1. Quá trình hình thành hệ giá trị và hệ phản giá trị trong văn hóa
Trong bất kì một nền văn hóa nào, các thành viên trong cộng đồng ấy luôn định ra những điều ước mang tính thống nhất. Những điều ước ấy thường được thể hiện ra thành hai dạng: luật và lệ. Nếu sự thoả thuận ấy được thực hiện một cách công khai thì điều ước ấy được gọi là luật, nếu thực hiện một cách ngấm ngầm thì gọi là lệ. Từ luật đã sinh ra các biến thể là pháp luật, quy ước, quy chế… trong khi lệ lại sinh ra các biến thể là giao kèo, cấm kị. Nhưng dù là luật hay lệ, tất cả cũng đều nhằm tạo ra sự ổn định và phát triển cho xã hội. Dần dần, người ta đồng nhất luật lệ với yếu tố giá trị, trong đó, luật mang giá trị dương (cứng nhắc, lý tính) còn lệ mang giá trị âm (mềm mỏng, cảm tính).
Quan niệm về giá trị được hình thành dựa trên sự quy định của các chiều kích văn hóa: không gian văn hóa, chủ thể văn hóa, thời gian văn hóa và sản phẩm văn hóa. Trong khi đó, mỗi nền văn hóa luôn được xây dựng trên một hệ tọa độ văn hóa riêng biệt, do vậy, sự đặc hữu của các chiều kích văn hóa sẽ tạo nên những quan niệm về giá trị khác nhau, từ đó hình thành nên những hệ giá trị khác nhau [Trần Ngọc Thêm 2013: 104].
Theo Trần Ngọc Thêm, không gian văn hóa chính là yếu tố đặc biệt quan trọng trong sự định hình giá trị quan của mỗi nền văn hóa. Theo đó, địa hình, địa chất, khí hậu, sông ngòi, hệ sinh vật… sẽ khiến cho các thành viên trong không gian sinh tồn ấy có những phương thức nhận thức - tổ chức - ứng xử - sáng tạo riêng. Ví dụ như ở châu Âu, do khí hậu khô lạnh, ít mưa, ít sông ngòi, đất lại cao và ít phù sa mới nên thực vật kém phát triển, chủ yếu là các đồng cỏ bao la. Trong khi đó, châu Á lại điển hình cho xứ nóng ẩm, mưa nhiều, sông ngòi chằng chịt, phù sa màu mỡ, rất thích hợp để canh tác hoa màu, lương thực và chăn nuôi nhỏ lẻ [Trần Ngọc Thêm 2004: 29-37]. Như vậy, ở châu Âu, phương thức sản xuất chủ đạo ở nơi đây sẽ là chăn nuôi (du cư) và trao đổi hàng hóa, từ đó, thủ công nghiệp và công nghiệp nhanh chóng phát triển (đặc biệt là công nghiệp điện tử), đây cũng chính là một nguyên nhân khiến các quốc gia này trở thành các cường quốc về khoa học kỹ thuật, làm đại diện cho các thành tựu văn minh và trình độ vật chất. Trong khi đó tại châu Á, các nền văn minh nông nghiệp đã xuất hiện ngay từ hàng ngàn năm trước công nguyên, và tính chất nông nghiệp chính là yếu tố chủ đạo trong việc tác tạo nên những gương mặt đại diện mang đậm chất kì bí và sâu lắng bởi các trầm tích văn hóa. Do vậy, trong việc xây dựng hệ giá trị về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và thế giới, người châu Âu sẽ lấy việc phát triển khoa học kỹ thuật, nâng cao trình độ văn minh… làm hạt nhân, trong khi châu Á lại lấy việc bảo tồn và phát huy những nét đẹp trong văn hóa tinh thần làm hạt nhân.
Ngoài không gian văn hóa ra, bản thân con người cũng chính là yếu tố không thể thiếu trong quá trình hình thành những nền văn hóa và cũng là yếu tố chủ đạo xây dựng nên hệ giá trị về đời sống con người. Sống trong môi trường cạnh tranh khốc liệt (như cạnh tranh bãi cỏ chăn nuôi, cạnh tranh đối tác giao thương, cạnh tranh thị trường, cạnh tranh uy tín cá nhân…), thì người châu Âu tất phải lấy việc sống bằng sức mạnh cá nhân, sống bằng hiện thực… làm tiêu chí phấn đấu trong cuộc sống; trong khi người châu Á lại lấy việc sống bằng sức mạnh của tập thể, sống bằng truyền thống lịch sử… làm tiêu chí rèn giũa bản thân. Điều này cũng tương tự như trong Thiên Chúa giáo ở châu Âu có nghi thức xưng tội của một cá nhân (người phạm tội) đối với một cá nhân thực (đức Cha), còn trong Phật giáo ở châu Á lại có hiện tượng cá nhân (người phạm lỗi) chuộc tội của mình bằng cách làm những việc thiện cho cộng đồng.
