1. Khái quát về kiểu văn học và kiểu tính cách văn hoá
1.1. Kiểu văn hoá và kiểu văn học
Các sự vật hiện tượng trong thế giới đều rất đa dạng, phức tạp. Tuy nhiên, mỗi sự vật, hiện tượng đơn lẻ ấy đều có thể tìm thấy những điểm tương đồng từ những sự vật, hiện tượng khác. Từ những sự tương đồng này, chúng ta có thể quy ra các loại, các ngành, các họ, các nhóm hay các kiểu. Đối với các nền văn hoá cũng như các nền văn học trên thế giới, chúng ta cũng đều có thể phân loại chúng. Kết quả của sự phân loại ấy chính là sự hiện tồn của các loại hình văn hoá và các loại hình văn học. Ví dụ như, chúng ta có loại hình văn hoá phương Đông và phương Tây (theo phương vị), văn hoá truyền thống và văn hoá hiện đại (theo thời gian), văn hoá trọng động hay trọng dương và văn hoá trọng tĩnh hay trọng âm (theo tính chất của hoạt động). Tương tự, chúng ta cũng có loại hình văn học phương Đông và văn học phương Tây (theo phương vị), loại hình văn học cổ điển và loại hình văn học hiện đại/ đương đại (theo thời gian)…
Tuy nhiên, trong cùng một loại hình, chúng ta lại có thể tiếp tục phân chia để hình thành nên các tiểu loại, ở đây, chúng tôi tạm gọi là các “kiểu”. Ví dụ như, cùng là những đất nước thuộc châu Á (phương Đông), nhưng các nền văn hoá điển hình ở nơi đây lại mang sắc thái riêng, có thể được định dạng thành các kiểu khác nhau: văn hoá sa mạc (vùng Trung Đông, Tây Á), văn hoá tâm linh (Ấn Độ), văn hoá thần quyền (Nhật Bản), văn hoá vương quyền – thế tục (Trung Quốc), văn hoá trọng tình (Việt Nam)… Tương tự, chúng ta có các kiểu văn học tương ứng như sau: văn học ẩn ức sa mạc (đại diện là văn học Arab, Ba Tư), văn học tâm linh (đại diện là văn học Ấn Độ), văn học thần quyền – ngôn linh (đại diện là Nhật Bản), văn học thế tục (đại diện là Trung Quốc), văn học trọng tình (Việt Nam và những nền văn học Đông Nam Á).
1.2. Kiểu tính cách văn hoá
Tính cách[1] là khái niệm dùng để chỉ những đặc trưng trong cách nhận thức, tổ chức, ứng xử (thể hiện qua hành động) của một đối tượng người cụ thể. Đối tượng người này có thể là một người (mang tư cách là thành viên chính thức của xã hội) và cũng có thể là nhiều người (nhóm người, cộng đồng). Thế nhưng, do mang tính cộng đồng xã hội nên tính cách của một cá nhân nào đó cũng chính là sản phẩm được hình thành từ tính cách của cộng đồng đó, cho nên khi nói đến tính cách, người ta thường nghĩ đến tính cách chung của một cộng đồng mà không phải là tính cách riêng của từng cá nhân (ngoại trừ những cá nhân có những nét tính cách khác cộng đồng, tuy nhiên, trường hợp này được xem là lập dị và rất dễ bị cộng đồng cô lập).
Theo cách nói của Trần Ngọc Thêm, tính cách của cộng đồng ở đây chính là “tính cách tập thể”. Trong quyển Những vấn đề Văn hoá học lý luận và ứng dụng, Trần Ngọc Thêm viết: “Tính cách tập thể là hệ thống các đặc điểm tương đối bền vững của một cộng đồng người (chủ thể) trong điều kiện không gian và thời gian sinh tồn cụ thể của họ” [Trần Ngọc Thêm 2013b: 207]. Và vì tính cách tập thể ấy là sản phẩm của một cộng đồng người cụ thể, cho nên nó mang những giá trị văn hoá nhất định, tức là, tính cách cộng đồng cũng chính là tính cách văn hoá.
