Chương III
Những nghi lễ vòng đời người
Để tiếp xúc và cầu khẩn thế giới thần linh, từ thời nguyên thủy, con người đã từng bước tạo nên những nghi lễ và phát triển thành hệ thống. E.B. Tylor trong công trình Văn hóa nguyên thuỷ đã dành một chương lớn viết về nghi lễ và lễ nghi. Theo ông, nghi lễ là: “Phương tiện giao tiếp với những thực thể linh hồn” [1] và: “Tốt nhất có lẽ nên đặt niềm tin vào các thực thể tinh thần (Spirituels) như một định nghĩa tối thiểu về tôn giáo” [2]. Thông qua nghi lễ, những người đang sống ở cõi trần cầu cúng thần linh ở thế giới siêu nhiên những khát vọng cho cuộc đời của mỗi con người. Còn A.A. Radugin - một nhà văn hóa học Nga đã nói về nghi lễ như sau: “Nghi lễ xuất hiện trong thần thoại học nhằm thể hiện mối quan hệ hữu hiệu giữa cuộc sống thường ngày với siêu nhiên (linh hồn tổ tiên, thần thánh, ma quỷ, số phận v.v…). Nghi lễ được truyền lại không chỉ trong tôn giáo mà đi vào cả cuộc sống thường ngày, đặc biệt là trong nền văn hóa dân gian truyền thống. Tại đây, nghi lễ là di tích còn sót lại của thần thoại” [3].
Theo nhu cầu của đời sống tâm linh, ứng với tâm lý vừa sợ sệt, vừa mong muốn sự ban ơn của thần linh, con người đã hình thành nên hệ thống tín ngưỡng và kèm theo đó là hệ thống nghi lễ. Các nhà nghiên cứu văn hóa đã chia ra nhiều loại hình nghi lễ khác nhau: Hệ thống nghi lễ nông nghiệp cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt; hệ thống nghi lễ trong tín ngưỡng ngư nghiệp; hệ thống nghi lễ theo tín ngưỡng tổ nghề, nghi lễ thờ tổ tiên, nghi lễ cộng đồng tôn giáo và hệ thống nghi lễ vòng đời.
Nghi lễ vòng đời người theo GS.TS. Ngô Đức Thịnh là “những nghi lễ liên quan đến cá nhân, từ khi sinh ra đến khi chết” [4]. Nghi lễ vòng đời là cách ứng xử của cộng đồng người đối với một cá nhân, cũng là sự ứng xử đối với toàn bộ xã hội và toàn bộ thế giới tự nhiên bao quanh con người. Nghi lễ vòng đời người là nghi lễ mà gia đình, tộc họ, cộng đồng tôn giáo thực hiện cho mỗi con người. Vì vậy, nghi lễ vòng đời không chỉ liên quan đến một con người, mà liên quan đến cả cộng đồng. Nghi lễ vòng đời người thể hiện sự lo lắng, chăm sóc lẫn nhau để bảo toàn giống nòi và bảo toàn xã hội loài người. Nếu như những lễ nghi nông nghiệp là sự ứng xử của con người với cái tự nhiên ngoài ta (ngoài con người) thì những nghi lễ vòng đời là sự ứng xử với cái tự nhiên trong ta (trong con người).
A.V. Gennep, tác giả cuốn Nghi lễ của sự chuyển tiếp [5], một cuốn sách kinh điển về nghi lễ tuân thủ theo chu kỳ đời người, phân tích khá sâu sắc những nghi lễ liên quan đến những thời kỳ chuyển tiếp, có tính quyết định đời sống xã hội của một con người. Ông đã khái quát một cách đầy đủ và khoa học về nghi lễ vòng đời người, trong đó ông phân biệt tầm quan trọng của 3 giai đoạn: sinh, trưởng thành và tử. Các nhà khoa học đánh giá cao về cơ sở lý thuyết mang tính khái quát của A.V. Gennep, bởi vì nó phù hợp với quan niệm và mục đích ý nghĩa của các nghi thức chuyển trong một đời người của các dân tộc, các tôn giáo. Trong mỗi giai đoạn lớn, A.V. Gennep lại chia ra 3 giai đoạn nhỏ khác nhau: Mỗi giai đoạn có 3 thời kỳ, tách biệt với thời kỳ trước, bước đầu hội nhập và hội nhập vào thời kỳ tiếp sau. 1. Sinh: chửa, đẻ và tuổi sơ sinh, tuổi thiếu niên; 2. Trưởng thành: tuổi thiếu niên, lễ thành đinh và hôn nhân, tuổi con người cộng đồng; 3. Tử: lên lão, sự chết đi đối với tang ma và cuộc sống ở thế giới bên kia.
Mỗi dân tộc, mỗi tôn giáo có các nghi thức chuyển tiếp khác nhau. Người Chăm Ahiêr, do ảnh hưởng của tôn giáo Bàlamôn trộn lẫn với văn hóa bản địa nên các nghi thức chuyển tiếp có sắc thái riêng, nhưng khi khái quát cũng có thể theo cơ sở lý thuyết của A.V. Gennep: 1. Giai đoạn sinh có những kiêng kỵ trước và trong thời kỳ mang thai, các lễ thức trước, trong, sau khi sinh và các lễ thức khác nhau cho đến trước tuổi trưởng thành; 2. Giai đoạn trưởng thành cũng có các lễ thức đánh dấu thời kỳ trưởng thành và các nghi lễ cưới; 3. Giai đoạn tử có các lễ thức dành cho người chết, các nghi lễ tang ma và sau tang ma. Vì vậy, chúng tôi chỉ vận dụng cách chia các giai đoạn về các nghi thức chuyển tiếp trong vòng đời người của A.V. Gennep vào các nghi lễ vòng đời của người Chăm Ahiêr. Còn đối với các nghi lễ cụ thể tác giả xin phân tích trên cơ sở các nghi thức riêng có của người Chăm Ahiêr, để từ đó tìm ra sắc thái văn hóa Chăm.
