Công nghiệp văn hoá là một khái niệm mới mẻ và có nhiều đụng chạm. Ông đánh giá ra sao về mức độ tiếp cận vấn đề này trong xã hội?
Đến thời điểm này, vướng mắc lớn nhất vẫn là nhận thức của xã hội nói chung và giới quản lý văn hoá nghệ thuật nói riêng về tầm quan trọng của công nghiệp văn hoá đối với nền kinh tế và đối với sự phát triển văn hoá nghệ thuật. Thậm chí một số người đồng nhất công nghiệp văn hoá với… thương mại hoá văn hoá nghệ thuật! Tức là đang có một cuộc đấu tranh về cách nhìn đối với sự phát triển của văn hoá nghệ thuật trong bối cảnh thị trường và hội nhập quốc tế.
Mới đây, tại một hội thảo, có ý kiến phản ứng gay gắt cho rằng bắt nghệ sĩ tiếp cận thị trường, học quản trị nghệ thuật là làm “ô uế” họ. Xưa nay, chúng ta vẫn quan niệm văn hoá nghệ thuật là lĩnh vực sáng tạo cá nhân. Với cách nhìn mới, quan niệm như thế chưa đủ. Văn hoá nghệ thuật ngoài sự sáng tạo cá nhân/nhóm còn cần đến một quy trình trọn vẹn bao gồm công nghệ tổ chức sản xuất lẫn cách thức tiếp cận thị trường. Đó là ba cột trụ để tạo ra các sản phẩm và dịch vụ trong nền kinh tế thị trường, ba yếu tố có quan hệ khăng khít với nhau, lồng vào nhau, mà thiếu một trong ba yếu tố này, không tạo nên công nghiệp văn hoá đích thực. Có nghĩa là cần phải khuếch trương khía cạnh thương mại của nghệ thuật khi mà một số lĩnh vực của nghệ thuật và văn hoá có khả năng đem lại tài chính, tạo công ăn việc làm, đóng góp vào GDP quốc gia… Và như vậy, văn hoá nghệ thuật từ một lĩnh vực tiêu tiền đã được nhìn nhận là một lĩnh vực có thể làm ra tiền, nếu biết đầu tư một cách bài bản!
Các giá trị văn hoá nghệ thuật nếu biết cách tiếp cận tốt, sẽ trở thành những giá trị hàng hoá được trao đổi trên thị trường. Khi những sáng tạo cá nhân được bảo hộ, được đăng ký bản quyền, ví dụ một tiểu thuyết mới của một nhà văn, công nghệ xuất bản giúp độc giả tiếp cận một tác phẩm có giá trị, tác phẩm được phổ biến rộng rãi, cũng có nghĩa công nghiệp văn hoá không hề phủ nhận hay giết chết sự sáng tạo mà là hỗ trợ, giúp cho tác phẩm đó làm ra tiền. Hiện đã có một số ngành, tổ chức làm được điều này. Ví dụ ẩm thực – một lĩnh vực của công nghiệp văn hoá, với việc phở Vuông, Phở 24 hội nhập thế giới trong khi nhiều thương hiệu phở nổi tiếng của Hà Nội như phở Chất, phở Thìn… thì vẫn dừng lại ở phạm vi truyền thống! Để biến một giá trị văn hoá thành một giá trị hàng hoá trên thị trường quốc tế, phải có công nghệ tổ chức sản xuất và tiếp cận thị trường. Đây là bài toán kinh tế.
Chúng ta sẽ đầu tư vào công nghiệp văn hoá như thế nào, thưa ông?
Đối với Việt Nam, ở bước đi ban đầu, cần xác lập chính thức chiến lược công nghiệp văn hoá thông qua các mục tiêu, lĩnh vực ưu tiên. Định hướng phát triển văn hoá đến năm 2020 của Việt Nam đã thừa nhận công nghiệp văn hoá và ba ngành được đề cập là điện ảnh, mỹ thuật và tổ chức biểu diễn; trong khi một số ngành khác có những thuận lợi hơn như thiết kế, quảng cáo, kỹ thuật số (phần mềm, trò chơi trực tuyến, game) hay phát thanh – truyền hình… cũng cần được bàn luận. Hàn Quốc chọn điện ảnh, kỹ thuật số. Trung Quốc ưu thế về nhiều lĩnh vực. Còn ta?
Ta thiếu một cơ quan tầm quốc gia có chức năng quản lý, hỗ trợ công nghiệp văn hoá. Các cơ quan này phối hợp với nhau để thực thi công nghiệp văn hoá có hiệu quả, xây dựng các tổ chức kết nối, thông thương với thị trường, phân vai rành rõ giữa Nhà nước và doanh nghiệp. Lõi của văn hoá là nghệ thuật và các hoạt động liên quan đến nghệ thuật, luôn cần có sự đầu tư hợp lý cho tự do sáng tạo của người nghệ sĩ cũng như sự khuếch trương hiệu quả khía cạnh kinh doanh. Tiền không phải là vấn đề quan trọng nhất trong đầu tư cho công nghiệp văn hoá mà đi liền với việc củng cố cơ sở hạ tầng vốn rất yếu kém của ta, phải có một chiến lược phát triển nguồn nhân lực (ngoài năng lực sáng tạo, thẩm mỹ, còn có năng lực tổ chức sản xuất và có tư duy/kỹ năng tiếp cận thị trường. Việc này không dễ, phải mất hàng chục năm. Tiếp theo là việc hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật có khả năng khuyến khích xã hội đầu tư, thu hút được nhiều nguồn lực ngoài nhà nước vào lĩnh vực này với những chính sách ưu đãi về thuế, các chính sách về sở hữu trí tuệ, bản quyền để bảo vệ các sáng tạo (hiện có luật nhưng không hiệu lực vì vi phạm vẫn nhan nhản!)
Liệu công nghiệp văn hoá có vừa là gánh nặng nhưng cũng vừa là lối thoát với một số tổ chức văn hoá, nghệ thuật?
Bấy lâu nay, chúng ta vẫn duy trì quan điểm đầu tư theo kiểu bao cấp. Với một số loại hình nghệ thuật truyền thống, nếu áp dụng cứng nhắc công nghiệp văn hoá, sẽ mất đi “bầu sữa mẹ”. Quan điểm nhất quán: cái gì làm ra được tiền thì phải làm ra tiền; cái nào không/khó làm ra tiền, cần bao cấp của Nhà nước thì phải bao cấp, những cần đổi cách thức bao cấp. Ngay trong bao cấp, cũng cần đưa ra các tiêu chí về hiệu quả, tiếp cận thị trường để đánh giá.
Không nên tiếp tục duy trì cách nghĩ văn hoá là văn hoá và kinh tế là kinh tế. Ngay trong yếu tố đầu vào của văn hoá (sự sáng tạo) đã phải có tư duy thị trường (đáp ứng nhu cầu, giá cả đi đôi với chất lượng, quản lý hiệu quả, có sự đánh giá từ thị trường…) Mặc dù công nghiệp văn hoá không phải là giải pháp cho toàn bộ nền văn hoá nghệ thuật, song nó chính là cách để kết nối văn hoá nghệ thuật với kinh tế và thúc đẩy tiến trình hội nhập của văn hoá nghệ thuật nước ta với quốc tế. Công nghiệp văn hoá là cách thức mới để phát triển các sản phẩm văn hoá nghệ thuật, vận dụng các công cụ kinh tế để phát triển văn hoá nghệ thuật.
Nguồn: www.sgtt.com.vn