Bài viết này nằm trong một hướng tiếp cận xây dựng nền tảng lý luận của văn hóa học và giới hạn ở cố gắ́ng trả lời một cách ngắn gọn ba câu hỏi vừa nêu.
Để nhận diện một đối tượng, không gì tốt hơn là dựa vào định nghĩa của nó. Như vậy, trước khi đi vào việc nhận diện đối tượng, cần phải có định nghĩa đối tượng.
Yêu cầu đặt ra đối với một định nghĩa là nó phải chứa đựng được những đặc trưng CẦN và ĐỦ để bao quát vừa hết phạm vi của đối tượng, không thiếu, không thừa. Đáng tiếc là trong các ngành khoa học xã hội và nhân văn người ta thường đưa ra định nghĩa một cách khá tuỳ hứng, mà không để ý đến yêu cầu này.
I- Định nghĩa văn hoá
a) Văn hoá như một hệ giá trị
Không thoả mãn với những định nghĩa đã có, trong bản in đầu tiên (lưu hành nội bộ) của cuốn Cơ sở văn hóa Việt Nam do Trường Đại học Ngoại ngữ Hà Nội ấn hành năm 1991 [Trần Ngọc Thêm 1991], chúng tôi đã đề xuất định nghĩa coi "văn hoá là một hệ thống hữu cơ của các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích luỹ qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác với môi trường tự nhiên và xã hội của mình". Định nghĩa này vẫn được giữ nguyên trong các bản in chính thức sau này của cuốn Cơ sở văn hóa Việt Nam cũng như cuốn Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam của cùng tác giả.
Định nghĩa này xem văn hóa như một hệ giá trị. Trong lý luận văn hóa học, những định nghĩa như vậy thường được xếp vào "cách tiếp cận giá trị học" (axiological approach, t. Hy Lạp axios = giá trị), bên cạnh những cách tiếp cận khác như miêu tả, chức năng, nhân loại học, tâm lý học, xã hội học, ký hiệu học...
Có ý kiến cho rằng chỉ giới hạn văn hóa ở các giá trị là thu hẹp pham vi của nó và đối lập cách tiếp cận giá trị học với cách tiếp cận nhân loại học coi văn hóa là tổng thể các sản phẩm hoạt động của con người, họ cho rằng chỉ có như vậy mới bao quát được toàn bộ khái niệm văn hóa.
Thực ra, nói như vậy là chưa hiểu hết khái niệm giá trị.
"Giá trị" là khái niệm có độ bao quát rất lớn. Không chỉ các đồ vật, sách vở, tác phẩm nghệ thuật mới có thể là giá trị, mà cả truyền thống, nếp sống, chuẩn mực, tư tưởng, thiết chế xã hội, biểu trưng, thông tin... đều có thể là giá trị. Không chỉ các sản phẩm mới là giá trị, mà cả các hoạt động, công nghệ, quy trình, phương thức, quan hệ... đều có thể xác định như các giá trị. Giá trị có thể hữu hình hoặc vô hình, có thể tĩnh hoặc động. Và điều quan trọng là giá trị phụ thuộc vào người đánh giá, nơi đánh giá, thời điểm đánh giá, tiêu chí đánh giá, v.v. Vì vậy, mọi sản phẩm hoạt động của con người đều có thể là giá trị.
Ngoài ra, văn hóa không chỉ là những giá trị, mà còn là những biểu tượng.
b) Văn hoá như một hệ biểu tượng
Hoạt động sáng tạo ra các giá trị văn hóa có thể xuất phát từ những tư tưởng, ý nghĩa mà tạo ra những sự vật, khái niệm thể hiện các tư tưởng, ý nghĩa đó; hoặc cũng có thể ngược lại, xuất phát từ những sự vật có sẵn để tìm một tư tưởng, ý nghĩa thích hợp để gán vào. Bất luận trong trường hợp nào, hoạt động "gắn một sự vật, khái niệm với một ý nghĩa, tư tưởng" là hoạt động biểu trưng.
Sản phẩm của hoạt động biểu trưng là biểu tượng (symbol). Biểu tượng là tổng thể của hình ảnh được trưng ra (cái biểu hiện) cùng mối quan hệ của nó với sự vật, khái niệm, tư tưởng mà nó thay thế (cái được biểu hiện, ý nghĩa).