Các nghi lễ vòng đời của người Chăm Ahiêr [6], từ thời gian, không gian, chủ lễ, động tác hành lễ, các lễ thức, lễ vật vừa phong phú, phức tạp và khó hiểu nhưng lại biểu hiện một cách nhất quán những quan niệm. Để đi sâu nghiên cứu, giải mã những sự vật, hiện tượng, biểu tượng trong các nghi lễ, chúng tôi tìm hiểu và trình bày những nhận định của mình về quan niệm về vũ trụ, về thế giới sống, về linh hồn, vía, hồn ma, về thế giới chết, quan niệm vòng luân hồi và sự giải thoát. Đây cũng chính là những tư tưởng triết lý về không gian, thời gian tâm linh đã gắn chặt vào máu thịt, tâm hồn, tình cảm của người Chăm Ahiêr, làm cơ sở cho sự nhất quán trong nội dung cũng như hình thức thực hiện các nghi lễ vòng đời người.
I. QUAN NIỆM VỀ VÒNG ĐỜI CỦA NGƯỜI CHĂM AHIÊR
1. Vài nét về vũ trụ luận
- Về đấng tạo hóa: Người Chăm với chế độ mẫu hệ luôn coi mẹ xứ sở Pô Inư Nưgar là đấng tạo hóa ra vũ trụ và sự sống của muôn loài (khác với kinh Vê đa, một tôn giáo phụ quyền, Brahma là thần sáng tạo tối cao). Và, với quan niệm lưỡng hợp âm - dương (yin - yang), bên cạnh thần mẹ xứ sở (âm) có thần Yang Pô, Yang Amư (thần trời, thần cha - dương) cũng được coi là đấng tạo hóa, còn Pô Păn là thần cai quản các thần, trông coi công việc thiên giới. Trong hầu hết các nghi lễ Chăm, ba vị thần trên luôn được thỉnh mời đầu tiên. Những đấng tạo hóa này sinh ra ba tầng vũ trụ: thiên - địa - nhân. Quan niệm về ba tầng vũ trụ của người Chăm rất rõ ràng, thể hiện ở trong bùa chú, trong các nghi lễ dân gian, nghi lễ tôn giáo và cả trong những lễ vật dâng cúng mà chúng tôi sẽ trình bày ở chương sau.
- Quan niệm âm - dương lưỡng hợp: thể hiện rõ trong đời sống tín ngưỡng người Chăm, thể hiện từ màu sắc sáng tối cho đến hình dạng của từng vật thể nhỏ nhất.
Một số cặp âm - dương theo quan niệm của người Chăm
Ngoài biểu tượng phồn thực linga - yoni mang tính đặc trưng về quan niệm âm dương của người Chăm theo Shiva giáo, tư duy xưa nay của người Chăm Ahiêr thể hiện nhất quán quan niệm âm - dương lưỡng hợp. Nếu có ngọn tháp tượng trưng cho núi (dương) thì phải có một hào rãnh hay một cái gì tượng trưng cho biển (âm). Tháp là biểu tượng linga, rãnh là yoni và hàng loạt các cặp âm - dương như: Ngày (harei - dương) - đêm (mưlơm - âm); mặt trời (aditiak - dương) - mặt trăng (channưk - âm); chẵn (yơw - âm) - lẻ (cauh - dương); phải (dương) - trái (âm); chỉ riêng trong cộng đồng người Chăm Ahiêr, nếu như lễ Katê (lễ cúng cha - dương), phải vào tháng 7 “nam thất” thì lễ Chabur (lễ cúng mẹ - âm), phải vào tháng 9 “nữ cửu”; thượng tuần trăng (dương) - hạ tuần trăng (âm) v.v… Thậm chí hai tôn giáo chính của người Chăm cũng được quan niệm là “lưỡng thể nhất hợp”: tôn giáo Bàlamôn (ahier) được coi là biểu tượng dương, tôn giáo Bàni (awal) được coi là biểu tượng âm. Lịch của người Chăm awal được tính theo chu kỳ của mặt trăng là lịch âm (Sakawi awal), lịch của người Chăm ahiêr tính theo chu kỳ vận động của mặt trời là dương (Sakawi ahier). Lịch Chăm có 8 can được chia làm hai: 4 can thuộc về dương và 4 can thuộc về âm. Lễ hội Katê của người Chăm Ahiêr được coi là lễ hội thuộc dương, phải vào tháng 7 (tháng 7 thuộc dương theo quan niệm “nam thất nữ cửu”), còn lễ Ramưvan của người Bàni lại được coi là thuộc âm, phải vào tháng 9 theo Chăm lịch; có lễ Palao pasah (cầu đảo tại cửa sông - âm), lại có lễ Pakâp halâu kraung (lễ chặn đầu nguồn sông - dương); có lễ cúng tạ thần lửa ở trên tháp (dương) lại có lễ cúng biển (cầu đảo) ở cửa biển (âm). Ngay trong tôn giáo Bàlamôn, lễ hội Katê là lễ cúng cha (dương) nên phải cúng vào buổi sáng (dương của ngày) và cúng món chay, lễ Chabul là lễ cúng mụ, phải vào buổi chiều (âm) và cúng món mặn. Lễ cưới thuộc âm (mẫu hệ) nên đón rể và lễ cưới phải vào buổi chiều, phải vào giờ âm trong ngày và phải vào hạ tuần trăng (âm của tháng). Các chức sắc Bàni là đàn bà (không được để râu), nhưng trong trang phục lại đeo biểu tượng dương, ngược lại, chức sắc Bàlamôn (để râu) là đàn ông nhưng lại đeo biểu tượng âm vật. Ông thầy Bàlamôn khi làm lễ khấn vái thần linh phải chụm hai ngón tay cái và hai ngón tay trỏ vào với nhau để tạo hình tam giác, khi bịt đầu, ông thầy phải cuốn khăn hình tam giác. Ngược lại, ông thầy Char (chức sắc Bàni) lại đội một cái mũ rộng (plah) là biểu tượng bầu trời (dương). Người Chăm quan niệm rằng ông thầy thuộc dương thì phải làm lễ cho âm, ông thầy thuộc âm thì phải làm lễ cho dương. Theo quan niệm ấy, âm và dương là hai yếu tố hài hòa tạo nên tự nhiên và sự sống.
- Về phương hướng: Người Chăm rất chú trọng về phương hướng và cũng tuân thủ quan niệm âm - dương. Người Chăm quan niệm hướng đông là hướng mặt trời mọc, là hướng của sự sống (dương). Vì vậy, gần như tất cả các tháp Chăm cũng như khuôn viên nhà cổ truyền đều có cổng hướng về phía đông. Ngược lại, hướng tây là hướng “chết” (âm) nên trong nhà lễ tang, hai cây chà gặt phân ranh giới đông - tây. Điều này phù hợp với quan niệm của hầu hết các dân tộc khác trên thế giới, cho rằng hướng “sống” là phía mặt trời mọc. Hướng chết là hướng mặt trời lặn “khuất núi”. Linh hồn người chết bao giờ cũng đi theo hướng mặt trời lặn.
