I. Mở đầu
Văn hóa là một thuật ngữ đa nghĩa. Vì sao nó lại đa nghĩa?
Đó là do nội dung của khái niệm văn hóa phát triển song hành với thực tại, mà nội dung của khái niệm đó phản ảnh. Văn hóa là toàn bộ những của cải vật chất và tinh thần, đặc trưng cho trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, thuộc những cộng đồng người nhất định, trong những thời kỳ lịch sử nhất định. Do lực lượng sản xuất không ngừng phát triển, cho nên thực tại văn hóa cũng phát triển theo, và tất yếu nội dung của khái niệm văn hóa cũng phong phú lên.
Hai nữa, người ta có thể nghiên cứu văn hóa từ nhiều góc độ khác nhau, có người thiên về mặt này, có người thiên về mặt kia của văn hóa, do đó họ đưa ra những định nghĩa khác nhau về văn hóa. Thí dụ: nhà ngôn ngữ học thường truy xét từ nguyên, tức là gốc từ La Tinh hay Hy Lạp của từ culture phương Tây, tương đương với thuật ngữ văn hóa của ta và Trung Quốc. Các từ La Tinh Agriculture hay cultus có nghĩa đen vun xới, trồng trọt. Khuếch rộng nghĩa này vào địa hạt tinh thần, tri thức, chúng ta có các từ Amine culturen với nghĩa rèn rũa, giáo dục, đào luyện. Từ đó, có câu thời danh của Cicéron, luật gia La Mã cổ đại: "Triết học là sự rèn luyện tinh thần" (Le philosophie est la culture de l ùesprit).
Cicéron có dùng từ culture trong một trường hợp khác, khi nói tới câu lạc bộ tập trung xung quanh Scipion, ở đấy người ta xem văn hóa (culture) là đồng nghĩa với văn chương và nhân văn học (humanités). Gốc từ La Tinh của từ văn hóa nêu bật các nghĩa vun trồng, rèn luyện, làm tăng lên về chất lượng và số lượng. Phải chăng, từ đó có thể nói văn hóa (culture) bao gồm tất cả những gì tinh thần hay vật chất có thể và phải được vun trồng, rèn rũa, tích lũy (cultivées-choses) để có một sự phát triển về lượng và về chất? Từ culture còn có nghĩa là kính trọng, thờ phụng trong hợp từ Dei culture tức là kính nể, thờ phụng Thượng đế. Điều này dễ hiểu, vì ở một thời cổ xưa, khi lực lượng sản xuất xã hội còn ở trình độ rất thấp, thì tôn giáo thần quyền còn chiếm vị trí chủ đạo đối với các hệ tư tưởng.
II. Gốc các từ văn hóa, văn hiến
Văn là văn chương, văn vần và văn xuôi. Văn còn có nghĩa là đẹp. Hóa là cảm hóa, giáo dưỡng. Văn hóa là rèn rũa, giáo dục, cảm hóa người bằng cái đẹp, để làm con người cũng trở nên đẹp, hoàn thiện. Nhưng cái đẹp, hiểu đến chỗ cứu cánh của nó, cũng đồng thời là cái chân, cái thiện, cho nên văn hóa chính là đem cái đẹp, cái chân, cái thiện để rèn rũa, giáo dục con người, khiến người trở nên hoàn thiện. Nếu định nghĩa văn hóa như vậy, thì khái niệm văn hóa của phương Đông cũng khá gần gũi với khái niệm culture của phương Tây có từ thời cổ đại.
Còn văn hiến là gì? Từ văn hiến thường gặp trong các câu như "Nước Việt Nam có bốn nghìn năm văn hiến". Cuốn tự điển Trung Hoa "Từ Hải" giải: "Văn là sách vở; Hiến là người hiền tài". Có văn hiến như vậy là vừa có thư tịch, sách vở và có người hiền tài để biên soạn và trao truyền những nội dung của sách vở thư tịch đó từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Khái niệm "Văn hiến" lưu ý chúng ta về một đặc điểm của những giá trị văn hóa tinh thần, đòi hỏi phải thông qua lớp người có kiến thức mới trao truyền được từ thế hệ này sang thế hệ khác. Những giá trị văn hóa tinh thần đó không có tính di truyền bản năng, mà phải được tiếp thu bằng giáo dục, bồi dưỡng qua một thời kỳ lâu dài. Và phải có một lớp người chuyên lo công việc giáo dục, bồi dưỡng đó. Ngược lại, những giá trị văn hóa vật chất có thể lưu lại mãi mãi dưới hình thức công cụ, dụng cụ, nhà cửa, những công trình kiến trúc, điêu khắc v.v... Hãy tưởng tượng một tai họa cỡ thế giới khiến cho loài người phút chốc tê liệt hoàn toàn trí nhớ: Toàn bộ kiến thức, kinh nghiệm tích lũy từ hàng chục vạn năm phút chốc quên hết: Con người trở lại thời kỳ dã man, mông muội. Chỉ còn lưu lại được những thiết bị vật chất mà người không còn biết sử dụng hay những hình dạng vật chất của những giá trị tinh thần mà người không còn biết thưởng thức và khai thác. Có lẽ, lúc bấy giờ, chỉ có một vài bộ tộc dã man nguyên thủy nào đó, sống ở các vùng hẻo lánh Australia, hay Phi châu, hay Trung Nam Mỹ mới có thể tiếp tục sinh tồn được.
