1. Tiếp cận khái niệm văn hóa
Về khái niệm văn hóa, có thể nêu ra một số hướng tiếp cận chủ yếu sau: theo chức năng của văn hóa; theo giá trị, chuẩn mực của văn hóa; theo hướng nhấn mạnh hoạt động sản xuất vật chất của các tộc người trong lịch sử để tạo nên văn hóa; theo ý nghĩa của văn hóa, đề cao tính xã hội của văn hóa đối lập với tự nhiên, đề cao đạo đức, nhân cách con người...
Mỗi hướng tiếp cận, dù còn phiến diện, nhưng đều có đóng góp và có ý nghĩa lịch sử nhất định trong quá trình con người đi sâu vào khám phá, nghiên cứu bản chất của văn hóa, cũng có nghĩa là tìm hiểu chính bản thân con người và xã hội loài người với những biến đổi khác nhau trong điều kiện tự nhiên, xã hội, tâm lý, sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần, quan hệ ứng xử với môi trường tự nhiên, môi trường xã hội và với chính bản thân con người...
Hàng trăm định nghĩa khác nhau về văn hóa chứng tỏ sự đa dạng, phức tạp và khó đồng thuận, thống nhất trong quá trình đi tìm một khái niệm bao quát về văn hóa. Trong tập hợp những định nghĩa, chúng ta thấy nổi lên một số vấn đề cơ bản sau.
Có thể tiếp cận văn hóa theo nghĩa rộng hoặc nghĩa hẹp. Cách tiếp cận triết học là phân biệt văn hóa với thế giới tự nhiên, cái gì không phải thuộc về tự nhiên là thuộc về văn hóa, nhưng lại không nêu được văn hóa là cái gì, văn hóa bao gồm những nội dung gì và được biểu hiện ra như thế nào. Tiếp cận văn hóa theo nghĩa hẹp như văn hóa nghệ thuật, tri thức, học vấn... thực hiện được nhiệm vụ xác định văn hóa cụ thể là cái gì, nhưng lại mang tính phiến diện, thiếu bao quát, bởi thống kê các nội dung cụ thể của văn hóa một cách đầy đủ là điều không thể thực hiện được.
Có thể tiếp cận văn hóa theo hệ thống giá trị vật chất và tinh thần hoặc theo những giá trị chuẩn mực của một cộng đồng người nhất định. Con đường này sẽ gặp khó khăn: trong khi văn hóa là những yếu tố tiến bộ, tích cực, thì trong hệ thống giá trị vật chất và tinh thần lại bao gồm cả những mặt tốt và mặt xấu, tích cực và tiêu cực; và trong thực tế có những suy nghĩ, hoạt động của con người đòi hỏi đạt đến trình độ giá trị chuẩn mực, nhưng cũng có nhiều suy nghĩ, hoạt động, ứng xử của họ chỉ thuần túy do thói quen mà thôi.
Có thể tiếp cận theo tính xã hội của văn hóa, nghĩa là nhấn mạnh đến tính cộng đồng trong sinh hoạt và bản tính người trong cộng đồng. Cách tiếp cận này có thể phân biệt được văn hóa là một hiện tượng xã hội, là nét đặc trưng của con người, nó đối lập và khác với thế giới tự nhiên, nhưng chưa nêu lên được vai trò của cá nhân và tính sáng tạo trong văn hóa. Thực tế cho chúng ta thấy giữa cá nhân, xã hội và văn hóa có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Văn hóa là những gì tiêu biểu, đặc trưng của một tộc người nhất định nhưng văn hóa khi biểu hiện ra thường được bộc lộ thông qua những suy nghĩ, hành động, ứng xử của một con người cụ thể. Do đó trong văn hóa vừa có tính xã hội, vừa bao gồm cả tính cá nhân, văn hóa vừa là sự phản ánh những quan niệm, những thói quen, những giá trị truyền thống của cộng đồng xã hội, vừa phản ánh tư tưởng, tình cảm, năng lực của mỗi cá nhân. Chính vì lẽ đó mà văn hóa mới luôn luôn biến đổi, phát triển nhờ sự sáng tạo có ý thức của mỗi thành viên trong cộng đồng xã hội.
Với những cách tiếp cận như trên, người ta dễ đi đến nhận xét, đánh giá trình độ phát triển cao hay thấp của một nền văn hóa, mà về bản chất văn hóa chỉ thể hiện sự khác nhau giữa các tộc người, chứ không có sự phân biệt cao thấp. Chúng ta không thể cho rằng những dân tộc ăn bốc là có trình độ thấp hơn các dân tộc dùng thìa, dĩa, đũa trong bữa ăn, hoặc những người dùng ôtô là có văn hóa cao hơn những người đi bộ và đi xe đạp.