Thực vật là sản phẩm tự nhiên. Thực vật ăn được / không ăn được cũng là phẩm chất của tự nhiên. Nhưng cùng một loại thực vật, tộc người này ăn, tộc người kia có thể không ăn. Cùng ăn, nhưng tộc người này đánh giá là ngon, tộc người kia cho là không ngon. Việc gắn quan niệm "ăn / không ăn", "ngon / không ngon" vào một loại thực vật là hoạt động biểu trưng, xuất phát từ cùng một chất liệu tự nhiên mà tạo nên những biểu tượng khác nhau: "thực vật ăn / không ăn", "thực vật ngon / không ngon". Những biểu tượng đó thuộc về văn hóa.
Nhờ có mối quan hệ với cái được biểu hiện và cùng với nó (quan hệ) mà cái biểu hiện trở thành biểu tượng văn hóa. Nhờ có mối liên hệ với ý nghĩa và cùng với nó mà một sự vật trở thành giá trị văn hóa. "Biểu tượng" và "giá trị" thực chất là hai khái niệm tương đồng, chúng thể hiện cùng một đối tượng từ hai góc độ khác nhau.
Như vậy, định nghĩa văn hóa đã nêu sẽ có cách trình bày thứ hai như sau: Văn hóa là một hệ thống biểu tượng do con người sáng tạo và tích luỹ qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác với môi trường tự nhiên và xã hội của mình.
Khi dùng khái niệm "biểu tượng" là ta muốn chỉ ra phương thức cấu tạo của đơn vị văn hóa; còn khi dùng khái niệm "giá trị" là ta muốn nói đến tính sản phẩm của đơn vị văn hóa đó.
Ta cũng có thể kết hợp cả hai cách trình bày thành một định nghĩa tổng quát: Văn hóa là một hệ thống giá trị mang tính biểu tượng do con người sáng tạo và tích luỹ qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác với môi trường tự nhiên và xã hội của mình.
c) Văn hoá trong một hệ toạ độ và như một chùm đặc trưng
Ý nghĩa của định nghĩa này là ở chỗ nó cung cấp cho ta hai bộ công cụ quan trọng cho việc tìm hiểu và nghiên cứu văn hóa.
Bộ công cụ thứ nhất mà định nghĩa văn hóa cung cấp là một hệ toạ độ ba chiều mà trong đó văn hoá tồn tại: Định nghĩa nói đến Con người - đó là Chủ thể văn hoá. Định nghĩa nói đến Môi trường tự nhiên và xã hội - đó là Không gian văn hoá. Định nghĩa nói đến Quá trình hoạt động - đó là Thời gian văn hoá. Việc cụ thể hoá ba thông số của hệ toạ độ này sẽ cho ta những nền văn hoá, những tiểu văn hóa, và những biến thể văn hoá khác nhau.
Bộ công cụ thứ hai mà định nghĩa văn hóa cung cấp là một chùm bốn đặc trưng cho phép nhận diện văn hóa: tính hệ thống, tính giá trị (hoặc tính biểu trưng), tính nhân sinh và tính lịch sử. Đó là bốn đặc trưng cần và đủ, có thể dùng làm công cụ để phân biệt văn hóa với những khái niệm, hiện tượng có liên quan.
II- Nhận diện văn hoá
Dựa vào bộ công cụ thứ hai của định nghĩa văn hoá là chùm bốn đặc trưng, ta có thể nhận diện đối tượng có thuộc về văn hóa hay không bằng cách xem xét nó trên hai bình diện: bình diện yếu tố và bình diện quan hệ.
Bình diện yếu tố cho phép nhận diện văn hóa một cách độc lập: một đối tượng sẽ là văn hóa hoặc không phải là văn hóa.
Bình diện quan hệ cho phép nhận diện văn hóa một cách tương đối: một đối tượng đặt trong những mối quan hệ này thì là văn hóa nhưng đặt trong những mối quan hệ khác thì lại có thể không phải là văn hóa.
