Theo số liệu của Hội đồng các bảo tàng quốc tế (gọi tắt là ICOM)* công bố tại cuộc họp của Đại Hội đồng vào tháng 10 năm 2004 tại Thủ đô Seoul của Hàn quốc thì hiện nay trên thế giới đã có hơn 60.000 bảo tàng. Đặc biệt, trong những thập kỷ gần đây, ngoài việc tăng nhanh về số lượng, loại hình bảo tàng cũng ngày càng đa dạng hơn và chức năng hoạt động cũng được mở rộng thêm. Điều trên chứng tỏ, ngày nay, bảo tàng đã thật sự là một trong những nhu cầu của con người, của xã hội. Bên cạnh đó, thực tiễn cũng cho thấy, trong quá trình hoạt động và phát triển, bảo tàng luôn có mối quan hệ với các lĩnh vực khác, trong đó mối quan hệ với văn hoá được thể hiện rõ rệt nhất, thậm chí, có thể coi khái niệm bảo tàng “nằm” trong khái niệm văn hoá. Mặc dù vậy, từ những góc nhìn khác nhau, vẫn có thể nhận ra những nét riêng của nó. Trong bài viết này, từ góc nhìn văn hóa, chúng tôi xin nêu lên đôi điều suy nghĩ về bảo tàng hay cụ thể hơn là về một số khía cạnh văn hoá của bảo tàng.
1. Bảo tàng là một thiết chế văn hoá
Với tư cách là một thiết chế văn hoá, các bảo tàng có hai chức năng cơ bản, đó là chức năng nghiên cứu và chức năng giáo dục, phổ biến tri thức khoa học thông qua các hoạt động nghiên cứu, sưu tầm, kiểm kê, bảo quản, trưng bày, tuyên truyền và phát huy giá trị của các di sản văn hóa cũng như các di sản tự nhiên của dân tộc.Tất cảnhững công việc trên đều “nhằm phục vụ cho công tác nghiên cứu, giáo dục, tham quan và hưởng thụ văn hoá của nhân dân” (điều 47- Luật di sản văn hoá)” .
Trước hết, về công tác nghiên cứu, có thể nói, đây là một chức năng rất quan trọng của các bảo tàng, bởi có tiến hành nghiên cứu thì mới có thể phát hiện và sưu tầm được các hiện vật rồi đưa ra trưng bày để tuyên truyền, giới thiệu cho công chúng hiểu về giá trị của chúng, góp phần vào sự nghiệp bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hoá dân tộc. Tại các bảo tàng, việc nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng đều cần thiết, song, nghiên cứu ứng dụng là vấn đề được chú trọng hơn vì nhiệm vụ của nghiên cứu ứng dụng là vận dụng những kết quả nghiên cứu vào các hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ của bảo tàng nhằm đáp ứng các nhu cầu của công chúng ngày càng hiệu quả hơn.
Thực tiễn cũng đã chứng minh rằng, dựa vào thế mạnh của mình là được lưu giữ một khối lượng lớn các di sản văn hóa và tự nhiên, phong phú về loại hình, đa dạng về chất liệu, các bảo tàng đã và đang tổ chức nghiên cứu, khai thác các giá trị tiềm ẩn trong các di sản đó để cung cấp những thông tin, những tri thức liên quan đến các di sản không chỉ nhằm phục vụ cho công tác chuyên môn của bảo tàng mà còn phục vụ cho các cơ quan hữu quan. Tuy nhiên, ngày nay, vấn đề nghiên cứu khoa học tại bảo tàng ở các nước phát triển, nhất là các nước Au - Mỹ đã có sự đổi mới về nhận thức, thể hiện ở chỗ, bên cạnh việc bảo tàng tự tổ chức nghiên cứu, người ta khuyến khích các chủ thể văn hóa tham gia vào hoạt động này thông qua việc bảo tàng tạo điều kiện thuận lợi cho họ nghiên cứu và tự giới thiệu về văn hóa của mình cũng như nêu lên những suy nghĩ, thậm chí cả những trăn trở, bức xúc của họ đối với vấn đề trên. Chính những điều đó sẽ là những thông tin chính xác và rất bổ ích cho công tác nghiên cứu khoa học của bảo tàng hay nói cách khác, bằng cách làm này, tính hiệu quả của công tác nghiên cứu khoa học được nâng cao hơn.
