1. Quan niệm về giá trị
Khác với nhiều ngành khoa học xã hội khác với quan điểm cho rằng giá trị trả lời các câu hỏi cơ bản có tính sinh tồn nhằm giải đáp ý nghĩa cuộc đời con người, các nhà kinh tế học xem giá trị như phẩm chất của đối tượng được sử dụng trong trao đổi xã hội. Theo đó, giá trị có hai cách hiểu khác biệt: i) Lợi ích mang lại của một đối tượng cụ thể nào đó (giá trị sử dụng); và ii) Khả năng mua các hàng hóa khác mà người chủ sở hữu đối tượng có được (giá trị trao đổi) (Stigler, 1950). Một thứ có thể có giá trị sử dụng rất lớn nhưng lại có rất ít hoặc không có giá trị trao đổi; và ngược lại, nhiều thứ có giá trị trao đổi cao nhưng lại có rất ít giá trị sử dụng. Tuy nhiên, kinh tế học không quan tâm nhiều đến giá trị sử dụng.
Kinh tế học cũng có những quan niệm cho rằng, giá trị mang tính khách quan, như trong các học thuyết về giá trị lao động. Tuy nhiên, các trào lưu gần đây, đặc biệt trong kinh tế vi mô - giải thích mối liên hệ giữa giá trị và hành vi lựa chọn cá nhân, lại cho rằng giá trị chủ yếu mang tính chủ quan. Các lý thuyết và mô hình về lựa chọn hợp lý đều đưa ra giả thiết con người đưa ra lựa chọn bằng cách so sánh các phương án khác nhau dựa trên sở thích, và chúng ta chọn thứ mang lại nhiều thỏa mãn nhất trong giới hạn các ràng buộc về nguồn lực. Giá trị giúp chúng ta cân nhắc giữa các sở thích trong trường hợp chúng ta không tìm được phương án nào tối ưu. Vì vậy, giá trị giúp đưa ra quyết định khi cần có sự đánh đổi, như một vị trọng tài; và do đó giá trị nói về những thứ gì đáng mong muốn hơn, trong khi sở thích là những gì mong muốn. Nói cách khác, cá nhân lựa chọn để tối đa hóa sự thỏa mãn, có cân nhắc đến chi phí và lợi ích liên quan. Tuy nhiên, kinh tế học không bàn về các vấn đề như vì sao chúng ta có sở tích, mà chỉ tập trung vào việc các quyết định được đưa ra như thế nào với các tập hợp lựa chọn cho trước.
Thuật ngữ giá trị trong kinh tế học cũng liên quan tới cấp độ nhóm, với các công cụ cho phép đánh giá các giá trị xã hội nhằm đưa ra hướng dẫn cho lựa chọn tập thể. Lựa chọn được xem là phù hợp nhất khi nó đem lại nhiều lợi ích nhất cho nhiều người (tối đa hóa lợi ích của nhóm).
Một điểm đáng lưu ý là kinh tế học còn có nhiều nỗ lực đo lường giá trị, thông qua phân tích chi phí - lợi ích. Nếu có thể phân tích tất cả các kết cục của tất cả các hành động, và ước lượng lợi ích của các kết cục đó, thì có thể có lựa chọn mang lại nhiều lợi ích nhất, có tính đến chi phí. Tuy nhiên muốn đo lường được lợi ích xã hội thông qua tổng hợp các lợi ích cá nhân, phải có thước đo lợi ích cá nhân dưới dạng các con số cụ thể, chứ không phải các thứ bậc. Thông thường, giá cả các hàng hóa và dịch vụ trên thị trường (đặc biệt là thị trường cạnh tranh) được sử dụng để tổng hợp lợi ích cá nhân và xã hội (Dietz et al., 2005).
Mặc dù vậy, có nhiều thứ mang lại cho con người lợi ích, nhưng lại không có thị trường cho chúng, và do đó không thể đánh giá giá trị. Điều này đặc biệt đúng với các tiện ích mà nguồn lực tự nhiên đem lại. Ví dụ chúng ta có thể xác định được giá trị của lượng gỗ khai thác từ rừng thông qua giá thị trường của nó; nhưng không thể đo lường giá trị của việc điều hòa không khí, ngăn chặn lũ lụt hay điều tiết dòng chảy của các hệ tự nhiên. Vì vậy, các nhà sinh thái học, một mặt sử dụng các công cụ kinh tế để cố gắng đo lường giá trị của các nguồn lực tự nhiên; mặt khác, đề xuất các quan niệm và cách tiếp cận mới về giá trị của các nguồn này.
Sinh thái học xem xét giá trị ở khía cạnh rộng lớn hơn khi nghiên cứu sự phụ thuộc lẫn nhau và đồng tiến triển giữa hoạt động kinh tế và hệ sinh thái tự nhiên theo cả không gian và thời gian (Daly, 2007; Daly and Farley, 2011), đặt trọng tâm vào tự nhiên, tính công bằng, và thời gian (Faber, 2008). Do đó, các vấn đề như công bằng giữa các thế hệ, sự thay đổi môi trường không thể phục hồi, tính bất định của kết quả dài hạn, và phát triển bền vững sinh thái có vai trò dẫn hướng trong phân tích và xác định giá trị. Các nhà sinh thái cho rằng một số khía cạnh của môi trường, đặc biệt là cảnh đẹp, hệ sinh thái phức hợp và các loài sinh vật quý hiếm có giá trị nội tại (intrinsic values), mang tính khách quan, độc lập với các giá trị mà con người vẫn gán cho chúng (Dietz et al., 2005). Quan niệm này ngược với cách nhìn trước đó - cho rằng tự nhiên có giá trị chỉ vì đó là phương tiện để đạt được mục đích của con người (giá trị phương tiện - instrumental values).
Sự phân biệt này cũng tương tự như trong các ngành khoa học xã hội, với quan niệm về giá trị phương tiện và giá trị tối hậu (terminal values). Mặc dù vậy, hiện chưa có phương pháp nào được thừa nhận rộng rãi trong việc định lượng các giá trị nội tại, ngoài việc quan sát hành vi và hỏi cá nhân về giá trị mà họ gán cho các nguồn tự nhiên nêu trên. Nhưng điều này cũng không làm cách nhìn nhận sinh thái kém quan trọng.
Các giá trị của nguồn lực tự nhiên bao gồm:
i) Các giá trị sử dụng: Liên quan tới việc sử dụng của con người đối với nguồn lực tự nhiên. Các giá trị sử dụng bao gồm hai loại:
- Giá trị sử dụng trực tiếp: Bao gồm các lợi ích thu được từ việc sử dụng như là nguồn nguyên vật liệu, năng lượng và không gian cho các hoạt động của con người (sản xuất thực phẩm, nguyên liệu, nguồn gien, chỗ ở,...); và việc sử dụng mang tính phí tiêu dùng (giáo dục, giải trí, thẩm mỹ).