Nội dung về bản sắc văn hóa của các tộc người ở đây cũng còn có nhiều cách hiểu khác nhau. Có người cho rằng bản sắc văn hóa tộc người chỉ bao gồm những cái gì riêng có của tộc người đó. Nhưng cách hiểu đúng đắn hơn là bản sắc văn hóa bao gồm cả cái riêng và cái chung, cả những sắc thái văn hóa tộc người, văn hóa khu vực và văn hóa nhân loại. Chính tổng thể hệ thống những khía cạnh văn hóa đó giúp phân biệt tộc người này với tộc người khác, dân tộc này với dân tộc khác trong một thế giới mang tính nhân loại.
Từ những phân tích trên, chúng tôi đưa ra một hướng tiếp cận mới: Văn hóa là tổng thể hệ thống những giá trị, chuẩn mực, thói quen, khả năng, hoạt động có ý thức, mang tính xã hội và sáng tạo trong thực tiễn của một cộng đồng người nhất định trong lịch sử nhằm thỏa mãn nhu cầu của cuộc sống và thể hiện bản sắc riêng của cộng đồng đó.
Trong định nghĩa này, chúng tôi tập trung nhấn mạnh một số nội dung cơ bản.
Văn hóa là một hiện tượng phức tạp, bao gồm rất nhiều nội dung thuộc các lĩnh vực khác nhau. Do đó, khái niệm văn hóa cần được xem xét, nghiên cứu với tư cách là tổng thể hệ thống các vấn đề thì mới có khả năng bao quát được các nội dung khác nhau của văn hóa...
Văn hóa là một khái niệm rất rộng, bao gồm cả cái cụ thể lẫn cái trừu tượng, cả giá trị vật chất và giá trị tinh thần được kết tinh trong lịch sử cũng như những giá trị mới được hình thành; từ những tri thức khoa học về tự nhiên, xã hội và tư duy đến những thói quen, khả năng, hoạt động bình thường của con người trong cuộc sống hàng ngày. Mỗi tộc người có những hệ giá trị và hệ chuẩn mực khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Chính vì thế, khi văn hóa học nghiên cứu các hệ giá trị, hệ chuẩn mực của một cộng đồng người nào đó, có thể phục dựng lại được đặc điểm, mô hình, cấu trúc, tính chất của những xã hội đã qua hoặc nhìn nhận, phát hiện ra những bất cập, lệch lạc của xã hội hiện tại; thông qua đó có thể đưa ra những dự báo, những nhận định nhằm khắc phục những hạn chế, góp phần xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn...
Văn hóa cần được hiểu vừa theo nghĩa rộng, vừa theo nghĩa hẹp, vừa mang tính cộng đồng, vừa mang tính cá nhân. Nhưng bản chất của văn hóa phải được thể hiện thông qua những hoạt động có ý thức, mang tính xã hội và sáng tạo trong thực tiễn của một cộng đồng người nhất định trong lịch sử.
Bản chất của văn hóa là tiến bộ và có ý thức. Trong ý thức bao gồm cả vô thức và bản năng phản ánh những thói quen, những quan niệm từ ngàn đời đã ăn sâu vào tiềm thức của nhiều thế hệ. Những hoạt động thiếu ý thức không thuộc nội hàm của văn hóa.
Văn hóa phải mang tính xã hội và tính sáng tạo vì văn hóa là những hoạt động thể hiện bản chất người với tư cách là thành viên xã hội. Chính các tổ chức xã hội như gia đình, làng xóm, quốc gia... đã nuôi dưỡng, giáo dục, chăm sóc để con người phát triển toàn diện, hài hòa và văn hóa của một tộc người chỉ được hình thành và phát triển trong một cộng đồng xã hội.
Tính sáng tạo của văn hóa là điều kiện để cho văn hóa phát triển và nền văn hóa của tộc người này khác với nền văn hóa của tộc người khác. Nếu thiếu tính sáng tạo thì vai trò của mỗi cá nhân không được thể hiện ra và bản sắc của mỗi nền văn hóa cũng không được hình thành. Không có sáng tạo thì văn hóa không có sức sống và sự phát triển đa dạng.
Văn hóa bao giờ cũng phải gắn với hoạt động thực tiễn của một cộng đồng người nhất định. Không có một nền văn hóa chung chung cho mọi tộc người, mọi không gian và thời gian. Chính nhờ hoạt động thực tiễn mà văn hóa đã hình thành và phát triển... Hoàn cảnh lịch sử cũng là những nhân tố góp phần tạo nên các giá trị văn hóa, các năng lực và thói quen của mỗi cộng đồng để tạo nên bản sắc văn hóa.