Về hướng bắc - nam trong quan niệm của người Chăm khá phức tạp. Tư liệu điền dã của tác giả cho thấy, trong nghi lễ sinh đẻ, khi người mẹ sinh con phải ngồi quay đầu về hướng bắc, để cho đầu thai nhi lọt ra về hướng nam (hướng “sống” - dương). Trong nghi lễ tang ma, người chết cũng được đặt đầu quay về hướng nam nên nhiều bài viết cho rằng người Chăm quan niệm hướng nam là hướng “chết”. Theo suy luận của chúng tôi, quan niệm về phương hướng trong nghi lễ vòng đời của người Chăm Bàlamôn tuy phức tạp nhưng nhất quán, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và tuân thủ theo vòng luân hồi. Khi sinh đẻ, thai nhi quay đầu hướng nam (hướng sự sống cho người sống) và đến khi chết, người chết lại được đặt quay đầu về hướng nam (hướng chết đối với người chết, nhưng cũng là hướng sống vì tang lễ là lễ “tái sinh”). Đứa trẻ khi sinh ra quay đầu hướng nam để rồi đến khi chết cũng vẫn quay đầu hướng nam tiếp tục vòng luân hồi. Vì vậy hướng nam vừa là hướng “sống” (cho người sống) vừa là hướng “chết” (cho người chết) và với quan niệm tái sinh thì đó lại là hướng “sống” (đầu thai sang thế giới bên kia). Điều này phù hợp với quan niệm âm dương chung: hướng nam là hướng dương.
Những đặc điểm vũ trụ luận của người Chăm Bàlamôn chi phối sâu sắc quan niệm về tín ngưỡng vòng đời.
2. Quan niệm về cuộc sống
Người Chăm từ xa xưa đã coi cuộc sống trên trần gian là một nơi cư ngụ tạm bợ. Họ quan niệm mọi người từ thế giới bên kia đến cõi trần như “một chuyến đi buôn” rồi lại về thế giới bên kia, thế giới vĩnh hằng. Trong văn hóa dân gian Chăm, có một Ariya (tráng ca) nổi tiếng là Ariya Nau Ikak (cuộc đời như một chuyến đi buôn) [7]. Tráng ca này mượn hình ảnh cây đàn kanhi dùng trong nghi lễ tang ma Chăm để miêu tả vòng đời người Chăm từ khi sinh ra cho đến khi chết đi. Hình tượng của tác phẩm nói về cuộc đời như “một chuyến đi buôn” ngắn ngủi của con người, miêu tả đứa bé lúc lọt lòng, lớn lên lấy vợ lấy chồng, tả con người khi già yếu bệnh hoạn và nghi lễ tang ma bằng tiếng nhạc của cây đàn kanhi ai oán trong lễ hỏa táng của người Chăm Bàlamôn [8]. Người Chăm xưa còn có một câu đố, đồng thời cũng là một câu thành ngữ đặc sắc miêu tả động tác đi của con người ở các giai đoạn của vòng đời người: Page nau pak, pađiak klak nau dwa, bia harei nau klơw (Sáng đi bốn chân, trưa đi hai chân, chiều lại đi ba chân) [9].
Có lẽ vì quan niệm cõi sống là cõi tạm, cõi chết và sự giải thoát mới là đích con người hướng tới nên trong nghi lễ vòng đời người Chăm, những nghi lễ khi con người còn sống (trừ nghi lễ cưới xin) không được coi trọng: nghi lễ sinh đẻ không còn dấu ấn của giáo lý Bàlamôn mà chủ yếu là tín ngưỡng bản địa. Khác với Bàlamôn giáo, người Chăm Bàlamôn coi nhẹ lễ thức trưởng thành, không có lễ thượng thọ trong khi lại rất coi trọng nghi lễ tang ma.
Người Chăm rất coi trọng con số, đặc biệt là những con số 3 - 5 - 7 - 9. Những con số này thường xuyên xuất hiện trong các nghi lễ nhưng với những nguyên tắc chặt chẽ và nhất quán, thể hiện ở số lượng, chất liệu, tính chất lễ vật, đồ cúng tế, công cụ làm lễ, số lần khấn vái và các động tác hành lễ, thậm chí thể hiện ở cả số lượng cột, số lượng bếp, số lượng ông táo… Những con số khác nhau tùy theo những lễ thức khác nhau và đều mang những ý nghĩa linh thiêng nhất định. Trong các nghi lễ Chăm Bàlamôn rất hay sử dụng con số 3: 3 trái trứng, 3 miếng trầu têm, 3 chén rượu, 3 vạch vôi, hình tam giác 3 cạnh, 3 bếp, khấn vái, nằm lạy 3 lần, tang lễ 3 ngày{a} v.v… các thầy cả sư giải thích con số 3 tượng trưng cho 3 cõi thiên - địa - nhân trong vũ trụ. Con số 5 cũng xuất hiện thường xuyên trong các nghi lễ Chăm (ngoại trừ nghi lễ tang ma). Các nghi lễ thường làm 5 mâm cúng, trên các khay trầu cau trong lễ cưới cũng như các nghi lễ cho người đang sống bao giờ cũng để 5 miếng trầu têm, tăng lữ Bàlamôn có 5 cấp, khi người chết nằm trong nhà lễ tang phải thắp 5 ngọn nến. Người Chăm quan niệm con số 5 là tượng trưng cho 5 vị thần linh trong cơ thể con người: 1 đầu, 2 vai và 2 chân. Có nhiều ý kiến cho rằng con số 5 của người Chăm có thể chịu ảnh hưởng quan niệm “ngũ hành, ngũ phương” của Trung Quốc. Phó cả sư Hán Đô cho biết, con số 5 là con số biểu trưng của người Chăm Bàlamôn nên các nghi lễ của Bàlamôn bao giờ cũng thể hiện con số 5, con số 3 là biểu trưng của người Chăm Bàni nên trong các nghi lễ của người Chăm Bàni bao giờ cũng phải thể hiện con số 3: 3 miếng trầu cau, 3 mâm lễ. Chúng tôi cho rằng, quan niệm về con số 5, được người Chăm Ninh Thuận coi là con số của người Chăm Bàlamôn ít nhiều chịu ảnh hưởng của tư tưởng Bàlamôn? Trong “Tha áo nghĩa thư” có viết về Brahma: “Người là Phạn thiên, Nhân đà la, sinh chủ và tất thảy các thần, người là Địa - Thủy - Phong - Hỏa - Không - Ngũ đại; người là mọi nguyên tố hỗn hợp…” [10].