1. Bình diện yếu tố: khu biệt Văn hoá với Tự nhiên và Văn minh
Trên bình diện yếu tố, văn hóa được phân biệt với tự nhiên và văn minh. Văn hóa phân biệt với tự nhiên là nhờ tính nhân sinh. Văn hóa phân biệt với văn minh là nhờ tính lịch sử.
a) Văn hoá với Tự nhiên: Tính nhân sinh
Tính nhân sinh cho phép phân biệt văn hoá với tự nhiên. Văn hóa là sản phẩm trực tiếp của con người và gián tiếp của tự nhiên. Văn hóa là cái tự nhiên được biến đổi bởi con người, là một "tự nhiên thứ hai". Tính nhân sinh, thông qua tính biểu trưng, là một đặc trưng định tính cho phép nhận biết giá trị văn hoá của một sự vật (hiện tượng) có nguồn gốc tự nhiên.
Tuy nhiên, do mọi đối lập đều chỉ là tương đối cho nên, trên thực tế, không phải cứ có tính nhân sinh là đã đủ để xếp một sự vật (hiện tượng) vào văn hoá. Vịnh Hạ Long, hòn Vọng Phu,... đều có bàn tay và khối óc của con người, chúng đều có tính nhân sinh. Nhưng để khu biệt và quyết định xếp đối tượng này vào tự nhiên, đối tượng kia vào văn hóa, cần so sánh mức độ tỷ lệ giữa "chất con người" và "chất tự nhiên" trong mỗi đối tượng. Như vậy, định tính vẫn phải kết hợp với định lượng mới đủ để giải bài toán khu biệt.
b) Văn hoá với văn minh: Tính lịch sử
Tự nhiên được biến thành văn hóa là nhờ có hoạt động xã hội - sáng tạo của con người. Bản thân các hoạt động này cũng chính là những giá trị văn hoá. Hoạt động sáng tạo và tích lũy các giá trị diễn ra trong thời gian tạo nên tính lịch sử.
Tính lịch sử đảm bảo sự ổn định của văn hoá và cho phép phân biệt văn hóa như cái được tích lũy lâu đời với văn minh như cái chỉ trình độ phát triển ở một thời điểm nhất định. Những sản phẩm vừa ra lò hàng loạt của văn minh mang đậm đặc chất nhân sinh, nhưng thiếu hẳn tính lịch sử. Khi được sử dụng, chúng bắt đầu có cuộc sống riêng của mình, chúng được cá thể hoá, lịch sử hoá, và phần nào tự nhiên hoá.
Tự nhiên1 |
ð |
Văn hóa1 |
ð |
VĂN MINH |
ð |
Văn hóa2 |
ð |
Tự nhiên2 |
Hình 1: Cuộc đời một sản phẩm văn minh
Cuộc đời của một sản phẩm văn minh có thể hình dung như một quá trình gồm hai giai đoạn, mỗi giai đoạn gồm 3 bước (x. hình 1). Ở giai đoạn một, xuất phát từ chất liệu tự nhiên, sử dụng các thành tựu văn hóa đã tích luỹ được và nâng cao lên để tạo ra sản phẩm văn minh. Ở giai đoạn hai, sản phẩm văn minh đi vào cuộc sống, được lịch sử hoá và trở thành sản phẩm văn hóa; một sản phẩm văn hóa thiếu sự chăm sóc của con người sẽ được tự nhiên hoá, trở về với tự nhiên (chẳng hạn quá trình từ một kiến trúc hiện đại trở thành phế tích).
Bảng 1: Quan hệ giữa văn hóa với tự nhiên và văn minh
Khu biệt: |
TỰ NHIÊN |
VĂN HOÁ |
VĂN MINH |
|
Bản chất chủ đạo: |
Âm |
Dương |
||
Hoạt động chủ đạo: |
Bảo tồn |
Phát triển |
||
Như vậy, văn hoá đứng giữa tự nhiên và văn minh. Khi một đối tượng chưa có hoặc có quá ít tính nhân sinh thì nó thuộc về tự nhiên. Còn khi một sản phẩm của con người tạo ra mà chưa có hoặc có quá ít tính lịch sử thì nó thuộc về văn minh. Khi tự nhiên không lấn át con người và con người không lấn át tự nhiên thì trước mặt ta là văn hoá. Tự nhiên thiên về âm tính và có năng lực bảo tồn rất cao; văn minh thiên về dương tính và, ngược lại, có năng lực phát triển rất cao. Văn hóa đứng giữa hai cực ấy (x. bảng 1). Chính nhờ sự hài hoà ấy mà chỉ có văn hóa mới có thể vừa là nền tảng, vừa là động lực cho sự phát triển của xã hội.
