1.Từ “tre” và “trúc” 竹 trong tiếng Việt và tiếng Hán
“Tre – trúc” là danh từ gọi tên một loại thực vật rất quen thuộc với cả người Việt lẫn người Hán. Từ điển Hán Việt định nghĩa “trúc: cây tre” [Đào Duy Anh 1996: 501]. Tự điển Từ Hải định nghĩa “trúc: họ thực vật lá đơn, thân lúa, sống nhiều năm, thân gỗ lõi, có đốt, giữa các đốt rỗng, ít nở hoa; có khoảng 300 loại, phân bố chủ yếu ở lưu vực Trường Giang, Hoa Nam, Tây Nam; dùng trong xây dựng, chế tạo giấy, làm vật dụng” [Hạ Chính Nông 1989: 2110]. Tự điển tiếng Việt định nghĩa “tre: cây thân cứng, rỗng ở các gióng, đặc ở mấu, mọc thành bụi, dùng làm nhà, đan lát, …”; “trúc: loại cây nhỏ, thuộc họ tre, ít gai” [Minh Tân 1999: 1242, 1261].
Con đường đi của từ “trúc” từ tiếng Hán vào tiếng Việt được xác định theo cách thức Việt hóa là giáng cấp ngữ nghĩa [Lê Đình Khẩn 2002]:
Trúc trong tiếng Hán là từ chỉ tổng loại có tính chất khái quát (tương đương với từ “tre” trong tiếng Việt). Muốn định danh cho các tiểu loại, trúc phải có những định tố đứng kèm trước nó: ngọc trúc, đại trúc, hậu trúc, mao trúc, cương trúc[1], v.v..
Trúc vào tiếng Việt chỉ còn là một loại thuộc họ tre. Trong tiếng Việt, chủng loại thuộc họ tre khá nhiều như tre, trúc, nứa, mai, giang, vàu, bương, v.v.. Người Việt nói “sáo trúc”, “chõng tre”, chứ không nói “sáo tre”, “chõng trúc”, vì sáo làm bằng trúc, chõng làm bằng tre.
2.“Tre – trúc” trong tâm thức của hai dân tộc Việt – Hán
2.1. Trúc trong tâm thức người Hán
“Trúc” với ý nghĩa là từ chỉ tổng loại (trong tiếng Việt gọi là “tre”). Người Hán biết đến trúc trong quá trình Nam tiến. “Trúc tử sinh trưởng tại Nam phương” là một điều khẳng định. Tự điển Từ Hải cũng chỉ rõ trên đất nước Trung Quốc khu vực phân bố của chúng là thuộc miền Nam.
Người Hán đưa trúc vào thơ ca và hội họa theo nghệ thuật ước lệ, biểu trưng. Trúc là loại thực vật vừa chịu nóng được, vừa chịu lạnh được, nên vẫn xanh tươi vào mùa giá rét. Tính chất này làm cho trúc trở thành biểu tượng của tính kiên cường, cứng rắn, chịu đựng.
Hơn thế nữa, trúc là một trong rất ít loại thực vật biểu trưng cho phẩm chất của người quân tử, biểu trưng cho tình bạn cao quý, chung thủy, sống chết có nhau. Trúc nằm trong bộ ba “mai – tùng – trúc”, gọi là “tuế hàn tam hữu” hay “đông thiên tam hữu” hay “đông xuân tam hữu”[2], chỉ ba người bạn sắt son cùng chung giá rét. Bộ ba này còn được gọi là “tam hữu ích”, tức ngự sử MAI, trượng phu TÙNG và quân tử TRÚC. Khái niệm “tam hữu ích” xuất phát từ thiên Quý thị sách Luận ngữ “Ích giả tam hữu: hữu trực, hữu lượng, hữu đa văn”[3] [Đoàn Trung Còn 2000: 260]. Ý nói có ba hạng bằng hữu ích lợi, đó là bạn ngay thẳng, bạn tin được và bạn nghe nhiều học rộng. Cũng với ý nghĩa tượng trưng cho người quân tử, trúc nằm trong bộ tứ “tùng – cúc – trúc – mai”, gọi là “tứ quân tử”.
“Tấm lòng sắt son, chung thủy” của trúc được Tiền Khởi (một nhà thơ đời Đường) cảm nhận:
Cốc khẩu xuân tàn hoàng điểu hi 谷口春残黄鸟稀
Tân di hoa tận, hạnh hoa phi 辛夷花尽杏花飞
Thỉ liên u trúc sơn song hạ, 始怜幽竹山窗下
Bất cải thanh âm đãi ngã qui 不改青阴待我归
Dịch nghĩa:
Cửa động xuân tàn chim hoàng oanh hiếm hoi
Hoa tân di rụng hết, hoa hạnh bay bay
Chỉ thương cây trúc lặng lẽ dưới song cửa núi
Không thay đổi sắc màu đợi ta về.