Trong khi đó, thời gian văn hóa lại là yếu tố kiểm chứng cho những giá trị đã và đang hình thành trong từng cộng đồng, khiến cho những giá trị tốt đẹp của cộng đồng dần dần biến thành truyền thống văn hóa. Từ đó, nó trở thành thước đo về phẩm chất con người, buộc mỗi cá nhân trong cộng đồng phải tự điều chỉnh hành vi, tư tưởng của mình; thậm chí, nó còn định hướng cho sự phát triển của mỗi cộng đồng. Có thể nói rằng, sống trong dòng chảy lịch sử của mỗi nền văn hóa, con người phải luôn tự uốn mình theo đường ray của truyền thống lịch sử và ý thức được sứ mệnh kế tục lịch sử. Khi bàn về vai trò của truyền thống, Trần Ngọc Thêm viết: “Nhờ nó [truyền thống văn hóa - TDK] mà văn hóa đóng vai trò quyết định trong việc hình thành nhân cách ở con người, trồng người (dưỡng dục nhân cách) [Trần Ngọc Thêm 2004: 22]. Nói cách khác, thời gian văn hóa chính là yếu tố then chốt trong việc định hình nên hệ giá trị về ý thức tự ngã.
Cuối cùng, sản phẩm văn hóa chính là kết tinh từ những hành vi, nhận thức của con người trong quá trình tương tác với tự nhiên và xã hội. Đi từ những sản phẩm văn hóa, những đặc trưng văn hóa mới dần dần được định hình và từng bước trở thành chất keo kết dính các yếu tố vật chất và tinh thần trong mỗi nền văn hóa, khiến chúng trở thành tác nhân tạo nên sự đồng thuận cho cộng đồng và giúp cộng đồng ấy dễ dàng phân biệt với những cộng đồng khác. Vì vậy, đặc trưng văn hóa chính là yếu tố quan trọng trong việc xây dựng nên hệ giá trị về ý thức cộng đồng.
Các hệ giá trị này được thể hiện ra bằng các dạng giá trị cụ thể trong đời sống. Theo quan niệm truyền thống, giá trị thường được thành hai dạng là giá trị vật chất và giá trị tinh thần. Tuy nhiên, cách phân loại này có phần mang tính khái quát, do vậy, chúng ta còn có thể chia theo các chiều kích văn hóa, ví dụ như riêng ở hệ giá trị về ý thức tự ngã (dựa trên thời gian văn hóa), chúng ta có thể chia nhỏ thành giá trị đạo đức, giá trị văn hóa, giá trị thẩm mỹ, giá trị đời sống… Ngoài ra, chúng ta có thể chia giá trị theo các phương diện văn hóa như cách phân loại của Trần Ngọc Thêm [2004: 19], theo đó, chúng ta có giá trị vật chất và giá trị tinh thần (theo mục đích); giá trị sử dụng, giá trị đạo đức và giá trị thẩm mỹ (theo ý nghĩa); giá trị vĩnh cửu và giá trị nhất thời (theo thời gian).
