ĐỀ TÀI LUẬN VĂN:
HÌNH TƯỢNG CHẰN TRONG VĂN HÓA KHMER NAM BỘ
MỤC LỤC
DẪN LUẬN |
1. Lý do chọn đề tài |
2. Mục đích nghiên cứu |
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn |
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu |
5. Lịch sử nghiên cứu vấn đề |
6. Phương pháp nghiên cứu |
7. Cơ sở lý thuyết |
8. Kết cấu đề tài |
|
CHƯƠNG 1: Khái quát về người Khmer Nam Bộ và cơ sở lý luận |
1.1. Người Khmer ở Nam Bộ |
1.1.1. Lược sử quá trình hình thành cộng đồng người Khmer ở Nam Bộ 1.1.2. Ảnh hưởng của Phật giáo trong đời sống người Khmer Nam Bộ |
1.2. Thuật ngữ khoa học và cơ sở lý luận liên quan đến đề tài |
1.2.1. Các thuật ngữ khoa học sử dụng trong đề tài |
1.2.1.1. Hình tượng 1.2.1.2. Biểu tượng 1.2.1.3. Type và motif 1.2.1.4. Hình tượng Chằn |
1.2.2. Cơ sở lý luận liên quan đến đề tài 1.2.2.1. Chủ nghĩa tượng trưng trong nghệ thuật 1.2.2.2. Trường phái biểu trưng và trường phái chức năng 1.2.2.3. Lý thuyết về giao lưu tiếp biến văn hóa 1.2.2.4. Nhân học nghệ thuật và nhân học biểu tượng 1.2.2.5. Mối quan hệ giữa nghệ thuật, biểu tượng và tôn giáo |
|
CHƯƠNG 2: Hình tượng Chằn trong tín ngưỡng và lễ hội cư dân Khmer Nam Bộ |
2.1. Nguồn gốc hình tượng Chằn |
2.2. Hình tượng Chằn trong tín ngưỡng dân gian |
2.2.1. Tục treo vũ khí của Chằn |
2.2.2. Tục vẽ mặt Chằn |
2.2.3. Tục thờ Wissawon |
2.3. Hình tượng Chằn trong các ngày lễ và lễ hội |
2.3.1. Lễ hội Chol Chnam Thmay (Lễ vào năm mới) |
2.3.2. Lễ hội Ok Om Bok (Lễ cúng trăng hay Lễ đút cốm dẹp) |
2.3.3. Lễ Kathan Nah Tean (Lễ dâng y) |
|
CHƯƠNG 3: Hình tượng Chằn trong nghệ thuật Khmer Nam Bộ |
3.1. Hình tượng Chằn trong nghệ thuật ngôn từ |
3.2. Hình tượng Chằn trong nghệ thuật diễn xướng |
3.2.1. Sân khấu Rôbăm 3.2.2. Sân khấu Dù kê |
3.3. Hình tượng Chằn trong nghệ thuật tạo hình |
3.3.1. Điêu khắc |
3.3.2. Hội họa |
|
KẾT LUẬN |
TÀI LIỆU THAM KHẢO |
PHỤ LỤC |
Phụ lục 1. Bảng thuật ngữ tiếng Khmer sử dụng trong luận văn |
Phụ lục 2. Biên bản phỏng vấn |
Phụ lục 3. Dân số dân tộc Khmer tại thời điểm 1/4/1999 phân theo giới tính |
Phụ lục 4. Các bảng biểu liên quan đến truyện Reamker |
Phụ lục 5. Nghi thức chi tiết trong lễ cúng Tổ Lakhol ở Campuchia |
Phụ lục 6. Hình ảnh |
TÓM TẮT LUẬN VĂN
HÌNH TƯỢNG CHẰN TRONG VĂN HÓA KHMER NAM BỘ
Nam Bộ khoảng thế kỷ XIII khi còn hoang sơ thì những nhóm nhỏ cư dân Khmer đã tới đây sinh sống. Từ thế kỷ XVI, người Việt từ Đàng Trong, từ miền Trung cũng bắt đầu vào lập nghiệp tại Nam Bộ ngày càng đông. Cuối thế kỷ XVII, một số nhóm người Hoa cũng đến ngụ cư và cuối thế kỷ XIX, một bộ phận nhỏ người Chăm từ Campuchia đã về Nam Bộ sinh sống. Quá trình cộng cư trong hơn 3 thế kỷ qua của các dân tộc Việt, Khmer, Hoa, Chăm trên vùng Nam Bộ này đã tạo nên sự giao lưu tiếp biến văn hóa hình thành nên một diện mạo văn hóa vùng Nam Bộ mang tính đa dạng phong phú, vừa gắn với đặc trưng văn hóa từng dân tộc, vừa thể hiện sắc thái văn hóa chung của toàn vùng.