- Giá trị sử dụng gián tiếp: Các lợi ích thu được không xuất phát từ việc sử dụng chủ động mà từ việc sử dụng một cách thụ động các tài nguyên như nước và không khí, khí hậu và thời tiết ổn định, tái tạo đất và chất dinh dưỡng,...
ii) Các giá trị không/chưa sử dụng: Xuất phát từ sự hiện diện của các nguồn lực tự nhiên mà một lúc nào đó sẽ cung cấp các giá trị sử dụng cho cuộc sống (hiện tại chưa biết), hoặc đơn thuần là giá trị mà người ta sẵn sàng chi trả để giữ cho tài nguyên nguyên vẹn, hay quan điểm cho rằng các hệ tự nhiên cũng có "quyền" bất khả xâm phạm như hệ thống xã hội:
- Giá trị lựa chọn: Một nguồn lực tự nhiên có giá trị lựa chọn nếu các tiện ích nó mang lại không nhìn thấy hết được và việc cạn kiệt nó mang tính không đảo ngược. Giá trị lựa chọn liên quan đến các lợi ích của việc duy trì quyền sử dụng tài nguyên nhưng không dùng ngay mà để dùng trong tương lai, hoặc để thế hệ tương lai sử dụng (Young, 1992). Ví dụ là các giá trị thu được một lúc nào đó từ việc duy trì các khu rừng nhiệt đới để bảo vệ nguồn gien động thực vật (Smith, 2004).
- Giá trị bảo tồn: Một tài nguyên có thể có giá trị bảo tồn nếu người ta sẵn sàng bảo vệ nó để cho đời sau (Goodstein, 2008).
- Giá trị tồn tại: Sự hài lòng mà cộng đồng có được từ việc nhận biết được rằng một loại tài nguyên thiên nhiên nào đó vẫn tồn tại (Young, 1992).
Bảng 1:
Các loại giá trị của nguồn lực tự nhiên
Tài nguyên thiên nhiên | Tiện ích cung cấp | |
Giá trị sử dụng trực tiếp | Sản xuất hàng hóa | |
Thực phẩm | Động thực vật | |
Thức ăn gia súc | ||
Thủy hải sản | ||
Các loại gia vị,... | ||
Thuốc | Dược phẩm | |
Nguyên liệu cho dược phẩm tổng hợp,... | ||
Vật liệu lâu bền | Gỗ tự nhiên | |
Các loại sợi | ||
Các loại đá và vật liệu tự nhiên khác | ||
Năng lượng | Năng lượng tự nhiên | |
Năng lượng sinh học | ||
Các loại thủy, nhiệt điện,... | ||
Nguyên vật liệu và sản phẩm công nghiệp | Các loại khoáng sản | |
Các loại nông, lâm, thủy hải sản,... | ||
Nguyên liệu cho các sản phẩm tổng hợp | ||
Nguồn gien | Hàng hóa trung gian để sản xuất các hàng hóa khác | |
Không gian cho các hoạt động sản xuất và sinh hoạt | ||
Sản xuất | Cơ sở công nghiệp | |
Trang trại, nông trường | ||
Cơ sở du lịch, dịch vụ thương mại | ||
Sinh hoạt | Nhà cửa | |
Nơi vui chơi, sinh hoạt cộng đồng | ||
Các tiện ích khác | ||
Mang lại vẻ đẹp thẩm mỹ và sự bình yên | ||
Mang lại những cảm hứng mang tính văn hóa, trí tuệ và tinh thần | ||
Giá trị sử dụng gián tiếp | Các quá trình tái tạo | Các quá trình lọc và tuần hoàn: Gải và phân rã chất độc, tái tạo độ mầu mỡ, lọc không khí, lọc nước,... |
Các quá trình phát tán: Phân tán hạt cho quá trình sinh trưởng của cây, thụ phấn cho cây,... | ||
Các quá trình ổn định | Ổn định các dòng chảy của sông và biển | |
Bù đắp sinh trưởng loài trong điều kiện thay đổi | ||
Điều tiết số lượng loài | ||
Ổn định thời tiết | ||
Ổn định một phần khí hậu | ||
Điều tiết lụt lội và hạn hán | ||
Giá trị lựa chọn | Sử dụng trong tương lai | |
Nguồn gien | ||
Thay thế các tài nguyên cạn kiệt | ||
Lưu giữ tư liệu tự nhiên | ||
Giá trị bảo tồn | Thuyết vị tha | |
Công bằng giữa các thế hệ | ||
Giá trị tồn tại | Hài lòng vì sự hiện diện của tài nguyên |
Nguồn: Tham khảo từ Heal et al. (2001), Manning (2003)
Khác với quan niệm tương đối thống nhất của kinh tế học và sinh thái học, các khoa học xã hội, như xã hội học, tâm lý học, nhân học, văn hóa học, đạo đức học, triết học,... nhìn nhận về giá trị rất khác nhau. Kluckhohn (1951) định nghĩa giá trị là: i) Các yếu tố trong việc xác định rõ trạng thái hành động theo phương thức, phương tiện và mục tiêu mong muốn hoặc không mong muốn; ii) Có thể công khai hoặc hiểu ngầm; iii) Có tính lâu dài và định hướng; iv) Có quan hệ qua lại như những yếu tố trong các hình mẫu hoặc hệ thống khác biệt mang tính cá nhân hoặc nền văn hóa; và v) Có thể là tích cực hoặc tiêu cực, Super (1980) xem giá trị như một mục tiêu, hoặc là một trạng thái tâm lý, một mối quan hệ, hay điều kiện vật chất, mà người ta tìm kiếm để có được. Hofstede (1984) lại cho rằng giá trị là một xu hướng chung ưa chuộng những trạng thái nhất định hơn những trạng thái khác. Halstead and Taylor's (2000) đưa ra khái niệm giá trị là các nguyên tắc và niềm tin căn bản đóng vai trò dẫn dắt hành vi, và các tiêu chuẩn qua đó các hành động cụ thể được đánh giá là tốt hoặc đáng mong muốn.
Phạm Minh Hạc (2010) nhìn nhận giá trị như cái quy định mục đích của hoạt động và động cơ thúc đẩy hoạt động đạt được mục đích đó; là vấn đề sống còn của mỗi con người. Nguyễn Duy Bắc (2015) coi giá trị là khái niệm để chỉ ý nghĩa của những hiện tượng vật chất hay tinh thần, có khả năng thỏa mãn nhu cầu tích cực của con người, là những thành tựu góp phần vào sự phát triển của xã hội. Nói đến giá trị nghĩa là muốn khẳng định mặt tích cực, mặt chính diện, gắn liền với cái đúng, cái tốt, cái hay, cái đẹp, cái có khả năng thúc đẩy con người hành động và nỗ lực vươn tới (Nguyễn Trọng Chuẩn, 1998). Trần Ngọc Thêm (2015) định nghĩa giá trị là phẩm chất của khách thể được bộc lộ trong một hệ tọa độ chủ thể - không gian - thời gian cụ thể, trong đó phẩm chất này được khúc xạ qua sự đánh giá của chủ thể, xét trong quan hệ giữa chủ thể với khách thể và giữa các khách thể với nhau.
