1. Khi nghiên cứu bất kì khoa học nào đều phải hiểu quá trình hình thành và phát triển của nó. Chỉ như thế mới có thể mới biết được nguồn gốc quan điểm lý luận của nó, mới hiểu được đối tượng nghiên cứu, tính chất và tiền đồ phát triển của nó.
Văn hóa là sản phẩm do con người tạo ra. Con người từ xa xưa đã biết quan sát và suy nghĩ về các hiện tượng văn hóa. Lấy Trung Quốc làm ví dụ, từ rất sớm tổ tiên người Trung Quốc đã bắt đầu các hoạt động như thế. Trong sách Dịch, chương Hệ Từ Truyện, có câu “Cổ giả Bào Hy thị chi Vương thiên hạ dã, ngưỡng tắc quan tượng vu thiên, phủ tắc quan pháp vu địa, quan điểu thú chi văn dữ địa chi nghi, cận thủ chư thân, viễn thủ chư vật, vu thị thủy tác bát quái, dĩ thông thần minh chi đức, dĩ loại vạn vật chi tình, tác kết thằng vi võng cổ” (Tạm dịch: Bào Hy xưa là vua thiên hạ, ngẩng đầu thì quan sát trời, cúi xuống thì nhìn đất, ngắm nhìn cái đẹp của muông thú và quan sát lợi ích của đất đai, gần thì quan sát mình, xa thì quan sát vật, vì thế bắt đầu làm ra bát quái để thông hiểu cái đức của thần minh, để hiểu cái tình của vạn vật, kết dây làm lưới …”). Đây có thể là một giả thuyết của người xưa về khởi nguồn của văn hóa. Không những thế, các từ “văn”, “văn hóa”, “văn minh” v.v.. đều xuất hiện từ rất sớm. Chẳng hạn trong Thượng Thư (thiên Tự) có viết “do thị văn tịch sinh yên” (từ đó sinh ra văn tịch / văn hóa ). Cũng trong Thượng Thư (thiên Thuấn Điển) có viết “duệ triết văn minh, ôn cung vĩnh tắc” (quá trình khai hóa và văn minh hóa quốc gia và xã hội mang màu sắc văn hóa /văn chương [dịch theo www.chinadecision.com.cn]). Còn sách Dịch (chương Bôn Quái. Thoán) thì viết “quan hồ nhân văn, dĩ hóa thành thiên hạ” (dùng tinh thần nhân văn để giáo hóa thiên hạ). Trong cuốn Thuyết Uyển (chương Chỉ Vũ), Lưu Hướng viết “Phàm vũ chi vi, vi bất phục dã, văn hóa bất cải, nhiên hậu gia chu” (dùng vũ lực đối xử nhưng (kẻ địch) bất phục, nay dùng văn hóa để giáo dục mà vẫn không phục thì phải giết) v.v.. Những ví dụ này phản ánh hiện thực rằng người xưa đã có nhiều nhận thức về hiện tượng văn hóa. Ngoài ra, trong nhiều thư tịch cổ chẳng hạn Chu Dịch, Lã Thị Xuân Thu, Sử Ký và Văn Tâm Điêu Long v.v. không những ghi chép rất nhiều các hiện tượng văn hóa mà còn hàm chứa cả quan niệm văn hóa cực kỳ quý báu. Ở một ý nghĩa nhất định, có thể cho rằng các tác phẩm ấy là ngọn nguồn của ngành nghiên cứu văn hóa học.
Truy ngược nguồn gốc lịch sử nghiên cứu văn hóa nhân loại, chúng ta có thể rong ruổi suy nghĩ của mình rất xa từ trong quá khứ. Song cũng cần chỉ ra rằng, để trở thành một khoa học độc lập, văn hóa học là khoa học chỉ mới phát triển thời kì cận đại ở phương Tây. Đại thể quá trình phát triển của khoa học này có thể phân thành hai giai đoạn: manh nha và hình thành.
Từ giữa thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX là giai đoạn manh nha của văn hóa học. Về nguyên bản, văn hóa học thoát thai từ xã hội học, nhân loại học văn hóa và triết học lịch sử (hay triết học văn hóa), khái niệm và lý luận cơ bản của nó đa phần là mượn từ những khoa học này. Do đó, khi khảo sát lịch sử ngành văn hóa học ta phải khảo sát các nghiên cứu về văn hóa của ba khoa học này.
Nửa đầu thế kỷ XIX, khoa học xã hội học được học giả người Pháp Comte xây dựng. Các nhân vật đại diện còn có Spencer người Anh, Durkheim, Weber người Đức v.v.. Các học giả này rất tán thành với học thuyết tiến hóa xã hội, khẳng định tính phổ biến của phát triển văn hóa, đề xướng các nghiên cứu thực nghiệm đối với văn hóa với tư cách là quy phạm xã hội, đồng thời cho rằng xã hội là “thể siêu hữu cơ”. Những chủ trương này có ảnh hưởng rất sâu sắc đối với khoa học văn hóa học về sau.
Nhân loại học văn hóa (còn gọi là Dân tộc học) cũng đã tiến hành tìm hiểu rất tỉ mỉ đối với văn hóa (đặc biệt là văn hóa của các tộc người lạc hậu) và đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Bản thân khoa học này chia ra nhiều trường phái nghiên cứu phong phú. Trên đại thể, trước Đại thế chiến thứ II chủ yếu là trường phái tiến hóa cổ điển của các học giả Morgan người Mỹ và E.B. Tylor người Anh; trường phái truyền bá văn hóa có Graebner (người Đức), Schmidt (người Áo) và Smith (người Anh) làm đại diện; trường phái phê bình lịch sử do hai học giả người Mỹ có Franz Boas và Krupp làm đại diện; trường phái chức năng do Malinowski và Brown làm đại diện. Sau Đại thế chiến thứ II, lại xuất hiện thêm trường phái chủ nghĩa cấu trúc do Levi-Strauss đề xướng và trường phái tân tiến hóa luận do White làm tiên phong v.v.. Các trường phái này tiến hành nghiên cứu kinh nghiệm đối với văn hóa bằng các phương pháp khác nhau và đề xuất nhiều khái niệm lý luận nền tảng, chẳng hạn “vùng văn hóa”, “khu vực văn hóa”, “cấu trúc văn hóa”, “mô thức văn hóa”, “biến thiên văn hóa” v.v.. giúp ích cho công tác nghiên cứu của các nhà văn hóa học. Đặc biệt là Tylor với tác phẩm Văn hóa nguyên thủy (1871) đề xuất khái niệm “khoa học văn hóa” (science of culture), đồng thời đưa ra định nghĩa khá toàn diện về văn hóa, có thể nói là định nghĩa sớm nhất trong thế giới Anh ngữ.
Ngành triết học lịch sử (hay triết học văn hóa) do học giả người Đức vốn thích rong ruổi trong thế giới tinh thần xướng đạo đã đóng góp không ít cống hiến, đa phần rất gần gũi với các nghiên cứu của xã hội học và nhân loại học văn hóa. 列维.皮格享 (?) năm 1838 đề xuất khái niệm “khoa học văn hóa”. Klemm năm 1843 viết cuốn Lịch sử văn hóa phổ thông, năm 1854 viết cuốn Văn hóa học phổ thông, trong đó lấy văn hóa học làm tôn chỉ nghiên cứu. Ngoài ra, Henrich Rickert cho rằng “khoa học tinh thần” cũng là “khoa học văn hóa”. Các tác giả Oswald Spengler trong cuốn Sự suy tàn của thế giới phương Tây và Toynbee trong cuốn Nghiên cứu lịch sử đã đề xuất khái niệm “loại hình văn hóa”, tất cả đều có những ảnh hưởng nhất định đến khoa học văn hóa học.
Văn hóa học hình thành vào đầu thế kỷ XX. Trên cơ sở của những nghiên cứu kinh nghiệm đối với văn hóa, một số nhà khoa học đã xây dựng một hệ thống lý luận văn hóa học, thử đưa khoa học này thành một khoa học độc lập. Nhà khoa học người Đức đã từng đoạt giải Nobel Oswald (Wilhelm Oswald) năm 1909 công bố cuốn Cơ sở năng học của văn hóa học, đề xuất từ văn hóa học (kulturologie). Năm 1915, khi diễn giảng ở Mỹ đề tài “hệ thống khoa học”, Oswald tiến hành phân loại các khoa học và xếp văn hóa học ở vị trí cao nhất trong hệ thống khoa học hiện đại. Do Oswald là một nhà hóa học, do vậy những đề xuất của ông không được các nhà khoa học thuộc lĩnh vực khoa học xã hội – nhân văn trọng thị. Điều đáng chú ý là, ở Trung Quốc, học giả Hoàng Văn Sơn là một trong những nhà tiên phong. Năm 1930, ông công bố các tác phẩm, bài viết về văn hóa học, xây dựng khoa học văn hóa học, song do các bài viết / tác phẩm của ông viết bằng tiếng Trung nên trong một thời gian dài vẫn không được các nhà khoa học bên ngoài thế giới Trung văn biết đến nên ảnh hưởng của ông phần nào bị hạn chế. Người có công đặt nền móng cho văn hóa học hiện đại là học giả người Mỹ Krupp. Ông cùng đề xuất các khái niệm và lý luận cơ bản của văn hóa học có ảnh hưởng nhất định trong giới khoa học. Ông cho rằng “văn hóa” bao gồm cả các loại mô thức hành vi thể hiện ra bên ngoài cũng như ẩn chứa ở bên trong. Các mô thức ấy mượn (hoặc sử dụng) các ký hiệu, được con người học được hay truyền thụ được, tất cả tạo nên các thành tựu xuất sắc của nhân loại kể cả thành tựu thể hiện trong các chế phẩm làm bằng tay. Hạt nhân cơ bản của văn hóa học bao gồm quan niệm truyền thống, đặc biệt là quan niệm giá trị; hệ thống văn hóa tuy có thể được coi là sản phẩm của các hoạt động nhân loại song cũng có thể bị quy thành nhân tố hạn chế con người tiến hành các hoạt động tiến lên. Học giả người Mỹ White cũng là một trong những người đặt nền móng cho văn hóa học. Năm 1949, ông công bố cuốn Khoa học về văn hóa, năm 1963 xuất bản cuốn Tiến hóa văn hóa. Tư tưởng học thuật của ông chịu ảnh hưởng sâu sắc của Chủ nghĩa Marx, chủ trương dùng sử quan duy vật để nghiên cứu văn hóa. Có học giả từng gọi ông là “cha đẻ của văn hóa học” cũng giống như Comte (Isidore Marie Auguste François Xavier Comte) là “cha đẻ của xã hội học”. Gần đây, ngành văn hóa học phương Tây phát triển rất nhanh, bắt đầu phân ra các chuyên ngành “văn hóa học chính trị”, “văn hóa học kinh tế”, “văn hóa học sinh thái”, “văn hóa học tâm lý”, “văn hóa học công trình” v.v.., dần dà hình thành “gia đình văn hóa học” và mở ra chân trời khoa học rộng lớn cho tương lai văn hóa học.