2. Bình diện quan hệ: khu biệt Văn hoá với Phi văn hoá và Tập hợp giá trị
Trên bình diện quan hệ, văn hóa được phân biệt với phi văn hoá và tập hợp giá trị. Văn hóa phân biệt với phi văn hoá là nhờ tính giá trị. Văn hóa phân biệt với tập hợp giá trị là nhờ tính hệ thống.
a) Văn hóa với Phi văn hoá: tính giá trị
Một đối tượng đã có tính nhân sinh (do con người tạo ra), tính lịch sử (tồn tại trong một khoảng thời gian nhất định), còn phải có tính giá trị và tính hệ thống nữa mới trở thành văn hóa. Nếu thiếu tính giá trị thì nó là phi văn hóa.
Nhưng mặt khác, cuộc sống của con người là một quá trình tìm kiếm các giá trị để thoả mãn các nhu cầu. Do vậy, không có cái gì mà con người tạo ra lại không có giá trị và không thuộc về văn hóa (nếu có đủ ba đặc trưng còn lại). Mà nếu vậy thì phi văn hoá do con người tạo ra thực chất cũng là một loại văn hóa!
Sở dĩ có nghịch lý này là vì vạn vật đều có tính hai mặt, đồng thời chứa cả giá trị và phi giá trị. Giá trị chỉ là kết quả thẩm định dương tính của chủ thể đối với đối tượng theo một hoặc một số thang độ nhất định. Do vậy, giá trị là khái niệm có tính tương đối. Nó phụ thuộc vào chủ thể, không gian và thời gian.
Giá trị phụ thuộc vào không gian: cùng một đối tượng - chẳng hạn như mắm tôm - có giá trị ở Việt Nam nhưng không có giá trị ở phương Tây. Nó phụ thuộc vào thời gian: mắm tôm có giá trị vào bữa ăn nhưng không có giá trị vào lúc đang họp hội nghị. Nó còn phụ thuộc vào chủ thể định giá: mắm tôm chỉ có giá trị đối với người biết ăn. Phong trào "phản văn hóa" (anti-culture) trong trào lưu hậu hiện đại chủ trương coi mọi thứ là vô nghĩa, vô giá trị chính là một loại văn hóa của những người thuộc phái "tự yêu mình" (narcissism) [Cahoone L.E. 1988: 209].
Vì vậy, muốn xác định được giá trị của một sự vật (khái niệm) thì phải xem xét nó trong hệ toạ độ "không gian - thời gian - chủ thể" cụ thể, trong mối tương quan giữa mức độ "giá trị" và "phi giá trị" mà nó có. Một sự vật, hiện tượng có thể có giá trị trong hệ toạ độ này, nhưng lại là phi giá trị, và do vậy là phi văn hoá, trong một hệ toạ độ khác.
Nhờ vậy, tính giá trị cho phép phân biệt văn hóa với những hiện tượng vô văn hóa, phi văn hóa, phản văn hóa; nhưng đồng thời vẫn không loại bỏ bất kỳ một sản phẩm nào, một hoạt động nào của con người[1]. Nhờ tính giá trị, ta có được cái nhìn biện chứng và khách quan trong việc đánh giá sự vật, hiện tượng; tránh được những xu hướng cực đoan - phủ nhận sạch trơn hoặc tán dương hết lời.
b) Văn hóa với Tập hợp giá trị: tính hệ thống
Một tập hợp giá trị có tính nhân sinh, tính lịch sử và tính giá trị thì đã thuộc văn hoá rồi, nhưng do rời rạc nên nó không phải là một đối tượng văn hoá riêng biệt mà thôi.
