Văn hoá học là một chuyên ngành của nhân học, trong đó xử lý văn hoá (các thiết chế, các công nghệ, các hệ tư tưởng) với tính cách một lớp riêng biệt các hiện tượng được tổ chức theo các nguyên tắc riêng biệt và ứng xử theo các quy luật riêng biệt của nó. Quá trình văn hoá được xem như một quá trình tự thân - hàm chứa và tự thân - quy định. Những biến chuyển trong văn hoá được diễn giải bằng các nội dung văn hoá hơn là các nội dung sinh vật hoặc tâm lý. Đương nhiên từ lâu văn hoá vẫn trông chờ sự phát triển của một khái niệm có giá trị xác thực khoa học cho “ văn hoá”. Các dân tộc tiền - văn tự cũng từng lưu ý đến những khác biệt về phong tục, tiếng nói và tín ngưỡng giữa họ với nhau. Tuy thế, ngay đến một dân tộc uyên bác như người Hy lạp thời đại nhà hiền triết Aristote cũng chưa hề có một từ nào tương đương với thuật ngữ “culture” (văn hoá) của chúng ta ngày nay. Thuật ngữ này được vay mượn từ các sử gia văn hoá người Đức, bởi E.B Tylor, một tác giả lỗi lạc đi tiên phong trong ngành nhân học Anh. Tylor đã định nghĩa văn hoá là “một tổng thể phức hợp bao gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, pháp luật, phong tục và bất cứ năng lực và tập quán nào được lĩnh hội bởi con người với tư cách là thành viên của xã hội”[1]. E.B.Tylor đã làm sáng tỏ rằng văn hoá là sở hữu độc chiếm của loài người.
Quá trình tượng trưng. Từ thời gian Tylor trở về sau, những định nghĩa về văn hóa được đề xuất rất nhiều và đa dạng, nhưng phát biểu của Tylor về thực chất vẫn là định nghĩa chủ đạo hiện thời. Văn hoá là tên gọi những đặc điểm hành vi ứng xử khiến con người phân biệt với các giống loài khác: Phát âm tiếng nói, các thiết chế, quy chuẩn về đạo đức và nghi lễ, nghi thức; hệ tư tưởng; quá trình chế tác công cụ một cách liên tục tích lũy và tiến triển;v.v. Đặc sắc mà chỉ con người mới có được. Là khả năng để tượng trưng bằng ký hiệu, tức là có thể tự do và tuỳ tiện gán các ý nghĩa cho các sự vật và hiện tượng, khách thể và hành động. Phát âm tiếng nói là hình thức đặc trưng và trọng yếu hơn hết của việc tượng trưng. Mọi nền văn hoá đều được tạo dựng và lưu truyền nhờ phép tượng trưng nói chung và nói riêng là nhờ phát âm tiếng nói.
Song các sự vật và hiện tượng, tuỳ thuộc vào việc tượng trưng ấy (gọi là các sự vật được tượng trưng: symbolate), đều có thể được xem xét theo hai bối cảnh khác nhau và trên thực tế đây là những cách xem xét thông dụng. Trên bối cảnh hình thể (somatic), ý nghĩa của chúng nằm ở mối quan hệ giữa chúng với cơ thể con người, và do đó cấu tạo nên hành vi ứng xử (behavior). Trong bối cạnh ngoại - hình thể (extrasomatic), các vật được tượng trưng đều mang ý nghĩa, không phải qua mối quan hệ với cơ thể con người đã tạo nên chúng, mà qua mối quan hệ với những vật được tượng trưng khác. Trong bối cảnh này, chúng thuộc về văn hoá. Thành thử, mối quan hệ né tránh đối với mẹ chồng hay mẹ vợ cần được coi là hành vi ứng xử khi xem xét về quan niệm, hành động và thái độ của cơ thể con người; nhưng phải coi như văn hoá khi xem xét trong mối quan hệ giữa nó với những phong tục khác, chẳng hạn như những hình thức hôn nhân, nơi ở của các cặp vợ chồng mới cưới, vai trò của tình dục trong sinh tồn, tấn công và phòng vệ, v.v. Vì lẽ đó, văn hoá là một lớp sự vật và hiện tượng tuỳ thuộc vào việc tượng trưng hoá xem xét trong bối cảnh ngoại - hình thể.