Bên cạnh đó, gần 20 năm nay (so với 1987), ngành văn hóa học cũng phát triển rất nhanh chóng ở Liên Xô và các nước Đông Âu. Khoa học này không những được giới khoa học các quốc gia này công nhận mà còn đào tạo ra những nhà văn hóa học tầm cỡ thế giới (như 卡尔波 (Karpov?), 马尔卡梁 (Mã Nhĩ Khả Lương?) và 亚。泰纳谢(/ A. Thái Nạp Tạ ?) v.v.). Các học giả này lấy Chủ nghĩa Marx làm tôn chỉ, tiến hành thảo luận rất sâu, rất rộng và rất hiệu quả các khái niệm cơ bản của văn hóa học như văn hóa, văn minh, truyền thống, hệ thống văn hóa và xây dựng văn hóa xã hội chủ nghĩa v.v..
Dù việc nghiên cứu văn hóa Trung Quốc đã xuất hiện từ xa xưa, song khoa học văn hóa hoc chỉ thực sự xuất hiện mới gần đây thôi. Sự xuất hiện của khoa học này ở Trung Quốc gắn liền với hai cao trào nghiên cứu văn hóa thời cận đại. Ở một chừng mực ý nghĩa nào đó, có thể nói văn hóa học là sản phẩm làm biến đổi lớn trong xã hội Trung Quốc cận đại.
Từ thời kì Minh – Thanh đã có nhiều tiếp xúc văn hóa Đông – Tây. Từ sau Chiến tranh Nha phiến, văn hóa phương Tây bắt đầu xưng bá và hùng cứ phương Đông, dẫn đến sự tiếp xúc, cạnh tranh và hấp thụ lẫn nhau với văn hóa Trung Hoa. Các phần từ tri thức Trung Hoa tiên tiến bắt đầu suy tư, nhìn lại hiện trạng Trung Quốc trên khía cạnh văn hóa và tiến hành so sánh văn hóa Trung Hoa – phương Tây. Bắt đầu từ cuộc Duy Tân Mậu Tuất, qua phong trào văn hóa mới Ngũ Tứ đến thập niên 1930 đã hình thành cao trào nghiên cứu văn hóa thứ nhất. Trong cao trào này, một số tác giả không bằng lòng với những nhận định đánh gia trong so sánh văn hóa Đông Tây hay đơn thuần chỉ là đi tìm con đường phát triển tương lai của văn hóa trong nghiên cứu lịch sử văn hóa nên đã đi tìm hiểu xây dựng khoa học văn hóa học từ các nguyên lý cơ bản của văn hóa. Ở Trung Quốc, người đề xuất khái niệm văn hóa học sớm nhất là Lý Đại Chiêu. Năm 1924 trong cuốn Yếu luận sử học, ông cho rằng lịch sử theo nghĩa rộng có ba hệ thống lớn: lịch sử học phổ thông, lịch sử học đặc thù và triết học lịch sử. Trong đó, lịch sử học đặc thù lại phân ra làm hai bộ phận là lý luận và ký thuật (ghi chép – thuật lại). Ở bộ phận lý luận bao gồm chính trị học, kinh tế học, pháp lý học, luân lý học (đạo đức học), tôn giáo học, văn học, triết học, mỹ học, giáo dục học, v.v., ngày nay gọi là nhân văn học hay văn hóa học. Mặc dù khái niệm “văn hóa học” mà ông nói đến có những khác biệt nhất định với khái niệm văn hóa học mang ý nghĩa nghiêm túc, song ở thời điểm đó là một thành công chưa từng có trước đó. Hai năm sau, Trương Thân Phủ trong cuốn Văn minh và văn hóa cũng đã sử dụng thuật ngữ “văn hóa học”. Tiếp theo là Hoàng Văn Sơn, Trần Tự Kinh, Diêm Hoán Văn, v.v. tiếp tục đóng góp xây dựng ngành khoa học mới mẻ này. Các tác giả Lương Tấu Minh, Chu Khiếm Chi, Tiền Mục cũng viết nhiều công trình nghiên cứu lý luận văn hóa từ góc độ triết học văn hóa. Sự ra đời của hàng loạt công trình về văn hóa học như các cuốn Tập bài về Văn hóa học, Văn hóa học và vị trí của nó trong hệ thống khoa học của Hoàng Văn Sơn, Văn hóa học của Diêm Hoán Văn, Khái quan văn hóa học của Trần Tự Kinh v.v. lần lượt đặt nền móng xây dựng khoa học văn hóa học tại Trung Quốc. Nhìn chung, quan điểm về văn hóa trong các công trình trên phần nào chịu ảnh hưởng sâu sắc của chủ nghĩa duy tâm. Đây là phần chúng ta cần bàn bạc thêm.
Từ sau khi Nhà nước CHND Trung Hoa thành lập (1949), khoa học văn hóa học tại Trung Quốc bị ngưng trệ một thời gian, nó chỉ phát triển mạnh ở các lãnh thổ Hồng Kông, Đài Loan và đạt được những thành tựu đáng kể. Chẳng hạn Tiền Mục với cuốn Đại nghĩa văn hóa học, Dư Thời Anh với cuốn Văn minh luận hoành, Hoàng Văn Sơn với cuốn Hệ thống văn hóa học v.v..
Mấy năm gần đây, theo đà phát triển của cải cách mở cửa và nền kinh tế hàng hóa, tại Trung Quốc lại xuất hiện một cao trào nghiên cứu văn hóa mới – cao trào thứ hai. Nhiều tờ báo mở chuyên mục chuyên đăng tải các bài viết riêng về văn hóa và văn hóa học, lược thuật tình hình nghiên cứu, nhiều tổ chức, cơ quan bắt đầu in ấn nhiều tác phẩm về văn hóa và lịch sử văn hóa, cả viết và dịch lại từ bên ngoài. Các cuộc thảo luận, nhóm tọa đàm lịch sử văn hóa hoạt động hết sức phong phú, trong đó có hơn 10 lượt tổ chức gây tiếng vang lớn. Đặc biệt điều đáng phấn khởi là nhiều nhân sĩ trí thức đã chuyển hướng sang nghiên cứu văn hóa học. Họ tham gia khảo cứu lý luận cơ bản của văn hóa học để thúc đẩy mở rộng và phát triển chiều sâu các lĩnh vực lịch sử văn hóa và văn hóa so sánh. Việc chính thức thành lập khoa học văn hóa học vào thời ấy chỉ còn là vấn đề thời gian mà thôi.
Ngày nay, văn hóa học được hình thành không phải là ngẫu nhiên mà nó có các nguyên nhân sau: nhu cầu cải cách xã hội Trung Quốc đương đại; yêu cầu phát triển tổng thể hóa khoa học hiện đại; sự hình thành của chiều hướng tự do hóa trong thảo luận khoa học; sức ép của cao trào nghiên cứu văn hóa mang tính toàn cầu; ý thức chủ thể của trí thức đã cao v.v.. Sự hình thành của khoa học văn hóa học hôm nay thể hiện đầy đủ giá trị và ý nghĩa của nó. Xét trên ý nghĩa lý luận, văn hóa học thông qua thảo luận các vấn đề cơ bản như tính chất, đặc trưng, nội dung, hình thức, cấu trúc, chức năng, loại hình và biến thiên của văn hóa để thể hiện quy luật thông thường của phát triển văn hóa và làm phong phú hóa nhận thức lý luận cơ bản về văn hóa trong cộng đồng. Văn hóa học còn cung cấp cơ sở vững chắc cho sự phát triển của các khoa học xã hội – nhân văn. Nó không chỉ thúc đẩy trình độ phát triển của các khoa học lịch sử văn hóa và so sánh văn hóa mà còn mở rộng lĩnh vực nghiên cứu của các ngành xã hội học, chính trị học, lịch sử học và các khoa học xã hội – nhân văn khác. Xét trên ý nghĩa hiện thực, tri thức văn hóa học phổ thông sẽ giúp con người ý thức được rằng chính con người đóng vai trò hạt nhân trong phát triển văn hóa xã hội. Sự lựa chọn của văn hóa chính là sự lựa chọn của con người, nó khiến con người chủ động hấp thu tinh hoa văn hóa từ bên ngoài với tinh thần cởi mở nhằm góp phần thúc đẩy phát triển văn hóa dân tộc mình. Văn hóa học còn thúc đẩy nghiên cứu chiến lược phát triển văn hóa, cung cấp cơ sở khoa học cho các chính sách của chính phủ, xúc tiến xây dựng văn minh vật chất và văn minh tinh thần xã hội chủ nghĩa.