III. Khái niệm văn hóa thời Phục hưng và ở thế kỷ XVIII
Đến thời kỳ Phục hưng, từ văn hóa thường được dùng đồng nghĩa với các từ văn chương, nghệ thuật. Sau những năm Trung cổ tăm tối, ngu muội, đây là thời kỳ tự do nở rộ của các thiên tài tầm cở khổng lồ, như Leona de Vanxi, Miken Ango, v.v... (Leonard de Vinci, Michel Ange)
Đó là thời kỳ mà lý trí con người được tôn sùng đến cao độ, người có văn hóa là người có lý trí phát triển cao, nhờ đó mà thành tựu được lý tưởng nhân bản. Các học giả nổi tiếng của Kỷ nguyên Ánh sáng như Vôn-te, Conđóc xê, Tuốcgo, v.v... (Voltaire, Condorcet, Turgot…) đều cho rằng lịch sử phát triển văn hóa của loài người đồng thời cũng tức là lịch sử phát triển của lý trí. Một dân tộc có văn hóa khác với những bộ tộc dã man nguyên thủy ở chỗ mọi thiết chế xã hội và chính trị của nó đều thấm nhuần lý trí, biểu hiện lý trí, cũng như trong những thành tựu khác của văn chương, nghệ thuật.
Cứu cánh của văn hóa, cũng như cứu cánh của lý trí là làm cho người được hạnh phúc, giúp con người sống phù hợp với những bản năng và nhu cầu tự nhiên của nó.
Thế nhưng đúng như Mác đã phân tích, CON NGƯỜI (viết bằng chữ hoa) mà các triết gia của thời kỳ Ánh sáng, đã hết lời ca tụng chính là nhà tư sản của chủ nghĩa tư bản đang lên. Tham lam vơ vét, bóc lột người lao động đến xương tủy, thờ phụng đồng tiền ngang thần thánh... đó chính là bản năng tự nhiên của con người tư sản. Ngay trong thời kỳ hưng thịnh của chủ nghĩa tư bản, những tệ lậu của nó đã bộc lộ, sự phân công lao động, sự phát triển của kỹ thuật, công nghệ trong điều kiện của sản xuất tư bản làm cho con người lao động bị tha hóa, rồi thoái hóa.
Các học giả cổ điển trước Mác đã tìm lối thoát bằng con đường đạo đức (Kant), con đường mỹ học (Schiller) hay con đường triết học tư biện (Hegen). Họ xem đây là những lĩnh vực "tự do tinh thần" của con người tách khỏi lĩnh vực tồn tại tự nhiên và xã hội của nó, những lĩnh vực "tinh thần" trong đó con người được sống tự do, và giữ vững được nhân tính. Còn trong các lĩnh vực khác, xã hội, chính trị và kinh tế, v.v... con người bị sức ép dữ dội của những tệ đoan tư bản chủ nghĩa, và có nguy cơ bị thoái hóa nghiêm trọng. Chúng ta không ngạc nghiên khi nghe Rútxô (Rousseau) ca ngợi cuộc sống tự nhiên, gần gũi thiên nhiên, ca ngợi con người "dã man" cao thượng, và đã kích con người "văn minh" độc ác mọi rợ.
Các tư tưởng gia của thời đại Ánh sáng rất quan tâm tới lý trí và tự nhiên. Tự nhiên ở đây nên hiểu là bản chất tự nhiên, bản chất bẩm sinh, từ đó đẻ ra chủ nghĩa tự nhiên (Naturalisme), với phương châm đảm bảo những quyền lợi tự nhiên của con người và của xã hội. Họ hoài nghi sức tưởng tượng và nhiệt tình của con người, mà theo họ, đã gây ra những cuộc chiến tranh tôn giáo dã man. Họ đặt niềm tin vào khoa học, lý trí, sự truyền bá kiến thức. Một tác phẩm điển hình tiêu biểu cho thời kỳ này là cuốn Bách khoa (1751-1765) do Diderot và Jean d'Alembert xuất bản, đã tổng hợp được những kiến thức tiên tiến nhất lúc bấy giờ trong các lĩnh vực chính trị, khoa học, xã hội và giáo dục.
Mẫu hình văn hóa và con người văn hóa của thời kỳ Phục hưng và Ánh sáng, đề cao nhân tính và lý trí, đáng tiếc thay chỉ có thể thực hiện được phần nào trong một thiểu số xã hội, tức là từng lớp trí thức hữu sản và có học; những công việc làm của họ, những tư tưởng bình đẳng, công lý, bác ái của họ cũng dần dần xâm nhập được vào quần chúng, tạo cơ sở cho nhiều cuộc cách mạng tư sản thắng lợi, tiêu biểu nhất là cuộc cách mạng Pháp năm 1789.