Nhìn chung các quan niệm về giá trị nêu trên dùng để chỉ mối quan hệ giữa chủ thể đánh giá và đối tượng được đánh giá, trong đó mối quan hệ này tương đối ổn định, lâu dài và có những định hướng cho các hoạt động của chủ thể. Có hai khái niệm về giá trị được sử dụng rộng rãi nhất trong thời gian qua, do đi kèm với chúng là các công cụ để khảo sát, phân loại các tầng nấc, mối quan hệ và tầm quan trọng của các loại giá trị.
Rokeach (1973) định nghĩa giá trị là các niềm tin lâu dài (enduring beliefs) về cách thức ứng xử đặc trưng hoặc trạng thái kết cục (end-state of existence) được cá nhân hay xã hội ưa thích hơn các cách thức và trạng thái khác đối lập hoặc khác biệt. Một hệ giá trị là tập hợp các niềm tin lâu dài các cách thức và trạng thái nêu trên với một dải liên tục theo tầm quan trọng tương đối. Định nghĩa này của Rokeach có một số hàm ý sau:
i) Giá trị là một bộ phận của niềm tin, khi cho rằng giá trị thuộc nhóm niềm tin mang tính quy tắc - phán xét về những gì được xem là đáng mong đợi trong ứng xử và sinh hoạt.
ii) Mang tính tích cực và được ưa thích, nghĩa là vượt lên những phương thức khác.
iii) Có tính ổn định, mặc dù chúng có thể thay đổi khi con người liên tục ra quyết định liên quan tới việc ưu tiên điều gì quan trọng hơn; và
iv) Có sự khác biệt giữa giá trị là cách thức ứng xử và giá trị là trạng thái kết cục. Giá trị trạng thái kết cục được gọi là giá trị tối hậu (terminal values), là các mục tiêu mà chúng ta nỗ lực hướng tới và mong muốn nhất. Giá trị cách thức ứng xử được gọi là giá trị phương tiện (instrumental values), là phương thức ứng xử ưa thích để đạt được mục tiêu. Giá trị này chủ yếu bao gồm các đặc trưng cá nhân và đặc điểm tính cách, như trung thực, lịch sử, tham vọng,...
Rokeach (1973) cũng xây dựng một tập hợp gồm 18 giá trị phương tiện (tham vọng, yêu thương, tự kiểm soát, năng lực, dũng cảm, lịch sự, trung thực, tuân lệnh, trách nhiệm,...) và 18 giá trị tối hậu (tình bạn thực sự, tình yêu trưởng thành, tự trọng, hạnh phúc, hòa hợp, bình đẳng, tự do, an toàn gia đình, an ninh quốc gia,...), nhằm tiến hành các cuộc khảo sát về giá trị ở các cấp độ khác nhau của xã hội. Sau đó bảng giá trị này được sử dụng bởi nhiều người khác để nghiên cứu các mối quan hệ giữa giá trị và hành vi, vai trò của giá trị trong giải thích thái độ, phạm vi và giới hạn con người duy trì một loại giá trị đặc thù theo thời gian,...
Schwartz (2006) quan niệm giá trị là những niềm tin cảm tính, liên quan tới mục tiêu mong muốn của cá nhân và định hướng cho việc lựa chọn hoặc đánh giá hành động, chính sách, con người và sự kiện. Giá trị là các tiêu chuẩn mà con người sử dụng để đánh giá hành vi, phản ứng với người khác, và đưa ra phán xét về các sự kiện, chúng giúp giải thích hàng loạt các hành vi cá nhân và xã hội, như lựa chọn lĩnh vực làm việc, mua sắm của người tiêu dùng, ứng xử với môi trường, tuân thủ giáo luật,... (Bardi and Schwartz, 2003). Khi bàn về giá trị chúng ta nghĩ về những gì quan trọng trong cuộc sống. Mỗi cá nhân có nhiều giá trị khác nhau, với mức độ quan trọng của từng giá trị khác nhau. Một giá trị có thể quan trọng với người này, nhưng lại kém quan trọng với người khác.
Giá trị theo khái niệm này có các đặc điểm sau (Schwartz, 1992, 2006):
i) Giá trị là các quan niệm hoặc niềm tin gắn bó chặt chẽ. Khi giá trị được kích hoạt, chúng truyền cảm xúc cho con người.
iii) Giá trị là các mục tiêu mong muốn thúc đẩy hành động.
iii) Giá trị vượt trên những hành động và tình huống cụ thể. Đặc điểm này phân biệt giá trị với chuẩn mực hay thái độ, những thứ thường chỉ hàm ý các hành động, đối tượng hay tình huống cụ thể.
iv) Giá trị đóng vai trò như những tiêu chuẩn định hướng hành động. Vai trò này được thể hiện khi phán xét hay hành động mà một ai đó đang cân nhắc có sự xung đột với những giá trị người đó cổ vũ.
v) Các giá trị có tầm quan trọng tương đối khác nhau. Các giá trị này tạo thành một hệ thống trật tự ưu tiên khác nhau giữa các cá nhân; và
vi) Tầm quan trọng tương đối cảu các giá trị hướng dẫn hành động. Mỗi thái độ hay hành vi đều hàm ý nhiều hơn một giá trị. Vì vậy lựa chọn thái độ hay hành vi nào đó có nghĩa là đang đánh đổi giữa các giá trị.
Theo Schwartz (1992), các giá trị được sắp xếp theo hai chiều hướng cơ bản. Một mặt, các giá trị cá nhân trải rộng từ "đề cao bản thân" đến "vượt lên bản thân", phản ánh sự phân biệt giữa các giá trị định hướng lợi ích cá nhân với phúc lợi cộng đồng. Các giá trị đề cao bản thân thúc đẩy con người hành động vì lợi ích của mình, thậm chí với thiệt hại của người khác. Ngược lại các giá trị vượt lên bản thân kích thích người ta bỏ vượt qua tư lợi, hành động vì phúc lợi của người khác và vì tự nhiên. Mặt khác, dải giá trị gồm hai cực, "sẵn sàng thay đổi" và "bảo thủ". Cực thứ nhất thúc đẩy con người theo đuổi các mối quan tâm về trí tuệ và cảm xúc theo chiều hướng bất trắc và khó dự báo. Cực thứ hai thúc đẩy người ta bảo vệ hiện trạng và sự chắc chắn.