Song song đó, các hệ phản giá trị cũng xuất hiện dưới sự vận động của các chiều kích văn hóa và nhanh chóng tạo thành thế lưỡng lập với các hệ giá trị trong các nền văn hóa. Tính hai mặt trong tính cách của mỗi dân tộc chính là ví dụ điển hình cho sự song hành này, ví dụ như đặc trưng tính cách của người Việt Nam theo nhận định của Trần Ngọc Thêm [2004: 190] hay Đào Duy Anh [2006: 22]. Quá trình hình thành và vận động của hệ giá trị và hệ phản giá trị có thể khái quát như sau:
Khái quát về sự hình thành hệ giá trị và hệ phản giá trị
2. Mối quan hệ giữa giá trị và phản giá trị
Tất thảy những sự vật hiện tượng trong tự nhiên và xã hội đều được hình thành và phát triển một cách tự nhiên, có cầu thì tất có cung; ngược lại, khi không ai cầu thì tất sẽ bị suy vong và dần dần bị triệt tiêu. Có nghĩa là, bất kì một sự vật hiện tượng nào đang hiện tồn đều là những cái có giá trị, và giá trị của chúng đặt trong sự so sánh lẫn nhau là ngang nhau (theo nghĩa tương đối). Ví dụ như theo Lão tử, giữa hữu và vô, người ta thường đề cao hữu, nhưng thật ra, chưa hẳn vô là cái không có giá trị: cái nhà là cái có giá trị, nhưng cái khoảng không để mọi người sinh hoạt trong ngôi nhà ấy lại càng có giá trị hơn; cái bát dùng để đựng thức ăn là vật quý, nhưng cái khoảng không trong lòng bát lại là cái đáng quý hơn (Đạo đức kinh). Suy ra, đứng trước những sự vật, hiện tượng đối lập nhau, chúng ta sẽ không thể nào xác định được đâu là cái tốt, đâu là cái xấu, đâu là cái đáng được phát huy và đâu là cái đáng bị hạn chế. Tốt hay xấu, theo hay bỏ đều là do nhận định cảm tính của con người: “Cho cái đẹp là đẹp do đó mới có cái xấu; cho cái thiện là thiện do đó mới có cái ác” (Đạo đức kinh). Do vậy, ta sẽ không thể nào xây dựng được một khái niệm về “giá trị” và “phản giá trị”.
Tuy nhiên, mọi vật trong vũ trụ và trong xã hội tuy đa dạng và phức tạp nhưng lại quan hệ với nhau theo một trật tự nhất định (trong không gian, trong thời gian và trong mối quan hệ giữa chủ thể với khách thể). Chuỗi trật tự này chính là khởi nguyên của tính lưỡng phân lưỡng hợp, là nguyên lý cơ bản trong quá trình phân chia hai thuộc tính cơ bản của vũ trụ và xã hội: tính âm và tính dương. Khi trật tự này bị đảo lộn, khi sự vật hay hiện tượng nào đó bị đặt sai vị trí thì dương sẽ không còn là dương và âm sẽ không còn là âm. Khi nghiên cứu về mối quan hệ giữa thiêng và tục, Zhang Wan Jun cũng nhận định: “Cái được gọi là sạch sẽ hay dơ bẩn hoàn toàn không do tự nhiên nó quyết định, mà đó là do nó được sắp xếp bố trí vào một vị trí nào đó có được thích hợp hay không” [Zhang Wan Jun]. Tức là, “những góc độ khác nhau về không gian, thời gian và chủ thể sẽ quy định những đặc tính khác nhau, những giá trị khác nhau ở cùng một sự vật hiện tượng” [Trần Duy Khương 2013: 177]. Do được quy chiếu từ hệ toạ độ này mà con người mới phân định được đâu là tốt đâu là xấu, đâu là nên và đâu là không nên, tức đâu là giá trị và đâu là phản giá trị.
Có thể nói rằng, giữa giá trị và phản giá trị luôn luôn có mối quan hệ mật thiết với nhau, như trong âm luôn có dương và trong dương luôn có âm. Trong đó, giá trị chính là mục tiêu hướng đến của các thành viên trong cộng đồng vì sự nghiệp phát triển chung, dần dần, nó biến thành đường ray dẫn dắt cho các thành viên trong cộng đồng ấy trong quá trình nhận thức, tổ chức và ứng xử văn hóa. Do vậy, tính giá trị trong văn hóa còn được xem như là một dạng luật pháp mềm, hay như “lưới trời lồng lộng tuy thưa mà khó lọt” theo cách nói của Lão tử (Đạo đức kinh). Ngược lại, phản giá trị chính là mục tiêu hạn chế đến mức thấp nhất của cộng đồng, nhằm bảo đảm sự ổn định và trật tự cho quá trình sinh tồn trong cộng đồng ấy.