IV. Khái niệm văn hóa của các nhà nhân chủng học và nhân loại học ở thế kỷ XIX
Vào khoảng giữa thế kỷ XIX, nhà nhân chủng học nổi tiếng người Anh là R. Tylor cho xuất bản cuốn "Văn hóa nguyên thủy" (Primitive culture), trong đó, ông đề xuất một đường hướng nghiên cứu mới về văn hóa. Cuốn sách đã mô tả chi tiết và tỉ mỉ sinh hoạt vật chất và tinh thần của nhiều bộ tộc người nguyên thủy, và qua đó xác định nền văn hóa của một cộng động người "là một tổng thể bao gồm kiến thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, pháp luật, phong tục, mọi khả năng và tập quán khác mà con người có được, với tư cách là một thành viên xã hội". Khái niệm nhận thức văn hóa như một tổng thể là một sáng tạo của Tylor, nhưng đáng tiếc là ông không giải thích rõ được các bộ phận cấu thành nền văn hóa đã liên kết với nhau như thế nào để trở thành một tổng thể. Sau Tylor, nhiều nhà nhân loại học Đức, Mỹ, Pháp, Anh tiếp tục nghiên cứu sinh hoạt của nhiều bộ tộc và dân tộc khác nhau trên thế giới, thu thập được một số lượng rất lớn dữ kiện, giúp tìm hiểu những điểm cộng đồng và những điểm khác nhau của các nền văn hóa thuộc những thời kỳ lịch sử khác nhau, ở các địa bàn khác nhau trên thế giới. Không những thế, phát triển khái niệm của Tylor văn hóa là một tổng thể, họ đã phát hiện ra những mối liên hệ và tác dụng qua lại giữa các yếu tố cấu thành nền văn hóa, giữa các yếu tố đó với loài người, cũng như giữa con người với thiên nhiên bao quanh. Ưu điểm của họ là bỏ lối tư biện trong phòng giấy, đề cao và thực hiện lối nghiên cứu hiện trường, thu thập tư liệu cụ thể chính xác, từ đó xây dựng những giả thuyết có cơ sở khoa học.
Có học giả phân tích nền văn hóa gồm những bộ phận cấu thành rất chi ly, rồi nghiên cứu sự tác động và ảnh hưởng qua lại giữa các yếu tố cấu thành đó. Để nêu một ví dụ, tôi dẫn chứng bản phân tích sau đây của nhà nhân loại học Mỹ C.Wissler, trong cuốn "Con người và văn hóa" (Man and culture–New York. 1923. Tr. 74).
Theo tác giả, các sự kiện văn hóa của bất cứ một dân tộc nào đều có thể xếp vào 9 mục cơ bản sau đây:
1. Ngôn ngữ: tiếng nói, chữ viết.
2. Của cải vật chất:
a. Tập quán, ăn uống.
b. Nhà ở.
c. Vận tải và du lịch.
d. Quần áo mặc.
e. Công cụ, dụng cụ, thiết bị sản xuất và sinh hoạt.
f. Vũ khí.
g. Kinh doanh, công nghiệp.
3. Nghệ thuật: kiến trúc, điêu khắc, hội họa, âm nhạc...
4. Huyền thoại và kiến thức khoa học:
5. Tôn giáo:
a. Nghi lễ.
b. Tập tục săn sóc người bệnh
c. Tập tục chôn cất, thờ phụng, tưởng niệm người chết.
6. Gia đình và xã hội:
a. Các hình thức cưới xin.
b. Phương pháp nhận họ hàng
c. Thừa tự gia sản
d. Áp lực xã hội (Những phương pháp của xã hội nhằm ngăn chặn những hành vi cá nhân có hại và tán dương những hành vi cá nhân có lợi cho xã hội).
e. Thể thao, giải trí.
7. Quyền sở hữu:
8. Nhà nước, chính phủ:
a. Thể chế chính trị.
b. Thủ tục tố tụng, thủ tục quản lý.
9. Chiến tranh:
(Clark Wisaler–Man and culture, Newyork. Cromwell Go 1923. P. 74)
Một số nhà nhân loại học đã khái quát hóa một số lượng rất lớn dữ kiện và tư liệu về văn hóa các bộ tộc và dân tộc trên thế giới, so sánh đối chiếu chúng lại với nhau, và cố gắng phác họa ra một vài nét chung của quá trình phát triển văn hóa của loài người, từ khi trên trái đất có con người cho đến nay. Đó là các vấn đề hiện nay vẫn còn là những đề tài tranh luận nóng bỏng giữa các nhà khoa học tư sản phương Tây, và các nhà khoa học mác-xít. Thí dụ các vấn đề xuất hiện con người đầu tiên, những đặc trưng văn hóa gì kèm theo sự xuất hiện đó. Lý trí, tư duy trừu tượng lôgíc có phải là đặc trưng bẩm sinh của con người, hay cũng chỉ là một sản phẩm văn hóa, sản phẩm của một tiến trình lâu đài? Văn hóa của loài người đầu tiên có phải sinh từ một trung tâm nào đó, rồi phổ cập ra các nơi khác, hay là trên thế giới vốn đã có nhiều trung tâm văn hóa? Rồi các vấn đề "loại hình văn hóa" (types culturels), bao gồm những nền văn hóa có những nét tương đồng quan trọng cho phép ghép chúng lại cùng trong một loại hình, những "hệ thống văn hóa" (systèmes culturels) tập trung những loại hình văn hóa gần gũi nhau v.v... và đặc biệt là vấn đề giao tiếp văn hóa, khiến cho các nền văn hóa, qua sự giao tiếp trực tiếp và thường xuyên, tiếp thu ảnh hưởng lẫn nhau, thậm chí đi đến chỗ đồng hóa v.v...