[Phùng Hoài Ngọc 2006: 92]
Trúc mai còn là biểu tượng của tình lứa đôi thanh khiết qua thành ngữ “thanh mai trúc mã”[4]. Thành ngữ đã từng thấy xuất hiện ở hai câu thơ trong bài Trường Can hành của nhà thơ Lý Bạch. Bài thơ miêu tả đôi nam nữ làng Trường Can nô đùa quấn quít bên nhau từ thuở ấu thơ, lớn lên thành vợ thành chồng, son sắt thủy chung.
Lang kỵ trúc mã lai, 郎骑竹马来
Nhiễu sàng lộng thanh mai. 床弄青梅
Chàng cưỡi ngựa trúc chạy đến,
Đi quanh giường tung trái mơ xanh
Trúc còn được kết hợp với mai, lan và cúc, tạo nên bộ "tứ quý" tượng trưng cho bốn mùa xuân, hạ, thu, đông.
Các bộ tứ, bộ tam trên trở thành đề tài có vị trí đặc biệt trong thơ ca cổ điển Trung Quốc cũng như trong hội họa[5], điêu khắc, và ảnh hưởng cả đến thú chơi cây cảnh. Chúng như một ước lệ đã thành công thức mà những người trong các lĩnh vực nghệ thuật ấy phải tuân theo.
Riêng nói về các hạng người trong xã hội, thì các bộ tam, bộ tứ ảnh hưởng mạnh ở các Nho sĩ trí thức bởi khái niệm “quân tử”, mà mờ nhạt trong đông đảo lớp bình dân.
Nhìn chung, chúng ta thấy người Hán đã ca ngợi trúc trong tư thái chiêm ngưỡng, thán phục một loại cây hết sức đặc biệt của phương Nam.
Với tư cách là “ngôn ngữ của hội họa”, bên cạnh đặc tính kiên cường và sắt son, nhành tre, nhánh trúc với nét thanh tao, nhẹ nhàng, điềm nhiên, lặng lẽ còn là hình ảnh tâm đắc của tư tưởng thoát tục (hư vô của Lão, hay vô ngã, tự tại của Thiền).
2.2. Trúc trong tâm thức của người Việt (sau khi được Việt hóa trở thành thành viên của từ vựng tiếng Việt)
Từ “trúc” đi vào tiếng Việt sau khi được Việt hóa trở thành từ chỉ một tiểu loại thuộc họ tre. Về mặt ngữ pháp, “trúc” hoạt động tự do trong tiếng Việt với tính cách là một danh từ như những danh từ khác: cây trúc, chiếu trúc, trúc xinh, v.v..
Về ý nghĩa, có thể với đặc điểm thân nhỏ và gầy yếu hơn tre, mà người Việt sử dụng từ “trúc” với một phong cách khác. Trúc không cứng cỏi, kiên cường, mà trúc mang sắc thái nhẹ nhàng hơn, mềm dẻo hơn, ẻo lả hơn, trang nhã hơn. Và vì vậy trúc được ví von với nét duyên dáng, thanh mãnh của người con gái: “Trúc xinh trúc mọc đầu đình, em xinh em đứng một mình cũng xinh”. Trúc được chuyên dùng để đặt tên cho giới nữ, các tên “Thanh Trúc”, “Như Trúc”, “Ngọc Trúc”, … âm điệu nhẹ nhàng, lại toát lên nét yểu điệu về dáng vẻ, thanh tao về tâm hồn.
Như vậy, với cùng một loại thực vật là “tre”, trong tiếng Việt đã có từ để gọi, vậy mà tiếng Việt vẫn không từ chối “trúc”, vẫn mở rộng vòng tay đón nhận bằng cách thu hẹp ý nghĩa, để từ “trúc” có thể tồn tại song song với từ “tre” mà không gặp trở ngại nào.