Trước khi chuyên ngành văn hoá học nảy sinh trong sự phát triển nhãn quan khoa học[2], thì các ý kiến diễn giải tự nhiên chủ nghĩa, (tức là đứng ngoài quan điểm của thần thoại, thần học) về hành vi ứng xử của các dân tộc đều mang tính chất sinh học, tâm lý học hay xã hội học. Bởi vậy, sở dĩ con người ứng xử như họ đã làm chính là do kiểu hình vật thể của họ, hay do cách thức nghĩ ngợi trong tâm trí họ, hay do hậu quả của những quá trình nào đó của mối tác động xã hội qua lại. Trong tất cả những ý kiến giải thích ấy, con người, dù với tính cách cá nhân hay tập thể, đều là biến lượng độc lập, còn phong tục, thiết chế, tín ngưỡng v.v… của con người là biến lượng phụ thuộc. Thành thử, người là nhân mà văn hoá là quả.
Cách giải thích của văn hoá học. Cuộc cách mạng về văn hoá học lật đổ cách lý giải trên kia. Môn văn hoá học khẳng định rằng sở dĩ con người ứng xử như họ đã vẫn làm chính là bởi họ đã sinh trưởng và được hậu thuẫn trong những truyền thống văn hoá riêng biệt. Hành vi ứng xử của một con người không chỉ được quy định bởi kiểu loại vật thể hay cấu trúc di truyền của bản thân, cũng không phải bởi tư tưởng, ước muốn, hy vọng và lo ngại, cũng không phải bởi các quá trình của mối quan hệ xã hội qua lại, mà chính là bởi truyền thống văn hoá ngoại tại và ngoại - hình thái của con người ấy. Dân cư sinh trưởng ở truyền thống ngôn ngữ Tây Tạng, quyết sẽ nói tiếng Tạng, đâu có nói tiếng Anh. Một dân tộc theo chế độ một vợ một chồng, hay một vợ nhiều chồng, ghét uống sữa, né tránh mẹ vợ, mẹ chồng, hay sử dụng bảng cửu chương chính là bởi lẽ con người ở đó bắt buộc phản ứng với những truyền thống đó. Hành vi ứng xử của một dân tộc quả thực là một hàm số văn hoá của dân tộc ấy.
Nếu hành vi ứng xử của một dân tộc bị quy định bởi văn hoá của dân tộc ấy thì văn hoá bị quyết định bởi cái gì đây? Câu trả lời là tự bản thân văn hoá quyết định nó. Văn hoá có thể xem như quá trình sui generis, nghĩa là quá trình đặc thù tự sinh. Đây là quá trình tại đó, các đặc điểm của văn hoá tác động qua lại lẫn nhau hình thành nên những hoán vị mới, tổ hợp mới và tổng hợp mới. Một đặc sắc hoặc một tổ hợp nhiều đặc sắc là kết quả của những đặc sắc tiền lệ và đồng hành, mà cũng là nguyên nhân của những đặc sắc hay tổ hợp đặc sắc tiếp sau đó. Một dạng thức ngôn ngữ, văn tự, tổ chức xã hội, công nghệ hay của cả một nền văn hoá toàn cục, đều tăng trưởng từ giai đoạn trước đó hoặc vươn lên từ một hoàn cảnh trước đó.
Mọi hệ thống văn hoá xã hội đượng nhiên chịu sự chi phối của môi trường mặt đất bầu trời của hệ thống ấy. Khí hậu địa hình thảm thực vật, quần thể sinh vật và tài nguyên khoáng sản có thể, hoặc thật sự, đã tác động ảnh hưởng lên các hệ thống văn hoá. Tuy nhiên, các môi trường chỉ đơn giản là tạo thuận lợi hay cản trở sự tồn tại của một số thành phần hay đặc điểm của văn hoá chứ không thể quy định chúng. Ảnh hưởng của các yếu tố môi trường được biểu hiện chỉ ở, và thông qua, các phương tiện văn hoá: do vậy chúng có thể được nghiên cứu về mặt văn hoá học. Một vài yếu tố hiện diện trong môi trường như sắt và dầu mỏ chẳng hạn, không gia nhập quá trình văn hoá trừ ở một số giai đoạn phát triển. Sau hết, khi nghiên cứu các nền văn hoá nói chung các văn hoá với tính cách là toàn cục, thì yếu tố môi trường có thể coi như một hằng số. Cho nên xem như bỏ qua được khi giải thích quá trình văn hoá.