V. Khái niệm xã hội học về văn hóa - Những chức năng xã hội của văn hóa
Các nhà xã hội học thường dùng khái niệm "di sản xã hội văn hóa" để nói toàn bộ tài sản vật chất và tinh thần (văn hóa) của thế hệ xã hội trước trao truyền cho thế hệ xã hội sau. Họ dùng từ ngữ đó để nhấn mạnh tính chất xã hội, tập thể của văn hóa, đồng thời cũng khẳng định tính chất truyền thừa kế tục của nó. Thậm chí có người như nhà xã hội học Anh Manilovski dùng từ "di sản xã hội" (héritage social), thay cho từ di sản văn hóa.
Chức năng xã hội cao nhất của di sản văn hóa xã hội đối với thế hệ cộng đồng người thừa hưởng nó, là làm cho họ liên kết với nhau, gắn bó với nhau như một tổng thể thống nhất, một cơ thể sống, đồng thời cũng liên kết với không gian vật chất, trong đó họ đã và đang sống. Những yếu tố văn hóa từ trước tới nay phát huy chức năng liên kết mạnh mẽ nhất là tôn giáo, tín ngưỡng, ngôn ngữ, phong tục tập quán, cộng đồng lịch sử, thiết chế xã hội và chính trị v.v...
Tất nhiên, tùy theo hoàn cảnh lịch sử địa lý của các dân tộc và bộ tộc khác nhau, và cũng tùy các thời kỳ phát triển khác nhau, mà có những yếu tố liên kết này trội hơn, so với các yếu tố khác, tuy rằng toàn bộ di sản xã hội văn hóa cũng có một chức năng liên kết như thế. Thí dụ, ở các bộ tộc và dân tộc mà trình độ phát triển của lực lượng sản xuất còn thấp kém thì yếu tố tôn giáo thường phát huy chức năng liên kết rất mạnh mẽ. Ở những dân tộc trong lịch sử thường bị xâm lăng đô hộ nhiều, thì tinh thần dân tộc quốc gia cũng là một yếu tố liên kết đáng được chú ý. Thí dụ, trường hợp của dân tộc Việt Nam.
Ngoài chức năng Liên kết xã hội là chức năng trung tâm ra, văn hóa còn có những chức năng xã hội gì khác nữa?
1. Chức năng đem lại hạnh phúc và niềm vui:
Một nền văn hóa phát triển đặc biệt là các ngành văn học nghệ thuật, là một nguồn vui rất lớn cho xã hội và những cá nhân được thừa hưởng nền văn hóa đó. Nó gây ra những cảm xúc lành mạnh, cao đẹp. Mác đã từng ca ngợi nghệ thuật như là niềm vui lớn nhất mà con người có thể tự đem lại cho mình.
2. Chức năng nhận thức:
Tất cả các bộ môn văn hóa–đặc biệt là các bộ môn khoa học tự nhiên và xã hội–đều làm chức năng xã hội giúp cho con người nhận thức được toàn diện hơn, sâu sắc hơn, đa dạng hơn thực tại tự nhiên và xã hội. Các ngành nghệ thuật thường đem lại một nhận thức trực cảm và toàn bộ, giúp cho chúng ta không chỉ tiếp cận và trực diện với thực tại, mà có thể nói, đưa chúng ta hòa mình vào thực tại.
3. Chức năng giáo dục đạo đức:
Một người có văn hóa–nếu hiểu đúng nghĩa của từ có văn hóa–đồng thời cũng là một người có đạo đức. Một cuốn sách hay, một phim chiếu bóng tốt, một vở kịch có nội dung tư tưởng sâu sắc và diễn xuất tài tình đều có tác dụng lớn củng cố nền đạo đức xã hội và cá nhân.
4. Chức năng tạo ra sự hài hòa nội tâm:
Con người sống trong một chế độ chính trị-xã hội chưa được hoàn thiện, thường phải đối đầu với bao nhiêu nghịch cảnh, làm mất thăng bằng nội tâm, gây thất vọng và chán nản, thậm chí có trường hợp dẫn tới khủng hoảng tâm thần nghiêm trọng. Nếu đó là những người có cuộc sống văn hóa tinh thần phong phú, thì họ dễ trải qua thử thách, nội tâm vẫn giữ được thăng bằng hài hòa. Khi xảy ra những trường hợp bão táp nội tâm như vậy thì một cuốn sách hay, một vở kịch tốt, v.v... thường phát huy tác dụng như một liều thuốc tâm thần công hiệu...
Tất nhiên, chúng ta không chỉ nói sự hài hòa nội tâm, mà nói tới con người phát triển hài hòa toàn diện, con người mà điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội cho phép phát huy đến cao độ mọi năng khiếu và tiềm lực.
VI. Khái niệm Mác xít về văn hóa
Nói tổng quát lại, vào cuối thế kỷ XIX và ở thế kỷ XX này, thuật ngữ văn hóa được dùng trong các công trình xã hội học, nhân loại học, nhân chủng học, v.v... theo bốn nghĩa sau đây:
1. Một trình độ phát triển nhất định về kiến thức và đạo đức của cá nhân, như nói một người có văn hóa, trình độ văn hóa của một người, nội dung này có liên quan tới mẫu hình con người lý tưởng, con người hoàn thiện, được bàn tới nhiều trong thời cổ đại cũng như trong thời kỳ Phục hưng.