Tuy nhiên, mối quan hệ này không hề bất biến, một sự vật hay hiện tượng nào đó được xem là có giá trị thì không nhất thiết phải có giá trị đối với tất thảy mọi nơi, mọi người và mọi thời điểm (xem xét trong quan hệ ngoại bộ). Ví dụ như, sự khéo léo khi đặt ở vùng này thì được xem là chuẩn mực trong văn hóa giao tiếp xã hội, nhưng khi đi đến một vùng khác thì đôi khi lại bị xem là sự giả tạo, trong khi sự chân chất và thậm chí là vụng về thì lại được xem là điều đáng trân trọng. Hay như việc chừa một ít thức ăn trong bát, trong đĩa khi dùng bữa với người lạ được xem là một sự tinh tế, thể hiện được tính cách văn nhã của người Việt Nam, nhưng đó lại trở thành tính sĩ hiện hão và đáng chê trách trong con mắt của những người chuộng óc thực tế như ở các nước phương Tây. Nếu xét trong quan hệ nội bộ (tức dựa trên cùng các chiều kích văn hóa), thì giá trị và phản giá trị vẫn nương nhờ lẫn nhau và sinh ra nhau. Ví dụ như, nhờ có những hành vi phạm pháp của những tên tội phạm (phản giá trị) mà người ta mới ý thức được lợi ích từ sự an toàn xã hội (giá trị), nhờ có sự huỷ hoại của chiến tranh (phản giá trị) mà xã hội mới xác lập được một trật tự mới, đem lại sự hoà bình mới (giá trị); ngược lại, chính vì xã hội đã quá an toàn, con người đã sống trong cuộc sống quá yên ả nên dẫn đến chủ quan và dần dần sa đoạ, luôn truy cầu lợi ích cá nhân, từ đó mà tạo nên mầm mống của những tội ác xã hội.
Như vậy, chính nhờ có cái ác mà cái thiện mới được ca tụng, nhờ có cái xấu mà cái tốt mới được tôn vinh, nhờ có cái vô dụng mà cái hữu dụng mới được truy cầu. Có nghĩa là, cái ác, cái xấu, cái vô dụng cũng có những giá trị nhất định. Do tính hai mặt của mọi đối lập mà ta không thể nào thanh trừng hết được mọi cái ác cái xấu, và do vậy, ngay cả cái ác cái xấu cũng tuân theo quy luật “đã tồn tại tức là có giá trị”. Chính vì thế, khi bình về tinh thần của Huấn Cao trong tác phẩm “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân, Nguyễn Đăng Mạnh đã viết về vai trò của sự yếu mềm trong quan hệ đối sánh với sự “vô uý”: “Nhưng thử nghĩ mà xem, con người không biết sợ cái gì trên đời này cả, liệu có phải là con người không? Cái gì cũng ‘vô uý’, cũng tỏ thái độ sắt thép, nghĩa là không biết mềm lòng trước bất cứ một cái gì, đấy là loại quỷ sứ chứ đâu phải là người! Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân dạy cho người ta hiểu rằng, muốn nên người, phải biết kính sợ ba điều này: Cái tài, Cái đẹp và Cái thiên tính tốt của con người (thiên lương). Vậy kẻ nào không biết sợ cái gì hết, đó là loài quỷ sứ” [Nguyễn Đăng Mạnh 2012].
Thế nhưng, xu hướng phát triển của vạn vật là dương nhỉnh hơn âm mà không phải là sự tịnh tiến của âm và dương. Có nghĩa là, tuy cái tốt được hình thành trong quan hệ đối sánh với cái xấu, được đặt trên phông nền của cái xấu nhưng nếu cái tốt và cái xấu luôn phải nằm trong thế giằng co bất phân thắng bại thì mọi vật sẽ trở nên hỗn loạn. Do vậy, mối quan hệ giữa giá trị và phản giá trị khi đặt vào trong từng trường hợp cụ thể thì cần phải có sự nhận định toàn diện hơn và xác định một cách thống nhất rằng đâu là cái đáng được phát huy và đâu là cái đáng bị hạn chế.
3. Xác định hệ giá trị và phản giá trị trong văn hóa Việt Nam đương đại
Từ khi thực hiện chính sách mở cửa, đặc biệt từ khi chính thức hoà mình vào quá trình toàn cầu hóa (từ giữa thập niên 90 của thế kỉ XX đến nay), Việt Nam đã không ngừng vận động và có những sự chuyển biến sâu sắc. Sự chuyển biến ấy không đơn thuần chỉ thể hiện trên phương diện kinh tế hay chính trị, mà nó còn thể hiện một cách đậm nét trên phương diện văn hóa.