Khi khảo sát lịch sử của ngành văn hóa học, chúng ta cần truy về tư tưởng văn hóa học của các tác giả kinh điển theo chủ nghĩa Marx, đó là vì tư tương văn hóa học của họ là kết tinh quý báu của quá trình phát triển lý luận văn hóa nhân loại trong xã hội cận đại, vừa là khởi điểm lịch sử của hệ thống văn hóa học theo chủ nghĩa Marx mà chúng ta đang xây dựng hôm nay.
Phải chăng không có tư tưởng văn hóa học chủ nghĩa Marx? Về vấn đề này, quan điểm của mọi người rất khác nhau. Trong số những người duy trì thái độ phủ định, ngoài số ít người có thái độ định kiến ra thì e rằng đại đa phần trong số họ chưa hiểu biết đến ngọn nguồn. Nói thật, các tác giả theo chủ nghĩa Marx không hề viết chuyên luận nào về lý luận mang tên “văn hóa học” cả, thậm chí có người chưa hề dùng thuật ngữ “văn hóa học”, song họ đã từng thảo luận rất nhiều về vấn đề văn hóa, nội dung tác phẩm của họ hàm chứa sâu sắc, phong phú các vấn đề của văn hóa học. Có thể nói rằng họ chưa xây dựng hệ thống lý luận văn hóa học hoàn chỉnh nhưng không thể cho rằng họ hoàn toàn không có tư tưởng cơ bản về văn hóa học. Nếu chúng ta hiểu biết sâu hơn về nguồn mạch phát triển của tư tưởng văn hóa học theo chủ nghĩa Marx thì chúng ta sẽ không ngộ nhận như vậy.
Để kiểm nghiệm, chỉnh sửa và phong phú hóa lý luận chủ nghĩa duy vật lịch sử của mình, vạch ra quy luật tất yếu của phát triển xã hội loài người, Marx đã từng tiến hành đọc và tóm tắt rất nhiều các tác phẩm nhân loại học văn hóa, đồng thời thể hiện những kiến giải của mình về văn hóa thông qua các tóm tắt ấy. Năm 1868, ông bắt đầu đọc cuốn Các khái niệm lịch sử của chế độ 马尔克 (?), chế độ nông hộ, chế độ hương thôn, chế độ đô thị và chính quyền công cộng của 毛勒 (Mao Lặc/Mauer ?), năm 1876 lại đọc Lịch sử trang viên lãnh chúa nước Đức, nông hộ và chế độ nông hộ cũng của 毛勒 (Mauer), đồng thời đọc thêm cuốn Chế độ ruộng đất nước Nga của 哈克斯特豪森 (?); giai đoạn 1879-1881 trước khi qua đời, ông lại đọc Chế độ chiếm hữu ruộng đất công xã, nguyên nhân, tiến trình và kết quả giải thể của nó (tập 1) của 克瓦列夫斯基(Kowalewski ?), cuốn Xã hội cổ đại của Morgan, cuốn Ký lục diễn giảng lịch sử pháp chế cổ đại của Mayne và Khởi nguồn văn minh và trạng thái nguyên thủy của con người của Lubbock v.v.. Cuốn 45 trong bộ “Marx – Engels toàn tập” bằng tiếng Trung có liệt kê bốn bài bút ký nhân loại học văn hóa của ông. Đây là những bản tóm tắt và phê bình của ông đã viết sau khi đọc các tác phẩm vào giai đoạn cuối trước khi qua đời. Ông đã từng tu sửa cấu trúc cuốn Xã hội cổ đại của Morgan và lập kế hoạch thảo luận sâu hơn. Song, ông đã qua đời trước khi hoàn thành công việc này. Sau đó, Engels tiếp tục công việc của ông viết cuốn Nguồn gốc gia đình, chế độ tư hữu và nhà nước, trong đó có liệt kê có hệ thống thành quả nghiên cứu nhân loại học văn hóa giai đoạn cuối đời của Marx. Ngoài ra, trong các cuốn Hình thái ý thức Đức – Ý của Marx – Engels, cuốn Phê bình kinh tế học chính trị và Đạo ngôn của Marx, các cuốn Phép biện chứng tự nhiên, Ludwig Feuerbach và sự cáo chung của triết học cổ điển nước Đức của Engels, cuốn Bàn về nghệ thuật của Plekhanov, cuốn Nhiệm vụ của Đoàn Thanh niên và Bàn về văn hóa của giai cấp vô sản của Lê-nin, cuốn Chủ nghĩa Marx và mấy vấn đề ngôn ngữ học của Stalin, cuốn Tân Dân chủ nghĩa luận của Mao Trạch Đông v.v.. đều có những phần viết về văn hóa, trong đó có các phân tích lý luận mang tính nguyên tắc và nhìn chung đều đạt được những thành quả nhất định trong nghiên cứu văn hóa. Tư tưởng và phương pháp cơ bản liên quan đến văn hóa trong các trứ tác này cho đến hôm nay vẫn còn nguyên sức sống, đặt nền móng cơ sở lý luận chỉ đường để chúng ta xây dựng ngành văn hóa học theo chủ nghĩa Marx mang tính hệ thống.
2. Muốn xây dựng bất kì một khoa học mới nào chúng ta đều phải xác định được đối tượng và phạm vi nghiên cứu của nó, phải hiểu tính chất của khoa học đó, phải xác định được vị trí của nó trong hệ thống khoa học hiện đại. Nghiên cứu văn hóa học cũng không ngoại lệ. Song, trong tình hình ngành văn hóa học ở Trung Quốc đang vừa khởi động như hiện nay khó có thể đưa ra các thuyết giải mang tính khoa học nghiêm túc, vì vậy, chúng tôi thử nỗ lực phác thảo ý kiến của riêng mình.
Trong các tác phẩm viết về văn hóa học mà chúng tôi đọc được hầu như tất cả đều thể hiện tình tùy ý khi xác định đối tượng nghiên cứu của văn hóa học, thiếu hẳn tiền đề công cụ, tùy ý xác định đối tượng nghiên cứu của văn hóa học. Đó không phải là khoa học. Chúng tôi cho rằng, để xác định đối tượng nghiên cứu của văn hóa học bước đầu tiên là xác định phương pháp luận của nó. Trước hết, chúng ta phải khu biệt khách thể trong nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu của bất kỳ khoa học nào đều nằm ở bên trong khách thể trong nghiên cứu, vì thế khi nghiên cứu không thể lẫn lộn giữa khách thể trong nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu. Đối với khách thể lớn là văn hóa, nó có thể là đối tượng nghiên cứu của hết thảy các khoa học xã hội – nhân văn và khoa học tự nhiên vì nó có thể là khách thể mà các khoa học nà phải đối mặt. Tuy nhiên, các khoa học khác nhau khi nghiên cứu cùng một khách thể thì cách nhìn, góc nhìn và trọng tâm nghiên cứu hoàn toàn khác biệt. Vì thế, cùng một khách thể nhưng trong các khoa học khác nhau sẽ trở thành các đối tượng nghiên cứu khác nhau. Thứ hai, chúng ta phải năm được chính xác mối quan hệ phổ biến giữa các sự vật và tính đặc thù của từng sự vật một. Trong tự nhiên rộng lớn và vạn vật phong phú vô bờ bến, giữa chúng không những tồn tại nhiều mối liên hệ ở cả trạng thái tĩnh và động, từng sư vật trong đó đều có nét đặc thù riêng. Chính nét đặc thù trong mỗi vật làm cho chúng khác biệt lẫn nhau, làm cho vạn vật trong tự nhiên thể hiện ra muôn vàn diện mạo khác nhau. Khi nghiên cứu tính đặc thù của sự vật là lúc chúng ta đang xác định căn cứ cơ bản của đối tương nghiên cứu của khoa học. Cuối cùng, chúng ta phải tiến hành so sánh với đối tượng nghiên cứu của các khoa học khác, đặc biệt là các khoa học gần nhất với văn hóa học nhằm nhận biết mối quan hệ và tiến hành khu biệt giữa chúng với nhau, tiến tới xác lập lĩnh vực và phạm vi nghiên cứu của từng khoa học và củng cố tính chính xác của đối tượng nghiên cứu.