Các giá trị nêu trên gồm 10 loại cơ bản sau:
i) Giá trị quyền lực: Vị thế xã hội, uy tín, khả năng chi phối, quản lý con người và các nguồn lực khác (quyền lực xã hội, uy quyền, của cải).
ii) Giá trị thành công: Thành đạt cá nhân thông qua sự thể hiện năng lực theo các chuẩn mực xã hội chung (thành công, năng lực, tham vọng, ảnh hưởng, trí tuệ, lòng tự trọng).
iii) Giá trị thụ hưởng cuộc sống: Niềm vui, mức độ thỏa mãn cá nhân (hạnh phúc, hưởng thụ cuộc sống).
iv) Giá trị khám phá, phát hiện cái mới: Phấn khích, tính chất mới mẻ, các thách thức và trải nghiệm trong cuộc sống (thử thách, cuộc sống đa dạng và sôi động).
v) Giá trị độc lập tư duy: Tự định hướng, tư duy độc lập, lựa chọn hành động, sáng tạo, khám phá (tính sáng tạo, sự tự do, tính độc lập, tìm hiểu, trí tò mò, tự lựa chọn mục đích).
vi) Giá trị phổ quát: Hiểu biết, khả năng đánh giá, sự bao dung và bảo vệ sự thịnh vượng và quyền lợi của con người, tự nhiên (tư duy cởi mở, trí tuệ, công bằng xã hội, bình đẳng, yêu hòa bình, yêu cái đẹp, gắn bó với thiên nhiên, bảo vệ môi trường).
vii) Giá trị nhân đạo: Bảo vệ và thúc đẩy sự thịnh vượng của những người có quan hệ (hữu ích, tôn trọng danh dự, vị tha, trung thực, trung thành, trách nhiệm).
viii) Giá trị truyền thống: Tôn trọng, cam kết, thừa nhận phong tục tập quán, tư duy, suy nghĩ, tư tưởng của nền văn hóa của mình (khiêm tốn, không tranh giành, chân thành, tôn trọng truyền thống, ôn hòa).
ix) Giá trị hòa hợp: Kiềm chế hành động, nhẫn nhịn, không làm hại người khác cũng như thế giới tự nhiên, không vi phạm các chuẩn mực, kỳ vọng xã hội (lịch sự, tuân thủ, tôn trọng nguyên tắc, kính trọng cha mẹ, người cao tuổi); và
x) Giá trị cuộc sống an bình: An toàn, hài hòa và ổn định xã hội, các mối quan hệ và bản thân (gia đình êm ấm, quốc gia thanh bình, xã hội trật tự, ngăn nắp, sạch sẽ, quan hệ xã hội thỏa đáng, tin cậy lẫn nhau).
Schwartz (1992, 2012) cho rằng định nghĩa và phân nhóm về giá trị nêu trên đều đặt cơ sở ở ba hình thái nhu cầu cơ bản cần thiết cho sự sinh tồn và phát triển của con người, từ đó tạo thànhhệ thống giá trị cơ bản có tính phổ quát: i) Các nhu cầu của các cá nhân như những cơ thể sinh học; ii) Các điều kiện tiên quyết của sự tương tác kết hợp mang tính xã hội; và iii) Các yêu cầusinh tồn và phát triển của các nhóm xã hội.
Tổng hợp từ các khái niệm và cách tiếp cận đã phân tích, chúng tôi cho rằng giá trị là kết quả những định giá trở thành chuẩn mực, mục tiêu, mục đích, phương tiện và có tính lâu bền cho các tư tưởng và hành động của con người về những gì được coi là tốt đẹp và đáng ước vọng nhất.
2. Các đặc trưng và vai trò của giá trị
Từ khái niệm nêu trên, theo chúng tôi giá trị có những đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, giá trị thể hiện mối quan hệ giữa con người với con người và con người với tự nhiên. Các giá trị hình thành, tồn tại và mất đi phản ánh nhận thức về các tiêu chuẩn ứng xử, và tiếp đến tiêu chuẩn cho hành động, của con người trong các mối quan hệ đó. Vì vậy, về cơ bản giá trị mang tính chủ quan, tùy thuộc vào không gian và thời gian nhất định, song cũng phản ánh tính khách quan trong quá trình nhận thức. Nói cách khác, giá trị do con người đề ra, nhưng trên cơ sở tri thức thu lượm được từ các sự vật hiện tượng diễn ra xung quanh.
Thứ hai, giá trị phản ánh đồng thời hai khía cạnh: Mục đích cuối cùng (cứu cánh) và phương tiện trong việc đạt được cứu cánh đó. Đây là sự thống nhất giữa phương tiện và cứu cánh. Cứu cánh, mặc dù là điều đáng ước vọng, không thể dùng để biện minh cho phương tiện, nếu phương tiện ấy không phù hợp hay đi ngược với các chuẩn mực đã có. Ngược lại, phương tiện phải luôn hướng tới cứu cánh đã xác định. Nếu không có sự phù hợp, phương tiện phải có sự điều chỉnh hoặc cứu cánh cần thay đổi.
Thứ ba, giá trị của tự nhiên không chỉ bao gồm phương tiện, mà còn cả mục đích. Trước đây tự nhiên chỉ được coi như phương tiện để đạt được các mục tiêu của con người. Hiện nay, quan điểm đã có sự thay đổi. Thế giới tự nhiên nếu không bao trùm thế giới con người, thì ít ra cũng phải nhìn nhận trong sự bình đẳng và đồng tiến triển.
Thứ tư, giá trị có sự ổn định tương đối. Sự ổn định đó có được là do giá trị là sự chắt lọc từ các điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa,... những thứ hình thành nên môi trường sinh sống và phát triển của con người - trong một thời gian dài và có sự tiếp nối thế hệ. Vì vậy, xét ở bình diện xã hội, sự thay đổi giá trị thường không mang tính đảo lộn, trừ khi tất cả các yếu tố tạo nên nó thay đổi cùng lúc.
Thứ năm, giá trị, với sự kết hợp giữa mục đích và phương tiện, là định hướng cho các hành động cụ thể của con người, xét cả ở góc độ cá nhân, nhóm, hay rộng hơn là cộng đồng, vùng, quốc gia. Tuy nhiên, ở cấp độ rộng hơn cá nhân, giá trị cũng chỉ là các chuẩn mực hay mục tiêu được thừa nhận rộng rãi, còn mỗi cá nhân luôn có sự đánh giá các quan hệ hết sức đa dạng. Vì vậy, khi bàn về giá trị, cấp độ đề cập tới hết sức quan trọng.