Người Khmer tại Nam Bộ cũng mang những đặc điểm chung của cư dân Đông Nam Á, đời sống chủ yếu dựa trên việc canh tác lúa nước. Họ có những tín ngưỡng như thờ nữ thần lúa, tục thờ đá, thờ những linh vật dưới dạng tôtem như rắn, rồng, chim thần, cá sấu, thờ những vị thần bảo hộ dòng họ và vùng đất cư trú như Arak, Neakta... Chằn là một trong những hình tượng mà người Khmer ảnh hưởng từ văn hóa Ấn Độ dung hợp với tín ngưỡng bản địa. Cơ tầng văn hóa bản địa của cư dân Khmer đã hòa quyện với nền văn hóa Ấn Độ qua Bà la môn giáo và Phật giáo tạo nên nét văn hóa đặc trưng.
Hình tượng Chằn thể hiện dưới dạng một người cao lớn, mặc giáp trụ, tay cầm đao, có sức mạnh phi thường, đặc biệt gương mặt hung dữ, mắt trợn to, miệng rộng, răng nanh nhọn lởm chởm… Hình tượng này trong các khía cạnh văn hóa Khmer mang nhiều ý nghĩa biểu trưng. Trong văn học, hình tượng Chằn thường xuất hiện tượng trưng cho cái xấu, cái ác, của nhân vật phản diện, chuyên phá hoại, gây ra nghịch cảnh, đau khổ cho nhiều người. Trong đời sống tín ngưỡng của cư dân cũng như trong nghệ thuật tạo hình ở chùa Khmer, hình tượng Chằn xuất hiện với chức năng như vị thần bảo vệ người dân, bảo vệ chùa... biểu trưng cho điều thiện, điều lành.
Hình tượng Chằn Khmer Nam Bộ mang nhiều nét ảnh hưởng tiếp biến của văn hóa Ấn Độ và chúng tôi cho rằng nghiên cứu hình tượng Chằn Khmer dưới góc độ văn hóa học sẽ giúp làm rõ thêm văn hóa của dân tộc Khmer, một dân tộc có vai trò quan trọng không nhỏ ở Nam Bộ. Chính vì những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài “Hình tượng Chằn trong văn hóa Khmer Nam Bộ” để tìm hiểu.
Trong phạm vi tài liệu chúng tôi có thể bao quát được, vẫn chưa có một công trình chuyên khảo về hình tượng Chằn trong văn hóa Khmer Nam Bộ, do đó, tham khảo những tài liệu văn bản của ngành Văn hóa học, Văn học, Lịch sử, Khảo cổ học, Dân tộc học cùng với điều tra điền dã là nguồn tư liệu chủ yếu để thực hiện đề tài.
Mục đích nghiên cứu của đề tài là góp phần hiểu biết về đặc điểm nền văn hóa của người Khmer và đóng góp một phần trong việc bảo tồn và phát huy, giữ gìn vốn văn hóa đặc sắc của người Khmer Nam Bộ theo chủ trương của Đảng và nhà nước. Ngoài ra, chúng tôi cũng mong muốn góp phần nhỏ cung cấp tư liệu nghiên cứu về văn hóa người Khmer Nam Bộ cho các ban ngành chức năng, cho công tác giảng dạy, học tập về văn hóa của người Khmer Nam Bộ ở các trường, các viện nghiên cứu.
Ngoài phần Dẫn luận và Kết luận, kết cấu của đề tài gồm 3 chương:
Chương 1. Khái quát về người Khmer Nam Bộ và cơ sở lý luận
Mục 1: Trình bày khái quát quá trình hình thành văn hóa tộc người Khmer ở vùng Nam Bộ và những hoạt động kinh tế – văn hóa – xã hội. Qua đó, nhằm giới thiệu những nét văn hóa đặc sắc của người Khmer Nam Bộ như là một bối cảnh chung làm cơ sở cho việc nghiên cứu hình tượng Chằn.
Mục 2: Cơ sở lý luận áp dụng cho đề tài.
Chương 2. Hình tượng Chằn trong tín ngưỡng và lễ hội cư dân Khmer Nam Bộ
Giới thiệu về nguồn gốc của hình tượng Chằn và mô tả, phân tích hình tượng Chằn trên các khía cạnh văn hóa trong đời sống người Khmer Nam Bộ từ tín ngưỡng dân gian đến các lễ hội. Qua đó, thấy được sự tác động của hình tượng Chằn trên các lĩnh vực này làm cơ sở chung cho những phân tích cụ thể hơn ở chương 3.