Theo phương pháp luận bên trên, chúng ta có thể tiến hành xác định sơ bộ giới định về đối tượng và phạm vi nghiên cứu của văn hóa học. Vậy đối tượng nghiên cứu của văn hóa học là gì? Nói tổng quát, đối tượng nghiên cứu của văn hóa học là văn hóa. Song nói như thế chưa thực sự trả lời đúng vấn đề. Chúng ta biết rằng, xét từ quan điểm hệ thống luận hiện đại, văn hóa là một hệ thống lớn bao trùm nhiều tiểu hệ thống bên trong. Ba hệ thống thành tố cơ bản cấu thành của nó bao gồm văn hóa vật chất, văn hóa chế độ, và văn hóa tinh thần. Dưới ba hệ thống thành tố cơ bản này còn nhiều tiểu hệ thống khác, mỗi cái bao gồm nhiều yếu tố phức tạp và chức năng của chúng. Nói cụ thể, các tiểu hệ thống của văn hóa vật chất bao gồm: (1) năng lực cần thiết để đáp ứng nhu cầu sống và phát triển cũng như cải tạo tự nhiên – sức sản xuất; (2) quá trình sản xuất vật chất khi con người vận dụng sức sản xuất vào cải tạo tự nhiên và tiến hành sáng tạo; (3) sản phẩm cụ thể của các hoạt động sản xuất vật chất của con người. Hệ thống văn hóa chế độ bao gồm: (1) mối quan hệ tương hỗ hình thành trong quá trình sản xuất vật chất của con người – quan hệ sản xuất; (2) các loại chế độ xã hội và hình thức tổ chức được xây dựng trên cơ sở của quan hệ sản xuất; (3) quan hệ con người – con người được thiết lập trên cơ sở quan hệ sản xuất – tức quan hệ xã hội và các quy phạm, chuẩn tắc hành vi. Hệ thống văn hóa tinh thần bao gồm: (1) Các thiết chế văn hóa và hoạt động văn hóa của con người như giáo dục, khoa học, triết học, lịch sử, ngôn ngữ, văn tự, y liệu, y tế, thể thao, tôn giáo, nghệ thuật v.v.. (2) phương thức con người đáp ứng nhu cầu sống trong điều kiện xã hội nhất định, chính là phương thức sống bao gồm phương thức sinh hoạt lao động, phương thức sinh hoạt tiêu dùng, phương thức sinh hoat giải trí và phương thức sinh hoạt gia đình v.v.. (3) giá trị quan, phương thức tư duy và trạng thái tâm lý v.v.. Ba hệ thống cấu thành này của văn hóa tạo nên hệ thống chỉnh thể vừa có quan hệ lẫn nhau vừa khu biệt nhau, cùng tồn tại dựa vào nhau nhưng cũng chế ước lẫn nhau. Trong hệ thống hoàn chỉnh ấy, mỗi hệ thống thành phần đều có chức năng riêng của chúng: văn hóa vật chất là cơ sở của hệ thống văn hóa, nó là điều kiện tiền đề của văn hóa chế độ và văn hóa tinh thần. Chỉ khi có cơ sở này mới có được văn hóa chế độ và văn hóa tinh thần. Văn hóa chế độ là nòng cốt của hệ hống văn hóa, chỉ khi thông qua văn hóa chế độ hợp lý mới có thể đảm bảo được văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần phát triển đồng điệu. Văn hóa tinh thần là chủ đạo của hệ thống văn hóa, nó đảm bảo và quyết định phương kiến kiến tạo và phát triển văn hóa vật chất và văn hóa chế độ.
Đối mặt với hệ thống văn hóa bao gồm nhiều tiểu hệ thống như vậy, đối tượng nghiên cứu của văn hóa học sẽ được xác định như thế nào? Chúng tôi cho rằng, văn hóa học không phải đi nghiên cứu các nội dung cụ thể của ba hệ thống thành phần nói trên, mà là nghiên cứu mối quan hệ tương hỗ giữa ba hệ thống thành phần ấy. Khi đi sâu nghiên cứu nội dung cụ thể của ba hệ thống thành phần ấy, cần phải bàn luận về tính chất, đặc trưng và quy luật của chúng ở nhiều phương diện, tầng lớp khác nhau. Đó là công việc của các khoa học chuyên ngành. Còn văn hóa học lại nghiên cứu tổng hợp mối quan hệ tương hỗ giữa các hệ thống thành phần của văn hóa trên cơ sở của các khoa học chuyên ngành, qua đó nắm bắt được tính chất, đặc trưng, nội dung, hình thức, cấu trúc, chức năng, loại hình và biến thiên của chỉnh thể hệ thống văn hóa, đồng thời rút ra quy luật chung của phát triển văn hóa. Do đó, mặc dù trong nghiên cứu văn hóa có thể liên quan đến nội dung cụ thể của ba hệ thống thành phần song loại nghiên cứu này vẫn khác biệt với các nghiên cứu của khoa học chuyên ngành, vì mục đích của nó là đi sâu tìm hiểu mối quan hệ tương hỗ giữa các hệ thống thành phần của văn hóa.
Vậy tại sao chúng ta bắt buộc phải nghiên cứu hệ thống văn hóa từ chỉnh thể? Đó là do vì hệ thống văn hóa hoàn toàn không phải là sự tổng hòa máy móc của các hệ thống thành phần mà nó là sự kết hợp hữu cơ của các hệ thống thành phần. Các hệ thống thành phần này kết hợp hữu cơ với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, chế ước lẫn nhau làm cho hệ thống văn hóa thể hiện ra nhiều hình thái khác nhau. Chẳng hạn như một cỗ máy trong nhà máy, nếu muốn nghiên cứu cỗ máy này dĩ nhiên cần phải tìm hiểu từng bộ phận linh kiện của nó, song như thế vẫn chưa đủ, ta cần lắp ráp các bộ phận linh kiện lại với nhau rồi nghiên cứu ý tưởng thiết kế, tính năng tổng thể của cả cỗ máy và quan hệ tương hỗ giữa các bộ phận linh kiện cấu thành cỗ máy. Nghiên cứu hệ thống văn hóa cũng như vậy.
Do văn hóa bao trùm lên tất cả các phương diện của đời sống xã hội, bản thân khái niệm văn hóa cũng mang tính đa nghĩa và phi xác định, cho nên chúng ta có thể hiểu hệ thống văn hóa ở hai khía cạnh nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Hệ thống văn hóa theo nghĩa rộng bao gồm cả văn hóa vật chất, văn hóa chế độ và văn hóa tinh thần, còn hệ thống văn hóa theo nghĩa hẹp thì chỉ có bản thân hệ thống thành phần văn hóa tinh thần mà thôi. Vì thế, văn hóa học cũng có thể phân ra thành văn hóa học theo nghĩa rộng và văn hóa học theo nghĩa hẹp. Đối tượng nghiên cứu của văn hóa học theo nghĩa rộng là mối quan hệ tương hỗ của cả ba hệ thống thành phần của văn hóa: văn hóa vật chất, văn hóa chế độ và văn hóa tinh thần. Còn đối tượng nghiên cứu của văn hóa học theo nghĩa hẹp là mối quan hệ tương hỗ giữa các tiểu hệ thống bên trong của bản thân hệ thống thành phần văn hóa tinh thần. Khoa học văn hóa học trong bài viết này là văn hóa học theo nghĩa rộng.
Căn cứ vào sự khác biệt về mục đích nghiên cứu, chúng ta có thể phân phạm vi nghiên cứu của văn hóa học ra làm văn hóa học lý luận và văn hóa học ứng dụng. Trong nghiên cứu văn hóa học, khuynh hướng đặt trọng tâm ở nghiên cứu lý luận là văn hóa học lý luận, còn gọi là văn hóa học vĩ mô. Còn khuynh hướng nghiên cứu các hiện tượng văn hóa cụ thể nhằm giải quyết các vấn đề thực tế là văn hóa học ứng dụng, còn gọi là văn hóa học vi mô. Văn hóa học lý luận chủ yếu thảo luận mối quan hệ tương hỗ giữa các tiểu hệ thống của văn hóa nhân loại ở những thời kì lịch sử khác nhau nhằm tìm kiếm quy luật phát triển chng nhất. Nó bao gồm: lý luận cơ bản văn hóa học, lịch sử tư tưởng văn hóa, lịch sử văn hóa học v.v.. Đối với các nhà nghiên cứu cứu văn hóa học như chúng ta, làm thế nào để xây dựng được hệ thống văn hóa vừa lấy chủ nghĩa Marx – Lê từ tư tưởng Mao Trạch Đông là chủ đạo vừa mang bản sắc văn hóa Trung Hoa là vấn đề nghiên cứu chung nhất. Để thảo luận vấn đề này, chúng ta cần quá trình dài nghiên cứu lý luận và nghiên cứu thực tiễn, còn tư tưởng muốn một sáng một chiều đã có thể xây dựng được hệ thống văn hóa hoàn mỹ chỉ là ảo tưởng mà thôi. Trước mắt, thực tiễn xây dựng văn hóa xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc đang đặt ra cho văn hóa học lý luận nhiều vấn đề, đòi hỏi văn hóa học lý luận phải hồi đáp, vì vậy chúng ta cần phải nỗ lực phát triển nghiên cứu văn hóa học lý luận. Văn hóa học ứng dụng chủ yếu ứng dụng lý luận cơ bản, phương pháp và kết luận cơ bản của văn hóa học vào thực tế cuộc sống văn hóa xã hội, từ đó tìm kiếm phương pháp giải quyết tương ứng. Nó bao gồm: văn hóa học tri thức, văn hóa học khoa học, văn hóa học sinh thái, văn hóa học chính trị, văn hóa học kinh tế, văn hóa học pháp luật, văn hóa học quân sự, văn hóa học quản lý, văn hóa học đô thị, văn hóa học nông thôn, văn hóa học giáo dục, văn hóa học thể thao, văn hóa học nghệ thuật, văn hóa học tôn giáo, văn hóa học du lịch, văn hóa học tâm lí v.v.. Xét từ xu thế phát triển của nghiên cứu văn hóa học hiện tại, theo đà phát triển không ngừng của hiện đại hóa, văn hóa học ứng dụng sẽ càng ngày càng thu hút sự quan tâm của con người, các nhà nghiên cứu văn hóa học ứng dụng chắc chắn sẽ có nhiều khoảng đất trống hơn để dụng tài.