Thứ sáu, giữa các giá trị có thể có sự mâu thuẫn. Mặc dù đều được thừa nhận như điều đáng ước vọng, song với những hạn chế về thời gian và nguồn lực, con người luôn có sự đánh đổi giữa các mục tiêu, có được cái này phải hy sinh toàn bộ hay một phần cái kia. Ưu tiên mục tiêu nào trong giai đoạn nào là vấn đề cần phải xem xét.
Thứ bảy, sự ưu tiên trong mỗi không gian và thời gian khác nhau của con người tạo thành thứ bậc giá trị hay hệ giá trị, nghĩa là các giá trị có tầm quan trọng tương đối khác nhau trong từng thời điểm.
Thứ tám, giá trị có tính bao trùm, vượt lên trên những tình huống hoàn cảnh cụ thể (Schwartz, 1992). Mặc dù vậy, chúng có thể có tính đặc thù của cá nhân hay nhóm; cũng có thể mang tính phổ quát của cộng đồng, vùng, quốc gia hay nhân loại.
Cuối cùng, giữa giá trị, chuẩn mực, niềm tin, thái độ,... có sự gắn bó mật thiết và tác động qua lại với nhau, nhưng là các khái niệm khác nhau. Từ giá trị đến hành động không phải là quan hệ trực tiếp mà qua một số kênh dẫn xuất. Mặc dù vậy, từ các hệ giá trị nhất định có thể ước đoán các hành động tương ứng.
Ở đây, chúng tôi quan niệm sự khác nhau giữa giá trị và các khái niệm liên quan như sau:
Niềm tin (belifs) là quan niệm về sự thực mối quan hệ giữa các sự vật và hiện tượng (Schwartz, 2012). Niềm tin là những điều mà người ta tin rằng đó là sự thực, đặc biệt là giáo lý hay tập hợp giáo lý, có thể mang tính cá nhân, nhưng khi mang tính tập thể nó giúp xác định quan điểm của một nhóm hay thậm chí một nền văn hóa (Rogers et al., 1988; Dietz et al., 2005).
Niềm tin nhìn chung là hiểu biết của con người, cá nhân hoặc nhóm, về các sự vật, hiện tượng. Trong khi đó, giá trị đề cập đến những gì được xem là đúng và quan trọng.
Chuẩn mực (norms) là các tiêu chuẩn hoặc quy định dùng để thống báo cho các thành viên của nhóm hoặc xã hội họ nên cư xử thế nào (Schwartz, 2012). Trong phạm vi nhất định như nhóm hay nền văn hóa, chuẩn mực đặt ra các giới hạn có thể chấp nhận được của hành vi, và được duy trì bằng các hình thức thưởng phạt. Chuẩn mực thường liên quan đến một tình huống cụ thể chứ không mang tính trừu tượng và rộng như giá trị; và giá trị ảnh hưởng tới việc liệu chúng ta có chấp nhận hay không một chuẩn mực (Schwartz, 2012).
Thái độ (attitudes) là các đánh giá về các sự vật và hiện tượng tốt hay xấu, đáng mong muốnhay không, là xu hướng phản ứng thuận lợi hay không thuận lợi. Thái độ có thể hướng tới con người, hành vi, sự kiện, tình huống, đồ vật (cụ thể hoặc trừu tượng). Khác với giá trị thương mang nghĩa tích cực, thái độ có thể tích cực, tiêu cực hay trung tính. Giá trị cắt nghĩa cho thái độ do nó chính là cơ sở của đánh giá; và cũng trừu tượng hơn thái độ (Schwartz, 2006; Allen et al., 2009).
Hành vi (behaviors) là các hành động có thể quan sát hoặc hoạt động mà người ta thực tế tiến hành (Allen et al., 2009).
Cơ chế dẫn xuất từ giá trị đến hành động nêu trên có thể áp dụng đối với nhiều cấp độ từ cá nhân, nhóm, cộng đồng, đến vùng hoặc quốc gia, với các cấp độ giá trị tương ứng.
Cơ chế dẫn xuất từ giá trị đến hành động nêu trên có thể áp dụng đối với nhiều cấp độ từ cá nhân, nhóm, cộng đồng, đến vùng hoặc quốc gia, với các cấp độ giá trị tương ứng.
Trong đời sống xã hội, các hệ giá trị được hình thành có vai trò to lớn:
Thứ nhất, giá trị đóng vai trò thiết yếu trong việc lý giải các hiện tượng và quá trình xã hội. Giá trị là nhân tố xem như quyết định tất cả các hành vi cá nhân hoặc tập thể, thái độ và hệ tư tưởng, đánh giá, phán xét đạo đức, biện minh cho bản thân và người khác, so sánh bản thân với người khác, thể hiện bản thân với người khác, và cố gắng ảnh hưởng người xung quanh (Rokeach, 1973). Giá trị ở đây được xem như cái gốc của mọi hoạt động con người.
Thứ hai, các giá trị có chức năng quan trọng trong việc cho phép cá nhân hợp tác với nhau để cùng thực hiện các mục tiêu chung. Các giá trị như trách nhiệm xã hội, quan tâm đến người khác và giáo dục khuyến khích người ta đặt mong muốn cá nhân sang một phía và cam kết thực hiện các nhiệm vụ xã hội khó khăn (Mc Laughin, 2001). Các cá nhân trong xã hội càng có nhiều giá trị tương đồng thì họ càng sẵn sàng hợp tác do có chung nền tảng về nhân sinh quan và thế giới quan. Trong các trường hợp như vậy, giá trị là đại diện cho nhận thức, một mặt về nhu cầu và mong muốn của cá nhân, mặt khác về nhu cầu xã hội đối với người khác (Grube et al., 1994). Đây là cơ sở cho các hành động tập thể, cùng hướng đến giải các bài toán chung về kinh tế, xã hội, môi trường,...
Thứ ba, giá trị còn là nét tiêu biểu để nhận dạng các cá nhân, nhóm và cộng đồng văn hóa, để tìm hiểu sự biến đổi của chúng theo thời gian (Schwartz, 2012). Nói cách khác, giá trị chính là những kết tinh, để từ đó có thể so sánh, đối chiếu và đánh giá sự đa dạng trong cách nhìn nhận về mối quan hệ của con người với tự nhiên và với chính họ. Từ đó có thể khai thác những nét đặc sắc phục vụ cho quá trình phát triển.
Thứ tư, việc gần gũi về hệ giá trị của các thành viên trong xã hội, không những cho phép họ hợp tác với nhau, mà còn thúc đẩy quá trình học tập qua lại, trao đổi thông tin và sáng tạo tri thức(Capello, 2007). Điều này xuất phát từ sự tương đồng trong tư tưởng, đánh giá, nhận thức và hành động, làm các cá nhân hay nhóm tương đối thuần nhất, nhờ đó tri thức lan tỏa dễ dàng hơn.