Cuối cùng văn hóa chính là những hoạt động, thói quen, giá trị nhằm thỏa mãn nhu cầu của cuộc sống con người. Trong những nhu cầu của cuộc sống thì ăn, mặc, ở và đi lại là những nhu cầu cần thiết nhất và cũng thể hiện đặc tính của mỗi dân tộc một cách rõ nét nhất. Ngoài ra, nhu cầu giao lưu trao đổi, được giáo dục, học hành và tâm linh, tín ngưỡng... cũng hết sức quan trọng. Có những nhu cầu mang tính cấp thiết, cụ thể với tộc người này, nhưng lại là không cần thiết ở tộc người khác. Cũng có nhu cầu tưởng chừng trừu tượng, viển vông, nhưng lại vô cùng cần thiết để con người có cuộc sống thanh thản, hài hòa nơi trần thế...
Tóm lại, chúng tôi muốn nhấn mạnh đến tính tổng thể hệ thống của văn hóa với tính giá trị, chuẩn mực, ý thức, xã hội, sáng tạo, thực tiễn và lịch sử của nó. Ở đây, các câu hỏi văn hóa là cái gì, bao gồm những nội dung gì, do ai sáng tạo, được biểu hiện ra như thế nào, những đặc tính chủ yếu, mục tiêu của văn hóa là gì... đều đã được đề cập tới.
2. Cấu trúc văn hóa
Theo quan niệm phổ biến nhất và dễ hiểu nhất, văn hóa được tạo thành bởi hai thành tố: văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Văn hóa vật chất là những sản phẩm, những hiện vật, những công trình, nói chung là những sáng tạo của con người mà chúng ta có thể cảm nhận được thông qua các giác quan, với những kích thước, trọng lượng, hình dáng, màu sắc, mùi vị, âm thanh nhất định. Ngược lại, văn hóa tinh thần là những sáng tạo thuộc lĩnh vực tri thức, tâm linh, hiểu biết, tình cảm, suy tư... của con người. Nói cách khác, văn hóa tinh thần thuộc lĩnh vực tư duy trừu tượng mà chúng ta không thể dùng các giác quan để cầm nắm, quan sát nó, chỉ có thể nhận biết thông qua suy nghĩ, cảm nhận và liên tưởng.
Cách phân chia cấu trúc văn hóa thành hai thành tố văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần, mặc dù được sử dụng rộng rãi, nhưng người ta dễ nhầm lẫn giữa vật chất với vật thể và trong thực tế có những trường hợp không thể phân chia văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần được...
Để tránh những hạn chế và phản ánh được những dạng thức tồn tại của văn hóa là hữu hình hoặc vô hình, UNESCO đã đưa ra cấu trúc mới bao gồm hai thành tố: văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể. Cách phân chia này giúp cho sự hiểu biết cấu trúc của văn hóa linh hoạt hơn...
Theo chúng tôi, xây dựng cấu trúc văn hóa là một vấn đề phức tạp vì bản thân văn hóa là mang tính muôn vẻ do các yếu tố môi trường tự nhiên, môi trường xã hội, hoàn cảnh lịch sử và tâm lý con người chi phối. Khái niệm văn hóa đa dạng như thế nào thì cấu trúc văn hóa cũng đa dạng như vậy. Cũng có mô hình cấu trúc văn hóa gồm hai, hoặc ba, bốn thành tố. Lại có cách phân chia cấu trúc văn hóa thành hệ, tiểu hệ, vi hệ hoặc tách cấu trúc văn hóa thành nhiều bộ phận khác nhau...
Nhưng, một mô hình cấu trúc bao giờ cũng bao gồm nhiều thành tố, có những yếu tố chính, yếu tố phụ, và những yếu tố chính phải được thể hiện ở những vị trí trọng tâm hoặc vị trí đầu nút của cấu trúc, đó chính là nơi hội tụ những yếu tố khác để tạo thành một cấu trúc hoàn chỉnh. Chúng tôi đưa ra sơ đồ cấu trúc văn hóa như sau:
Có bốn thành tố quan trọng nhất, tạo nên hình hài của sơ đồ cấu trúc, đó là: văn hóa sản xuất, văn hóa nhận thức, văn hóa tổ chức và văn hóa nghệ thuật. Mỗi một thành tố có một vị trí khác nhau, nhưng không tách rời nhau.
Văn hóa sản xuất của cải vật chất là môi trường hoạt động thực tiễn của bất cứ một cộng đồng nào và đó chính là động lực để cho các nền văn hóa phát triển. Quá trình sinh ra con người, cùng với nó là những quan niệm, những nghi lễ và những cấm kỵ xung quanh việc hôn nhân và sinh nở..., cũng là những sắc thái điển hình của mỗi nền văn hóa.
Văn hóa nhận thức là nhận thức về thế giới tự nhiên, về cộng đồng văn hóa và về chính cá nhân con người; bao gồm những hiểu biết sơ khai nhất đến những ngành khoa học hiện đại nhất của con người, bao gồm cả khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và những khả năng thần bí ở một số cá nhân.