Số 7 cũng thường xuyên xuất hiện, ngoài ý nghĩa là một số phiếm chỉ, người Chăm còn quan niệm nam có 7 vía, nữ có 9 vía (nam thất, nữ cửu) khá cụ thể, nên khi làm lễ cho đàn ông người ta dùng con số 7, cho nữ dùng con số 9. Trong nghi lễ tang ma, ở ngày thứ ba còn quan niệm bào thai đã được 7 tháng nên làm 7 mủng cơm. Đặc biệt, trong nghi lễ tang ma, người Chăm sử dụng rất nhiều con số 9, ngoài ý nghĩa “tái sinh”, người mẹ phải mang thai 9 tháng 10 ngày, con số 9 còn là một con số thiêng, số lớn nhất trong dãy số nguyên. Con số 7 và số 9 thường được coi là số phiếm chỉ (chỉ số rất nhiều), nhưng trong nghi lễ tang ma của người Chăm Bàlamôn, con số 9 là con số vừa mang tính biểu trưng vừa cụ thể, dùng để chỉ 9 tháng 10 ngày mang thai “tái sinh” cho người chết (xin xem phần lễ hỏa táng).
a. Quan niệm về hôn nhân
Mặc dù bị chi phối bởi một tôn giáo phụ quyền, nhưng quan niệm về hôn nhân của người Chăm Bàlamôn lại chịu sự chi phối của tàn dư chế độ mẫu hệ. Người Chăm coi huyết thống là theo dòng họ mẹ nên không được kết hôn giữa những người cùng thờ chung một kút theo dòng họ mẹ (cùng thờ chung một chiet atơw). Từ xa xưa, người Chăm đã có luật tục về hôn nhân, nhưng không còn luật tục thành văn bản, có thể những văn bản ấy đã bị thất truyền. Đến năm 1950, ông Dương Tấn Phát, một trí thức người Chăm, nguyên là tri huyện huyện An Phước, tỉnh Ninh Thuận mới soạn thảo “Hộ luật Chàm”. Tuy hộ luật này chưa được các cấp có thẩm quyền thông qua nhưng rất có giá trị vì nó được hình thành từ luật tục bất thành văn, được rút ra từ phong tục tập quán vùng đồng bào Chăm và đã được thông qua, sửa đổi bởi một Hội đồng chức sắc hai tôn giáo Bàlamôn, Bàni và nhân sỹ trí thức Chàm lúc bấy giờ{b}. Đến nay, hôn nhân của người Chăm vẫn bị chi phối bởi chế độ mẫu hệ, duy trì chế độ hôn nhân đồng tôn giáo và hôn nhân đồng dân tộc. Người Chăm Ahier chỉ được kết hôn với người Chăm Ahiêr, nếu không tuân thủ thì khi chết, sẽ không được làm lễ tang dành cho người chết “trọn vẹn”, không được “giải thoát” và không được làm lễ nhập kút về với tổ tiên.
b. Quan niệm về hồn, vía và hồn ma
Người Chăm quan niệm ở con người đang sống có hồn (Sswan) và vía (Thơp hay sak, người Chăm còn có thuật ngữ Binguk yawa - có nghĩa là bóng vía). Khi có người chết, nếu ông thầy không yểm bùa để bắt giữ hồn lại thì sẽ trở thành vong hồn (Sswanthơp). Nếu người chết không bình thường và không được thực hiện các lễ thức cúng vái thì vong hồn biến thành hồn ma (phat) quay lại quấy phá. Người Chăm rất sợ hồn ma (phat) hay vong hồn chết trẻ (prauk patra). Và, để giải thoát cho những vong hồn này, người Chăm phải tiến hành làm các nghi lễ như “lễ trả nợ lâu đời” (chwai) trong lễ “múa lớn” (Rija praung). Trước khi người chết tắt thở, gia đình phải đặt người chết nằm dưới đất vì người Chăm quan niệm con người sinh ra từ đất mẹ, nếu không, hồn người chết sẽ bị bắt đi. Vì vậy, nếu chết ở trên giường, phải mời thầy pháp (gru tiap bhut) đến làm lễ gọi hồn (Ew angan Sswan). Tuỳ theo từng “loại chết” mà có những quy định làm lễ tang phù hợp. Nếu làm không đúng mọi quy trình nghi lễ, người chết không những không tái sinh được mà còn thành hồn ma về gây mọi tai họa cho gia đình và dòng tộc.
3. Quan niệm về cõi chết
Cái chết luôn là sự bí hiểm. Sự bí hiểm đó hấp dẫn mọi cá thể người, mọi dân tộc, mọi thời đại, mọi tầng lớp xã hội, bởi chưa ai “trông thấy” cái chết, chưa ai “biết” chết là như thế nào và có “thế giới bên kia” hay không như hầu hết các tôn giáo quan niệm? Vì vậy, con người đã tưởng tượng ra thế giới linh hồn, thế giới hồn ma, siêu hình sau khi chết. Hầu hết các dân tộc trên thế giới quan niệm rằng, chết là sang một thế giới khác. Mỗi dân tộc, mỗi tôn giáo lại có những quan niệm về “thế giới bên kia” khác nhau. Chết là sự đầu thai trở lại cõi trần hoặc hóa thần linh về ở “thế giới bên kia”. Các tộc người còn hình dung ra con đường để đi đến thế giới siêu hình ấy. PGS. Nguyễn Từ Chi có viết: “Người Mường cho rằng vũ trụ ba tầng, bốn thế giới, trong đó có “mường pưa tín” dành cho người chết ở trong lòng đất. Giữa “mường pưa tín” (mường ma) và “mường pưa” (mường con người đang sống) có mối liên hệ với nhau và nối với nhau bằng một đường ống” [11].