Nói đến đây, chúng tôi cảm nhận có một vấn đề cần phải làm rõ. Hiện tại, các nhà nghiên cứu văn hóa học thường cho rằng phạm vi nghiên cứu của văn hóa học không những chỉ bao gồm văn hóa học lý luận và văn hóa học ứng dụng mà nó còn bao gồm cả sử học văn hóa và văn hóa học so sánh. Sử học văn hóa và văn hóa học so sánh cũng là hai nội dung quan trọng mà văn hóa học cần nghiên cứu. Liệu nghiên cứu văn hóa học có bao gồm cả sử học văn hóa và văn hóa học so sánh không? Theo chúng tôi, văn hóa học và sử học văn hóa, văn hóa học so sánh là các khoa học độc lập, mỗi thứ đều có phạm vi nghiên cứu riêng của mình. Văn hóa học chỉ nghiên cứu văn hóa học lý luận và văn hóa học ứng dụng, không nghiên cứu sử học văn hóa và văn hóa học so sánh. Mặc dù trong nghiên cứu của mình, văn hóa học có thể liên quan đến nội dung của sử học văn hóa và văn hóa học so sánh, nhưng nghiên cứu chuyên ngành của loại nghiên cứu này và hai khoa học kia hoàn toàn không giống nhau. Nó chỉ mượn thành quả nghiên cứu của hai khoa học kia để làm phong phú thêm nội dung nghiên cứu của mình chứ không nghiên cứu chuyên môn đến nội dung của chúng. Chúng tôi cho rằng, những ai chủ trương quy nạp sử học văn hóa và văn hóa học so sánh vào văn hóa học cũng chính là coi “nghiên cứu văn hóa” và “văn hóa học” là một. Nghiên cứu văn hóa rất rộng, bao trùm cả văn hóa học, sử học văn hóa, và văn hóa học so sánh. Cả ba khoa học này có nội dung đều là nghiên cứu văn hóa. Trong khi đó, văn hóa học là một khoa học độc lập. Nếu nói nghiên cứu văn hóa thuộc lĩnh vực nghiên cứu thì văn hóa học cũng thuộc lĩnh vực khoa học. Hai yếu tố này hoàn toàn không thể hòa lẫn vào nhau. Văn hóa học không thể bao gồm cả sử học văn hóa và văn hóa học so sánh, càng không thể đống nhất với nghiên cứu văn hóa. Trong toàn bộ hệ thống nghiên cứu văn hóa, văn hóa học đứng ở vị trí cao nhất, văn hóa học so sánh ở giữa và sử học văn hóa ở dưới cùng, cả ba cấu thành một cấu trúc mạng lập thể thẩm thấu vào nhau, chế ước lẫn nhau. Trong thu thập, khái quát và phân tích hiện thực văn hóa cụ thể, văn hóa học không thể tách rời sử học văn hóa và văn hóa học so sánh, ngược lại, sử học văn hóa và văn hóa học so sánh phụ thuộc vào sự chỉ đao về lý luận cơ bản của văn hóa học. Thiếu sót bất kì phương diện nào cũng không cho phép nghiên cứu văn hóa đi vào chiều sâu. Hiện tại, cục diện tổng thể của nghiên cứu văn hóa ở Trung Quốc tồn tại thức tế là có nhiều công trình nghiên cứu sử học văn hóa và văn hóa học so sánh, còn tham gia nghiên cứu văn hóa học thì rất ít. Tình trạng bất bình thường này đang được nhiều người quan tâm.
Văn hóa học nghiên cứu hệ thống văn hóa vừa rộng vừa phức tạp nên phạm vi nghiên cứu rất rộng. Song không có nghĩa là nó không có trọng điểm nghiên cứu. Trọng điểm nghiên cứu của nó là gì? Chúng tôi cho rằng, nó phụ thuộc vào cấu trúc của hệ thống văn hóa. Cấu trúc là tiền đề để bản thân hệ thống văn hóa tồn tại và phát triển, là căn cứ nội tại của chức năng hệ thống văn hóa. Không có cấu trúc sẽ không có hệ thống. Nhưng cấu trúc hệ thống văn hóa mang tính tầng lớp, thông thường chia thành cấu trúc tầng mặt, cấu trúc tầng trung và cấu trúc tầng sâu. Tiểu hệ thống văn hóa vật chất thuộc cấu trúc tầng mặt, văn hóa chế độ thuộc cấu trúc tầng trung và văn hóa tinh thần nằm ở cấu trúc tầng sâu. Khi nghiên cứu cấu trúc hệ thống văn hóa nên quan tâm đến tiểu hệ thống văn hóa tinh thần (hệ thống thành phần). Nói cụ thể hơn, chúng ta nên tăng cường nghiên cứu các phương diện quan niệm giá trị, phương thức tư duy và trạng thái tâm lý v.v.. Ngoài ra, còn phải tiến hành nghiên cứu đồng đại và lịch đại đối với hệ thống văn hóa. Trong nghiên cứu đồng đại căn cứ vào tính chất và đặc điểm khác nhau của văn hóa có thể phân thành các loại hình văn hóa và tiến hành nghiên cứu so sánh song hành; trong nghiên cứu lịch đại, tiến hành phân tích động thái của quá trình phát triển văn hóa để nắm bắt quy luật vận động. Giữa hai loại nghiên cứu này, cần coi trọng nghiên cứu lịch đại.
Sau khi xác định xong đối tượng, phạm vi và trọng điểm nghiên cứu của văn hóa học, chúng ta có thể đi đến một định nghĩa sơ bộ về văn hóa học: Văn hóa học là một khoa học chuyên nghiên cứu tổng hợp các mối quan hệ tương hỗ giữa các hệ thống thành phần nội thuộc của văn hóa dựa trên cơ sở của các khoa học chuyên môn khác nhằm nắm bắt được tính chất, đặc trưng, nội dung, hình thức, cấu trúc, chức năng, loại hình của toàn bộ hệ thống văn hóa, từ đó rút ra các quy luật phát triển chung nhất của văn hóa.
Là một khoa học độc lập, văn hóa học có tính chất như thế nào? Theo chúng tôi, ngoài việc thể hiện là một khoa học độc lập thuộc lĩnh vực khoa học xã hội – nhân văn khác biệt với khoa học tự nhiên, nó còn là một khoa học cơ sở mang tính tổng hợp. Văn hóa học và các khoa học khác có mối quan hệ rất rộng. Chẳng hạn văn học, nghệ thuật, tôn giáo học, nhân loại học, xã hội học, chính trị học, kinh tế học, lịch sử học, pháp luật học, giáo dục học, tâm lý học, luân lý học v.v.. đều nghiên cứu hệ thống văn hóa ở các phương diện, tầng lớp khác nhau, song văn hóa học lại nghiên cứu có hệ thống toàn bộ hệ thống văn hóa ở góc độ tổng hợp. Do vậy, nghiên cứu văn hóa học không bị giới hạn ở phương diện hay tầng lớp nào của hệ thống văn hóa mà đặt trọng tâm ở mối quan hệ tương hỗ giữa chúng, là một khoa học nền mang tính tổng hợp. Lấy một ví dụ so sánh hình tượng, tính chất của văn hóa học giống như một người chỉ huy dàn nhạc hợp xướng. Người chỉ huy và người biểu diễn khác nhau song ông ta phải hiểu hết tất cả tính năng của từng loại nhạc khí, đồng thời trong quá trình biểu diễn lúc nào ông ta cũng phải quan sát từng nghệ nhân biểu diễn, dùng đôi tay nhịp nhàng và tình cảm dào dạt của mình để điều khiển toàn bộ buổi diễn xuất của dàn hợp xướng.
Mỗi khoa học đều có một chỗ đứng của mình trong tổng thể hệ thống khoa học. Vậy văn hóa học giữ vị trí như thế nào trong hệ thống khoa học hiện đại? Làm rõ vấn đề này sẽ có lợi cho việc hiểu rõ tính chất của văn hóa học, nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của văn hóa học từ đó tăng cường nghiên cứu ngành khoa học này.