2. Một tình trạng phát triển chung về sản xuất vật chất, tinh thần và đạo đức của một xã hội nhất định. Thí dụ trong các câu thường được các nhà nhân loại học, nhân chủng học phương Tây dùng: nền văn hóa nguyên thủy, nền văn hóa của các bộ tộc và dân tộc...
3. Một nghĩa hẹp hơn, chỉ toàn bộ các ngành văn hóa, nghệ thuật.
4. Lối sống vật chất, tinh thần của một xã hội, của các từng lớp người hay xã hội đó, cho tới lối sống của mỗi cá nhân...
Chủ nghĩa Mác tất nhiên đã thừa kế sáng tạo và phát triển hơn nữa các nội dung nói trên của khái niệm văn hóa, và đề xuất bảy luận điểm sau đây:
1/ Nền văn hóa của loài người bao gồm toàn bộ hoạt động sáng tạo của loài người, trong lĩnh vực vật chất và tinh thần, và thành quả của hoạt động sáng tạo ấy. Nó biểu hiện một dạng thống nhất nhất định giữa con người và thiên nhiên, giữa con người và xã hội. Nó là tiêu chí đặc trưng nhất cho sự phát triển lực lượng và khả năng sáng tạo của những cộng đồng người trong từng thời kỳ lịch sử khác nhau.
2/ Nó bao gồm toàn bộ những thành quả hoạt động sáng tạo của loài người, như công cụ, dụng cụ, máy móc, các công trình kỹ thuật, các tác phẩm văn học nghệ thuật, các chuẩn mức luật pháp và đạo đức...
-Bản thân lực lượng và khả năng chủ quan của con người (trí thức, tập quán, học vấn, sản xuất và nghề nghiệp) trình độ phát triển của kiến thức, mỹ học và đạo đức, thế giới quan và nhân sinh quan, các hình thức giao tiếp xã hội, lối sống v.v...
- Hoạt động sáng tạo nhiều mặt của con người–với tư cách là chủ thể của văn hóa–vận dụng lực lượng và khả năng chủ quan của mình, làm ra tất cả những thành quả nói trên.
Nói tóm lại, hoạt động văn hóa, sản phẩm văn hóa, con người–chủ thể của văn hóa–cả ba yếu tố trên, được hiểu theo nghĩa rộng nhất của chúng chính là bộ phận cấu thành nền văn hóa của loài người nói chung, của các quốc gia dân tộc khác nói riêng.
Vì sao ba yếu tố trên cần được hiểu theo nghĩa rộng nhất? Hãy lấy yếu tố hoạt động văn hóa làm ví dụ. Không nên hiểu hoạt động văn hóa theo nghĩa hạn hẹp của nó là sáng tác văn hóa, văn học và nghệ thuật, dù kể cả hoạt động bảo vệ, truyền bá các giá trị văn hóa–nghệ thuật đi nữa. Chúng tôi còn hiểu nhận thức, thưởng thức các sản phẩm văn hóa, nghệ thuật, kể cả khâu bồi dưỡng, giáo dục nhận thức và sự thưởng thức đó cũng là một dạng hoạt động văn hóa nghệ thuật. Ngoài ra, còn phải kể hoạt động quản lý, chỉ đạo công tác văn hóa nghệ thuật, bao gồm các cơ sở và tổ chức ở Trung ương và địa phương làm công tác quản lý và chỉ đạo công tác văn hóa, kể cả những cơ sở vật chất–kỹ thuật trực tiếp có liên quan (xem Contemporary sociology in Bulgaria).
Nói sản phẩm văn hóa là nói đến toàn bộ những của cải vật chất và tinh thần do con người tạo ra, và được trao truyền không ngừng từ thế hệ này qua thế hệ khác, kể cả phong tục, tập quán, nếp sống.
Do nội dung của khái niệm văn hóa được chủ nghĩa Mác quan niệm rộng rãi như vậy, cho nên có những tác giả Mác xít kiến nghị tổng hợp tất cả các bộ môn khoa học không phải là khoa học tự nhiên, như là tôn giáo, ngôn ngữ, văn học, phong tục, nghệ thuật, luật pháp, tổ chức học, công nghệ học sáng chế, kinh tế học, triết học và khoa học nói chung đều nên xếp tất cả vào mục lớn các ngành khoa học văn hóa (sciences de la culture), chúng cùng nghiên cứu đối tượng tự nhiên thứ hai (Xem tác giả Ba Lan: P. Anamecki- Khoa học về văn hóa. 1972 - Anh văn).
Tán thành quan điểm của Anamecki, một nhà xã hội học Bungari viết: "Lý thuyết về văn hóa phải chăng là một lý thuyết rất bao quát về sáng tác và sáng tạo, thuộc lĩnh vực phi vật chất, một loại siêu lý thuyết (Métathéorie), khả dĩ bao quát toàn bộ cấu trúc thượng tầng xã hội như một tổng thể, và trong hoạt động của nó, liên hệ với mọi hoạt động của xã hội và với môi trường tự nhiên" (Xem Coranốp - Văn hóa nghệ thuật dưới ánh sáng của xã hội học).