Đã có mặt trên cõi sống, bản năng của mọi sinh linh là luôn sợ chết. Các tôn giáo lớn trên thế giới đều có nguồn gốc triết lý về sự sống, cái chết và đều quan niệm “chết chưa phải là hết”. Quan niệm ấy tạo cho tín đồ một tâm lý không sợ chết, đồng thời răn dạy con người sống có nhân đức để được đền đáp ở thế giới bên kia.
Người Chăm Ahiêr hiện nay quan niệm thế giới bên kia có ba cõi ứng với ba tầng thiên - địa - nhân (xem hình vẽ 1). Cõi thứ nhất là cõi patichih yang Atachah, là cõi thiên đàng ở trên trời, dành cho linh hồn những người “chết tốt”, những người khi sống ở trần gian không có tội lỗi. Cõi thứ hai là cõi lulah, là cõi trần, khi chết được đầu thai trở lại làm người hay súc vật nào đó, tuỳ theo mức độ công lao, đạo đức hay tội lỗi khi sống ở trần gian theo thuyết luân hồi. Cõi thứ ba là cõi sussah hoặc nưrak, là cõi địa ngục, dành cho linh hồn những người khi sống ở trần gian có nhiều tội lỗi [12]. Trong ba cõi trên, cõi thiên đường trên trời cao có nhiều tầng được phân bố theo vùng của thần mặt trăng, thần mặt trời, vùng sáng là dải Ngân hà, vùng tối vũ trụ là tầng cao nhất. Người Chăm có câu thành ngữ: Tachuh tan tanưh riya, tajuh tơh akarah. Có nghĩa là: “Bảy tầng địa ngục, bảy cõi thiên đàng”.
Theo chúng tôi, những con số trong câu thành ngữ trên chỉ là số phiếm chỉ, chỉ số rất nhiều. Khi phỏng vấn phó cả sư Hán Đô, người làng Vụ Bổn, tôi được ông cho biết rằng trên trời có 5 tầng và giải thích rằng con số 5 thuộc dương (trời thuộc dương), dưới đất có 2 tầng (con số 2 thuộc âm, đất thuộc âm). Tầng trên cùng (tầng 5 trên trời) là tầng chỉ dành cho các vị cả sư và phó cả sư. Tầng 4 chỉ dành cho bà bóng dòng tộc. Tầng 3 dành cho những người chết bình thường nhưng phải chết từ 70 tuổi trở lên. Tầng 1 và tầng 2 dành cho những người chết không bình thường (chết xấu - mưtai bhaw). Còn những người không được làm lễ hỏa táng thì phải xuống 2 tầng ở dưới đất. Những người chết tốt thuộc dòng “Chăm chôn” (Cham Jap brah) hoặc khi chết dưới 15 tuổi thuộc dòng “Chăm thiêu” (Cham chuh) thì được xuống tầng 1, còn những người chết xấu thuộc dòng “Chăm chôn” thì phải xuống tầng 2 (tầng tối tăm, địa ngục).
Cõi địa ngục theo quan niệm của người Chăm Ahiêr có 2 tầng, chỉ dành cho những người thuộc những dòng họ đẳng cấp thấp, khi chết không được làm lễ hỏa táng mà chỉ được làm lễ tang chôn. Linh hồn người chết xuống tầng địa ngục nào là xét công, tội khi còn ở cõi trần. Ngoài cõi thiên đàng và địa ngục, còn có cõi chết trên mặt đất để cho linh hồn sau khi chết tái sinh làm người hay súc vật.
Trong lễ tang, người ta kiêng ăn những con vật đẻ ra con, chỉ ăn những con vật đẻ trứng. Chúng tôi đã phỏng vấn chi tiết này và được cả sư Hán Bằng (cả sư phụ trách khu vực tháp Pô Rômê) cho biết, sở dĩ không được ăn con vật đẻ con là do quan niệm có người chết đầu thai trở lại cõi trần để làm người hoặc súc vật nên nếu ăn con vật đẻ con có thể ăn phải con cháu hoặc cha mẹ mình (con người thuộc loài đẻ ra con).
4. Quan niệm về vòng đời, sự tái sinh và giải thoát (xem hình 2 )
Một quan niệm mang tính phổ biến trong văn hóa nguyên thủy mà sau này phát triển thành tín ngưỡng của các dân tộc, các tôn giáo là sự “tái sinh” sau khi chết. Quan niệm “chết là sự tái sinh” thể hiện rất rõ trong nghi lễ tang ma của người Chăm Bàlamôn và nhất quán từ nội dung tâm linh cho đến hình thức hành lễ. Có thể thấy nghi lễ tang ma của người Chăm Bàlamôn như là sự vận hành của một cuộc tái sinh linh thiêng để đưa linh hồn người chết nhập về miền thường trụ. Về hình thức, trong nghi lễ tang ma phải làm sao thể hiện được sự đầu thai “9 tháng 10 ngày”. Quan niệm “tái sinh”, giải thoát, vòng luân hồi của người Chăm còn được thể hiện trong quan niệm về phương hướng được quy định trong các nghi lễ vòng đời. Khi sinh, người mẹ đẻ ngồi, quay mặt về hướng nam để cho đầu thai nhi lọt ra về hướng nam. Đến khi chết, người chết khi đưa lên giàn hỏa táng cũng được đặt đầu quay hướng nam để đầu thai “tái sinh” hay như ở hiện tượng quay đầu người chết (quay đầu thai nhi để sinh nở) khi khiêng ra nơi hỏa táng.
Những quan niệm vũ trụ luận, cõi sống, cõi chết của người Chăm được thể hiện khá nhất quán, mang tính biểu tượng cao trong những nghi lễ vòng đời của người Chăm Ahiêr, là cơ sở để bước đầu giải mã, tìm hiểu nguyên nhân của thời gian, không gian hành lễ, của những biểu tượng thể hiện trong hàng loạt những động tác, lời cúng, của lễ vật và công cụ làm lễ. Những nghi lễ vòng đời người được trình bày dưới đây, chủ yếu tác giả lấy tư liệu điền dã thực tế nhiều lần, ở nhiều nghi lễ khác nhau tại vùng đồng bào Chăm Ahiêr ở Ninh Thuận, tập trung chủ yếu ở các làng Chăm Hữu Đức, Mỹ Nghiệp, Bầu Trúc, Chắt Thường, Hiếu Lễ, Như Bình thuộc huyện Ninh Phước, làng Bĩnh Nghĩa thuộc huyện Ninh Hải. Bên cạnh sự miêu thuật theo lát cắt đồng đại, chúng tôi có sử dụng tư liệu hồi cố, có những tư liệu của các đồng nghiệp đã nghiên cứu trước đó và có cả những tư liệu cổ, phỏng vấn sâu các vị cả sư Bàlamôn, những người Chăm lớn tuổi [13].