Sự chuyển biến này không chỉ là sản phẩm cá biệt của Việt Nam, đó còn là sản phẩm chung của đa số các quốc gia phương Đông, nơi mà quá trình hội nhập quốc tế diễn ra một cách nhanh, mạnh và quyết liệt. Đứng trước sự hội nhập này, các nước đã thay đổi quan niệm về hệ giá trị truyền thống và tỏ ra thận trọng trong việc xây dựng hệ giá trị mới trên cơ sở kế thừa và cách tân chúng. Ví dụ như ở Trung Quốc, đạo quân tử trong sự nghiệp phát triển đất nước trong suốt hai ngàn năm là “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” (tu dưỡng bản thân, quản lý gia đình, cai trị đất nước, vỗ về thiên hạ) đã cách tân thành “trung thành ư Đảng, nhiệt ái nhân dân, báo hiệu quốc gia, hiến thân sứ mệnh, sùng thượng vinh dự” (trung thành với Đảng, thương yêu nhân dân, báo đáp nước nhà, hiến thân vì sứ mệnh, tôn sùng vinh dự) ở tầng lớp quân nhân thời đương đại. Trong đời sống cộng đồng, họ cũng chỉ ra những đặc trưng cơ bản trong quan niệm về giá trị, theo đó, những giá trị sau đây là những giá trị cốt lõi, giúp họ vừa hội nhập được với thế giới, vừa có thể tạo nên bản sắc riêng của mình: tính nhân dân, tính bình đẳng, tính cộng đồng (hay tính tập thể) và tính đạo đức [Jiang Chang 2014].
Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật của sự hội nhập quốc tế. Trong quá trình hội nhập ấy, nếu chỉ quan tâm đến sự tăng trưởng kinh tế mà không chú ý đến sự hội nhập văn hóa thì sự hội nhập ấy trở nên phiến diện, điều đó đồng nghĩa với việc đất nước phải đối mặt với hàng loạt những nguy cơ . Do vậy, sự chuyển biến ngày càng nhanh trong văn hóa nhận thức, tổ chức và ứng xử vào giai đoạn hội nhập hiện nay cũng chỉ là sản phẩm tất yếu của lịch sử. Trong sự chuyển biến ấy, có những giá trị cũ sẽ được giữ lại nhưng phải thay đổi hình dạng, hoặc cải biên, hoặc bị thay thế hoàn toàn bởi những giá trị mới để phù hợp với xu hướng chủ lưu. Đồng thời, một số phản giá trị cũ có thể thích ứng được với môi trường mới, chúng tồn tại song hành với những phản giá trị cũ đã thay đổi diện mạo hoặc với những phản giá trị mới phát sinh. Từng cặp song hành giữa giá trị và phản giá trị sẽ tạo thành thế lưỡng lập trên mỗi bình diện văn hóa, và giữa chúng có mối quan hệ vừa sinh thành vừa khắc chế cho nhau. Theo chúng tôi, đi từ nguồn gốc nông nghiệp đến giai đoạn toàn cầu hóa, trong mối quan hệ với các chiều kích văn hóa, thì đặc tính tiểu nông trong nhận thức của người Việt Nam được biểu hiện ra thành những đặc trưng cơ bản về giá trị và phản giá trị trong giai đoạn hiện nay là như sau:
3.1. Trong văn hóa tổ chức
Vốn là cư dân có truyền thống làm lúa nước từ hàng ngàn năm trước công nguyên đến nay, người Việt Nam luôn có ý thức lấy cộng đồng làm trọng, mà cộng đồng người làm nông nghiệp lại lấy tình cảm làm nguyên tắc đầu tiên trong việc tổ chức đời sống cộng đồng và tổ chức đời sống cá nhân. Tính cộng đồng và tính trọng tình này đã trở thành nguyên tắc cơ bản trong việc xây dựng pháp luật và ngay cả trong việc xây dựng cơ chế dư luận trong xã hội. Cũng vì thế mà tục ngữ của người Việt thường nhắc nhở: “Đông tay hơn hay làm”, “Vuốt mặt phải nể mũi”... Tuy nhiên, trong phạm vi nhỏ bé và khép kín thì tính cộng đồng và tính trọng tình mới có tác dụng, trong khi hiện nay, Việt Nam đã đi vào guồng máy chung của thế giới, chịu sự chi phối của tính cộng đồng mới và tính trọng lý cao độ, nếu nguyên tắc tổ chức truyền thống này không thích ứng kịp thì sẽ khiến cho những yếu tố phản giá trị có điều kiện phát sinh. Ví dụ như tính cộng đồng trong nội bộ người Việt quá mạnh có thể sẽ tạo thành tính tự trị trong quan hệ với thế giới bên ngoài, từ đó hình thành nên chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi; quan niệm “ta về ta tắm ao ta, dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn” sẽ trở thành lực cản đáng kể trong quá trình phát triển đất nước. Hoặc như tính trọng tình vốn có của người Việt có thể sẽ khiến cho thói quen qua loa, tuỳ tiện trở thành căn bệnh trầm trọng, nhất là thói quen không tuân thủ giờ giấc, không tuân thủ quy định chung, từ đó, pháp luật không đủ hiệu lực trong việc nghiêm trừng tội ác, khiến nhân dân không đủ lòng tin vào hệ thống luật pháp. Đây chính là một trong những lý do cơ bản khiến cho tình hình phạm tội ở Việt Nam ngày càng phức tạp và diễn ra trên nhiều lĩnh vực, tính chất tội phạm ngày càng nghiêm trọng và độ tuổi phạm tội ngày càng trẻ hóa [Hội LHPNVN 2008].