2.3. Tre trong tâm thức của người Việt
Người Việt đưa tre vào thơ, vào câu chuyện dân gian, vào lời hát, ngoài nghệ thuật ước lệ ra, còn mang đậm tính nhân văn. Đứa bé vừa chào đời cũng là lúc bắt đầu tắm mình trong dòng văn hóa dân tộc với lời ru của mẹ mang hình ảnh của quê nhà: “ầu ơ… Ví dầu cầu ván đóng đinh, cầu tre lắt lẻo gập ghềnh khó đi, Khó đi mẹ dắt con đi, con đi trường học, mẹ đi trường đời”. Một trong những giá trị hết sức sâu sắc ở câu chuyện Thánh Gióng là chi tiết “roi sắt gãy, chàng Gióng nhổ tre, tiếp tục đuổi giặc chạy tan tác”. Một sự so sánh hết sức tinh tế giữa “cây tre” của làng quê và biểu tượng phát triển của một giai đoạn – “sắt”. Qua đó, chúng ta càng thấy rõ vai trò, vị trí của cây tre trong lòng dân tộc. Ở khía cạnh vật chất, cây tre là loại thực vật luôn có mặt trên đất Việt, với số lượng nhiều, và là loại thực vật có nhiều lợi ích trong đời sống, được dân làng sử dụng, sáng tạo thành nhiều vật dụng khác nhau, kể cả vũ khí chiến đấu. Ở khía cạnh tinh thần, thể hiện tình cảm gần gũi của những con người suốt đời gắn bó với đất, được bảo vệ sau những bụi tre gai dày. Đồng thời, hình ảnh cây tre còn gắn với sức mạnh của lòng dũng cảm, của ý chí tự chủ.
Cây tre đi vào câu chuyện dân gian có tác dụng răn đe, giáo dục con người: Cây tre trăm đốt, Nàng Út ống tre.
Người Việt tặng cho “tre” từ tố “lũy”, gọi là “lũy tre”. Từ “lũy” khiến chúng ta liên tưởng đến thành lũy. Lũy tre chẳng những thân thiết với dân làng, mà còn trở thành tấm áo giáp che chở cho dân làng trước an nguy, cùng với dân làng bảo vệ những tinh hoa của nền văn hóa nông nghiệp. Dân làng sống bình an sau lũy tre, và hình ảnh lũy tre trở thành biểu tượng của làng Việt, “Tre xanh, xanh tự bao giờ; Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh”.
Tre đi vào văn thơ phản ánh đất nước Việt. Một đất nước nhỏ về diện tích, nhưng tiềm ẩn sức mạnh của “thành” của “lũy”: “Thân gầy guộc, lá mong manh, mà sao nên lũy nên thành tre ơi”. Tre ẩn hiện một số tính cách quý giá của người Việt. Đó là ý thức cộng đồng, là tinh thần đoàn kết: “Bão bùng thân bọc lấy thân”; đó là ý chí bất khuất, kiên cường, hiên ngang: “Tre xanh không đứng khuất mình bóng râm”; đó là tinh thần lao động cần cù, siêng năng, không ngại khó: “Rễ siêng không ngại đất nghèo, tre bao nhiêu rễ bấy nhiêu cần cù”; đó là tinh thần lạc quan: “Giương mình trong gió tre đu, cây kham khổ vẫn hát ru lá cành” (thơ của Nguyễn Duy).
Trong tâm thức của người Việt, “tuế hàn tam hữu” hay “tam ích hữu” có vẻ như mờ nhạt. Chúng đi vào thơ ca, hội họa, điêu khắc hay thú chơi cây cảnh của người Việt như một hình thức sử dụng “điển tích” mà thôi. Vượt qua sắc thái ca ngợi, thán phục đó, người Việt hòa quyện tâm hồn mình vào tre, gọi từ tre với tất cả tình cảm thân thương nhất “Làng tôi nghe đu đưa mấy nhịp cầu tre”. “Nhịp cầu tre” có thể làm cho hình ảnh cả làng quê hiện ra trước mắt, có thể làm cho trái tim người lữ khách tha phương quặn thắt đau vì nhớ thương quê nhà.
Sao không gần gũi, sao không thân yêu khi mà ngoài làng thì rợp bóng tre, trong nhà ngoài ruộng cũng ngập đồ tre: cái nhà, cái bàn, cái ghế, giường chõng, cái đòn gánh, cái khung cửi, cái xa quay sợi, cái rổ, cái dần, cái sàng, cái rế lót nồi, cái gáo múc nước, con dao cật nứa cắt rốn, cái quạt nan, cái bồ lúa, đôi đũa, cái tăm, cái bút anh đồ, cây nêu ngày tết, cái bừa, cái cào, cái ách (trên cổ trâu), cái bè, cái vó, cái cần câu, cái cầu qua mương qua kênh, v.v.. Trẻ thơ thì gắn bó với cánh diều, ống thụt, cái ná, … tất cả đều làm từ tre.