Về trình tự, tác giả công trình xin được trình bày theo 3 giai đoạn chuyển tiếp theo cách phân chia của A.V. Gennep. Đó là các giai đoạn: Sinh, trưởng thành và tử. Trong đó, giai đoạn sinh được tính từ khi thụ thai đến trước giai đoạn trưởng thành.
II. Những lễ thức trong giai đoạn sinh
1. Chuẩn bị cho đứa trẻ ra đời
Các cặp vợ chồng Chăm không quan tâm lắm đến ngày, giờ giao hợp, thụ thai. Họ quan niệm rằng có thai hay không, có thai lúc nào, con trai hay con gái là theo ý trời. Nhưng cũng có một số người học theo các vị chức sắc pà xế là phải kiêng cữ, ăn chay, ngủ “chay” trong những đêm trăng tròn (đêm 15 âm lịch) hoặc “tắt” trăng (đêm 30 âm lịch). Còn những cặp vợ chồng bình thường thì không kiêng cữ. Khi người phụ nữ có tín hiệu tắt kinh, buồn ói vào sáng sớm lúc ngủ dậy hay trong bữa ăn, bắt đầu thèm ăn những thứ linh tinh là họ biết đã “có bầu”. Đó là một tin vui đối với mọi người trong gia đình, tộc họ. Phụ nữ Chăm có thuận lợi là suốt đời ở nhà mình với cha mẹ đẻ nên khi có bầu, sinh nở luôn được chăm sóc tận tình.
Cũng như phụ nữ các dân tộc khác, người phụ nữ Chăm khi mang thai phải kiêng cữ đủ thứ, lo cho mình thì ít mà lo cho bào thai thì nhiều, đó là thiên chức làm mẹ của mọi loài. Mọi người mẹ đều hiểu rằng, muốn bào thai mạnh khỏe thì người mẹ cũng phải mạnh khỏe, vì thế họ rất quan tâm đến việc giữ gìn sức khỏe như chế độ lao động, nghỉ ngơi, ăn uống, kiêng cữ nắng gió và nghe theo kinh nghiệm của những người đi trước truyền đạt. Người mẹ thường chấp nhận tất cả những lễ nghi, phong tục tập quán, mọi sự kiêng cữ, miễn sao đứa trẻ ra đời khỏe mạnh. Khi biết có thai, người Chăm có lễ thức đeo bùa Ikak tamrak (cột chì) với mục đích là trừ ma quỷ quấy phá thai nhi. Các lá bùa được làm bằng chì, số lượng bùa có thể từ 1, 3 đến 7 chiếc tùy theo từng trường hợp. Lễ vật gồm có 3 quả trứng, trầu cau, rượu, chủ lễ là thầy cúng dân gian. Đối với những người mẹ mang thai gặp năm Gauk thun (năm hạn) hoặc mới bị bệnh tật, có lễ thức cúng giải hạn trước khi sanh Tathauk drei jan. Lễ này cũng do thầy cúng dân gian làm chủ lễ.
Sự kiêng cữ và các nghi lễ sinh đẻ của người Chăm Ahiêr không cầu kỳ và không nhất quán giữa các vùng như người Chăm Awal hay người Chăm Islam mà chủ yếu là do kinh nghiệm dân gian. Ở đây, chúng tôi chỉ xin trình bày những phong tục chung nhất, có tính phổ quát trong cộng đồng người Chăm Ahiêr ở Ninh Thuận.
Phong tục Chăm xưa nay truyền lại, khi mang bầu ba tháng đầu, người mẹ kiêng không ăn trái đu đủ (lahaung) vì nghĩ rằng đu đủ có chất trơn nên dễ sẩy thai, điều này trái với người Việt, khi mang thai lại hay ăn đu đủ chín, uống nước dừa cho trẻ có da trắng đẹp, hồng hào. Nhưng đến những tháng cuối, người Chăm còn có tục bổ đôi quả đu đủ, buộc vào chân với ý niệm là làm cho “trơn” dễ sinh đẻ. Khi mang thai, phụ nữ kiêng không ăn chuối hột (patei thar) vì sợ chuối có chất chát, rít sẽ khó đẻ, không ăn loại chuối hay dùng để cúng (chuối chà và - patei Jawa) vì sợ tà ma nhập vào bào thai quấy nhiễu sau này. Các loại chuối khác có thể ăn được nhưng phải chọn những quả chuối đẹp, không bị chín non, không bị sâu hay dính đôi dính ba vì sợ sinh đôi, sinh ba; kiêng không được bước qua các loại dây như dây võng, dây buộc trâu bò vì sợ nhau cuốn “choàng” bào thai; kiêng không đập trứng vì sợ con bị mù; không bóc vỏ dừa vì sợ con không có tóc, không bỏ kiếm vào bao vì sợ con điếc, không được đến những đám tang, không nhìn vào những gì kỳ dị vì sợ động thai. Một số người còn hạn chế ăn uống vì sợ thai to khó đẻ, có người còn nịt bụng lại cho thai nhỏ đi để dễ sinh. Cũng như các dân tộc khác, khi mang thai lần đầu, sợ đẻ khó, người ta bắt người phụ nữ mang thai phải đi bộ, ngồi xổm nhiều cho dễ đẻ.
Khi vợ có chửa, chồng không được sát sinh, không cắt tiết gà, vịt và các súc vật khác; kiêng không làm những gì ngược như ăn đũa ngược, đun củi ngược (gốc củi bỏ vào trước) v.v… vì sợ đẻ ngược. Không ăn đũa so le vì sợ con sinh ra không cân đối. Khi mang thai không được ngồi ở bậu cửa ra vào, vừa là nơi dễ bị gió máy, vừa là nơi tà ma dễ xâm nhập v.v… Bên cạnh một số kiêng cữ có tính chất y học dân gian, những bài thuốc cổ truyền, có lợi cho sức khỏe người mẹ và thai nhi, còn lại những kiêng kỵ chủ yếu là mang tính liên tưởng hơn là tín ngưỡng tôn giáo.