Thứ năm, bản thân một số giá trị, nếu nhìn nhận như phương tiện, chính là các nguồn lực quan trọng nhất của mỗi cộng đồng, vùng hay quốc gia. Các nguồn lực ở đây có thể biểu hiện dưới dạng tự nhiên, con người, xã hội hay văn hóa. Và sự kết hợp giữa chúng có vai trò quyết định sự thịnh vượng của cộng đồng hay vùng đó.
3. Các cấp độ của giá trị
Rokeach (1973) cho rằng bảng điều tra giá trị của ông cho dù xuất phát từ cấp độ cá nhân nhưng có tính phổ quát nên có thể áp dụng ở nhiều cấp độ phân tích, từ cá nhân, nhóm, tổ chức và nền văn hóa. Mặc dù vậy giữa các cấp độ nêu trên, có sự hình thành giá trị hết sức khác nhau, và mối quan hệ giữa các cấp độ cũng rất phức tạp. Vì vậy, hiện ít có đồng thuận trong việc xác định và đo lường đa cấp độ, đặc biệt cơ chế liên hệ giữa giá trị cấp vi mô và cấp vĩ mô. Ở đây chúng tôi chỉ xem xét hai cấp độ chính: Cá nhân (vi mô), và nhóm và nền văn hóa (vĩ mô).
i) Cá nhân
Đây là các định giá mang tính cá nhân về những điều tốt đẹp và đáng mong đợi, gồm tập hợp các nguyên tắc, chuẩn mực, niềm tin, thái độ được vận dụng để ra quyết định hàng ngày. Giá trị cá nhân thường nảy sinh từ môi trường sống xung quanh và thay đổi theo thời gian. Giá trị cá nhân liên quan tới việc ra quyết định bằng cách cho phép các nhân đó so sánh giá trị gắn với mỗi lựa chọn. Quyết định theo phương án này đồng nghĩa với việc loại bỏ các phương án khác thay thế, vì vậy ở đây thứ bậc các giá trị đóng vai trò then chốt.
Có một điều cần lưu ý là tập hợp giá trị của mỗi cá nhân thường không mang tính phổ quát, nghĩa là có sự khác biệt về quan điểm và đa dạng trong tính cách giữa các cá nhân. Tuy nhiên, một hay một vài giá trị trong số đó vẫn mang tính phổ quát, được thừa nhận rộng rãi.
ii) Nhóm và nền văn hóa
Việc nắm giữ một hay một tập hợp giá trị không nhất thiết là cá nhân, mà còn có thể là các nhóm, hàm ý tập hợp các cá nhân có chung một đặc điểm nhất định (tôn giáo, dân tộc, tuổi tác, nghề nghiệp,...). Các đặc điểm này ảnh hưởng tới quan hệ xã hội và vai trò xã hội, những kỳ vọng và những khó khăn cũng như khả năng phát triển của mỗi cá nhân. Vì vậy, những khác biệt về đặc điểm cơ bản nêu trên ảnh hưởng rất lớn đến môi trường sống, và qua đó ảnh hưởng tới tập hợp và thứ bậc giá trị (Schwartz, 2006).
Mối liên hệ quan trọng nhất ở đây là sự chia sẻ giá trị giữa các cá nhân trong nhóm Theo đó, các giá trị được chia sẻ là các chuẩn mực, niềm tin, thái độ được đa số trong nhóm đồng thuận và trở thành cơ sở cho các hành động tập thể nằm giải quyết các bài toán chung về kinh tế, xã hội hay môi trường.
Tuy nhiên, việc xác định các giá trị được chia sẻ cũng gặp nhiều khó khăn.
Thứ nhất, mặc dù giả định về sự chia sẻ được đưa ra tương đối dễ dàng, nhưng trên thực tế rất khó xác định điều này. Một mức độ tương đồng nào đó giữa các cá nhân có thể chỉ là điều kiện cần chứ không đủ. Thêm nữa, giả định giá trị được chia sẻ sẽ loại trừ tình huống xung đột giá trị trong nhóm (Roe and Ester, 1999).
Thứ hai, có thể có những nhóm sự chia sẻ giá trị rất mạnh (ví dụ như tôn giáo); ngược lại có nhóm rất yếu (ví dụ cùng trong một tổ chức kinh doanh). Do đó, cần có sự phân loại xem loại đặc điểm nào của nhóm có sự chia sẻ cao và loại nào hầu như không làm nên tính đặc thù của nhóm.
Thứ ba, giá trị của nhóm được hình thành từ các giá trị cá nhân. Nhưng khi đã hình thành rồi, nó có ảnh hưởng đến giá trị của các cá nhân đó hay không. Vì vậy, phải xem xét mối quan hệ này theo cách nhân quả tuần hoàn (Roe and Ester, 1999).
Thứ tư, các hành động tập thể diễn ra trong nhóm, nhằm hướng đến một trạng thái hay mục tiêu nào đó. Nhưng đây là mục tiêu của nhóm và không nhất thiết giống hay phù hợp với mục tiêu của cá nhân, nghĩa là trong nhóm chỉ có sự chia sẻ giá trị phương tiện. Như vậy, liệu sự chia sẻ có tiếp tục không là vấn đề đáng lưu tâm (Williams, 1979).
Giá trị của nền văn hóa xác định các mục tiêu, phương tiện và đặc trưng mà đa số các thành viên của nó xem là quan trọng và đáng mong ước. Mặc dù vậy, giá trị của mỗi thành viên có thể không trùng khớp với giá trị chung, do giá trị cá nhân luôn đa dạng và có thứ bậc ưu tiên khác nhau. Và cũng tương tự như với nhóm, với giả định về sự chia sẻ, việc xác định giá trị của nền văn hóa cũng gặp nhiều khó khăn.
Khác với cách tiếp cận từ dưới lên (chia sẻ), cách tiếp cận từ trên xuống về giá trị có những lập luận khác.
Inglehart (1995) cho rằng hiện đại hóa nối tiếp quá trình tăng trưởng và đảm bảo kinh tế ngay tại nơi các quá trình này diễn ra. Đi cùng với hiện đại hóa là một tập hợp các giá trị có quan hệ chặt chẽ như tính siêng năng, bình đẳng, tiết kiệm và an toàn. Tuy nhiên, việc đạt được sự đảm bảo kinh tế ở nhiều nước đã thúc đẩy sự dịch chuyển các giá trị cơ bản. Con người ở những nơi đó đã và đang trải qua bước ngoặt hướng tới các giá trị hậu hiện đại, đặt trọng tâm vào các mối quan tâm mang tính cá nhân như nghỉ ngơi, tự thể hiện và mong muốn làm những công việc sáng tạo và có ý nghĩa, chứ không chỉ đơn thuần kiếm tiền.