Mặc dầu văn hóa học xem xét quá trình văn hóa mà không cần lưu ý đến các quá trình sinh vật và tâm lý của nhân thân con người, song nhà nghiên cứu văn hoá học vẫn thừa nhận mối quan hệ tất yếu và chặt chẽ giữa văn hoá nói chung với con người nói chung. Xét về phương diện sinh thành, văn hoá là những gì khiến cho người là một giống loài động vật như nó đang tồn tại. Nếu người ta, một con người – sinh vật, mà khác đi thì ắt là nền văn hoá của con người cũng phải khác. Ví thử con người không có thị giác quang phổ và đa sắc thì nền văn hoá của con người hẳn là phải khác đi. Nếu con người chỉ sinh tồn bằng thịt hay ngũ cốc, nền văn hoá hẳn đã khác đi. Giả dụ con người có một mùa động dục (rutting season) hay sinh nở từng lứa nhiều con chứ không phải chỉ đẻ ra một cá thể mỗi lượt mang thai, thì văn hoá cũng khác đi. Vậy là văn hoá được đưa vào hiện thực tồn tại bởi nòi giống con nguời, và văn hoá phải vận hành để phục vụ nhu cầu của loài người. Thành thử, mỗi khi tìm hiểu vấn đề cội nguồn và chức năng của văn hoá ta cũng phải xem xét cả con người sinh vật nữa. Song đến khi văn hoá đã đi vào thực thể tồn tại rồi thì các biến thiên diễn ra tiếp theo, như thay đổi, tăng trưởng, thêm bớt đều được lý giải mà không phải đưa vào quy chiếu của con người động vật, bất kể cá thể hay tập thể. Chúng ta bất tất phải liên hệ đến con người khi chúng ta nghiên cứu những vấn đề như bước tiến triển của ngành toán học hay tiền tệ, các quá trình văn hoá - xã hội của hội nhập và tan rã, mối quan hệ giữa các hệ thống xã hội với các hệ thống công nghệ, tình hình phổ cập và phân bố của kết cấu vòm có phiến đá khoá đỉnh (the keystone arch) v.v. Những quá trình văn hoá như thế chắc chắc không thể xuất hiện nếu không có con người. Song chính nền văn hoá của con người chứ không phải các thứ bản tính bẩm sinh của con người, đã khiến có hành vi ứng xử như đã thật sự làm. Con người vốn là tất yếu đối với sự tồn tại và vận hành của quá trình văn hoá, song không nhất thiết phải nhắc đến khi giải thích các biến thiên của văn hoá.
Không thể hiểu được một nguyên tử nếu chỉ đơn thuần tìm hiểu các bộ phận cấu thành nó. Nguyên tử là một hệ thống cần được tìm hiểu bằng chính bản thân nguyên tử. Không thể khám phá các tính chất của đường ở các thành phần cấu tạo của nó là cacbon, hydro và oxy vì phân tử vận hành với tính cách một hệ phân tử. Một tế bào sống không thể tìm hiểu qua các phân tử cấu thành của nó và một cơ thể sinh vật cũng không thể tìm hiểu qua các tế bào của cơ thể. Các cơ thể cá thể không thể làm phát hiện được các tính chất xã hội. Mọi loại hình hệ thống đều tồn tại bằng cấu trúc và chức năng riêng của nó, theo các nguyên tắc và quy luật riêng của nó. Trong loài người, các xã hội mà tính chất văn hoá, đó là các hệ thống văn hoá xã hội. Giống như các loại hình hệ thống khác, xã hội loài người cần được tìm hiểu bằng đặc tính riêng biệt của nó.