3.2. Trong văn hóa ứng xử
Chất tiểu nông trong nhận thức còn dẫn đến hàng loạt những hệ quả tốt và xấu trong cách thức ứng xử của người Việt. Trong giai đoạn hội nhập hiện nay, những hệ quả tốt và xấu này đã biểu hiện ra bằng những hình thức khác nhau.
Trong ứng xử với môi trường tự nhiên, lối sống hoà hợp với thiên nhiên đã khiến cho con người nơi đây mang đặc tính chung là hiền hoà, tiểu vũ trụ và đại vũ trụ hoà thành nhất thể. Nhưng đồng thời, lối sống hoà hợp này cũng khiến cho ý thức về bản ngã cũng trở nên yếu ớt, con người có xu hướng thụ động, rụt rè trước những chuyển biến của thiên nhiên. Trong quá trình toàn cầu hóa, thái độ chung sống hài hoà với tự nhiên đã phần nào làm giảm bớt tính đối kháng giữa sự phát triển kinh tế của con người với sự huỷ hoại của môi trường. Đây cũng là một giá trị đang được người phương Tây đề cao và noi theo . Nhưng trên một phương diện khác, một khi gặp phải sự cạnh tranh khốc liệt về nhu cầu trong đời sống, sự thụ động truyền thống này đã biến tướng thành sự liều lĩnh và bất chấp (không có tầm nhìn xa, không có biện pháp an toàn) trong phương thức tận dụng môi trường tự nhiên ở một bộ phận người, khiến môi trường bị huỷ hoại nghiêm trọng, điển hình như cách đánh bắt thuỷ hải sản, cách khai thác lâm sản, cách khai thác mạch nước ngầm… mang tính tận diệt hay cách phóng thải các chất ô nhiễm không qua xử lý.
Trong ứng xử với môi trường xã hội, xu hướng dung hợp trong tiếp nhận vốn là một giá trị tốt đẹp của người Việt nay lại càng trở nên có hiệu quả hơn trong việc kế thừa những tinh hoa văn hóa, những thành tựu văn minh – kỹ thuật từ các nước tiên tiến. Từ sau những năm đầu của thập niên 90 thế kỉ XX, sự tiếp nhận này càng thường xuyên hơn, khiến cho Việt Nam ngày càng tiếp cận với những thành tựu văn minh hiện đại nhất. Tuy nhiên, xu hướng dung hợp này lại bị ràng buộc bởi tư tưởng trung dung, dung hợp vừa phải, vì thế, sự tiếp nhận này đa phần con mang tính hình thức và không sâu sắc, không trọn vẹn. Hiện tượng này không phải là điều mới lạ, vì ngay trong thời kỳ Việt Nam dường như chỉ tiếp nhận văn hóa Trung Hoa là chính, thì sự tiếp nhận ấy cũng không hoàn toàn mang tính bài bản, nguyên vẹn, mà Việt Nho chính là một ví dụ điển hình . Hơn nữa, xu hướng dung hợp này dường như chỉ dừng lại ở sự tiếp nhận một chiều, tức là chỉ nhận lấy cái hay của dân tộc khác trong khi lại không tự thay đổi bản thân mình cho phù hợp với tình hình mới. Nếu như người Nhật, người Singapore hay người Trung Quốc vừa tiếp nhận văn minh Tây Âu một cách bài bản, vừa tự nhìn nhận lại bản thân mình và tiến hành hàng loạt những biện pháp cải cách xã hội từ hệ thống luật pháp đến phong tục, tập quán hay đến cả phương thức nhận thức, để họ vừa có thể giữ được truyền thống của mình nhưng cũng vừa tìm được tiếng nói chung với các nước khác trên thế giới, thì trong khi đó, đa phần người Việt luôn có tinh thần cầu tiến, tích cực tìm cơ hội đầu tư và giao lưu với nước ngoài, nhưng thường lại không nắm rõ những nguyên tắc chung. Tâm lý tiểu nông đã khiến cho việc dung hợp văn hóa còn mang tính manh mún, quá xem trọng lợi ích cá nhân và diễn ra một cách không có tính đồng bộ. Đây chính là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự hợp tác giữa Việt Nam với các nước khác trên thế giới (đặc biệt là các nước có truyền thống trọng lý tính) không đạt đến thành công như mong muốn.