Xét về tính cách văn hoá, vì mỗi nền văn hoá đều được xây dựng bởi một cộng đồng người trong một không gian và một chuỗi thời gian cụ thể (bối cảnh đặc hữu), nên những phương thức nhận thức, tổ chức và ứng xử (thông qua hành động) của họ sẽ mang đặc trưng riêng. Chính vì điều này mà tính cách văn hoá cũng được phân loại thành những loại hình, những nhóm tính cách khác nhau, ví dụ loại hình tính cách dương ở phương Tây và loại hình tính cách âm ở phương Đông. Cùng một loại hình văn hoá, với những sự khác biệt về mặt điều kiện tự nhiên, con người và lịch sử phát triển mà mỗi cộng đồng dân tộc lại có những kiểu tính cách văn hoá khác nhau, ví dụ như trong khi người Trung Quốc có kiểu tính cách văn hoá là bành trướng thì người Ấn Độ lại có kiểu tính cách văn hoá là chuộng hoà bình, trọng đời sống tâm linh, còn người Nhật lại có kiểu tính cách là lập khuôn hoá tất cả những chuẩn tắc của cuộc sống thành các đạo (hình thành nên ý thức thu nhỏ của người Nhật Bản) [2]…
1.3. Vị trí của kiểu văn học và kiểu tính cách văn hoá trong văn hoá
Tuy đều là những thành tố của văn hoá, nhưng kiểu văn học và kiểu tính cách văn hoá lại không cùng hàng với nhau. Theo cấu trúc văn hoá của Trần Ngọc Thêm, kiểu văn học có thể được xem là một chùm đặc trưng về nghệ thuật ngôn từ trong văn hoá tổ chức đời sống cá nhân của con người, nó ngang hàng với các thành tố nội bộ khác (tín ngưỡng, phong tục, các loại hình nghệ thuật…) hoặc ngang hàng với các thành tố ngoại bộ của nó (như ăn uống, mặc, đi lại, cư trú…) [Trần Ngọc Thêm 2004]. Trong khi đó, kiểu tính cách văn hoá lại là một chùm đặc trưng về tính cách con người trong một nền văn hoá. Tức là, kiểu tính cách văn hoá là một siêu thành tố, nó bao trùm lên tất cả các thành tố văn hoá khác, từ văn hoá nhận thức, văn hoá tổ chức cho đến văn hoá ứng xử của những thành viên trong cộng đồng văn hoá ấy.
Tuy không ngang hàng nhau, nhưng cả hai đều quan hệ rất chặt chẽ với nhau, đặc biệt do văn học chính là hình thức truyền tải nhận thức một cách chi tiết nhất và rõ ràng nhất, nên có thể thông qua kiểu văn học mà thấy được kiểu tính cách văn hoá và ngược lại. Vị trí của hai thành tố này có thể được thể hiện qua sơ đồ như sau:
2. Sự cộng tồn của kiểu văn học và kiểu tính cách văn hoá
Con người nhận thức như thế nào thì sẽ hành động như thế đó. Tiếp theo, những hành động của một người được lặp đi lặp lại trong quá trình sinh tồn sẽ hình thành nên những đặc trưng trong tính cách. Tương tự, nhiều người trong cộng đồng ấy sẽ bị ảnh hưởng lẫn nhau trong cách quan niệm về thế giới xung quanh, và do vậy, những cách suy nghĩ này sẽ tạo ra hàng loạt những hành động mang tính thống nhất với nhau trong quá trình các cá nhân ấy tương tác với nhau. Ngược lại, những hành động mang tính thống nhất giữa các thành viên trong cộng đồng được lặp đi lặp lại trong quá trình họ cùng sinh tồn sẽ hình thành nên những đặc trưng về tính cách văn hoá. Có nghĩa là, kiểu nhận thức nào cũng sẽ có kiểu tính cách văn hoá tương ứng.
Trong quá trình cùng tồn tại, kiểu nhận thức của mỗi dân tộc đều sẽ được thể hiện ra bằng các dạng lăng kính khác nhau: qua cách tổ chức làng xã, cách tổ chức gia đình, cách thực hiện các lễ nghi, cách sáng tạo nghệ thuật, cách ứng xử với tự nhiên, cách ứng xử với người ngoại lai… Ví dụ, do sống trong môi trường cạnh tranh khốc liệt nên người Hán luôn lấy tiêu chí tự cường, bành trướng làm tiêu chí hàng đầu (thể hiện rõ nét qua tiêu chí tu dưỡng của một người quân tử: tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ). Nét tính cách này thể hiện một cách nhất quán qua các lĩnh vực như sau: trong nhận thức về vũ trụ thì luôn có tư tưởng bao thâu vũ trụ (nắm lấy thiên cơ qua các thuật chiêm bốc); trong nhận thức về bản thân con người thì luôn muốn nắm lấy tinh hoa của trời và đất (nhấn mạnh vị trí của con người trong bộ ba thiên - địa - nhân; nhấn mạnh hành kim trong bộ năm kim - mộc - thuỷ - hoả - thổ: dùng binh khí (kim) làm công cụ hàng đầu để bành trướng lãnh thổ (thổ)); trong tổ chức vĩ mô thì xem người Hán là tinh hoa (Trung Quốc/ Trung Nguyên), còn tứ phương đều là man (ở phía Nam), rợ (tức Địch, ở phía Bắc), di (ở phía Đông), mọi (tức Nhung, ở phía Tây); trong tổ chức vi mô thì thường giữ gìn lễ tiết, phép tắc được đề cao; trong ứng xử với môi trường tự nhiên thì thường xây dựng những cung điện, thành quách vô cùng diễm lệ, hoành tráng; trong ứng xử với người ngoài thì luôn có khát vọng thôn tính, bành trướng và đồng hoá. Một trong những lăng kính soi chiếu một cách sâu sắc về nét tính cách bành trướng này chính là nghệ thuật văn chương Trung Hoa. Ngay cả trong thể thơ súc tích vào thời kỳ cổ đại của Trung Quốc – thơ Đường, nét tính cách văn hoá này cũng thể hiện rất rõ qua thi pháp không gian: nhìn từ gần ra xa, nhìn từ thấp lên trên cao, nhìn từ một điểm đến hàng vạn điểm… Các bài thơ Vọng Lư sơn bộc bố, Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng, Hành lộ nan (Lý Bạch); Điểu minh giản, Cửu nguyệt cửu nhật ức Sơn Đông bằng hữu (Vương Duy); Khuê oán, Thanh lâu oán (Vương Xương Linh); Đăng Quán Tước lâu (Vương Chi Hoán)… đều phảng phất nét tính cách này.