Các hệ thống ngôn ngữ được tìm hiểu bằng từ vựng, ngữ pháp, cú pháp, ngữ âm, .v.v. Tất nhiên các ngôn ngữ không tồn tại ngoại thực thể con người. Thế nhưng, khoa học ngôn ngữ vẫn xử lý các vấn đề tựa hồ như loài người không tồn tại, vì nó xem xét nền văn hoá với tính cách một toàn cục. Sự phát triển của văn hoá có thể nghiên cứu như một trình tự nhân quả giữa các hiện tượng văn hoá. Ảnh hưởng của công nghệ đối với các hệ thống xã hội, mối quan hệ qua lại giữa công nghệ, hệ thống xã hội và hệ tư tưởng có thể xác định và đo lường mà không cần dựa vào con người là các chủ thể chuyển tải các hệ thống ấy. Những vấn đề như sự tiến triển của ngành toán học hay của các quá trình tổ thành bộ lạc, các quá trình hội nhập và tan rã của các hệ thống xã hội hoặc các cơ chế điều tiết và kiểm soát hữu quan có thể được tìm hiểu và giải quyết mà không cần xem xét tới cơ thể con người trong bản thân chúng. Chúng ta sẽ không thể có nhạc giao hưởng, việc xét xử tại toà án hoặc 10 điều giáo luật nếu không có hiện tượng hô hấp và chuyển hoá. Song dựa vào những quá trình sinh học như vậy, chí ít cũng không thể giúp chúng ta thấu triệt được những hiện tượng văn hoá như trên.
Hiện tượng văn hoá, cũng tưong tự như những hiện tượng sinh học và vật lý học, có thể được xử lý một cách khoa học xuất phát từ 4 quan điểm. Cách nhìn nhận của chúng ta có thể là căn cứ hay không căn cứ vào yếu tố thời gian, tổng quát hay chuyên biệt hoá. Nếu ta tổ hợp hai mặt lưỡng phân ấy, chúng ta sẽ có một phép phân loại gồm 4 khía cạnh đối với công việc lý giải khoa học hay xử lý khoa học đối với hiện tượng văn hoá cũng như bất cứ loại hình hiện tượng tự nhiên nào khác. Phép phân loại này trình bày ở bảng 1.
Bảng 1
|
Thời gian |
Phi thời gian |
Chuyên biệt hoá |
Lịch sử |
Dân tộc học miêu tả |
Tổng quát hoá |
Tiến hoá |
Chức năng - cấu trúc |
Khi nghiên cứu các sự vật và hiện tượng văn hoá xuất phát từ quan điểm thời gian - chuyên biệt hoá, ta sẽ dẫn tới môn lịch sử văn hoá. Phép tiếp cận thời gian – tổng quát hoá, đưa đến cách lý giải theo quan điểm tiến hoá luận. Cách lý giải phi thời gian – tổng quát hoá, đề cập tới cấu trúc và chức năng của các hệ thống văn hoá xã hội và cách xử lý phi thời gian – chuyên biệt hoá là môn dân tộc học miêu tả. Thành thử, hết thảy mọi trường phái của lý luận dân tộc học đều có thể xếp vào phép phân loại trên đây về loại hình lý giải: phép miêu tả dân tộc học đơn thuần; các trường phái sử học Graebner, Elliot, Boas; các trường phái tiến hoá của Tylor, Morgan và các tác giả khác; các trường phái chức năng của Malinowski và Radcliffe Brown và các tác giả kế tục họ, các nhà cấu trúc luận của môn nhân học xã hội Anh hiện đại. Bởi vậy, có thể nói môn văn hoá học vận dụng 4 đường lối xử lý trên đây đối với các hiện tượng văn hoá.
Quan điểm nghiên cứu của văn hoá học đã từng vấp nhiều thái độ phản ứng từ nhiều phía. Nhiều học giả nhấn mạnh rằng chính nhân dân mới tiếp cận nhau, tác động qua lại với nhau, chứ đâu phải là các nền văn hoá. Nhà văn hoá học bị lên án là đã “tái tạo” văn hoá trong một thực thể thần bí tồn tại cách biệt với xã hội.
Thật ra, việc khảo sát văn hoá, tức là ngôn ngữ, thiết chế, hệ tư tưởng và các hệ thống công nghệ coi như các lớp hiện tượng riêng rẽ, được giải thích bằng chính bản thân chúng quyết không phải tái tạo chúng dưới dạng sai biệt. Đó là những sự vật và những sự kiện thực tại, có thể quan sát thấy ở ngoại giới, y như đối với nguyên tử, tế bào và các ngôi sao.