Văn hóa tổ chức tạo lập ra những tổ chức mới, những mô hình mới phù hợp với điều kiện địa lý, lịch sử và nhân văn nhằm thỏa mãn những nhu cầu của con người trong những hoàn cảnh nhất định. Tổ chức gia đình, dòng họ hoặc làng, đô thị, quốc gia ở phương Đông khác phương Tây, ở Trung Quốc khác Việt Nam, là do sự chi phối của các yếu tố mà trong đó văn hóa tổ chức là quyết định.
Văn hóa nghệ thuật là một hình thức cao trong văn hóa, kết quả của quá trình tích lũy, sáng tạo và thể hiện ra bằng những tác phẩm nghệ thuật. Mặc dù không tách rời cuộc sống thực tiễn, nhưng tác phẩm nghệ thuật là cái đã thoát ly thực tiễn, đã được con người tưởng tượng và biến đổi. Chính quá trình sáng tạo nghệ thuật đã góp phần quan trọng tạo nên bản sắc độc đáo của mỗi nền văn hóa.
Dù vị trí có khác nhau, song các thành tố trong cấu trúc văn hóa là một thể thống nhất, không thể tách rời.
3. Chức năng văn hóa
Chức năng là sự thể hiện ra bên ngoài các đặc tính của một khách thể nào đó trong một hệ thống các quan hệ nhất định, cho nên người ta có thể diễn đạt chức năng của văn hóa theo nhiều mô hình khác nhau, tùy theo những mối quan hệ khác nhau.
Có nhiều cách nhìn nhận khác nhau về chức năng của văn hóa. Về tổng quan, có ba nhóm ý kiến. Một là, nhấn mạnh đến các chức năng giáo dục, thẩm mỹ, nhận thức, giải trí của văn hóa. Hai là, nhấn mạnh chức năng tổ chức xã hội, điều chỉnh xã hội, dự báo, bảo đảm tính kế tục lịch sử. Ba là, nhấn mạnh các chức năng tích lũy, thông tin, biểu tượng, ký hiệu, động lực phát triển xã hội, cố kết cộng đồng...
Muốn tránh được nhầm lẫn hoặc không tiếp cận được chức năng văn hóa một cách toàn diện, cần phải phân tích mối quan hệ của văn hóa với con người và với cộng đồng người, bởi văn hóa là sản phẩm đặc trưng của con người và xã hội loài người.
Như vậy, theo chúng tôi, trong mối quan hệ giữa văn hóa với con người, văn hóa có các chức năng chủ yếu: giáo dục, nhận thức, thẩm mỹ, giải trí; trong mối quan hệ giữa văn hóa với cộng đồng người hoặc xã hội loài người, văn hóa có những chức năng cơ bản: tổ chức xã hội, định hướng xã hội, điều chỉnh xã hội, động lực phát triển xã hội.
Sự phân biệt chức năng văn hóa trong mối quan hệ với con người hoặc với toàn thể cộng đồng xã hội ở quy mô khác nhau là mang tính tương đối. Nhưng bốn chức năng: giáo dục, nhận thức, thẩm mỹ, giải trí dù được tiến hành bằng hình thức và quy mô nào chăng nữa thì mục tiêu hướng tới vẫn là cá nhân con người và những thao tác đó chỉ được thực hiện thông qua hoạt động của con người.
Trên thực tế, chúng ta có thể gặp một số chức năng được diễn đạt bằng hình thức khác, nhưng về bản chất, suy cho cùng chúng giống nhau hoặc tương tự nhau, đó là: chức năng giáo dục và chức năng xã hội hóa cá nhân; chức năng cố kết cộng đồng hoặc chức năng tạo sự ổn định xã hội là tương tự với chức năng tổ chức xã hội...
Trong quá trình phát triển nhằm thỏa mãn những nhu cầu của cuộc sống, chắc chắn văn hóa sẽ được nhìn nhận thấu đáo hơn với những khái niệm mới, cấu trúc mới bộc lộ thêm những chức năng mới (1). Lúc đó, việc bổ sung, điều chỉnh vai trò, vị thế của văn hóa đối với con người và xã hội loài người là cần thiết. Như vậy, văn hóa mới phát huy hết thế mạnh của mình, thúc đẩy xã hội phát triển, đồng thời thúc đẩy các thành viên phát triển một cách phù hợp.
_______________
1. Trong bài viết đầy đủ, tác giả dẫn liệu và so sánh ưu khuyết qua nhiều định nghĩa, cách hiểu về khái niệm, cấu trúc, chức năng văn hóa của một số nhà khoa học có tiếng trong và ngoài nước (BBT).
Nguồn: Tạp chí VHNT số 318, tháng 12-2010