Về cơ bản, các giá trị hậu hiện đại cũng theo con đường tương tự như các giá trị hiện đại, đặc biệt liên quan tới thế tục hóa và cá nhân hóa, nhưng có sự khác biệt ở một số điểm. Ở các xã hội mà đa số các thành viên có được sự đảm bảo về kinh tế, các cá nhân sẽ tìm kiếm cơ hội thảo mãn các mục tiêu hậu vật chất, như bảo vệ môi trường và nhu cầu quan hệ xã hội. Cá nhân cũng không ủng hộ các thiết chế lớn, kể cả tôn giáo hay nhà nước, và tập trung nhiều hơn vào các mối quan tâm cá nhân. Họ theo đuổi các phương tiện để tự thể hiện và tham chính, đặc biệt thông qua hoạt động cộng đồng (McLaughlin, 2001).
Các lập luận nêu trên xuất phát từ giả định rằng sự phát triển xã hội không phải là một quá trình ngẫu nhiêu và thiếu trật tự, mà có liên quan chặt chẽ với một cấu trúc giá trị nhất định. Do đó, định hướng giá trị có vai trò hết sức quan trọng, khi giá trị vừa là nguyên nhân vừa là kết quả của quá trình phát triển. Vì vậy, có sự tương đồng giữa các nước phát triển, cũng như giữa các nước kém phát triển, nhưng không có tương đồng giữa hai nhóm (Inglehart, 1995).
Một giả định khác là cơ chế tiếp nhận giá trị, nhấn mạnh tầm quan trọng đặc biệt của giai đoạn đầu quá trình xã hội hóa cá nhân. Lớn lên trong một môi trường ổn định, an ninh và thịnh vượng thúc đẩy cá nhân tiếp nhận và phát triển các giá trị hậu hiện đại. Tầm quan trọng ngày càng tăng của việc định hướng giá trị hậu hiện đại có thể thấy ở các đề xuất dân sự mới; sự gia tăng ý thức về môi trường sinh thái, sự khoan dung, đa văn hóa và hội nhập; sự gia tăng chú ý vào quyền con người và bản sắc cá nhân; sự tăng cường ý tưởng tự điều tiết và chối bỏ những hệ tư tưởng chính trị cổ điển (McLaughlin, 2001).
Nhìn chung, cách tiếp cận này xuất phát từ những thay đổi hệ giá trị trong điều kiện môi trường vĩ mô chuyển tiến giữa các thời đại. Từ đó, có thể phân tích đánh giá sự lan tỏa của các giá trị này tới các cấp độ khác nhau.
4. Các nguồn và sự biến đổi của giá trị
Đối với mỗi cá nhân, nhóm hay cộng đồng lớn hơn, các định giá về mối quan hệ giữa con người với con người, và với tự nhiên xuất phát từ hai nguồn chủ yếu.
Các giá trị truyền thống thường bắt nguồn từ các điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và văn hóa đặc thù trong quá khứ. Các điều kiện đó ảnh hưởng tới môi trường sinh sống, sản xuất và sinh hoạt của một cộng đồng người, và do đó chi phối cách thức họ định giá về các mối quan hệ. Các điều kiện này cũng quyết định hệ giá trị, nghĩa là thứ bậc ưu tiên giữa các giá trị khác nhau. Trong các trường hợp đặc biệt, các giá trị truyền thống có thể xuất phát từ các quan điểm và phẩm chất của một cá nhân ưu tú trong cộng đồng trong quá khứ (Wiener, 1988). Các giá trị này được lưu truyền giữa các thế hệ, thông qua tương tác xã hội và giáo dục, xét cả ở cấp độ gia đình, cộng đồng hay xã hội, thể hiện sợi dây liên hệ liên tục giữa quá khứ và hiện tại.
Các giá trị hình thành từ truyền thống có một số đặc điểm:
i) Có tính đặc thù, gắn với nhóm hay cộng đồng nhất định.
ii) Đã được thử thách qua thời gian, thông qua quá trình tái định giá liên tục.
iii) Các cá nhân hay tình huống thông thường khó có thể ảnh hưởng. Như đã đề cập ở trên, nguồn giá trị có thể từ một cá nhân xuất chúng. Nhưng khi giá trị đó đã chi phối theo thời gian, nó khó bị thay đổi bởi cá nhân khác.
iv) Biến đổi dần dần, kể cả khi có những biến cố lớn, nghĩa là luôn có độ trễ so với sự biến đổi môi trường xung quanh.
v) Có tính dễ dự đoán. Do tương đối ổn định, các giá trị này có thể sử dụng để đoán định hành vi; và
vi) Thường gắn bó chặt chẽ với yếu tố dân tộc, tôn giáo, vùng miền hoặc một triết lý, một hệ tư tưởng chi phối trong quá khứ.
Trừ những cộng đồng người sống biệt lập, hầu hết các cộng đồng đều có sự giao lưu, trao đổi và hợp tác với thế giới bên ngoài, trên nhiều mặt của đời sống xã hội. Chính thông qua quá trình tiếp xúc đó, các chuẩn mực, niềm tin lan tỏa và xâm nhập lẫn nhau, xét cả ở cấp độ cá nhân, nhóm và cộng đồng; và quá trình này cung cấp nguồn định hình giá trị khác với truyền thống - các giá trị hội nhập. Cơ chế lan tỏa giá trị theo cách này hết sức đa dạng:
i) Du nhập trực tiếp và toàn bộ một giá trị khác.
ii) Củng cố thêm cho giá trị truyền thống.
iii) Làm suy yếu giá trị truyền thống.
iv) Thay thế giá trị truyền thống.
v) Du nhập nhưng có sự biến đổi một giá trị khác cho phù hợp với hoàn cảnh.
vi) Xung đột giữa giá trị truyền thống và bên ngoài;
vii) Kết hợp giữa nhiều mức độ nêu trên, với nhiều loại giá trị khác nhau.
Xét riêng đối với từng cộng đồng đơn lẻ, các giá trị mới hình thành thông qua quá trình hội nhập có nhiều đặc điểm khác biệt so với giá trị truyền thống: i) Tính phổ quát cao hơn; ii) Chưa được thử thách qua thời gian; iii) Tính ổn định thấp hơn. Song, sự phân chia giữa nguồn truyền thống và hội nhập chỉ là tương đối. Bởi lễ quá trình cọ xát giữa các hệ giá trị, ở mọi cấp độ, mang tính liên tục và đan xen. Một giá trị trước đây được du nhập, và đã ổn định, thì nay nó đã là giá trị truyền thống. Ở giác độ khác, một giá trị truyền thống hiện tại, qua quá trình giao lưu và tiếp biến, có thể biến đổi thành giá trị du nhập trong tương lai.