Nói tóm lại, giữa văn học và văn hoá (cụ thể là tính cách văn hoá) có mối quan hệ rất mật thiết với nhau. Một khi kiểu văn hoá (cụ thể là kiểu tính cách văn hoá) bị thay đổi thì kiểu văn học cũng sẽ bị thay đổi theo. Sự thay đổi từ kiểu văn học Bắc Bộ sang kiểu văn học Nam Bộ và sự thay đổi từ kiểu văn học “văn dĩ tải đạo” thời trung - cận đại sang kiểu văn học Tây hoá thời cận - hiện đại ở Việt Nam chính là hệ quả của sự chuyển đổi tính cách văn hoá từ tính cách tiểu nông sang tính cách tiểu thương và sự chuyển đổi từ kiểu tính cách văn hoá thiên về hình thức sang kiểu tính cách thiên về nội dung. Trong quyển Mối quan hệ giữa văn hoá và văn học, Đỗ Thị Minh Thuý đã chỉ ra hai lần thay đổi kiểu văn hoá (Hán hoá và Tây hoá) đã dẫn đến sự hình thành của hai kiểu văn học: văn học cổ điển và văn học hiện đại [Đỗ Thị Minh Thuý 1997: 128-238].
3. Kiểu văn học nhìn từ kiểu tính cách văn hoá qua một số đối tượng văn học cụ thể
Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi chỉ trình bày một số nét khái quát về mối quan hệ chặt chẽ giữa kiểu văn học và kiểu tính cách văn hoá qua tác phẩm văn học Việt Nam Chiếc lược ngà (Nguyễn Quang Sáng) và đặc trưng trong thơ Haiku của Nhật Bản.
3.1. Kiểu tính cách Nam Bộ qua tác phẩm Chiếc lược ngà (Nguyễn Quang Sáng)
Để làm rõ những đặc trưng tính cách người Nam Bộ qua tác phẩm Chiếc lược ngà, trước hết, chúng ta cần làm rõ những điều kiện hình thành nên kiểu tính cách Nam Bộ:
Xét về điều kiện tự nhiên, Nam Bộ là vùng đất khá rộng, bao gồm hai phân vùng là Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ. Đây là nơi có kiểu khí hậu nóng ẩm, sông ngòi chằng chịt (đặc biệt là Tây Nam Bộ với hệ thống chi nhánh của hạ lưu sông Mê Kông), vì thế mà mưa nhiều, đủ sức tưới cho cây. Hơn nữa, Nam Bộ là nơi có địa hình thấp, ít núi (chỉ có các dãy núi nhỏ như núi Bà Đen ở Tây Ninh, núi Chứa Chan ở Đồng Nai, núi Bao Quan ở Vũng Tàu, núi Thất Sơn ở An Giang…), do vậy, chất đất ở đây phần nhiều là phù sa màu mỡ, thứ đến là phù sa cổ và đất đỏ bazan. Những điều kiện này rất thích hợp cho việc trồng trọt các loại cây lương thực, hoa màu, cây ăn trái cũng như đánh bắt và nuôi thuỷ hải sản. Vì vậy, câu nói “làm chơi ăn thiệt” phản ánh rất rõ về điều kiện tự nhiên thuận lợi ở nơi đây. Hơn nữa, Nam Bộ hầu như không bị bão, do vậy mà nhìn chung, đời sống vật chất của cư dân là khá thừa mứa (từ lúa gạo đến hoa quả, tôm cá), không lo nghĩ nhiều đến sự cạnh tranh, ganh đua; mà ngược lại, sự khoan dung, phóng khoáng và đối đãi nhiệt thành trở thành một trong những tiêu chuẩn sống.