Tập hợp có thể bao gồm những giá trị riêng biệt thuộc một nền văn hóa, trong trường hợp này, việc hệ thống hoá, sắp xếp, liên kết chúng lại với nhau sẽ cho ta hình ảnh trọn vẹn của nền văn hoá đó.
Nhưng tập hợp cũng có thể bao gồm những giá trị riêng biệt ngẫu nhiên thuộc nhiều nền văn hóa khác nhau. Trong trường hợp này thì tập hợp vẫn chỉ dừng lại ở mức độ một tập hợp rời rạc mà thôi.
Như vậy, TÍNH HỆ THỐNG là một yêu cầu quan trọng, nó đòi hỏi phải xem xét mọi giá trị văn hóa trong mối quan hệ mật thiết với nhau. Nó giúp khắc phục nhược điểm lớn nhất của nhiều định nghĩa văn hóa lâu nay là coi văn hóa như một phép cộng đơn thuần của những tri thức rời rạc từ nhiều lĩnh vực. Định nghĩa văn hóa của E.B. Taylor coi văn hóa như một "phức hợp bao gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục, cũng như mọi khả năng và thói quen khác..." [1871: 13] thuộc loại như thế.
Việc nhận diện "chất văn hóa" và khu biệt nó với bốn hiện tượng có liên quan có thể được tổng kết như sau (hình 2 & bảng 2).
Bảng 2: Nhận diện "chất văn hóa"
Bình diện yếu tố |
Tự Nhiên + yếu tố con người |
= VĂN HÓA |
Văn Minh + yếu tố thời gian |
||
Bình diện quan hệ |
Phản Văn hóa + quan hệ với toạ độ gốc |
|
Tập hợp Giá trị + quan hệ với nhau |
III- Nhận diện các loại văn hoá
1. Văn hóa xét theo chủ thể
Trong định nghĩa văn hóa, chúng tôi dùng khái niệm "con người" để chỉ chủ thể văn hóa. Đây là một phạm trù có độ bao quát khá rộng. CON NGƯỜI tạo nên văn hoá có thể là một cá nhân, một tổ chức, một tộc người, một dân tộc, cư dân của một quốc gia, một khu vực hoặc toàn nhân loại.Mọi loại chủ thể vừa nêu (trừ những em bé tử vong trong vòng một tuổi, những tổ chức sớm nở tối tàn) đều "có văn hóa", nhưng không phải loại nào cũng "có văn hóa riêng".
"Có văn hóa" là khái niệm rộng hơn, văn hóa đó có thể do mình tạo ra, mang nét đặc thù riêng của mình, nhưng cũng có thể chỉ là văn hóa tiếp nhận được, do nhiều đối tượng cùng sở hữu. Để "có văn hóa" chỉ cần đòi hỏi một sự ổn định tương đối.
"Văn hóa" nói đến trong định nghĩa là văn hóa được chủ thể sáng tạo ra, tức là văn hóa riêng. Để "có văn hóa riêng", đòi hỏi chủ thể phải có bản lĩnh mạnh.
Cá nhân, nhất là cá nhân trong các nền văn hóa phương Đông, có khuynh hướng hoà mình vào cộng đồng, nên phần đông đều không có văn hóa riêng. Văn hóa riêng chỉ có ở các vĩ nhân.
Phần nhiều các làng trong một tộc người, các công ty, các đô thị trong một quốc gia có khuôn mặt giống nhau, cách tổ chức na ná như nhau... cũng không có văn hóa riêng. Có văn hóa riêng, phải là những làng rất đặc thù, những công ty rất mạnh và có một truyền thống ổn định.
Chỉ có tộc người (ethnic group) là chủ thể văn hóa điển hình nhất. Mọi tộc người đều có cùng nguồn gốc, có cùng thời gian tồn tại trên cùng một lãnh thổ cư trú, có ngôn ngữ riêng tạo thành một lối ứng xử, lối tư duy đặc thù, do vậy mọi tộc người đều có văn hóa riêng.
Dân tộc - quốc gia (nation-etat) cũng có văn hóa riêng. Đó là quốc gia đơn tộc người hoặc đa tộc người, mà những tộc người này có cùng nguồn gốc hoặc tuy có khác về nguồn gốc nhưng đã có thời gian cùng chung sống khá dài, đủ tạo nên một cái nền chung về ngôn ngữ, phong tục, tư duy... Tuy nhiên, văn hóa của dân tộc - quốc gia dẫu sao cũng kém điển hình hơn so với văn hóa của tộc người.