Khi hỏi những người phụ nữ Chăm đang mang thai về vấn đề thai giáo. Hầu hết họ không hiểu khái niệm và cũng không có ý thức trong vấn đề này, nhưng trong thực tế đều có quá trình thai giáo. Trong thời kỳ mang thai, họ kiêng không nói tục, quát tháo hay chửi bậy vì sợ rằng đứa bé trong bụng sẽ nghe thấy và bắt chước, tránh không làm những điều xấu vì họ cho rằng thần linh có khắp mọi nơi, nhìn thấy và biết hết những việc họ làm, nếu làm điều xấu sẽ không tốt lành cho đứa con trong bụng. Người mang thai phải kiêng về đường ăn nói, không nói những từ như cái “khóa” vì sợ khóa chặt không sinh nở được, sau này con sinh ra không mở miệng được, không mở mắt được. Muốn nói cái khóa phải nói tránh đi thành cái gì tương tự như "cái mở" (taik bbơng hoặc nưk ging), không nói “vôi” vì sợ ma quỷ mà phải nói cứt cò (e koh) vì cứt cò cũng trắng như vôi. Không được nói từ “chết” (mưtai) mà phải nói “mất” (lihik) hoặc “toi” (paik) [14]. Người mang thai kiêng không bao giờ đến những nơi xảy ra những chuyện không hay hoặc những sự kiện lành ít dữ nhiều dễ gây tâm lý hoảng sợ, không xem những hình ảnh kinh dị, ma quái vì sợ sinh ra những quái thai, không nhìn người chết vì sợ hồn ma nhập vào thai nhi. Thực ra đây là ý thức mang tính bản năng, liên tưởng nhiều hơn, có ở tất cả những người phụ nữ ở các dân tộc khác. Trong quan hệ vợ chồng, người Chăm cũng có chế độ dưỡng thai, khi biết mình mang bầu, người phụ nữ kiêng ba tháng đầu không cho chồng gần, sau khi thai được 5 tháng lại kiêng tiếp cho đến khi sinh.
Khi có những điềm xấu, có những chuyện xảy ra ngoài ý muốn như quạ bay qua khi đang ăn, cú mèo kêu, đổ vỡ những vật dụng trong nhà, trong nhà có người ốm đau bệnh tật hoặc những tai họa xảy ra không bình thường thì gia đình mời thầy cúng làm một lễ để giải tai ương, lễ cúng lớn hay nhỏ tuỳ thuộc vào chuyện xảy ra lớn hay nhỏ.
Mỗi dân tộc, mỗi tôn giáo lại có những lễ thức trong sinh đẻ khác nhau. Nhưng đối với người Chăm Ahiêr, nghi lễ sinh đẻ cũng như những lễ thức khi con người sinh ra và trưởng thành không quan trọng và khắt khe như nghi lễ tang ma và không có sự chi phối của tôn giáo mà chủ yếu là kinh nghiệm dân gian.
Sinh đẻ là thiên chức của người phụ nữ. Trước đây, do điều kiện y tế lạc hậu, mỗi lần sinh nở là một sự kiện quan trọng và khó khăn, nhất là đối với những người sinh lần đầu (con so), hầu hết đều trông đợi vào bà mụ (Muk bbwai - mú bôi). Bà mụ thường không được học hành gì về hộ sinh, chủ yếu dựa vào kinh nghiệm dân gian nên mỗi lần sinh đẻ là một sự kinh hoàng đối với phụ nữ.
Mặc dù người Chăm Ahiêr có cả một hệ thống chức sắc để thực thi hàng loạt các lễ nghi tín ngưỡng và lễ nghi tôn giáo. Nhưng trong các nghi lễ sinh đẻ của người Chăm Ahiêr, không hiện diện các chức sắc tôn giáo. Các thầy pà xế Bàlamôn sinh ra chủ yếu để làm các nghi lễ tang ma và cúng trên các đền tháp. Còn trong nghi lễ sinh đẻ, chỉ có bà mụ. Nếu gặp trường hợp khó sinh hay đứa trẻ đau ốm, người nhà chỉ mời thầy cúng (gru yang) hoặc các thầy pháp (gru tiap bhut) đến cúng trừ tà ma.
Ngày xưa, để chuẩn bị cho người đẻ, người ta làm một cái chòi riêng cho sản phụ. Ông chồng đóng một chiếc giường tre để cho vợ đẻ. Chiếc giường này sau khi vợ đẻ một tháng là đốt đi. Khi người phụ nữ chuyển dạ đẻ, người nhà phải đến cậy nhờ bà mụ.
2. Lễ cúng mụ (Mưlieng muk bbwai)
Đi nhờ bà mụ phải làm một lễ “cúng mụ”. Lễ vật gồm một tấm vải trắng (khăn Chăm), một khay trầu cau, rượu, một bát gạo, trứng gà, ngày nay còn thêm bánh ngọt. Đến ngày sinh, khi bà mụ đến, người nhà lập một mâm lễ để bà mụ cúng gọi là lễ thức dựng bàn tổ bà mụ Sanai muk bbwai. Mục đích của lễ cúng mụ là cầu tổ phụ cho bà mụ đỡ đẻ được suôn sẻ, và cầu cho người mẹ dễ sanh đẻ, cầu cho việc đỡ đẻ thuận lợi, “mẹ tròn con vuông”, cầu thần tổ phù hộ cho bà làm tốt việc đỡ đẻ. Sau khi sinh đẻ “mẹ tròn con vuông”, người nhà phải bưng một mâm lễ sang nhà bà mụ tạ ơn.
Bà mụ chuẩn bị khăn, nước tắm rửa và một mảnh tre hoặc mảnh cây drao (giống như cây là a, nứa dùng dao vót sắc mặt cật của vỏ thanh tre) hoặc dùng mảnh chai để cắt rốn. Trước khi cắt, những dụng cụ đó đều được sát trùng bằng dầu đậu phộng (dầu lạc) hoặc dầu lửa. Nếu gặp trường hợp đẻ khó, gia đình phải đi mời thầy cúng đến cúng và làm bùa phép để cho dễ đẻ.