Để xác định vị trí của văn hóa học trong tổng thể hệ thống khoa học, chúng ta không thể không giải quyết chính xác tiền đề cơ bản của vấn đề phân loại khoa học học. Từ sau khi Nhà nước CHND Trung Hoa ra đời, giới khoa học lấy “tam phân pháp” truyền thống (gồm triết học, khoa học xã hội và khoa học tự nhiên) làm cơ sở. Hệ thống phân loại này phát huy tác dụng nhất định đối với công tác quản lý nghiên cứu khoa học trong một thời gian dài, song theo sự biến đổi của thế giới khách quan và sự tăng trưởng của nhận thức khoa học của con người, đặc biệt là khi hàng loạt các khoa học mới hình thành, hệ thống phân loại này bắt đầu xuất hiện giới hạn của nó. Trước mắt, Trung Quốc đang cần một hệ thống phân loại vừa mang tính khoa học vừa hoàn thiện để thích ứng với trình độ phát triển của khoa học hiện đại. Ở đây chúng tôi dựa vào nguyên tắc thống nhất chủ thể và khách thể, thống nhất phân hóa và tổng hợp, thống nhất phương pháp lịch sử và phương pháp logic thử phân hệ thống khoa học hiện đại thành 6 loại lớn gồm triết học, khoa học công cụ, khoa học tư duy, khoa học tự nhiên, khoa học xã hội – nhân văn và nhân học, trên đó quy tụ thành khoa học tổng hợp. Đây là lớp khoa học cơ bản nhất của hệ thống khoa học hiện đại, gọi là cấu trúc nguyên cấp. Dưới lớp này sẽ là cấu trúc cấp 1 của hệ thống khoa học hiện đại, gọi là cấu trúc môn loại. Thông thường, mỗi một môn loại đều do hai bộ phận khoa học lý luận và khoa học ứng dụng kết hợp tạo nên. Bộ phận khoa học lý luận lại có thể phân ra làm hai loại khoa học tổng hợp và khoa học chuyên môn. Ngay dưới các khoa học môn loại là cấu trúc cấp 2 của hệ thống khoa học hiện đại, gọi là cấu trúc khoa mục (ngành khoa học). Nếu phân giải từng môn loại trong cấu trúc môn loại, ta sẽ thấy rằng chúng được tạo thành từ nhiều khoa học và phân khoa học phức tạp. Đương nhiên, tiếp tục phân giải xuống dưới, chúng ta sẽ hiểu càng sâu hơn về cấu trúc của hệ thống khoa học hiện đại.
Hệ thống khoa học hiện đại
Có thể quan sát qua sơ đồ trên, văn hóa học là một khoa học thuộc khoa học xã hội – nhân văn, quan hệ giữa nó với các khoa học như văn học, nghệ thuật, tôn giáo học, nhân loại học, xã hội học, chính trị học, lịch sử học, pháp luật học, giáo dục học, tâm lý học, luân lý học v.v.. là mối quan hệ giữa khoa học tổng hợp và khoa học chuyên môn. Phải hiểu được điều này mới có thể hiểu đúng và đầy đủ tính chất của văn hóa học. Đương nhiên, chúng ta cũng cần phải chú ý ở một điểm, mặc dù văn hóa học đứng ở vị trí cao nhất trong khoa học xã hội – nhân văn, song vì nhiều nguyên nhân khác nhau, cho đến thời điểm này (1987) văn hóa học vẫn chưa hình thành hoàn chỉnh ở Trung Quốc, tác dụng và vị trí của nó vẫn chưa định hình rõ ràng, người Trung Quốc vẫn chưa nhận ra đầy đủ và rõ ràng tầm quan trọng của nó. Tuy nhiên, chúng tôi tin tưởng sâu sắc rằng theo đà phát triển của công cuộc hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa và của bản thân văn hóa học, người Trung Quốc sẽ nhận thức được tầm quan trọng của ngành khoa học này.
3. Bất kỳ khoa học nào cũng đều có khái niệm lý luận và phương pháp đặc thù của nó. Khái niệm lý luận và phương pháp của văn hóa học là gì? Chúng ta cũng cần phải thảo luận mấy phương diện này.
1/ Văn hóa và văn minh. Văn hóa là khái niệm hạt nhân của văn hóa học. Về định nghĩa văn hóa, từ trước đến nay giới khoa học vẫn còn tranh luận, chưa đi đến thống nhất. Theo thống kê của Britanica, trên toàn thế giới đã có hơn 160 định nghĩa khác nhau được viết trong các sách xuất bản chính thức. Do vì nội hàm của văn hóa rất rộng nên bản thân nó mang tính đa nghĩa và tính phiếm định. Tuy đã thế, chúng ta có thể đánh lờ, không bàn đến nó được chăng? E rằng không được. Ở một chừng mực ý nghĩa nhất định, lịch sử nghiên cứu khoa học chính là lịch sử của khái niệm và phạm trù, nếu không có khái niệm thì không có nghiên cứu khoa học. Vậy thì, làm thế nào để xác định văn hóa? Chúng tôi cho rằng, chúng ta phải tuân thủ theo nguyên tắc sau: thứ nhất, văn hóa có tính siêu tự nhiên. Văn hóa là sản phẩm do con người tạo ra, do đó nó có liên hệ đến con người, còn thế giới tự nhiên không có dấu ấn con người nên chúng không phải là văn hóa. Con người là chủ thể sáng tạo của văn hóa, vì vậy con người chiếm giữ vị trí đặc thù trong văn hóa. Thứ hai, văn hóa mang tính siêu cá thể. Cái mà văn hóa thể hiện là hiện tượng và bản chất của loài người. Thứ ba, văn hóa có tính hệ thống. Văn hóa thể hiện hệ thống đặc thù do nhiều kết cấu và chức năng hợp thành. Căn cứ vào ba nguyên tắc này, chúng ta hãy thử xác định văn hóa: văn hóa là hiện tượng đặc biệt của xã hội loài người, là hệ thống các phương thức sinh hoạt của con người và các nội dung sản phẩm vật chất và sản phẩm tinh thần được sản sinh ra trong hoạt động của con người. Con người tác động vào thế giới tự nhiên tạo ra văn hóa vật chất, tác động vào xã hội thì tạo ra văn hóa chế độ, tác động vào bản thân con người thì sản sinh ra văn hóa tinh thần. Vì thế, hệ thống văn hóa bao gồm ba hệ thống thành phần: hệ thống văn hóa vật chất, hệ thống văn hóa chế độ và hệ thống văn hóa tinh thần. Ba tiểu hệ thống này đều có cấu trúc và chức năng hoàn toàn khác nhau, kết hợp hữu cơ thành thể thống nhất văn hóa vừa có quan hệ tương hỗ vừa có sự khu biệt, tồn tại phụ thuộc vào nhau và chế ước lẫn nhau.
Văn minh là khái niệm có quan hệ quan trọng với văn hóa. Văn minh và văn hóa vừa có mối liên hệ lẫn nhau vừa có sự khác biệt. Sự khác biệt giữa chúng chủ yếu là: trước hết, nhìn ở cả nội hàm lẫn ngoại diên, văn minh để chỉ trạng thái tiến bộ của xã hội loài người, phạm vi và thành quả của nó hạn hẹp hơn so với khái niệm văn hóa. Thứ hai, xét từ khía cạnh đặc trưng tính chất, văn minh không phải là thuộc tính căn bản của xã hội loài người, mà chỉ là sản phẩm của xã hội loài người khi đã phát triển một giai đoạn nhất định, là hiện tượng đặc thù mà chỉ sau khi xã hội loài người bước vào chế độ xã hội có giai cấp mới xuất hiện, trong khi đó văn hóa là thuộc tính căn bản của loài người, cùng sinh cùng mất với loài người. Thời điểm loài người tách biệt khỏi loài vượn là lúc con người sản sinh ra văn hóa. Văn hóa xuất hiện và tồn tại trước văn minh. Văn minh tồn tại dưới hình thức giá trị tiến bộ xã hội, còn văn hóa tồn tại bằng thể hiện của hoạt động sống của con người. Cuối cùng, xét ở khía cạnh ngữ nghĩa học, văn hóa là từ trung tính, bản thân nó không thể hiện tiến bộ hay lạc hậu, còn văn minh là từ mang ý nghĩa tích cực, nó đối lập với dã man. Mối quan hệ giữa hai khái niệm nằm ở hiện tượng thẩm thấu và tác dụng tương hỗ giữa chúng. Một mặt, văn hóa là nhân tố và là biểu hiện của hình thức văn minh, mặt khác, sự phát triển của văn hóa là tiền đề của văn minh tiến bộ. Văn minh nhanh chóng có thể trở thành lực lượng hiện thực, ngược lại khi văn hóa phát triển sẽ tạo điều kiện tốt làm cho văn minh đạt được một trình độ mới.
2/ Đặc trưng và tính chất của văn hóa. Văn hóa là sản phẩm của con người, và chỉ có con người mới có được. Nếu có con người là có văn hóa. Động vật không có văn hóa. Sự khác biệt cơ bản giữa con người và động vật chính là ở văn hóa.
Văn hóa có nhiều đặc trưng, song chủ yếu có 4 đặc trưng sau:
(1) Tính dân tộc và tính phổ quát (tính nhân loại). Do điều kiện địa lý khác nhau, các dân tộc khác nhau hình thành các hình thức văn hóa khác nhau, song do văn hóa không phải chỉ phát sinh và tồn tại đơn nhất ở một khu vực nhất định nên văn hóa của các dân tộc khác nhau vẫn có những điểm tương tự ít nhiều. Văn hóa mang tính cộng thông nhân loại (cả nhân loại thông hiểu nhau).
(2) Tính thời đại và tính vĩnh hằng. Do phương thức sản sinh văn hóa khác nhau, các thời đại khác nhau sẽ sản sinh ra văn hóa khác nhau. Tuy vậy, bất kỳ nội dung nào trong kết cấu tầng sâu của văn hóa nhân loại đều mang tính siêu việt thời đại, hình thành văn hóa mang tính vĩnh hằng.
(3) Tính phổ biến và tính giai cấp. Nơi nào có quần thể con người, nơi đó có văn hóa. Song do sau khi tự bước vào thời kì xã hội có giai cấp, văn hóa nội bộ các dân tộc đều tồn tại những khác biệt giai cấp nhất định.