Ngoài ra, do đất rộng người thưa nên làng xã thường được tổ chức theo nguyên tắc mở, các thành viên không quá lệ thuộc vào nhau, kể cả giữa các thành viên trong tổ chức gia đình. Hơn nữa, dân Nam Bộ đều là những kẻ tha hương, những khách giang hồ tứ chiếng, mà những con người từ tứ phương đến đây sinh cơ lập nghiệp đều thường có chung một kiểu mặc cảm: ở nhờ nơi đất khách [3]. Do vậy, để có thể chung sống được với nhau, quan hệ giữa người với người ở nơi đây thường mang tính dân chủ, bình đẳng; nguyên tắc trọng tình được thay bằng nguyên tắc trọng nghĩa khí, trọng uy tín.
Về điều kiện lịch sử - xã hội, theo quyển Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến năm 1884 của Nguyễn Phan Quang và Võ Xuân Đàn, việc khai khẩn vùng đất Nam Bộ có lẽ được bắt đầu từ sự phân liệt Nam - Bắc triều và phân liệt Trịnh - Nguyễn. Để tránh bị sát hại và cũng là để xây dựng lực lượng riêng cho dòng họ Nguyễn, vào năm 1558, người con thứ của Nguyễn Kim là Nguyễn Hoàng đã xin vào trấn thủ đất Thuận Hoá; năm 1614, Nguyễn Phúc Nguyên nối ngôi cha và tiếp tục sự nghiệp khai khẩn đất phương Nam; năm 1692, Nguyễn Phúc Chu lên ngôi và quyết tâm tách Đàng Trong thành một xứ độc lập [Nguyễn Phan Quang, Võ Xuân Đàn 2011]… Có thể nói, trong suốt các đời chúa Nguyễn (tính đến 1802), những nhóm người Việt khác nhau (nhóm tá điền không có ruộng đất, nhóm quân sĩ của nhà Nguyễn, nhóm tù binh trong các trận giao tranh bị các chúa Nguyễn bắt đày, nhóm anh hùng và thành phần trí thức bất mãn với thời thế…) đã cùng nhau vượt qua vùng đất xưa vốn là vương quốc Champa để vào khai phá đất hoang ở phương Nam. Họ cộng cư với người Khmer (từ Lục Chân Lạp sang), người Hoa (từ miền Nam Trung Quốc đến tị nạn), người Chăm (từ các lân bang trở về miền Trung rồi quay trở xuống các tỉnh Đông và Tây Nam Bộ) và trải qua quá trình Tây hoá mạnh mẽ từ giữa thế kỷ XIX, từ đó, họ đã tạo dựng nên một diện mạo văn hoá riêng ở vùng đất Nam Bộ: văn hoá của những con người lưu tán, tức là văn hoá của nhóm người giang hồ tứ chiếng. Chất giang hồ này sẽ quy định nên nét tính cách cương trực, chất phác, năng động.
Như vậy, trong khoảng ba trăm năm khai khẩn và phát triển, người Việt ở Nam Bộ đã kịp định hình cho mình những nét tính cách đặc thù, theo Trần Ngọc Thêm, đó chính là tính thích ứng cao độ với môi trường sông nước (gọi tắt là tính sông nước), tính trọng nghĩa, tính bộc trực, tính bao dung, tính thiết thực và tính mở thoáng [Trần Ngọc Thêm 2013a: 637-832]. Những sản phẩm tính cách này được hình thành dựa trên các tiền đề sau đây: 1). Điều kiện tự nhiên đặc hữu ở Nam Bộ; 2). Cơ tầng văn hoá Việt Nam; 3). Hoàn cảnh lịch sử xứ Đàng Trong cùng với sự đặc thù của nhóm người lưu tán; 4). Sự ảnh hưởng từ văn hoá phương Tây.
Những nét đặc thù từ điều kiện tự nhiên và điều kiện xã hội, cũng như những nét đặc trưng trong tính cách con người phương Nam được nêu ra ở trên (thể hiện trong lối nhận thức, tổ chức và ứng xử) đã được thể hiện rất rõ trong tác phẩm văn học Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng. Sự tương đồng giữa “kiểu tính cách văn hoá” và “kiểu văn học” được diễn ra ở những khía cạnh như sau:
3.1.1. Ý thức cá nhân của nhân vật Thu
Xuất phát từ nhóm người lưu tán, những con người Nam Bộ thường ít bị lệ thuộc vào tập thể, lại càng không bị áp đặt bởi những ràng buộc của tôn ty trật tự. Ở đây, yếu tố cá nhân có cơ hội được bộc phát và trở thành động lực để phát triển. Do vậy, tuy phận là con nhưng bé Thu không vì lời nói của mẹ mà chịu nhận ba. Nguyên nhân là người trong hình không hề giống với người đang đối diện với bé, đặc biệt là vào lúc ấy, ông Sáu quá xúc động nên gương mặt ửng đó, vết sẹo giần giật lên, trông rất đáng sợ. Lập trường này thể hiện rất rõ qua hàng loạt những hành động “cứng đầu”: không cho mẹ ngủ với ba bằng cách kéo ông Sáu ra và cắn vào người ông Sáu → khi ông Sáu tìm cách vỗ về thì nó càng tìm cách đẩy ra → phản kháng lại yêu cầu của mẹ khi buộc phải gọi “ba” vào ăn cơm → kêu trỏng khi mời ông Sáu ăn cơm → gọi trỏng khi nhờ chắt nước cơm → tự lấy vá múc nước cơm để cơm không bị nhão → hất cái trứng cá mà ông Sáu gắp cho → cúi gằm mặt không khóc khi bị mắng và bị đánh → gắp trứng cá cho lại vào chén nhưng không ăn → nhảy xuống xuồng bơi qua nhà bà ngoại. Nếu nhìn từ bên ngoài, những hành động này có thể bị xem là hỗn láo, vô lễ, thế nhưng, nếu dựa vào hệ giá trị của văn hoá Nam Bộ thì những hành động này hoàn toàn là hợp lẽ và mang tính tất yếu. Đó là bởi vì Thu dựa vào lý mà không dựa vào tình (dù đã được ông Sáu dùng mọi cách làm hoà).