Không phải quốc gia nào cũng có văn hóa riêng. Những quốc gia đa tộc người, mà những tộc người này có nguồn gốc rất khác nhau, thời gian cùng chung sống trên một lãnh thổ lại quá ít thì chưa thể có văn hóa riêng được (như Australia).
Khả năng có văn hóa riêng của khu vực lại càng thấp nữa. Chỉ có những khu vực có bản sắc mạnh do cư dân là những tộc người có cùng nguồn gốc, hoặc sử dụng cùng một ngôn ngữ, chữ viết, theo cùng một tôn giáo... thì mới có khả năng tạo dựng nên một văn hóa đặc thù (như văn hóa Đông Nam Á, văn hóa Đông Bắc Á, văn hóa Nga-Slavơ, văn hóa Hồi giáo...).
Nhân loại thì quá đa dạng để mà có một văn hóa riêng. Cái mà ta vẫn gọi là "văn hóa nhân loại" thực ra chỉ là một cách nói tu từ để chỉ tổng thể các thành tựu, các giá trị của các nền, các vùng văn hóa, hoặc những phần chung nhất của chúng.
Như vậy, chủ thể văn hóa điển hình là những nhóm người có số lượng vừa phải (không quá ít, nhưng cũng không quá nhiều), tập hợp theo một chùm tiêu chí thống nhất về chủ thể, không gian, thời gian, ngôn ngữ... Khả năng có văn hóa riêng của các loại chủ thể khác nhau có thể hình dung bằng biểu đồ ở hình 3.
Tuy một số loại chủ thể có thể có văn hóa riêng, nhưng tính chất của chúng không như nhau. Văn hóa tộc người và văn hóa dân tộc - quốc gia nhờ có ngôn ngữ chung nên có tính điển hình cao nhất, chúng là những NỀN văn hóa. Văn hóa của cá nhân, của tổ chức chỉ khu biệt về một số mặt, về những mặt khác thì đồng nhất với văn hóa của chủ thể lớn hơn mà chúng lệ thuộc, nên chúng là những TIỂU văn hóa. Văn hóa của khu vực bao gồm nhiều nền văn hóa bộ phận - đó là VÙNG văn hóa.
2. Văn hóa xét theo không gian, thời gian, đối tượng
Cùng một nền/vùng/tiểu văn hóa, nhưng đặt trong những Không gian khác nhau sẽ tạo nên các biến thể không gian của văn hóa, vd: văn hóa Việt Nam hải ngoại, văn hóa Honda Việt Nam.
Cùng một nền/vùng/tiểu văn hóa, nhưng đặt trong những Thời gian khác nhau sẽ tạo nên các biến thể thời gian của văn hóa, vd: văn hóa trung đại, văn hóa hiện đại.
Xét theo đối tượng khảo sát, có thể phân biệt văn hóa của từng bộ phận - đó là các thành tố văn hóa, như văn hóa nghệ thuật, văn hóa chính trị, văn hóa tôn giáo...
Tài liệu trích dẫn
1. Cahoone Lawrence E. 1988: The Dilemma of Modernity: Philosophy, Culture, and Anti-Culture. - N.Y.: State University of New York Press, 325 p.
2. Trần Ngọc Thêm 1991: Cơ sở văn hóa Việt Nam, tập 1+2 (lưu hành nội bộ). - H.: Trường Đại học Ngoại ngữ Hà Nội.
3. Tylor E.B. 1871: Primitive Culture. Bản dịch tiếng Việt: Văn hóa nguyên thuỷ. - H.: Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, 2000, 1046 tr.
[1] Ngay cả những hiện tượng tưởng như xấu xa tồi tệ nhất như ma tuý, mại dâm, chiến tranh, chửi nhau... cũng có những mặt giá trị của nó. Và ngay cả những hiện tượng tưởng như tốt đẹp nhất như thành tựu y học, thuỷ điện... cũng có những mặt phi giá trị của nó.