Chương 3. Hình tượng Chằn trong nghệ thuật Khmer Nam Bộ
Trình bày góc nhìn đồng đại về hình tượng Chằn, khảo cứu hình tượng Chằn trên các bình diện của nghệ thuật ngôn từ, nghệ thuật diễn xướng và tạo hình. Có thể nói sự độc đáo và đặc sắc của hình tượng Chằn chủ yếu thể hiện qua các khía cạnh trên. Xuất phát từ văn học, hình tượng Chằn đi vào những môn nghệ thuật diễn xướng và tạo hình. Rồi từ đây, hình tượng Chằn lại phát tán những ảnh hưởng của mình trở ngược vào đời sống cư dân Khmer Nam Bộ. Kết quả nghiên cứu trong chương nhằm chứng minh sự độc đáo và cần thiết của một biểu tượng văn hóa (Chằn) trong nền văn hóa một dân tộc (Khmer).
Do tính chất của đề tài, phần nội dung của chương 3 chiếm số trang khá lớn vì chúng tôi sử dụng khoảng hơn 30 trang cho hình ảnh minh họa nhằm làm rõ các đề mục được trình bày.
Cụ thể hơn, kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy:
Trong lễ nghi tín ngưỡng, cư dân Khmer đã dung hòa tín ngưỡng liên quan đến Chằn vào Phật giáo. Nhiều nghi lễ thế tục cũng như nghi lễ trong Phật giáo Khmer có hình tượng Chằn hầu như ẩn chứa ý nghĩa cái thiện chiến thắng cái ác, chính nghĩa chiến thắng hung tàn. Cư dân Khmer với truyền thống nông nghiệp đã mượn hình ảnh Chằn để thể hiện ước muốn xua đuổi điều dữ, đón sự an lành, may mắn trong đời sống của họ.
Trong các tác phẩm văn học cụ thể là truyện Reamker, hình tượng Chằn được thể hiện biểu cảm và đa dạng, nó mang giá trị giáo dục nhận thức, bày tỏ quan niệm sống của dân gian, đồng thời hình tượng Chằn cũng nêu lên những giá trị, những bài học về đạo đức nhân sinh mà thế hệ trước mong muốn các thế hệ sau kế tục và gìn giữ.
Trong nghệ thuật diễn xướng của người Khmer Nam Bộ, hình tượng Chằn có một vị trí nổi bật, được người Khmer xem là linh hồn trong sân khấu Rôbăm và Dù kê. Chằn trong các loại hình sân khấu trên ngoài tác dụng giải trí còn mang ý nghĩa để cầu mưa, xua đuổi dịch bệnh, tà ma và những điều không tốt trong đời sống để được sự yên bình. Hình tượng Chằn nói chung tiêu biểu cho cái xấu, cái ác tồn tại trong cuộc sống của con người. Chằn cũng là biểu trưng của những khó khăn trở ngại nhằm thử thách ý chí con người. Chằn còn thể hiện khát vọng hoàn thiện bản thân và là một biểu tượng nghi lễ trong đời sống tâm linh của cư dân Khmer Nam Bộ. Như vậy, vượt lên trên tầng nghĩa thông thường của một hình tượng, Chằn đã trở thành một biểu tượng văn hóa mang tính “thiêng”.
Trong nghệ thuật tạo hình, Chằn là một mô típ khơi nguồn sáng tạo bất tận đối với các nghệ nhân Khmer. Hình tượng Chằn được khắc họa ở một số vị trí mang tính bảo vệ, ngăn chặn tà ma xâm nhập vào chùa chủ yếu với các tư thế đứng hoặc ngồi trong khuôn viên ngôi chùa Khmer. Nghệ thuật tạo hình Khmer Nam Bộ chủ yếu lấy đề tài từ những thần thoại Bà la môn và Phật thoại. Hình tượng Chằn ở đây đã được cải hóa, quy phục bởi đức Phật và trở thành thế lực bảo vệ cho chùa, qua đó, đề cao tinh thần khoan dung và chính nghĩa của Phật giáo đã chiến thắng sự hung bạo. Nghệ nhân dân gian Khmer bằng tài nghệ của mình đã thể hiện được ý nghĩa sâu sắc trên.
Như vậy, khởi nguyên từ một hình tượng xuất phát từ nền văn hóa Ấn Độ mang dấu ấn Bà la môn giáo nhưng Chằn hầu như trở thành một hình ảnh gần gũi với Phật giáo Khmer Nam Bộ. Điều này cho thấy sự hòa quyện giữa Bà la môn giáo, Phật giáo với các tín ngưỡng dân gian hình thành nên sắc thái văn hóa đặc trưng của dân tộc Khmer.