Như vậy, nếu phát huy được những yếu tố giá trị nền tảng và hạn chế những yếu tố phản giá trị hiện tồn, thì đất nước có thể sẽ nhanh chóng hoà nhập vào dòng chảy của thế giới mà người được lợi là cả đôi bên. Tuy nhiên, giá trị và phản giá trị là hai mặt không thể tách rời, một khi hạn chế yếu tố phản giá trị này thì tất sẽ có yếu tố phản giá trị mới nảy sinh hoặc yếu tố phản giá trị đó sẽ biến tướng thành dạng phản giá trị khác. Điều quan trọng là cặp giá trị và phản giá trị ấy phải được điều chỉnh sao cho cân đối, phù hợp với sự phát triển một cách tự nhiên, tức là yếu tố giá trị phải là yếu tố chiếm vị trí chủ đạo, còn yếu tố phản giá trị phải dừng lại ở vai trò của người phụ tá, như tính âm vừa đủ để làm điểm nhấn cho tính dương.
Tài liệu tham khảo và trích dẫn
1. Đào Duy Anh 2006: Việt Nam văn hóa sử cương. - NXB Văn hóa - Thông tin.
2. Jiang Chang/ 江暢 2014: 當代中國價值觀的根本性質、核心内容和基本特徵 (Tính chất căn bản, nội dung trọng tâm và đặc trưng cơ bản của giá trị quan Trung Quốc đương đại). http://theory.people.com.cn/n/2014/0618/c40531-25163561.html (Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2014).
3. Hội LHPNVN 2008: Tình hình tội phạm ở nước ta hiện nay. http://www.hoilhpn.org.vn/NewsDetail.asp?Catid=204&NewsId=9625&lang=VN (Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2014).
4. Kim Mun Hak 2005: 醜陋的韓國人 (宋義淑譯). - 山東人民出版社 (Người Hàn Quốc xấu xí, Tống Nghĩa Thục dịch. - Sơn Đông Nhân Dân xuất bản xã).
5. Nguyễn Đăng Mạnh 2012: Kinh nghiệm hành văn (kỳ IV). http://nico-paris.com/tin-tuc-187/kinh-nghiem-hanh-van-ky-iv.vhtm (Truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2014)
6. Trần Ngọc Thêm 2004: Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam. - NXB Tổng hợp TP.HCM.
7. Trần Ngọc Thêm 2013: Những vấn đề văn hóa học lý luận và ứng dụng. - TP.HCM: NXB Văn hóa - Văn nghệ.
8. Trần Duy Khương 2013: Hiện tượng sử dụng ngôn từ tục dưới góc nhìn văn hóa học. Bài in trong sách: Những vấn đề Khoa học xã hội và Nhân văn: chuyên đề Văn hóa học. - NXB ĐHQG TP.HCM.
9. Trần Nhu 2001 (cb): Toàn cầu hóa hôm nay và thế giới thứ ba. - NXB Trẻ.
10. Zhang Wan Jun/ 張婉君:性別差異中的髒話分類與使用態度(提綱) (Phân loại và thái độ sử dụng ngôn từ tục trong sự khác biệt giới tính (đề cương). http://www.nhu.edu.tw/~society/e-j/17/17-08.htm (Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2008).
Nguồn: Bài viết tham gia hội thảo “Hệ giá trị Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”. Kỷ yếu hội thảo in thành sách “Một số vấn đề về hệ giá trị Việt Nam trong giai đoạn hiện tại”