3/ Chủ nghĩa Mác phân biệt lĩnh vực văn hóa vật chất và lĩnh vực văn hóa tinh thần, vai trò quyết định của văn hóa vật chất, và mối tương quan biện chứng qua lại giữa hai lĩnh vực đó.
Văn hóa vật chất gồm mọi hoạt động của các ngành sản xuất vật chất và thành quả của những hoạt động ấy (công cụ sản xuất, máy móc, tư liệu sinh hoạt, phương tiện giao thông liên lạc v.v...). Văn hóa tinh thần gồm các hoạt động sáng tác tinh thần, tri thức (tri thức, đạo đức, giáo dục, học vấn, luật pháp, triết học, mỹ học, khoa học, nghệ thuật, văn chương, huyền thoại, tôn giáo).
4/ Chủ nghĩa Mác nói về tính giai cấp của văn hóa. Mỗi hình thái xã hội đều có nền văn hóa thích ứng của nó. Tương ứng với các hình thái xã hội giai cấp đối kháng, là một nền văn hóa đầy mâu thuẫn, phát triển vô chính phủ, trong đó phải đặc biệt lưu ý bộ phận văn hóa mang tính chất tiến bộ của nhân dân, do quần chúng lao động sáng tạo ra. Trước sức đấu tranh của quần chúng lao động bị áp bức và bóc lột, thậm chí trong hàng ngũ của giai cấp thống trị cũng có sự phân hóa. Một bộ phận tách ra, đứng về phía nhân dân, tạo ra những sản phẩm văn hóa có tính chất tiến bộ.
5/ Chủ nghĩa Mác rất trân trọng những di sản văn hóa quý báu của các thế hệ trước để lại, đồng thời tiếp thu mọi thành tựu văn hóa của thế giới, nhân loại. Đó là tính kế thừa và tính quốc tế của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.
6/ Nền văn hóa xã hội chủ nghĩa có tính đại chúng. Toàn dân có điều kiện và cơ hội làm văn hóa, thưởng thức văn hóa, hoạt động văn hóa. Sự tiếp thu văn hóa đó có tính chất hoàn toàn tự giác, không có sự áp đặt từ bất cứ một quyền uy nào.
7/ Nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là một nền văn hóa dồi dào nhân tính, mục đích cứu cánh của nó là phục vụ con người tự do thật sự, phát triển hài hòa và toàn diện, với mọi năng khiếu được nẩy nở và bộc lộ không hạn chế. Đấy là mẫu những con người hoàn thiện mà bao thế hệ trước đây hằng mơ ước, nhưng không có điều kiện xã hội-chính trị-kinh tế để biến thành hiện thực. Những điều kiện này đang dần dần hình thành đầy đủ trong chế độ xã hội mới ở nước ta.
VII. Quán triệt đầy đủ khái niệm Mác xít về văn hóa trong toàn bộ công tác văn hóa và cuộc sống của chúng ta
Đây là vấn đề của mọi vấn đề. Một khái niệm chỉ được xem là đúng đắn, khi thực tiễn cuộc sống đã thử thách nó, kiểm nghiệm nó, chứng minh nó thật sự là có tác dụng, hữu ích; khái niệm văn hóa cũng vậy. Nội dung của khái niệm văn hóa được làm phong phú thêm không ngừng, nhờ có lao động sản xuất vật chất và tinh thần tích lũy, từ khi có loài người đến nay, và được biểu hiện một cách hoàn chỉnh trong định nghĩa Mác xít về văn hóa... Nội dung của khái niệm đó cũng phải được thể hiện sinh động trong toàn bộ công tác (kể cả công tác văn hóa) của chúng ta, cuộc sống của chúng ta, trong mọi lĩnh vực lao động và sinh hoạt vật chất và tinh thần của chúng ta.
Trong ba yếu tố cơ bản cấu thành văn hóa, yếu tố con người, chủ thể của văn hóa phải được đặt lên hàng đầu, tuy rằng hai yếu tố kia, hoạt động văn hóa và sản phẩm văn hóa cũng rất quan trọng, và cả ba yếu tố đó gắn bó với nhau thành một tổng thể thống nhất.
Bởi vì, dưới chế độ xã hội chủ nghĩa của chúng ta, con người là cái vốn quý nhất, con người là lực lượng sản xuất cơ bản tạo ra mọi giá trị văn hóa vật chất và tinh thần, con người tự do, phát triển hài hòa, cũng là mục đích là cứu cánh của toàn bộ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Kỷ nguyên hiện tại không phải là kỷ nguyên của nguyên tửû năng, của điện tử học hay là của không gian vũ trụ, mà là kỷ nguyên của con người. Và chế độ xã hội nào phục vụ con người tốt nhất, làm cho con người được hạnh phúc nhất, tự do nhất thì chế độ đó sẽ thắng.
Viện sĩ Liên Xô Soukhomlinski nói: "Kỷ nguyên của toán học, kỷ nguyên của điện tử học, của không gian vũ trụ. Không một định nghĩa nào trên đây phản ảnh được thực chất của những gì đang diễn ra trong thời đại chúng ta. Thế giới đang tiến vào kỷ nguyên của con người. Đó là điều cơ bản". (Vấn đề giáo dục - Soukhomlinski–Nga văn. Métxcơva, 1973, tr. 212).