Ngoài ra, việc bé Thu gọi tiếng “ba” và ôm chặt ông Sáu lúc đoàn người chuẩn bị lên đường cũng xuất phát từ cái nghĩa (nghĩa đồng loại), từ chữ tín (ba vẫn là ba mà không phải là người khác nên bé Thu thấy có lỗi đối với cách cư xử của mình trước đó, lúc này, chân lý đã được làm sáng tỏ nên nó ý thức được là phải thể hiện sự nhận thức đó ra bằng hành động) chứ không phải là vì vị nể bà ngoại hay mềm lòng trước sự chân thành của ông Sáu…
Nói tóm lại, những điều này đều xuất phát từ ý thức cá nhân, tính trọng lẽ phải, trọng uy tín trong quá trình xây dựng làng xóm của người Nam Bộ.
3.1.2. Quan hệ gia đình và quan hệ xã hội
Từ sự yêu thương của ông Sáu dành cho gia đình, đặc biệt là cho bé Thu, chúng ta có thể thấy được cách tổ chức gia đình rất điển hình của cư dân Nam Bộ. Vào ngày trở về thăm nhà, tuy được cả nhà thừa nhận nhưng ông Sáu lại không vin vào cái chứng cứ đó để ép buộc bé Thu nhận mình là ba, mà ngược lại vẫn xuống nước (tìm mọi cách để tiếp cận, làm hoà) trước Thu – con gái ruột của ông. Đây là biểu hiện của tính dân chủ, bình đẳng và bao dung trong quan hệ giữa người với người trong xã hội và trong gia đình. Ở đây, tính tôn ty trật tự dường như bị làm mờ đi để nhường lại cho mối quan hệ xã hội sòng phẳng – mối quan hệ vốn được xác lập ngay từ khi người Việt rời quê hương miền Trung vào phương Nam mở cõi và bắt đầu cộng cư với các tộc người khác. Chính vì thế, tuy bé Thu là con gái và vẫn còn bé nhưng vẫn được xem là một thành viên độc lập, có tiếng nói trong gia đình.
Ngoài ra, mối quan hệ gia đình kiểu mở này còn được thể hiện rõ nét ở thái độ không phân biệt con trai và con gái, không phân biệt vai trò dòng nội và dòng ngoại. Nếu ở Bắc Bộ và Trung Bộ, yếu tố Nho giáo tác động tương đối mạnh (con trai học hành, làm quan trong khi con gái chỉ có thể sinh con đẻ cái và quán xuyến việc nhà) nên dù ít hay nhiều thì cư dân nơi đây vẫn có tâm lý “con gái là con người ngoài”, “cháu ngoại thương dại thương dột”. Trong khi đó, ngay từ khi vào Nam khai khẩn thì người con gái có công lao rất lớn trong việc ổn định gia đình, họ cùng lao động cực nhọc với đàn ông, còn người đàn ông chỉ có công việc chính là phát quang, cày cuốc, làm nhà mà không có được cái “chữ” như các Nho sĩ Bắc và Trung Bộ. Do vậy, người Nam Bộ có xu hướng xem con gái làm trọng, đặc biệt là con gái út (do phải chăm sóc cha mẹ lúc về già). Mặt khác, do việc tổ chức làng xã không quá xem trọng tính ổn định nên con cái có thể không cùng sống với gia đình, con dâu có thể không sống với gia đình chồng nên khi sinh nở thì thường có tâm lý về nhà mẹ ruột. Vai trò của bà ngoại vì thế mà được khẳng định. Trong câu chuyện, bà ngoại chính là người hoá giải hiểu lầm mà không phải cứ là bà nội. Và cũng vì giữ chữ tín với con gái, ông Sáu tỉ mẩn cưa, khắc chiếc ngà để làm thành chiếc lược tặng cho con gái, đồng thời coi con gái là nguồn động lực để sống và chiến đấu.
