh tét và Tết phương Nam

Con ngựa trong văn hóa và văn hóa Việt Nam

Điện Biên Phủ - Cuộc chiến giữa hổ và voi

Nhìn lại toàn cảnh thế giới từ 1911-2011…

Tọa độ chết - một bộ phim Xô-Việt xúc động…

Video: Lễ hội dân gian Việt Nam

Văn hoá Việt từ phong tục chúc Tết

Văn hoá Tết Việt qua video

Tết ông Táo từ góc nhìn văn hoá học

“Nếp nhà Hà Nội” trên “Nhịp cầu vàng”: tòa…

Văn hóa Thăng Long - Hà Nội qua video: từ…

Hướng về 1000 năm TL-HN: Xem phim “Tử Cấm…

Hướng về 1000 năm TL-HN: Người Thăng Long…

Phim "Chuyện tử tế" – tập 2 (?!) của “Hà…

Default Image

Hướng về 1000 năm TL-HN: "Chuyện tử tế" -…

Sách “Di sản Ấn Độ trong văn hóa Việt Nam”

Nguyễn Văn Bốn. Tín ngưỡng thờ Mẫu của người…

Sách: Quản lý và khai thác di sản văn hóa…

Hồ Sĩ Quý. Con người và phát triển con người

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 3

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 2

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 1

Hồ Sỹ Quý. Tiến bộ xã hội: một số vấn đề về…

Hồ Sỹ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á (Phụ…

Hồ Sỹ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á…

Hồ Sĩ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á…

Sách: Chuyên đề Văn hoá học

Sách: Một số vấn đề về hệ giá trị Việt Nam…

FitzGerald. Sự bành trướng của Trung Hoa…

Hữu Đạt. Đặc trưng ngôn ngữ và văn hoá giao…

Sống chụ son sao (Tiễn dặn người yêu)

Gs. Mai Ngọc Chừ. Số phận & Tâm linh

Trần Văn Cơ. Những khái niệm ngôn ngữ học…

Đoàn Văn Chúc. Văn hóa học (Phần 3 - hết)

Đoàn Văn Chúc. Văn hóa học (Phần 2)

Các nhà VHH nổi tiếng

Julian Haynes Steward

Wen Yi'duo (Văn Nhất Đa)

Leslie Alvin White

Huang Wen'shan (Hoàng Văn Sơn)

Radcliff-Brown, Alfred Reginald

Sapir, Edward

Margaret Mead

Thăm dò ý kiến

Bạn thích cuốn "Cơ sở văn hoá VN" của tác giả nào nhất?

Chu Xuân Diên - 4.8%
Lê Văn Chưởng - 0.9%
Trần Diễm Thuý - 1%
Trần Ngọc Thêm - 37.4%
Trần Quốc Vượng - 53%
The voting for this poll has ended on: 26 06, 2020

Tổng mục lục website

tong muc luc

Tủ sách VHH Sài Gòn

tu sach VHH SG

Thống kê truy cập

  • Đang online :
  • 609
  • Tổng :
  • 3 7 7 7 5 1 4 1
  • Đại học quốc gia TPHCM
  • Đại học KHXH&NV
  • Tran Ngoc Them
  • T.c Văn hóa-Nghệ thuật
  • Tc VHDG
  • Viện NCCN
  • Khoa Văn hóa học
  • Khoa Đông phương học
  • Phòng QLKH
  • Khoa Việt Nam học
  • Khoa Hàn Quốc học
  • BM Nhật Bản học
  • Khoa Văn học - Ngôn ngữ
  • Khoa triết học
  • Khoa Quan hệ quốc tế
  • Khoa Xã hội học
  • Bảo tàng Lịch sử - Văn hóa
  • viettems.com
  • myfaifo.com
Previous Next Play Pause

vanhoahoc.vn (các tên miền phụ: vanhoahoc.edu.vn ; vanhoahoc.net)
© Copyright 2007-2015. Bản quyền thuộc Trung tâm Văn hóa học Lý luận và Ứng dụng, Trường Đại học KHXH & NV - ĐHQG Tp. HCM
ĐT (028) 39104078; Email: ttvanhoahoc@hcmussh.edu.vn; ttvanhoahoc@gmail.com. Giấy phép: số 526/GP-BC, do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 27-11-2007
Ghi rõ nguồn vanhoahoc.vn khi phát hành lại các thông tin từ website này.

Website được phát triển bởi Nhà đăng ký tên miền chính thức Việt Nam trực thuộc Trung Tâm Internet VNNIC.

Kết quả đào tạo