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác luôn luôn nhắc nhở chúng ta về mục tiêu tối hậu, cứu cánh đó của toàn bộ cuộc cách mạng xã hội, toàn bộ sự nghiệp xây dựng xã hội mới, xã hội cộng sản chủ nghĩa. Tách rời mục tiêu tối hậu và cứu cánh đó, thì toàn bộ công tác cách mạng của chúng ta trong đó có công tác văn hóa sẽ mất phương hướng.
Mác và Angen nói tới chủ nghĩa cộng sản "như là xã hội tạo ra sự thúc đẩy mạnh mẽ nhất cho năng lực sản xuất của lao động xã hội và cho sự phát triển toàn diện của mọi cá nhân sản xuất" (MC gạch dưới) (Mác-Angen. Thư từ, Mátxcơva, tr 324)
Ở một đoạn văn khác, họ còn nói rõ hơn nữa:
"Chủ nghĩa cộng sản là xã hội trong đó lần đầu tiên thực hiện nguyên lý sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả. Là xã hội trong đó, con người từ điều kiện sinh sống như cầm thú chuyển sang những điều kiện sinh sống thật sự như con người. Một xã hội như vậy xem sự phát triển tính phong phú của nhân tính như là một mục đích của tự nó" (Mác-Angen. Tác phẩm chọn lọc–Pháp văn, cuốn 1, tr. 131).
Mác chờ đợi ở phương thức sản xuất mới (phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa) một sự làm giàu mới về nhân tính (un enrichissemenht nouveau de l'essence humaine–Bút thảo 1844, tr. 100). Mác luôn luôn than phiền về sự kiện con người bị nghèo đi trong xã hội tư bản, nghèo trong nhân tính, tuy là giàu tiền bạc hơn". Con người như Mác nói, biến thành một đống tiền bạc (Đồng cuốn trên, tr. 100).
Mác không những nói sự phong phú về nhân tính mà còn nói tới sự phong phú về tri thức nữa, dưới chế độ xã hội mới, "sẽ xóa bỏ những giới hạn chật hẹp quốc gia và địa phương, khiến cho cá nhân không tiếp xúc được với sản xuất của toàn thế giới (kể cả sản xuất trí thức), không có được khả năng hưởng thụ thành quả sản xuất của toàn thế giới trên khắp mọi lĩnh vực sáng tạo của con người" (Hệ tư tưởng Đức–Bản tiếng Pháp, tr. 19).
Tuy Mác và Angen không ngớt nhấn mạnh tầm quan trọng quyết định của sản xuất của cải vật chất, của kinh tế. Thế nhưng sự phát triển của sản xuất của cải vật chất vẫn không phải là cứu cánh, không phải là mục tiêu tối hậu. Nếu trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của chúng ta, mà một chiều quan tâm, phóng đại mặt sản xuất của cải vật chất, đến nỗi xao lãng mục tiêu tối hậu là hạnh phúc con người–một con người tự do, giàu tri thức và nhân tính, thì đó là một sai lầm rất lớn. Hiện nay, ở các nước xã hội chủ nghĩa bạn, đã có hiện tượng đáng lo lắng đời sống vật chất nâng cao làm cho con người bị thoái hóa. Tác giả Liên Xô Maserốp viết:
"Nếu không tạo ra được nhu cầu về một cuộc sống tinh thần cao đẹp và nếu cuộc sống và lao động không được chói sáng bởi những lý tưởng cao quý thì có thể xảy ra khả năng một số người tự đóng khung mình trong thế giới hạn hẹp những vấn đề và lo lắng ích kỷ, trong khi mức sống vật chất thì tăng lên không ngừng. Tiện nghi vật chất, có thể chuyển ngược lại, từ cơ sở của sự phát triển tinh thần, trở thành một lực lượng bóp méo bản cách con người, khiến con người tách rời những chân giá trị của cuộc sống".
Hãy nói những ai, những ngành nào đem lại cho thanh niên nhu cầu của cuộc sống tinh thần cao cả, những lý tưởng cao quý làm chói sáng cuộc sống và lao động của họ, những ai, những ngành nào duy trì, bảo vệ bản cách con người, không để cho con người tách khỏi những chân giá trị của cuộc sống.
Trả lời: Đó là những người làm công tác văn hóa, đó là các ngành văn hóa.
Con người không những là cứu cánh, là mục tiêu tối hậu của sự nghiệp xây dựng xã hội mới mà con người cũng là phương tiện chủ yếu, chất liệu chủ yếu để xây dựng xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa. Vì người là lực lượng sản xuất cơ bản, tạo ra mọi giá trị vật chất và tinh thần. Ngay sau khi Cách mạng tháng 10 vừa thành công, có người hỏi Lênin về nhiệm vụ quan trọng nhất phải làm là gì, thì Lênin đã trả lời sau khi suy nghĩ: "Nhiệm vụ đào tạo, giáo dục con người mới", Hồ Chủ Tịch cũng nói: "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, phải có con người xã hội chủ nghĩa". Tư tưởng đó của Lênin, lời nói đó của Hồ Chủ Tịch, chúng ta càng cảm thấy thấm thía trong hoàn cảnh khó khăn kinh tế hiện nay của đất nước, đặc biệt là sau ngày miền Nam được giải phóng, khi nọc độc của chủ nghĩa thực dân mới tiêm nhiễm vào một số cán bộ ta, một số tầng lớp nhân dân ta.