Mối quan hệ bình đẳng này không chỉ được thể hiện trong gia đình mà còn thể hiện ngay khi ứng xử ở ngoài xã hội. Trong lần dẫn đoàn khách đi bằng xuồng, cô giao liên rất trẻ ấy tự xưng là “tôi” với các anh giao liên khác, trong khi các anh giao liên gọi cô bằng cách nói rất kính trọng là “chị Hai”, “chị Út”. Điều này đã thể hiện khá rõ vị thế bình đẳng của người con gái trong xã hội. Mối quan hệ xã hội bình đẳng và phóng khoáng này còn thể hiện qua tình tiết nhân vật “tôi” xưng “ba” và gọi “con” với Thu ở cuối đoạn trích: Nhân vật “tôi” đã tự xem mình là người có trách nhiệm làm chỗ dựa tinh thần cho Thu và xem Thu là con của bản thân mình, đó là biểu hiện của xu hướng liên kết cộng đồng bằng nghĩa khí, không phân biệt người thân và người ngoài (so sánh với tính tự trị trong quan hệ xã hội của người Bắc Bộ).
3.2. Kiểu tính cách Nhật Bản qua thơ Haiku
Tương tự với việc phân tích một tác phẩm văn học Việt Nam từ góc nhìn tính cách cộng đồng, việc phân tích nội dung và nghệ thuật thơ Haiku cũng sẽ góp phần làm rõ những đặc trưng trong tính cách văn hoá người Nhật Bản. Tuy nhiên, để có thể lý giải được những nét đặc trưng này, trước hết, chúng ta cần sơ lược những điều kiện tiên quyết như sau: điều kiện đặc hữu về tự nhiên của quần đảo Nhật Bản cùng với sự đặc thù về con người và tiến trình lịch sử của người Nhật.
Về điều kiện tự nhiên, Nhật Bản là một quần đảo ở về phía Tây Thái Bình Dương, phía đông lục địa Á - Âu, bao gồm bốn đảo lớn là Hokkaido, Honshu, Shikoku và Kyushu và khoảng 3900 đảo nhỏ. Nhìn từ bản đồ thế giới, Nhật Bản là một quốc đảo bị cô lập hoàn toàn với mảng lục địa châu Á bởi biển cả. Đặc điểm quan trọng về điều kiện tự nhiên của quần đảo Nhật Bản chính là sự bất ổn địa chất, núi lửa thường xuyên hoạt động và thường xuyên động đất, cộng vào đó là những cơn sóng thần. Nhật Bản cũng là nơi được cấu thành từ rất nhiều dãy núi có độ dốc cao, trong khi bình nguyên thì rất ít, do vậy, nơi đây trồng trọt tương đối khó, cây lương thực chỉ có thể được canh tác ở các vùng đồng bằng nhỏ hẹp [Eiichi Aoki 2006]. Chính vì điều kiện tự nhiên không thuận lợi, cuộc sống luôn bị đe doạ nên người Nhật thường xây dựng những công trình kiến trúc vừa phải, đặc biệt là kiến trúc dạng dễ tháo ráp; các vật dụng hàng ngày và đồ công nghệ cũng nhỏ nhắn xinh xắn (hộp đựng cơm, đồ điện tử…). Về nghệ thuật, các tác phẩm văn học thường ở dạng ngắn gọn nhưng những triết lý được hàm chứa bên trong thì vô cùng đa dạng và phức tạp (thơ Haiku, tiểu thuyết cực ngắn). Về đời sống tâm linh, điều kiện sống bất ổn này cũng khiến cho người Nhật có tâm lý quý trọng cái hiện tồn, đề cao sự hy sinh, nhìn nhận sâu sắc về cõi vô thường, đặc biệt là nêu cao lối sống hài hoà giữa con người và thiên nhiên… Có thể nói rằng, điều kiện tự nhiên trên đây cùng với điều kiện lịch sử xã hội dưới đây đã hình thành nên một ý thức đặc trưng của người Nhật Bản, đó chính là ý thức thu nhỏ.