(4) Tính kế thừa và tính biến dị. Văn hóa của bất kì thời đại nào cũng đều hình thành và phát triển trên cơ sở của văn hóa thời kì trước đó. Nếu tách khỏi sự kế thừa sẽ không có sự phát triển và cách tân. Song không phải tính kế thừa của văn hóa đều bảo toàn nguyên vẹn qua các thời đại. Mỗi nơi kế thừa mỗi khác, có khi tương phản nhau, tùy vào biến động lịch sử mà nội dung văn hóa được truyền bá có thể sẽ rất khác nhau tùy từng khu vực.
3/ Nội dung và hình thức của văn hóa. Nội dung của văn hóa là tấm gương phản chiếu, là kết quả ngưng tụ và là thể hiện của thực tiễn hoạt động sống của con người. Các hoạt động thực tiễn da dạng của loài người đã sáng tạo nên các nội dung khác nhau của văn hóa. Các yếu tố bên trong của nội bộ hệ thống văn hóa chính là nội dung cơ bản của văn hóa. Song bản thân các yếu tố đơn thuần này không làm nên văn hóa. Văn hóa phải là sự kết hợp giữa các loại yếu tố và các hình thức nhất định của chúng. Hình thức của văn hóa trên đại thể có thể phân thành hình thức văn hóa thông thường và hình thức văn hóa cụ thể. Hình thức văn hóa và nội dung văn hóa liên kết hữu cơ với nhau, làm cho văn hóa nhân loại thể hiện ra rất phong phú, muôn hình vạn trạng.
4/ Cấu trúc và chức năng của văn hóa. Hệ thống văn hóa có cấu trúc và chức năng riêng của nó. Cấu trúc văn hóa là tập hợp các quan hệ giữa các yếu tố bên trong hệ thống văn hóa. Cấu trúc văn hóa trên đại thể có thể phân làm hai loại: cấu trúc bên trong của văn hóa và cấu trúc bên ngoài của văn hóa. Cấu trúc bên trong của văn hóa chỉ thể hữu cơ của tự thân văn hóa được cấu thành từ chất điểm văn hóa, loạt liên kết văn hóa và mô thức văn hóa. Chất điểm văn hóa chỉ cá thể văn hóa có hình thái, chức năng và lịch sử đặc thù, nó là đơn vị cơ bản của văn hóa, có thể thể hiện ra ở hình thức cụ thể hay trừu tượng, ở vật chất hay ở tinh thần. Loạt liên kết văn hóa là kết quả của quá trình các chất điểm văn hóa tụ hợp lại với nhau ở một phương thức nhất định, thông thường là trung tâm của một chất điểm văn hóa nào đó, nó có liên kết với các chất điểm văn hóa khác về mặt chức năng, lấy tên gọi của chất điểm văn hóa trung tâm làm tên gọi cho mình. Mô thức văn hóa là một thể thống nhất do nhiều loạt liên kết văn hóa liên kết hữu cơ với nhau tạo thành. Mô thức văn hóa được hình thành dưới những điều kiện nhất định của lịch sử, nó chịu ảnh hưởng của các nhân tố tự nhiên và nhân tố xã hội. Các dân tộc khác nhau sẽ có các mô thức văn hóa khác nhau. Mô thức văn hóa phản ánh và ảnh hưởng đến cuộc sống con người ở những hình thức tương đối ổn định. Cấu trúc bên ngoài của văn hóa chỉ khu vực văn hóa được tạo thành từ văn hóa của nhiều khu vực cư trú khác nhau hợp nên, còn gọi là văn hóa khu vực. Mỗi khu vực văn hóa đều có một vùng đất trung tâm phát nguồn và truyền bá văn hóa, được gọi là trung tâm văn hóa. Trung tâm văn hóa là vùng mang đặc trưng mô thức văn hóa điển hình nhất. Giữa các khu vực văn hóa lân cận nhau thường có vùng đệm – nơi gặp nhau giữa chúng, nó nằm cách xa trung tâm văn hóa, được gọi là biên tế văn hóa (biên giới văn hóa). Nó chính là nơi mang đặc trưng mô thức văn hóa mờ nhạt nhất. Ở đây cũng cần nhấn mạnh rằng cấu trúc văn hóa mà lâu nay người ta thường dùng chính là cấu trúc bên trong của văn hóa mà thôi.
Cấu trúc văn hóa quyết định chức năng của văn hóa. Nói sơ lược, chức năng của văn hóa bao gồm 8 điểm chính sau:
(1) Chức năng đáp ứng. Nhân loại có nhiều nhu cầu khác nhau ở nhiều phương diện như ăn, mặc, đi lại, ở, sử dụng, giao tiếp xã hội, cầu thị, hưởng thụ nghệ thuật, mưu cầu lý tưởng v.v.. Văn hóa có thể trực tiếp đáp ứng các nhu cầu này làm cho xã hội loài người không ngừng phát triển. (2) Chức năng nhận thức. Văn hóa giúp con người nhận thức đầy đủ giá trị xã hội và giá trị cá nhân, từ đó con người có thể phát huy tác dụng của mình trong xã hội làm cho lịch sử tiến lên. (3) Chức năng cải tạo. Văn hóa là công cụ cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội quan trọng của con người, văn hóa cũng có thể cải tạo chính con người. Trong môi trường văn hóa nhất định, văn hóa có thể làm con người biến đổi cách này hay cách khác. (4) Chức năng tổ chức. Văn hóa giúp ích con người tổ chức các hoạt động thực tiễn trong xã hội. (5) Chức năng chỉnh hợp. Văn hóa có thể điều chỉnh mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với xã hội, làm cho hai bên điều tiết hợp nhất, giúp xã hội vận hành ổn định, bình thường. (6) Chức năng giáo hóa. Văn hóa là điều kiện và là nội dung xã hội hóa từng cá nhân con người. Văn hóa giáo dục một cá thể vừa mới lọt lòng mẹ, chỉ mang những thuộc tính tự nhiên trở thành một người trưởng thành thành thục, giáo dục nhân cách xã hội cho cá thể ấy, thậm chí ảnh hưởng đến toàn bộ quá trình sinh sống của con người. (7) Chức năng lựa chọn. Nhân loại bị văn hóa chế ước nhưng nhân loại cũng có tính năng động chủ quan của mình. Loại chế ước này không phải là tuyệt đối. Văn hóa giúp ích cho con người trong lựa chọn các giá trị, mưu cầu tương lai tốt đẹp. (8) Chức năng hướng tâm. Văn hóa là một lực ngưng tụ quần thể, có thể giúp tạo thêm sức mạnh cho tổ chức quần thể, tăng cường tính nhận thức dân tộc và đoàn kết dân tộc
5/ Loại hình và biến thiên văn hóa
Loại hình văn hóa tiến hành phân loại hình thái văn hóa theo các góc độ và phương diện khác nhau. Cách phân loại này thường bất nhất. Nếu phân theo nội dung sẽ có văn hóa vật chất, văn hóa chế độ và văn hóa tinh thần. Phân theo tính chất sẽ có văn hóa thế giới, văn hóa dân tộc và văn hóa giai cấp. Ngoài ra còn có thể phân tiếp thành văn hóa bác học (tinh anh), văn hóa đại chúng (văn hóa thông tục) hoặc văn hóa chủ lưu, văn hóa á lưu và phản văn hóa. Nếu phân theo phương thức nhân loại hiểu (nắm bắt) được thế giới sẽ có văn hóa tri thức, văn hóa thẩm mỹ và văn hóa giá trị hay phân thành văn hóa khoa học và văn hóa nhân văn. Nếu phân theo chức năng sẽ có văn hóa mang tính chế độ và văn hóa mang tính phi chế độ. Nếu phân theo công cụ sản xuất sẽ có văn hóa đồ đá cũ, văn hóa đồ đá mới, văn hóa đồ đồng v.v.. Nếu phân theo mối quan hệ giữa văn hóa và phương thức sản xuất thì có văn hóa du mục, văn hóa nông nghiệp, văn hóa công nghiệp và văn hóa thời kì tin học. Nếp phân theo tôn giáo thì có văn hóa Phật giáo, văn hóa Nho giáo, văn hóa Kitô giáo và văn hóa Hồi giáo. Nếu phân theo thời gian thì có văn hóa cổ đại, văn hóa cận đại, văn hóa hiện đại và văn hóa đương đại hoặc phân thành văn hóa nguyên thủy, văn hóa chế độ nô lệ, văn hóa phong kiến, văn hóa tư bản chủ nghĩa và văn hóa xã hội chủ nghĩa. Phân theo không gian thì có văn hóa bản địa và văn hóa ngoại lai hoặc văn hóa đại lục và văn hóa hải dương hay văn hóa đô thị và văn hóa nông thôn, hay văn hóa phương Đông và văn hóa phương Tây, trong đó văn hóa phương Đông phân tiếp ra thành văn hóa Trung Hoa, văn hóa Ấn Độ, văn hóa Nhật Bản, văn hóa Triều Tiên, văn hóa Việt Nam v.v.. Trong văn hóa Trung Hoa lại tiếp tục phân ra các vùng văn hóa: văn hóa Tề Lỗ, văn hóa Trung Nguyên, văn hóa Cảnh Sở, văn hóa Ngô Việt, văn hóa Ba Thục, văn hóa Lĩnh Nam, văn hóa Tam Tấn v.v..