Thật vậy, nếu không có con người biết sử dụng và quản lý nó, thì những máy móc trang thiết bị tối tân nhất cũng là đống sắt vụn mà thôi. Một cửa hàng gọi là Mậu dịch quốc doanh, nhưng nếu không có những người "xã hội chủ nghĩa" quản lý nó, thì quốc doanh sẽ biến thành tư doanh, cửa hàng sẽ có cửa mà không có hàng, một số lớn hàng sẽ tuôn ra vỉa hè hết. Một xí nghiệp sản xuất lớn, xã hội chủ nghĩa, nếu thiếu những người xã hội chủ nghĩa để quản lý và điều hành nó, thì sẽ thế nào. Xí nghiệp đó sẽ làm ăn thua lỗ hàng năm, năm này qua năm khác, nhưng xí nghiệp đó vẫn tồn tại đàng hoàng, nhờ vào ngân sách bù lỗ của Nhà nước. Một xí nghiệp như vậy, dù đeo ở ngoài cái biển gì đi nữa, thực chất sẽ không còn là xí nghiệp lớn hay nhỏ nữa, xã hội chủ nghĩa hay là tư bản nữa, mà đã trở thành phi sản xuất, và toàn thể công nhân viên, từ giám đốc trở xuống trở thành kẻ ăn bám: Hưởng thụ mà không cống hiến, mặt này hay mặt khác, dù là tên anh có hay không trong danh sách lương, cũng đều là ăn bám cả. Ở đây, không có vấn đề ơn huệ gì của Đảng và Nhà nước cả. Khi anh còn nhỏ, hay còn đang đi học, thì xã hội nuôi cho anh ăn học, sau này, anh trưởng thành vào đời, vào nghề, anh có thể cống hiến với hiệu suất cao, cao hơn gấp bội nếu so với người không được đi học. Và trong suốt cuộc đời cống hiện của anh, cho đến 60 tuổi anh về hưu, anh thực tế đã trả lại cho xã hội nhiều hơn anh đã hưởng thụ, kể từ khi anh mới lọt lòng, và xã hội lại còn khấu đi một phần giá trị cống hiến của anh để nuôi sống anh sau khi anh đã già, mất sức lao động. Nói tóm lại, khi anh còn nhỏ, chưa lao động được, thì xã hội cho anh vay, để rồi khi anh lao động được, thì anh sẽ cống hiến nhiều cho xã hội. Lúc này, xã hội lại vay trước của anh, và xã hội sẽ trả lại cho anh, sau khi anh về hưu. Có vay, có trả, có đi có lại, giữa xã hội và chúng ta rất sòng phẳng, chứ ở đây không có vấn đề ơn huệ gì. Nếu anh không sòng phẳng, tức là anh ăn bám, ăn cắp phần mà đáng lẽ một người khác được hưởng. Con người xã hội chủ nghĩa phải hiểu sâu sắc cái đạo lý có đi có lại, có vay có trả đó giữa cá nhân và xã hội, để trong sinh hoạt, biết hạn chế sự hưởng thụ của mình, trong cống hiến, biết làm hết sức mình.
Thái độ hưởng thụ, và lao động đúng, đó chính là ABC của đạo đức xã hội chủ nghĩa, là đặc trưng thứ nhất, hàng đầu của con người xã hội chủ nghĩa. Đó cũng chính là nội dung của phương châm: "Mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người".
Công cuộc xây dựng nền văn hóa mới, con người mới bắt đầu từ đâu? Trả lời: Bắt đầu từ bản thân chúng ta, từ trong cuộc sống hằng ngày, từ trong gia đình, trường học, cơ quan, xí nghiệp, công trường, đường phố, từ trong mối quan hệ trực tiếp hằng ngày thường xuyên giữa cha mẹ, con cái, anh chị em, bạn bè đồng chí, thủ trưởng, nhân viên, người đi đường, người láng giềng v.v... hãy bớt nói (chứ không phải không nói) những quan hệ giai cấp và nhân loại, quốc tế hãy sống và lao động một cách xứng đáng trong từng giờ phút cụ thể của cuộc sống và lao động hằng ngày của chúng ta. Trong mọi nơi, mọi lúc giao tiếp xã hội, hãy "đầu tư" thêm một ít chất xã hội chủ nghĩa vào bầu không khí, vào môi trường xã hội trực tiếp bao quanh chúng ta, khiến cho nó trong sáng hơn, lành mạnh hơn, làm như vậy, tức là thiết thực xây dựng nền văn hóa mới, con người mới. Chỉ khi sống được như thế, lao động và cống hiến được như thế, thì mọi lời nói, mỗi câu phê phán của chúng ta mới có sức nặng, sức thuyết phục, mới dễ tiếp thu. Về đạo đức xã hội chủ nghĩa, Bác Hồ thường chỉ nói tám chữ: "Cần, kiệm, liêm, chính, chí, công, vô, tư", nhưng ở đằng sau mỗi chữ là cả một cuộc đời cần kiệm, liêm chính, chí công, vô tư của Bác. Sau mỗi lời dạy đạo đức của Bác, có sức nặng của cả một cuộc đời đạo đức cách mạng, trong sáng như pha lê.