Cội nguồn và sự phát triển của những đặc điểm văn hoá, chẳng hạn như việc giải quyết tranh chấp kiện tụng với các hội đồng xét xử, chính quyền hợp hiến, lý thuyết tương đối v.v. đều không thể xem xét theo khía cạnh tâm lý, mà chỉ có thể diễn giải bằng một quá trình văn hoá luôn tiến triển. Thêm nữa, quả thật nhân dân là tất yếu cần thiết cho sự tồn tại của các sự kiện văn hoá, song lại không cần cho việc cắt nghĩa nguồn gốc và biến chuyển của các sự kiện đó.
Các giải thích tâm lý xã hội: Émile Durkheim đã đặt tương phản các phép lý giải tâm lý học và văn hoá học đối với hành vi ứng xử của con người và thiết chế. Ông nói rằng khi người ta “nhìn vào tổ chức gia đình để nhận ra biểu hiện tất yếu một cách logic của tình cảm con người gắn chặt trong tâm trí mọi người, thì trật tự thật của sự việc đảo ngược. Trái lại thế, chính tổ chức xã hội của mối quan hệ huyết thống đã quy định những tình cảm tương ứng giữa cha mẹ với con cái”[3]. Cứ bao giờ “một hiện tượng xã hội được trực tiếp cắt nghĩa bằng một hiện tượng tâm lý thì chúng ta có thể chắc chắn đó là cách giải thích sai”[4]. Chúng ta có thể đem “hiện tượng văn hoá để giải thích một cách thoả đáng cho hiện tượng xã hội” trong câu trích dẫn trên đây. Thành kiến kỳ thị chủng tộc, chiến tranh, chủ nghĩa tư bản… không thể đem cắt nghĩa là “biểu hiện tất yếu một cách logic của những quan niệm và tình cảm gắn chặt trong tâm trí con người”. Ngược lại, chính cấu trúc và hành vi ứng xử của quá trình văn hoá ngoại hình – hình thể đã xác lập các tư tưởng và tình cảm chủng tộc, hôn nhân và tư bản chủ nghĩa trong tâm trí cá nhân.
Nhà xã hội học có xu hướng nhìn nhận văn hoá như là sản phẩm của tác động xã hội qua lại. Một loại tác động tạo nên chế độ một chồng nhiều vợ, một loại khác tạo nên chế độ một vợ nhiều chồng, một loại sản sinh chế độ tư bản, một loại khác sản sinh chủ nghĩa cộng sản. Thế nhưng, nếu chỉ riêng một mình tác động qua lại trong xã hội cũng đủ để tạo dựng văn hoá thì có lẽ ta sẽ tìm thấy văn hoá ngay trong bầy khỉ “baboon”. Các thiết chế đa thê và đa phu không thể giải thích được là hệ quả của tương tác giữa cá nhân. Nhưng tác động qua lại giữa một nam (chồng) với nhiều nữ (vợ), hoặc một nữ (vợ) với nhiều nam (chồng) lại có thể coi như hệ quả của ảnh hưởng của những cấu trúc văn hoá ngoại tại và ngoại – hình thể đối với họ. Và những thiết chế này, xét theo nguồn gốc và những biến động của chúng cần được cắt nghĩa nhờ các yêu tố văn hoá khác, chẳng hạn những đòi hỏi của phân công lao động theo giới tính, tập quán cư trú, những bất trắc về công việc làm ăn và tỷ suất tử vong của hai giới, của cải và thế lực v.v.