Về chức năng giáo dục và phổ biến tri thức khoa học, có thể khẳng định rằng, tuy không phải chỉ có bảo tàng thực hiện chức năng này, song, nếu công việc đó được tiến hành dựa trên cơ sở các sử liệu gốc dưới dạng các hiện vật bảo tàng thì chắc chắn, nó sẽ có sức thuyết phục hơn, vì chỉ có nhữngsử liệu gốc mới là những bằng chứng xác đáng, giúp con người tìm hiểu về các thế hệ đã qua, thậm chí có thể phục dựng lại các thời kỳ lịch sử đó và cũng chính những vật chứng ấy mới tạo được lòng tin cho công chúng khi đến xem bảo tàng, bởi như ông cha ta thường nói: "trăm nghe không bằng một thấy". Hay nói cách khác, bằng ngôn ngữ đặc thù của mình là cácsử liệu gốc và bằng hoạt động tuyên truyền, giáo dục thông qua ngôn ngữ đặc thù đó, các bảo tàng đã đưa con người đến với những giá trị truyền thông, giá trị văn hoá… để từ đó có niềm tin vào hiện tại và tương lai.
Sau khi tham gia khảo sát tại một số bảo tàng ở Pháp, Bỉ, Mỹ, v.v., chúng tôi nhận thấy hiện nay, trong công tác giáo dục và phổ biến tri thức khoa học, phần lớn bảo tàng ở các nước phát triển rất chú trọng đến việc phát huy tính chủ động sáng tạo của người xem bảo tàng, nhất là thế hệ trẻ với mục đích tạo điều kiện cho mọi người tự khám phá những điều mới lạ trong các chủ đề cũng như các hiện vật trưng bày và đó chính là những kiến thức rất bổ ích cho khách tham quan. Đặc biệt, đối với các em học sinh thì các bảo tàng như là môi trường giáo dục ngoài nhà trường, hay có người cho rằng, đó là “trường học ngoài nhà trường” có tác dụng củng cố và bổ sung kiến thức cho các em. Để thực hiện được điều trên, các nhân viên hướng dẫn tham quan của bảo tàng luôn nắm rất vững chương trình học của từng cấp để xây dựng và thiết kế các chương trình tham quan mang tính giáo dục và phổ biến tri thức có định hướng và phù hợp với các trường. Ngoài các chương trình tham quan dành cho học sinh các cấp, người ta còn xây dựng các chương trình dành cho những người thiếu may mắn như: người tàn tật, người mù, người câm, điếc… và đặc biệt, còn có cả chương trình dành cho gia đình, trong đó có quan tâm đến việc giúp bố mẹ hoặc ông bà hướng dẫn cho con, cháu tham quan và tham gia các hoạt động vui chơi, giải trí trong bảo tàng Như vậy, thông qua công việc trên, các bảo tàng có thể tiến hành công tác giáo dục tư tưởng, tình cảm, ý thức hệ, quan niệm thẩm mỹ… cho các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ, góp phần vào việc đào tạo những con người có nhân cách, có ích cho xã hội.
Ngoài hai chức năng mang tính truyền thống nói trên, từ việc tổng kết hoạt động thực tiễn của các bảo tàng trên thế giới, các nhà bảo tàng học đã bổ sung thêm một số chức năng cho bảo tàng như: chức năng bảo vệ di sản văn hóa, chức năng thông tin, chức năng tư liệu hóa khoa học, chức năng đào tạo, chức năng giải trí, v.v.
Qua những điều vừa trình bày, có thể thấy, nhìn từ góc độ văn hóa thì bảo tàng là một thiết chế văn hóa đa chức năng, là một trong những lĩnh vực hoạt động của văn hoá và hoạt động này đang ngày càng góp phần làm cho "vườn hoa" văn hóa Việt Nam thêm đa sắc và hữu dụng hơn.
2. Bảo tàng sử dụng các sản phẩm của văn hoá làm đối tượng hoạt động
Như chúng ta đều biết, trong cuộc sống, nhất là cuộc sống hiện tại, sản phẩm của văn hoá rất phong phú và muôn hình, muôn vẻ. Trong bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập đến các sản phẩm văn hoá mà các bảo tàng đã và đang sử dụng trong hoạt động của mình, đó chính là các di sản văn hoá.
Theo quy định của luật di sản văn hoá (trên cơ sở kế thừa kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học ngoài nước cũng như trong nước) thì khái niệm di sản văn hoá gồm có: di sản văn hoá vật thể và di sản văn hoá phi vật thể. Hai khái niệm trên được hiểu như sau:
“di sản văn hoá vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học, bao gồm di tích lịch sử - văn hoá, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia". Còn “di sản văn hoá phi vật thể là sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học, được lưu giữ bằng trí nhớ, chữ viết, được lưu truyền bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức lưu giữ, lưu truyền khác, bao gồm tiếng nói, chữ viết, tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, ngữ văn truyền miệng, diễn xướng dân gian, lối sống, nếp sống, lễ hội, bí quyết về nghề thủ công truyền thống, tri thức về y, dược học cổ truyền, về văn hoá ẩm thực”, về trang phục truyền thống dân tộc và những tri thức dân gian khác”(điều 4- Luật di sản văn hoá).