Hình ảnh chổi tre mộc mạc, bình dị, gắn chặt với đời sống lao động thường ngày:
Nhớ em nghe
Tiếng chổi tre
Chị quét
Những đêm hè
Đêm đông gió rét
Tiếng chổi tre
Sớm tối
Đi về …
(Tiếng chổi tre - Tố Hữu)
Nguyễn Trãi thả hồn thơ dưới bóng trúc xanh:
Trong rừng có bóng trúc râm,
Giữa màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn
(Côn Sơn ca - Nguyễn Trãi)
2.4. Tre/ trúc trong sự chiêm ngưỡng tương đồng giữa hai dân tộc
Trên nền ý nghĩa “tượng trưng cho tình nghĩa bền chặt, thân thiết”, Nguyễn Du dùng “trúc mai” để chỉ cái nghĩa vợ chồng:
Tái sinh chưa dứt hương thề,
Làm thân trâu ngựa đền nghì trúc mai.
(Truyện Kiều, câu 707-708)
Hay
Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.
(Truyện Kiều, câu 745-746)
Ba người bạn tùng, mai, trúc còn được viết:
Tùng mai trúc kết nạp Tùng mai trúc hợp lại
Bút đoan miêu tam bằng Lấy bút vẽ ba chàng
Thể dị nại tuế hàn, Thể khác chung chịu rét
Tâm phù tiện cổ thu Nếp xưa lòng cử hoài
(Lập Nhân đường ngẫu đề)
Đề tài «đông thiên tam hữu» cũng là nguồn cảm hứng cho dòng thơ của thi hào Nguyễn Trãi:
Quét trúc, bước qua lòng suối
Thưởng mai, về đạp bóng trăng
(Ngôn chí 15)
Trúc quân tử còn đi vào ca dao đất Long Thành:
Ai chơi ta cũng chơi cùng
Chơi trúc quân tử, chơi tùng trượng phu.
Cùng với “tứ long”, “ngũ phúc”, đề tài “tứ quý” cũng được người Việt Nam ưa chuộng chạm trổ trong các kiến trúc đình chùa. Bộ “tứ quý” cũng xuất hiện trên các bức tranh gia đình làm tăng thêm vẻ nhẹ nhàng, thanh thoát, tao nhã.
3.Kết luận
W.Humboldt, nhà văn hóa người Đức, từng nói “Ngôn ngữ là linh hồn của dân tộc”. Từ trong hoạt động ngôn từ đã mang tâm thức của người sử dụng chúng, của dân tộc sử dụng chúng. Cái tâm thức của con người gửi gắm trên ngôn từ ấy chính là một khía cạnh văn hóa của ngôn ngữ.
Chắc hẳn rằng tiếng Hán có từ “trúc” khi người Hán biết đến loại cây phổ biến ở vùng Giang Nam. Tiếng Việt mượn từ “trúc” với tư cách là âm Hán Việt, Việt hóa về mặt ngữ nghĩa. Diện mạo, đặc điểm và cách thức hoạt động của chúng trong tiếng Việt hoàn toàn mang phong cách Việt.
Đối với “trúc”, người Hán đã chiêm ngưỡng, ca ngợi, thán phục: trúc kiên cường, trúc thủy chung, trúc cao quý, trúc thanh tao, trúc thanh khiết. Cây tre trong lòng người Việt thì hết sức bình dị, mộc mạc, gần gũi. Người Việt hòa quyện tâm hồn vào tre, cuộc sống đời thường gắn bó với tre. Thậm chí tre là dấu hiệu của làng quê, là biểu tượng của đặc tính dân tộc. Ứng xử với cùng một loại thực vật, người Hán đã “quý tộc hóa”, trong khi người Việt thì “bình dị hóa”.
Tài liệu tham khảo:
- Đào Duy Anh 1996: Từ điển Hán Việt. – HN: NXB Khoa học Xã hội.
- Đoàn Trung Còn 2000: Tứ thư (trọn bộ 4 tập). – Thuận Hóa: NXB Thuận Hóa.
- Hạ Chính Nông 1989: Từ Hải. – Thượng Hải: Thượng Hải từ thư XBX.
- Lê Đình Khẩn 2002: Từ vựng gốc Hán trong tiếng Việt. – Tp. HCM: NXB ĐH Quốc gia.
- Minh Tân, Thanh Nghi, Xuân Lãm 1999: Từ điển tiếng Việt. – Thanh Hóa: NXB Thanh Hóa
- Phùng Hoài Ngọc 2006: Thi ca từ Trung Hoa (tài liệu tham khảo, lưu hành nội bộ). – Trường ĐH An Giang.
Nguồn:In trong: Những vấn đề Khoa học Xã hội & Nhân văn – Chuyên đề Văn hoá học, Nxb Đại học Quốc gia,2013