Nếu cho rằng những ý kiến trên đây chỉ là kết quả khảo sát tính chất, đặc trưng, nội dung, hình thức, cấu trúc, chức năng và loại hình văn hóa ở phương diện tĩnh thì biến thiên văn hóa sẽ khảo sát văn hóa ở phương diện động. Biến thiên văn hóa là quá trình kết hợp lẫn nhau giữa tiến hóa văn hóa và truyền bá văn hóa, nguyên nhân của nó nằm ở trong các vận động mâu thuẫn nội tại của văn hóa. Tiến hóa văn hóa là quá trình phát triển lịch sử của bản thân một dân tộc, còn truyền bá văn hóa để chỉ những ảnh hưởng tương hỗ giữa văn hóa bản địa và văn hóa ngoại lai. Trong truyền bá văn hóa thường có các hiện tượng xung đột văn hóa và thích ứng văn hóa. Xung đột văn hóa chỉ những xung đột hay mâu thuẫn giữa phát sinh giữa văn hóa hai dân tộc. Còn thích ứng văn hóa chỉ quá trình biến hóa phát sinh trong điều kiện văn hóa bản địa chịu ảnh hưởng từ văn hóa ngoại lai. Sau khi văn hóa ngoại lai truyền bá vào thường xuất hiện hiện tượng xung đột văn hóa trước rồi mới dần dà chuyển hóa thành thích ứng văn hóa. Xung đột văn hóa dẫn đến thích ứng văn hóa, ngược lại thích ứng văn hóa thúc đẩy xung đột văn hóa. Giữa tiến hóa văn hóa và truyền bá văn hóa có quan hệ rất mật thiết với nhau: văn hóa được truyền bá trên cơ sở tiến hóa, tiến hóa văn hóa xảy ra trên cơ sở thúc đẩy của truyền bá văn hóa. Nếu không có tiến hóa văn hóa dân tộc làm nội dung sẽ không phát sinh ra hiện tượng truyền bá văn hóa giữa hai dân tộc. Không có sự du nhập của văn hóa ngoại lai sẽ không có sự thúc đẩy của văn hóa bản địa. Trên phạm vi thế giới, tiến hóa là quá trình phát triển theo chiều dọc của văn hóa, còn truyền bá là quá trình phát triển theo chiều ngang, cả hai kết hợp thúc đẩy văn hóa thế giới phát triển. Đây là một quy luật cơ bản của phát triển văn hóa.
6/ Phương pháp nghiên cứu văn hóa học.
Phương pháp nghiên cứu của văn hóa học do đối tượng nghiên cứu quyết định, đồng thời cả hai phải thích ứng lẫn nhau. Do văn hóa học mang tính tổng hợp nên nó cần quan tâm đến nghiên cứu và vận dụng phương pháp của mình, đặc biệt là tiếp nhận các phương pháp mới của các khoa học có liên quan và các khoa học hiện đại khác.
Có nhiều phương pháp nghiên cứu của văn hóa học. Trên đại thể nó có ba tầng lớp: (1) phương pháp luận giữ vị trí cao nhất; (2) phương pháp cơ bản giữ vị trí trung gian; và (3) trình tự và kỹ thuật nghiên cứu nằm ở vị trí thấp nhất.
Về nguyên tắc của phương pháp, phương pháp luận là tư tưởng chỉ đạo và là phương pháp căn bản cho công tác nghiên cứu. Phép biện chứng duy vật và sử quan duy vật Chủ nghĩa Marx chính là tư tưởng chỉ đạo và phương pháp căn bản của khoa học văn hóa học của chúng ta.
Phương pháp cơ bản là phương thức đặc thù được vận dụng trong nghiên cứu văn hóa học. Thường có phương pháp lịch sử, phương pháp cấu trúc, phương pháp so sánh, phương pháp kinh nghiệm, phương pháp tâm lý học, phương pháp phát sinh học và các phương pháp của các khoa học hiện đại. (1) Phương pháp lịch sử cho phép nghiên cứu các ghi chép lịch sử, làm rõ chân tướng của sự thật và phân tích quá trình lịch sử hình thành hiện tượng văn hóa “hiện tại” của nó. Phương pháp này giúp chúng ta hiểu được lịch sử và hiện trạng văn hóa, đồng thời nắm bắt được các chứng cứ nhằm dự đoán được tương lai của phát triển văn hóa. (2) Phương pháp cấu trúc là phương pháp vận dụng lý luận cấu trúc để xử lý và phân tích văn hóa, đi sâu phân tích cấu trúc bên trong và cấu trúc bên ngoài của văn hóa nhằm tìm ra “nền tảng” của văn hóa. (3) Phương pháp so sánh tiến hành so sánh các hiện tượng văn hóa có thể so sánh được ở cả hai phương diện chiều ngang và chiều dọc dựa trên hệ tiêu chuẩn nhất định nhằm tìm ra điểm tương đồng và dị biệt giữa chúng, từ đó nhận biết được bản chất của các hiện tượng văn hóa được so sánh. (4) Phương pháp kinh nghiệm cho phép thông qua khảo sát thực địa, điều tra xã hội thu thập, chỉnh lý được lượng tư liệu đầu tay, qua phân tích tư liệu tìm kiếm quan điểm và hệ thống lý luận. (5) Phương pháp tâm lý học coi việc nhân thể tham gia vào các quá trình phát triển và thực thi các hành vi văn hóa là một bộ phận đặc trưng tâm lý thông thường của con người trong quan sát. Phương pháp này nhấn mạnh tầm quan trọng của tác dụng tâm lý trong các hiện tượng văn hóa. (6) Phương pháp phát sinh học dùng các phương pháp và thủ đoạn của phát sinh học tiến hành nghiên cứu tổng hợp tính thực nghiệm động thái của các đối tượng tại nơi phát sinh văn hóa nhằm nói rõ quá trình phát sinh của văn hóa. (7) Phương pháp sinh thái học lấy quan điểm của sinh thái học để khảo sát mối quan hệ tương hỗ giữa văn hóa và môi trường sinh thái nhằm chỉ ra mối liên hệ mật thiết giữa chúng. (8) Các phương pháp khoa học hiện đại dùng các phương pháp như hệ thống luận, khống chế luận, tin tức luận, hiệp đồng luận, đột biến luận, lý luận cấu trúc hao tản, phương pháp toán học v.v. để nghiên cứu văn hóa. Các phương pháp này giúp nâng cao trình độ nghiên cứu văn hóa, mở rộng tầm nhìn và linh hoạt hóa tư tưởng của người nghiên cứu.
Trình tự và kỹ thuật nghiên cứu chỉ các bước và thủ đoạn cụ thể tiến hành trong nghiên cứu. Dưới đây là trình tự nghiên cứu do nhà văn hóa học người Đài Loan Hoàng Văn Sơn đề xuất đáng để chúng ta tham khảo: (1) tìm ra một khu vực văn hóa hoặc khoảng niên đại làm phạm vi nghiên cứu; (2) nắm bắt chân tướng của khu vực văn hóa hoặc khoảng niên đại, (3) chú ý đến các quan hệ bên ngoài, phát hiện các mối quan hệ tương hỗ nhằm tìm kiếm ảnh hưởng lẫn nhau giữa chất điểm văn hóa và loại liên kết văn hóa của chúng, (4) nghiên cứu kỹ các nhân tố biến động văn hóa, (5) dùng các khái niệm và nguyên tắc văn hóa để làm nguyên tắc thảo luận. Dĩ nhiên, cần phải nói rằng mặt sau của trình tự nghiên cứu này là “hoàn nguyên luận văn hóa” của chủ nghĩa duy tâm. Do đó chún ta phải hết sức chú ý.
Điểm cuối cùng cần nói rõ là văn hóa học tại Trung Quốc hiện là một khoa học mới, làm thế náo đề nhận thức được đối tượng nghiên cứu, tính chất khoa học, lý luận cơ bản và phương pháp nghiên cứu của khoa học này cần có nhiều công trình nghiên cứu của các học giả xa gần. Bài viết này còn nhiều hạn chế trong quan điểm và lý luận, chỉ hy vọng được mọi người chú ý các vấn đề chúng tôi nêu ra, tìm hiểu, nghiên cứu chúng nhằm thúc đẩy xây dựng văn hóa học thành một khoa học hoàn chỉnh.
Tài liệu tham khảo
1. Trần Tự Kinh (1947), Khái quan văn hóa học, Thương vụ ấn thư quán.
2. Tiền Mục (1952), Đại nghĩa văn hóa học, Thư cục Trung Chính Đài Loan.
3. Hoàng Văn Sơn (1971) Hệ thống văn hóa học, Thương vụ ấn thư quán Đài Loan.
4. Phùng Lợi (chủ biên, 1986), Nghiên cứu văn hóa học Trung Quốc đương đại, NXB Học viện Dân tộc Trung ương.
5. Kissing (Mỹ) (1986) Kỷ yếu nhân loại học văn hóa đương đại –Bắc Thần dịch, NXB ND Chiết Giang.
6. Dương Khôn (1984), Khái luận dân tộc học, NXB KHXH Trung Quốc.
7. Coen (Nga, 1982) Sử học xã hội giai cấp tư sản từ thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX – Lương Dật dịch, NXB Dịch văn Thượng Hải.
8. Nhuế Dật Phu (1979), Đại từ điển KHXH Vương Vân Ngũ, Thương vụ ấn thư quán Đài Loan.
9. Điền Phu – Vương Hưng Thành (1985), Giáo trình khoa học học, NXB Khoa học.
10. Tiền Học Thâm cb (1986), Bàn về khoa học tư duy, NXB Nhân dân Thượng Hải.