Sự tương tác không ngừng giữa các nguồn truyền thống và hội nhập hình thành nên giá trị đương đại, đan xen giữa cái mới và cũ, văn minh và lạc hậu. Hệ giá trị này, đến lượt nó, lại tiếp tục có sự vận động, đào thải, thay thế và bổ sung cho cái cũ; du nhập, thích nghi và biến đổi cái mới,...
Với những phân tích như trên, nguyên nhân làm thay đổi giá trị cũng chính là sự biến đổi các nguồn góp phần hình thành nên nó.
Xét ở góc độ cá nhân, khi môi trường tự nhiên, kinh tế, xã hội xung quanh họ thay đổi, người ta sẽ có các đánh giá khác về các mối quan hệ. Từ đây, các giá trị truyền thống bị thách thức; đồng thời các giá trị mới bên ngoài được cân nhắc. Ngoài ra, trong hệ giá trị của mỗi cá nhân, các giá trị quan hệ với nhau hết sức chặt chẽ. Thay đổi của một giá trị sẽ dẫn tới sự biến đổi các giá trị khác, và có thể làm thay đổi toàn bộ hệ giá trị. Bởi lẽ, mỗi cá nhân luôn cố gắng duy trì một hình mẫu về ứng xử, phản ánh tiêu chuẩn đạo đức và khả năng của mỗi người. Khi hành động và niềm tin của họ mâu thuẫn với hình mẫu này, họ sẽ thấy cần phải thay đổi để hành động và niềm tin song hành (Rokeach and Rokeach, 1980).
Schwartz (2006) cho rằng người ta luôn thích nghi với hoàn cảnh sống. Họ sẽ nâng tầm quan trọng của những giá trị mà họ có thể đạt được, và hạ thấp vai trò của những giá trị bị ngăn cản. Ngược lại, riêng đối với các giá trị cơ bản như vật chất và an toàn, khi thiếu hụt, tầm quan trọng của chúng tăng; và khi dễ dàng có được, tầm quan trọng giảm (Inglehart, 1997).
Ở các cấp độ cao hơn như nhóm và xã hội, quá trình thay đổi cũng diễn ra tương tự, đặc biệt dưới tác động của quá trình hội nhập. Vì thông tin nhanh và nhiều hơn; quan hệ sâu, rộng và đan xen hơn; các thỏa thuận, chia sẻ, giao dịch thường xuyên hơn và mức độ cao hơn sẽ khiến cho các quan điểm và đánh giá ngày càng xích lại và tương đồng với nhau hơn để đảm bảo các quan hệ có trật tự và được duy trì. Điều này làm các giá trị truyền thống, nếu không biến đổi cho phù hợp, thì sẽ bị đào thải, hoặc mất vai trò.
Tuy nhiên, như vậy không có nghĩa là các nhóm sẽ đi đến có hệ giá trị giống nhau, và mất đi bản sắc vốn có. Vì nhiều yếu tố truyền thống đã được thời gian kiểm nghiệm có sức sống mạnh mẽ và sự khác biệt, nếu không dẫn tới xung đột, thường được tôn trọng. Ngoài ra, các giá trị trải qua thử thách thời gian lại trở thành truyền thống.
Sự thay đổi giá trị không chỉ từ cấp độ cá nhân hay từ các cấp độ cao hơn, mà còn là kết quả của quá trình tương tác giữa các cấp độ. Thay đổi ở cấp độ cá nhân dần dần sẽ dẫn tới sự thay đổi ở cấp độ cao hơn nó. Khi giá trị của các cấp độ cao hơn đã định hình, nó sẽ ảnh hưởng ngược lại cấp độ cá nhân, và làm giá trị của cấp độ này thay đổi. Ngược lại, khi giá trị ở cấp độ cao thay đổi, như là kết quả của quá trình tái định hình giá trị, giá trị ở cấp độ cá nhân cũng thay đổi như là kết quả của quá trình định hướng giá trị từ trên cao. Tiếp đó, quá trình thay đổi ở cấp cá nhân lại có những phản hồi tới các cấp độ cao hơn, và làm giá trị ở các cấp này thay đổi. Hệ giá trị ở mỗi cấp độ hình thành, điều chỉnh như là sự chắt lọc của các quá trình liên tục nêu trên.
Có thể chia các nguyên do biến đổi giá trị thành một số nhóm chính: i) Sự thay đổi của môi trường tự nhiên, kinh tế, xã hội, văn hóa; ii) Sự thay đổi về giáo dục cả ở trong gia đình và xã hội; và iii) Sự chi phối của yếu tố vòng đời (Toth and Simanyi, 2006).
Trong các nhóm nêu trên, sự tác động của vòng đời chủ yếu mang tính cá nhân. Mỗi cá nhân ở các lứa tuổi khác nhau, gắn với nghề nghiệp, thu nhập, cương vị xã hội,... sẽ có những hệ giá trị khác nhau. Tuy nhiên, khái niệm vòng đời cũng có thể áp dụng cho xã hội với các giai đoạn phát triển khác nhau, ví dụ xã hội nông nghiệp, công nghiệp, hậu công nghiệp,...
Giáo dục hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm cả các quá trình diễn ra trong gia đình, cộng đồng và nhà trường, cũng có tác động mạnh đến hệ giá trị của cá nhân và nhóm thông qua vai trò định hướng. Rokeach (1973) cho rằng con người không được sinh ra với những giá trị nhất định, mà chắt lọc chúng trong suốt cuộc đời. Giá trị được học hỏi và truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Đây chính là vai trò của giáo dục.
Sự thay đổi các điều kiện môi trường có tác động lớn nhất đến thay đổi giá trị. Sự thay đổi này là quá trình phức hợp, diễn ra bên trong mỗi lĩnh vực và tác động qua lại giữa các lĩnh vực, cả tự nhiên, kinh tế, xã hội và văn hóa. Đối với một nước đang phát triển, các quá trình quan trọng nhất thường được đề cập tới là: i) Công nghiệp hóa; ii) Đô thị hóa; iii) Di cư; iv) Khu vực hóa và toàn cầu; và v) Chính sách của nhà nước.
Các nguyên do đã nêu cũng không tồn tại biệt lập mà có tác động qua lại. Sự thay đổi môi trường có thể dẫn tới thay đổi về triết lý và nội dung giáo dục, và tiếp đến tác động đến yếu tố vòng đời. Thay đổi trong giáo dục cũng có thể dẫn đến biến đổi môi trường cũng như sự đánh giá trong mỗi giai đoạn của đời người. Ở khía cạnh khác, sự chuyển tiếp trong mỗi giai đoạn phát triển xã hội có thể là kết quả của những thay đổi về môi trường và giáo dục, nhưng cũng có thể là nguyên nhân của những thay đổi tiếp nối.
Nguồn: http://viennccspt.hcma1.vn