Qua những khái niệm trên, có thể thấy, các sản phẩm của văn hóa vật thể và phi vật thể cũng thật đa dạng và tất cả các sản phẩm đó đều được sử dụng trong hoạt động bảo tàng. Theo số liệu thống kê của cục di sản văn hoá, tính đến thang11 năm 2006, trong 117 bảo tàng ở Việt Nam lưu giữ trên 2 triệu đơn vị hiện vật (mỗi đơn vị có nhiều hiện vật), trong đó có 922 bộ sưu tập, giá trị nhất là sưu tập trống đồng (gần 500 chiếc) và có khoảng 40.000 di sản văn hóa vật thể dưới dạng bất động sản (đình, chùa, đền, tháp, lăng, miếu, phố cổ, thành cổ, các khu địa đạo, các danh lam thắng cảnh,v.v.). Và, trong số các di sản của Việt Nam, tính đến nay có 5 di sản văn hóa (Cố đô Huế, Phố cổ Hội An, Khu tháp Mỹ Sơn, Nhã nhạc Huế, không gian văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên) và 2 di sản thiên nhiên (Vịnh Hạ Long, Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng) đã được UNESCO công nhận là di sản thế giới. Bên cạnh đó còn có 2882 di tích được xếp hạng di tích cấp quốc gia và 4286 di tích được xếp hạng di tích cấp tỉnh. Ngoài ra, những giá trị của các di sản văn hoá phi vật thể như: kỹ thuật, mỹ thuật, bí quyết tạo ra di sản, trang phục truyền thống, văn hóa ẩm thực của các vùng, miền, lễ hội có liên quan đến di sản… vv cũng đã và đang được các bảo tàng quan tâm thu thập và gìn giữ.
Dẫn chứng trên cho thấy, hiện nay, ở Việt Nam có một khối lượng lớn các di sản văn hoá dưới dạng vật thể và phi vật thể đã được các Bảo tàng sưu tầm, phát hiện, bảo quản, khai thác và phát huy giá trị để phục vụ cho lợi ích của toàn xã hội và hiện tại, công việc đó vẫn đang được tiếp tục thực hiện để càng ngày càng có thêm nhiều di sản văn hoá bổ sung vào kho tàng di sản văn hoá Việt Nam. Điều đó dồng nghĩa với việc các sản phẩm của văn hoá thuộc các thời kỳ lịch sử khác nhau đều là đối tượng hoạt động của các bảo tàng. Tất nhiên, tùy thuộc vào nhiệm vụ và nội dung chủ đạo của từng bảo tàng mà xác định đối tượng một cách cụ thể. Và, cũng cần nói thêm rằng, di sản văn hoá vật thể và phi vật thể trong hoạt động bảo tàng luôn có mối quan hệ hữu cơ với nhau, bởi di sản văn hoá vật thể là sự biểu hiện vật chất của di sản văn hoá phi vật thể và ngược lại, di sản văn hoá phi vật thể là biểu hiện tinh thần của di sản văn hoá vật thể đó.
Hiện nay, trên thế giới. người ta rất chú trọng việc “vật thể hoá” các tư liệu văn hóa phi vật thể bằng việc sử dụng các loại phương tiện kỹ thuật hiện đại như: máy quay phim, máy ghi âm, máy chụp hình,.. để lưu giữ giá trị của các di sản văn hóa phi vật thể qua các băng hình, băng tiếng. hình ảnh…vv. Đặc biệt, họ rất quan tâm đến vấn đề bảo vệ, tôn vinh các nghệ nhân và những người có trình độ cao trong việc thực hành các kỹ thuật truyền thống, họ coi những người đó là “báu vật nhân văn sống” (Living human treasures).