Với kết quả khảo sát bước đầu về hình tượng Chằn để thực hiện luận văn, chúng tôi nêu vài suy nghĩ, kiến nghị mong muốn góp phần bảo tồn và phát huy nét văn hóa đặc sắc của cư dân Khmer Nam Bộ:
Như trong nội dung luận văn đã nêu, nghệ nhân diễn xuất vai Chằn trong tuồng Rôbăm đều phải đội mặt nạ Chằn. Một số tuồng diễn có nhiều vai Chằn nên mỗi mặt nạ Chằn đều có những chi tiết khác nhau, vì thế, việc chế tác các loại mặt nạ Chằn cho tuồng Rôbăm đòi hỏi nghệ nhân phải có tay nghề cao và am hiểu về nghệ thuật sân khấu Rôbăm. Như vậy, chế tác mặt nạ nói chung và mặt nạ Chằn nói riêng là một nghề thủ công rất cần thiết, nhưng hiện nay ở Nam Bộ chỉ còn rất ít nghệ nhân dân gian Khmer làm mặt nạ này. Do đó, nghề làm mặt nạ Chằn trong tuồng Rôbăm có nguy cơ mất dần vì không có người kế thừa. Vì lý do này, chúng tôi nghĩ nhà nước nên có chế độ khích lệ khen thưởng đặc biệt cho các nghệ nhân lành nghề, hoặc có chủ trương thiết lập cơ sở đào tạo nghề làm mặt nạ Chằn. Khuôn viên chùa Khmer có thể là một trong những nơi thích hợp để lưu truyền nghề này.
Nghệ nhân đóng vai Chằn trước đây có rất nhiều và trong số đó có những người diễn rất xuất sắc, nhưng đội ngũ này ngày càng ít đi do nhiều nguyên nhân khác nhau, các ngành chức năng nên chăng hỗ trợ mở trường lớp để đào tạo các nghệ sĩ tuồng Rôbăm, Dù kê nói chung và nghệ sĩ diễn vai Chằn nói riêng, nếu được nên huấn luyện cho trẻ em Khmer ngay từ bé và đào tạo thành nghề đến khi lớn vì chúng tôi cho rằng xây dựng nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng góp phần cho các hình thức nghệ thuật diễn xướng có thể tồn tại bền lâu.
Hình tượng Chằn là mô típ thể hiện nghệ thuật tạo hình độc đáo, đặc trưng của văn hóa Khmer, du khách thường rất ưa chuộng mô típ này, do đó, ngành du lịch có thể quảng bá, giới thiệu hình tượng Chằn qua sản phẩm thủ công mỹ nghệ. Với các chuyến khảo sát thực tế tại Campuchia, Lào, Thái Lan năm 2006, chúng tôi nhận thấy có nhiều sản phẩm thủ công mỹ nghệ nhỏ gọn, rất tiện lợi để làm quà lưu niệm cho khách du lịch như mặt nạ Chằn, tượng Chằn bằng đồng, bằng bạc... Ở Thái Lan, mặt nạ dùng trong sân khấu Khol được bày bán ngay tại nơi trình diễn và các siêu thị, cửa hàng bán đồ lưu niệm. Thiết nghĩ, cư dân Khmer Nam Bộ cũng có thể áp dụng hình thức kinh doanh như trên. Với cách thức này, nghệ nhân Khmer sẽ tìm được đầu ra cho các sản phẩm chế tác, từ đó có thể góp phần duy trì và bảo tồn nghề truyền thống của dân tộc.
Ngoài ra, hiện nay nhiều tượng Chằn trong chùa Khmer bị hư hỏng, mất mát, do đó, các ngành chức năng cũng như các chùa Khmer cần có biện pháp bảo tồn, phục chế và tu sửa những loại tượng này vì đây là các tác phẩm nghệ thuật tạo hình độc đáo.
Nói tóm lại, luận văn này bước đầu tìm hiểu về Chằn, một trong những biểu tượng văn hóa của cư dân Khmer Nam Bộ, chúng tôi hy vọng nội dung luận văn sẽ cung cấp thêm tư liệu về nền văn hóa đặc sắc của dân tộc Khmer tại Nam Bộ cũng như góp phần tìm hiểu sự giao lưu văn hóa giữa các quốc gia chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ như Việt Nam, Campuchia, Thái Lan, Lào, Myanmar, Indonesia.