Đây chính là, và có thể là, cuộc xung đột không thể biện minh được giữa tâm lý học với văn hoá học: những bộ môn khoa học này cần bổ sung cho nhau hơn là xung đột nhau. Cả hai đều tối cần thiết đối với việc thấu triệt đầy đủ về bất cứ sự vật gì mà con người đã làm với tư cách một thực thể nhân tính. Ví như nguồn gốc của các thiết chế cần được giải thích bằng văn hoá học, thì những kinh nghiệm thực tế mà con người đã kinh qua trong các thiết chế ấy lại đúng là điều phải quan tâm của tâm lý học. Vậy thì bởi đâu mà có những quan niệm và thái độ khiến cho các cá nhân trực tiếp liên quan đến những tục lệ cấm kỵ đối với mẹ vợ, mẹ chồng, những cá nhân này có thể là nam, vợ anh ta hay bà mẹ vợ của anh ta? Phải chăng họ tiêm nhiễm quan niệm siêu nhiên, hay phải chăng họ đều mang bản tính tự nhiên chủ nghĩa? Đó có phải là thái độ tôn kính, sợ sệt, ngưỡng mộ hay không? Thân phận của người vợ trong một hộ gia đình đa thê là như thế nào? Và người chồng trong gia đình đa phu thế nào? Tất cả những câu hỏi ấy dành cho nhà tâm lý học hơn là cho nhà văn hoá học.
Quan điểm “loài người là trung tâm”. Sự chống đối môn văn hoá học xuất phát chủ yếu từ một thứ triết lý rất lâu đời và rất sâu nặng của quan điểm nhân hình chủ nghĩa (anthropomorphism) và coi loài người là trung tâm (anthropocentrism). Từ xưa, loài người vẫn được đánh giá là động lực khởi thuỷ, là nguyên nhân đầu tiên và thường được gán cho năng lực ý chí tự do. Học giả Sapir đã phát biểu về quan niệm đó như sau: “Chính là cá nhân đã luôn luôn thực sự tư duy, hành động, ước mơ và nổi loạn”. Cũng còn nhiều ý kiến khác nhấn mạnh rằng, văn hoá bắt nguồn từ hành vi sáng tạo của những cá nhân hoặc rằng, chỉ cá nhân mới là hiện thực.
Quan điểm coi loài người là trung tâm đã dựa vào một sự thật là hành vi ứng xử của mọi giống loài không phải loài người đều hết thảy tùy thuộc vào cấu tạo thể chất sinh học tương ứng của chúng. Nguyên lý sinh học vận dụng vào loài ngan vịt, cá mập, hoa hướng dương và mọi giống loài không phải là loài người. Nhưng nguyên lý ấy lại không vận dụng cho các sinh thể người sống trong môi trường tượng trưng bằng ký hiệu và đối ứng với nhiều loại hình khác nhau của truyền thống ngoại – hình thể.
Quan điểm coi loài người là trung tâm cũng đặt cơ sở vào một sự thật là với tính cách cơ thể sinh học, con người là một hệ động lực. Con người phản ứng tích cực với “ngôi nhà ở trái đất” và nền văn hoá bao quanh mình. Tuy nhiên, đối với văn hoá thì con người cũng chỉ đối ứng được trong phạm vi ranh giới xác định bởi nền văn hoá của mình. Mặc dầu là một hệ nhiệt động lực về vật lý và sinh học, con người là, và sẽ vẫn là, một thứ búp bê của văn hoá.
Lớp Cao học Văn hoá học 2006 nhập liệu
--------------------------------------
[1] Tylor, Edward B. (1871 xuất bản lần đầu) 1958 Primitive culture: Reseaches into the Development of Mythology, Philosophy, Religion, Art and Custom [Văn hoá nguyên thủy: nghiên cứu sự phát triển của thần thoại, triết học, tôn giáo, nghệ thuật và phong tục]. 2 vols, Gloucester Mass: Peter Smith – Vol. 1: Origins of Culture [Nguồn gốc văn hoá], vol. 2: Relegion in Primitive culture [Tôn giáo trong văn hoá nguyện thuỷ] Vol. 1, p. 1.
[2] White, Leslie A. The Science of Culture: A Study of Man and Civilization [Khoa học về văn hoá : Nghiên cứu về con người và nền văn minh]. New York: Strauss. 1949.
[3] Durkheim, Émile (1893) 1960 The Division of Labor in Society [Phân công lao động trong xã hội]. Glencoe III: Free Press (Công bố đầu tiên bằng tiếng Pháp với nhan đề “De la division du travail social” Etude sur l’organisation des sócietes, supérieu”). P.340.
[4] Durkheim, Émile (1895) 1958 The Rules of Sociological Method [Những nguyên tắc của phương pháp xã hội học] Glencoe III: Free Press (Công bố đầu tiên bằng tiếng Pháp với nhan đề “Les règles de la mèthodes sociologique”). P.104