3. Bảo tàng là nơi chuyển tải một cách có hiệu quả những giá trị của văn hóa đến với đông đảo công chúng.
Như trên đã đề cập, các sản phẩm của văn hoá là đối tượng hoạt động của bảo tàng và chính bảo tàng là nơi có điều kiện chuyển tải những giá trị của văn hóa một cách hiệu quả nhất dựa vào đặc trưng riêng có của mình, đó là công tác trưng bày (bao gồm cả trưng bày tại bảo tàng và trưng bày ngoài phạm vi bảo tàng), bởi vì trưng bày trong hoạt động bảo tàng không chỉ đơn giản là việc trình bày và giới thiệu hiện vật mà đó làphương tiện tuyên truyền rất hữu ích đối với xã hội.Và,bằng các thủ pháp trưng bày phù hợp với bảo tàng học thế giới kết hợp với các phương pháp mới trong công tác hướng dẫn tham quan mang tính gợi mở và phát huy tính chủ động, sáng tạo của người xem, các bảo tàng có thể truyền đạt chủ đề tư tưởng cũng như nội dung trưng bày đến khách tham quan theo nhiều kênh và với nhiều thông điệp khác nhau. Ngược lại, với cách làm trên, bảo tàng cũng có điều kiện để nhận lại những thông điệp từ phía khách tham quan, trong đó có cả người nước ngoài. Từ đó có thể rút ra những kinh nghiệm nhằm phục vụ công chúng ngày càng tốt hơn, Tính hiệu quả của việc truyền đạt các giá trị của văn hoá trong hoạt động bảo tàng còn nhờ vào một thế mạnh nữa của nó là ở chỗ, chỉ có bảo tàng mới là nơi lưu giữ các di sản văn hoá và chính tại đây, khách tham quan mới được trực tiếp nhìn thấy các vật chứng của lịch sử, do vậy,việc truyền đạt thông tin sẽ mang tính thuyết phục hơn bất cứ một nơi nào khác.
4. Bảo tàng góp phần vào việc đẩy mạnh giao lưu văn hóa giữa các dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam và giữa Việt Nam với các nước trên thế giới
Thông qua các hoạt động chuyên môn của mình, các bảo tàng có thể tạo điều kiện thuận lợi cho các đối tượng công chúng trong nước cũng như ngoài nước tìm hiểu, nghiên cứu về lịch sử, văn hóa và con người Việt Nam nói chung, từng dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam nói riêng, qua đó góp phần vào việc giao lưu văn hóa giữa các dân tộc trên đất nước và giữa Việt Nam với các nước trên thế giới. Có thể nói, ngoài ý nghĩa bảo tàng như là cầu nốigiữa quá khứ với hiện tại, giữa tri thức với công chúng, nó còn được coi như là cầu nối giữa các dân tộc trong một cộng đồng và giữa một dân tộc với các dân tộc khác trên thế giới.
Từ thực tiễn, có thể khẳng định rằng, văn hóa muốn phát triển, đặc biệt là trong bối cảnh toàn cầu hóa như hiện nay thì nhất thiết phải có sự giao lưu. Với vai trò là “cầu nối”,bảo tàng đã và sẽ đóng góp vào công việc đó một cách hữu hiệu để góp phần vào việc khẳng định vai trò và vị trí của Việt Nam trên trường quốc tế.
Như vậy, có thể thấy, bảo tàng là một thiết chế văn hoá, đồng thời cũng là một lĩnh vực hoạt động của văn hóa và thiết chế này, lĩnh vực hoạt động này có thể đóng góp đáng kể vào việc tăng cường mối giao lưu giữa các dân tộc và giữa các nước với nhau.
5. Đào tạo cán bộ làm công tác bảo tàng chính là đào tạo cán bộ làm công tác văn hoá.
Xét về mặt khoa học, Bảo tàng học là một môn khoa học trong hệ thống khoa học xã hội và nhân văn, nhưng xét về mặt quản lý nhà nước, các Bảo tàng lại là những thiết chế trong hệ thống thiết chế văn hóa thuộc Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa- Thể thao – Du lịch), do vậy, từ góc độ này cũng có thể hiểu, khái niệm bảo tàng “nằm” trong khái niệm “Văn hóa”. Qua đó, có thể nghĩ rằng, đào tạo con người làm công tác Bảo tàng cũng chính là đào tạo con người làm công tác văn hóa và đầu tư cho Bảo tàng cũng chính là đầu tư cho văn hóa. Trong xu thế đổi mới và phát triển như hiện nay, việc đào tạo và đào tạo lại nhân sự để những người làm công tác bảo tàng có đủ kiến thức và năng lực, đáp ứng nhiệm vụ trong tình hình mới là vô cùng cần thiết, bởi con người luôn là yếu tố quyết định cho sự thành công của mọi công việc, nhất là khi bảo tàng lại được coi là một công cụ giáo dục chính trị, tư tưởng, phục vụ cho sự nghiệp phát triển con người và nguồn lực con người.
Nguồn:In trong: Những vấn đề Khoa học Xã hội & Nhân văn – Chuyên đề Văn hoá học, Tp.HCM - Nxb Đại học Quốc gia, 2013