Về mặt nhân chủng, trên cơ bản, đó là những người thuộc đại chủng Mongoloid, có cùng nguồn gốc với các cư dân cổ ở đại lục Đông Bắc Á, Nam Trung Hoa và Đông Nam Á. Tuy nhiên, trong những giai đoạn khác nhau, Nhật Bản còn là nơi hội tụ của nhiều nhóm di dân khác nhau: ngoài nhóm Mongoloid đến từ phía Tây Nam qua con đường Trung Hoa và Korea, còn có nhóm người Đa Đảo đến từ phía Nam và nhóm người Kavkaz đến từ phía Tây. Trong quá trình phát triển, Nhật Bản đã hấp thụ tinh hoa của Trung Quốc (chủ yếu là đời Đường), văn hoá Đông Nam Á (thời kỳ trước và sau công nguyên), văn hoá phương Tây (thời kỳ cận đại đến nay). Có thể nói rằng, “người Nhật đã để ùa vào mình nắng gió bốn phương” [Đỗ Lai Thuý 1999: 83]. Chính quá trình dung hợp văn hoá này đã khiến cho người Nhật Bản trải qua hai thời kỳ mang hai đặc trưng tính cách văn hoá khác nhau: thời kỳ làm thợ (bắt chước những điều hay của các cường quốc) và thời kỳ làm thầy (cải tiến cho óng chuốt hơn, tinh diệu hơn). Chính thời kỳ làm thầy này đã khiến cho người Nhật Bản có ý thức thu nhỏ và tăng cường nội lực cho những sản phẩm đã học được bằng cách lập khuôn hoá. Nét tính cách này thể hiện rất rõ qua các nghệ thuật uống trà, múa kiếm, thưởng hoa và đặc biệt là trong nghệ thuật sáng tác thơ Haiku.
Sự tương đồng giữa “kiểu tính cách văn hoá” và “kiểu văn học” xét qua nghệ thuật thơ Haiku được diễn ra ở những khía cạnh như sau:
Thứ nhất, về thể thơ: Khi so sánh giữa thơ Đường của Trung Quốc, thơ Sijo của Hàn Quốc với thơ Haiku của Nhật Bản, thì Haiku chính là thể thơ có hình thức ngắn gọn, cô đọng nhất (thể thơ Đường ngắn nhất là dạng tứ tuyệt ngũ ngôn cũng phải đến 20 âm tiết; bài thơ Sijo có đến 45 âm tiết). Cả một bài thơ chỉ vỏn vẹn có 17 âm tiết, phân thành 3 vế (5-7-5), và trên thực tế, mỗi bài thơ cũng chính là một câu thơ. Tuy nhiên, sự ngắn gọn này không đồng nghĩa với sự nông cạn, mà ngược lại, tính triết lý lại được thể hiện một cách bất ngờ và sâu sắc. Những bài thơ Haiku của Basho, Chiyo, Issa, Gakoku… luôn chứa đựng những triết lý về vũ trụ, về con người, về ý nghĩa của cuộc sống: “Ao cũ/ Con ếch nhảy vào/ Vang tiếng nước xao” (Basho). Nét đặc sắc này không có gì khó hiểu nếu đặt nó trong sự so sánh với những sản phẩm mà người Nhật học (tức làm thợ) từ những người khác (chiếc quạt hợp hoan và dù tán rộng của Trung Quốc; súng kíp của Đức; cassette, tivi, máy chụp hình, điện thoại cũng như xe hơi, xe gắn máy… của các nước Âu Mỹ) để thu nhỏ, tăng cường chức năng thành những sản phẩm tương tự nhưng lại tiện dụng hơn, sau đó lại phát tán ngược trở lại nguồn phát (quạt xếp, dù xếp; súng thần công; các đồ điện tử chế tạo bằng kỹ thuật mạch điện tích hợp IC…).
Thứ hai, về nội dung: Một bài thơ Haiku chỉ vỏn vẹn có 17 âm tiết, nhưng triết lý bên trong lại là một thế giới vô cùng huyền ảo và rộng lớn. Trong đó, do chịu sự ảnh hưởng của môi trường sống mà triết lý về sinh và tử, triết lý giữa thực và hư, triết lý vạn vật ngang hàng nhau (xuất phát từ thuyết Tề vật luận của Trang tử), triết lý về sát na (khoảnh khắc), triết lý về tịch và giác ngộ (trong Thiền tông)… luôn là cảm hứng chủ đạo. Nếu không hiểu về những nét tính cách văn hoá đậm chất Nhật Bản này, chúng ta sẽ rất khó cảm nhận được ý tứ mà các tác giả gửi gắm trong thơ qua hình ảnh của cánh hoa anh đào rơi, của chú chuột đang uống nước, của con sâu đang bình yên ăn mòn hạt dẻ trong đêm trăng huyền, của một con quạ đang đậu trên nhành cây khô, hay thậm chí là hình ảnh của các cô gái làm nghề mại dâm đang say ngủ dưới ánh trăng và hoa đinh hương…
Ví dụ, trong bài thơ Haiku của Chiyo sau đây, chúng ta sẽ bắt gặp những hình ảnh vô cùng tầm thường, nhưng lại mang tính triết lý sâu sắc về cuộc đời: “Hoa triêu nhan/ Dây gàu vương hoa bên giếng/ Đành xin nước nhà bên” (Nhật Chiêu dịch). Chính điều kiện sống không thuận lợi, cuộc sống luôn có nguy cơ gặp nhiều bất trắc nên người Nhật rất trân trọng cuộc sống hiện tồn, nói rộng ra là trân trọng tất thảy mọi mầm sống (theo thuyết Khai sáng của người Nhật được ghi chép trong Kojiki, mầm sống đầu tiên của vũ trụ được hiện thân ở dạng mầm lau sậy [叶渭渠2005: 4]). Tính cách văn hoá này in đậm trong tâm thức của dân tộc Nhật đến mức, họ không dám dùng đến những từ ngữ bất kính để nguyền rủa đối phương (họ tin vào sức mạnh của kotodama – ngôn linh). Do vậy, không có gì là khó hiểu khi tác giả lại không nỡ múc nước ở giếng nhà mình mà đành phải sang nhà bên để xin nước: vào tối qua, hoa triêu nhan đã mọc quanh chiếc dây gàu bên giếng nước, và ở ngay trong bản thân của bông hoa tối nở sớm tàn ấy, sự sống đang hiện tồn. Con người yêu quý sinh mệnh của mình, thì hoa cũng biết yêu quý sinh mệnh của hoa, đó là chân lý hiển nhiên vậy.
4. Kết luận
Tóm lại, một tác phẩm văn học luôn chứa đựng một hệ thống những mật mã văn hoá. Do vậy, việc phân tích một tác phẩm văn học thuần tuý dựa vào văn bản là một việc chưa đủ. Xung quanh văn bản ấy còn là bản thân của tác giả, bối cảnh tự nhiên và lịch sử xã hội và đặc biệt là đặc trưng tính cách văn hoá.
Có thể nói rằng, định hướng phân tích giá trị của tác phẩm văn học theo hướng tiếp cận liên ngành, đặt nó trong mối tương liên với đặc trưng của tính cách văn hoá cộng đồng trên cơ bản là hoàn toàn phù hợp với định hướng đổi mới phương pháp dạy và học văn trong thời gian hiện nay. Thực hiện được hướng tiếp cận này, giá trị trong tác phẩm văn học được truyền thụ cho người học sẽ không còn ở dạng những bài học chính trị, những triết lý chung chung, mà chúng sẽ trở thành những bài học làm người sâu sắc trong cuộc sống khi mà những mật mã văn hoá được bóc tách ra dần từ những văn bản văn học.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Eiichi Aoki 2006: Nhật Bản đất nước & Con người (Nguyễn Kiên Trường dịch).- NXB Văn học
- 李御宁 2003: 日本人的缩小意识. 山东人民出版社
- 叶渭渠2005: 日本文化史. 广西师范大学出版社
- Nguyễn Phan Quang, Võ Xuân Đàn 2011: Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến năm 1884.- TP.HCM: NXB Tổng hợp
- Trần Ngọc Thêm 2004: Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam.- TP.HCM: NXB Tổng hợp
- Trần Ngọc Thêm 2013a: Văn hoá người Việt vùng Tây Nam Bộ.- NXB Văn nghệ
- Trần Ngọc Thêm 2013b: Những vấn đề văn hoá lý luận và ứng dụng.- NXB Văn nghệ
- Đỗ Lai Thuý 1999: Từ cái nhìn văn hoá.- NXB Văn hoá dân tộc
- Đỗ Thị Minh Thuý 1997: Mối quan hệ giữa văn hoá và văn học.- Hà Nội: NXB Văn hóa – Thông tin.
[1] Trong quyển Hán Việt tự điển, Thiều Chửu giải thích từ “tính cách” (性格) là “cách thức, hình dạng của cái lẽ chân chính trời phú cho con người”. Từ này thường được dịch sang thành “trait” (đặc điểm, nét đặc trưng, ví dụ như the Vietnamese traits: đặc trưng Việt) trong tiếng Anh. Tuy nhiên, “trait” có nét nghĩa chung chung về đặc điểm, mà không chỉ cụ thể về cá tính của con người. Do vậy, có lẽ từ này nên dịch thành “personality” (nhân cách, cá tính) thì sát hơn. Dù vậy, với truyền thống văn hoá trọng cá nhân như ở phương Tây, “personality” (vốn chỉ tính cách của nhân vật, của cá nhân cụ thể) vẫn không thể trùng khít với khái niệm “tính cách” ở người Việt (vốn lấy cá nhân hoà vào cộng đồng, và thực tế thì tính cách cộng đồng mạnh hơn tính cách cá nhân và có khả năng uốn nắn, điều chỉnh tính cách cá nhân).
[2] Small is beautiful [李御宁 2003: 224].
[3] Lâu dần, kiểu vô thức tập thể này đã hoàn toàn hoà quyện vào trong các hình thức nghệ thuật của cư dân nơi đây, từ hình thức lý, hò, ru trong dân gian cho đến đờn ca tài tử và sân khấu cải lương, cũng như dòng nhạc vàng – dòng nhạc đặc trưng ở miền Nam, khiến cho những hình thức nghệ thuật thanh sắc này đa phần đều mang hơi oán.
Nguồn: Tạp chí Khoa học Đại học Sài Gòn và tác giả