3. Nghi lễ sinh đẻ (Danak mưnưk)
Phụ nữ Chăm ngày xưa thường đẻ ngồi, đầu và lưng tựa về hướng bắc, mặt quay hướng nam để hài nhi khi lọt lòng mẹ sẽ quay đầu về hướng nam. Khi đẻ, hai tay sản phụ vịn vào cột chòi hoặc tay người thân, phía sau là bà “mụ phụ” (muk grang) đỡ lưng. Khi đứa bé ra đời, bà mụ cầm hai chân dốc ngược để nước ối chảy ra, móc nước ối trong mũi, miệng đứa bé rồi nhỏ nước chanh làm vệ sinh cho đứa bé. Bà mụ cắt rốn cho đứa trẻ, ngày xưa, cắt rốn xong không băng rốn, chỉ xoa dầu lạc sát trùng. Nhau (rau) được đem chôn ngay ở sân trong khuôn viên nhà. Nếu là con trai thì nhau được chôn ở hướng mặt trời mọc (dương) con gái thì chôn nhau ở hướng ngược lại (âm). Người chôn nhau phải được gia đình lựa chọn, thường là người khỏe mạnh, có cuộc sống bình thường, giỏi giang càng tốt. Khi chôn nhau phải giữ im lặng vì sợ ma quỷ biết theo về, chôn xong là quay đầu nhìn thẳng đi luôn, không được ngoảnh mặt sang trái hay sang phải, cũng không được quay đầu lại vì sợ con sẽ bị lé. Những đứa trẻ bị lé mắt, chột v.v... đều đổ lỗi cho người chôn nhau. Nếu sau khi chôn nhau, đứa bé cứ khóc, quấy thì phải tìm người đào lên làm lễ cúng và chôn lại. Ngày nay, mặc dù đẻ ở trạm xá hay bệnh viện, người ta vẫn đem nhau về chôn ở trong khuôn viên nhà với cách trên.
Bà mụ làm vệ sinh cho người mẹ bằng nước sạch hòa với muối hạt hoặc phèn chua. Nếu bà mẹ bị rách nơi sinh và chảy máu, ngày xưa không có điều kiện khâu, người ta bắt bà mẹ kẹp hai chân lại thật chặt trong nhiều ngày, vết rách sẽ liền lại.
Bà mụ đốt lửa bên giường để người mẹ “nằm lửa” (đih apwei). Khi nằm lửa, sản phụ nằm úp xuống giường, bên dưới là chậu than hồng. Trong chòi, bà mụ thắp một đĩa dầu đậu phộng, cháy sáng liên tục trong những ngày sản phụ nằm lửa. Bà mụ hơ lửa cho nóng một hòn đá rồi đặt lên bụng người mẹ với mục đích điều hòa máu và xua đuổi xú uế. Bà lấy một nắm bông gòn, hơ lửa cho nóng rồi ấp lên bụng em bé cho ấm. Sản phụ sẽ nằm lửa trong chòi đẻ một tháng.
Tro bếp lửa của bà đẻ nằm lửa phải hốt thật sạch sẽ, không để vương vãi ra nhà, ra sân và phải đổ ở ngã ba đường. Sau 3 ngày đầu, người nhà bỏ trầu, muối, gạo vào chậu tro rồi đem đi đổ tro lần đầu. Lần đổ tro thứ hai là sau 9 ngày cũng với cách thức như vậy. Lần đổ tro cuối cùng là sau một tháng và phải làm một lễ cúng. Lễ này phải mời ông thầy đến cúng trước khi làm lễ đầy tháng và lễ trình tổ tiên. Lễ vật cúng đổ tro gồm một chai rượu, nến, 3 quả trứng gà, 5 lá trầu, 5 miếng cau, 3 nắm cơm, đèn sáp ong. Nơi ngã ba đường gần làng, trong quan niệm của người Chăm, là nơi tụ tập của tà ma. Đây là nơi cúng khi đổ tro bà đẻ, cũng là nơi cúng đón rể trong lễ cưới, cũng là nơi quay đầu khi khiêng thi hài người chết đi hỏa táng và là nơi các thầy pháp thường làm phép trấn yểm tà ma [15].
Các dân tộc khác cũng có tục “nằm lửa” như người Chăm. Nhiều dân tộc cho rằng “nằm lửa” là một nghi thức tẩy uế. Người Madagascar, khi đẻ con trong nhà, người ta giữ ngọn lửa trong vài ngày. Người Irquois ở Bắc Mỹ có nghi thức đưa người phụ nữ ra xa và đốt “ngọn lửa mới” để tẩy uế [16] . Người phụ nữ Việt khi nằm lửa còn bỏ vỏ bưởi khô, quả bồ kết lên chậu lửa cho có mùi thơm và xua đuổi xú uế. Nếu vào mùa đông giá lạnh, người Việt để cả chậu than hồng dưới gầm giường, gọi là nằm bếp, nằm xó, nằm chỗ hay nằm ổ. Như vậy, có thể thấy rằng, dù các dân tộc ở rất xa nhau, có những quan niệm và tập tục khác nhau nhưng đều chung quan niệm “xú uế” khi phụ nữ sinh đẻ, cùng có những biểu hiện khoa học sơ khai như tục “nằm lửa”, vừa là quan niệm tẩy uế vừa tạo hơi ấm cho người mẹ và đứa trẻ để khí huyết lưu thông.
Tục nằm lửa thực ra là một phương pháp y học cổ truyền, có ở hầu hết các dân tộc Đông Nam á. Mục đích của nằm lửa là sưởi ấm, hong khô ráo những xú uế, làm cho khí huyết người sản phụ điều hòa. Hiện nay, phong tục này vẫn được lưu giữ trong cộng đồng người Chăm Ninh Thuận. Trong thời gian “nằm lửa”, kiêng cữ được coi trọng, không ai được đến chòi bà đẻ vì họ sợ mang bệnh tật tới vì “máu còn non”. Một số gia đình đến nay vẫn còn hơ một hòn đá cho nóng lên và để trên bụng sản phụ cho mau tan máu. Trong những ngày nằm lửa, kiêng không cho người lạ vào nhà, cũng không cho hàng xóm vào “xin lửa” hay vay mượn gạo, tiền.
Bà mụ (muk bbwai) và bà mụ phụ (muk krang) được coi như bà mẹ đỡ đầu của đứa trẻ. Vì vậy, khi đứa bé bị ngã (tất nhiên là không đau lắm), người Chăm thường nựng đứa trẻ: “Không sao! không sao! đã có muk bbwai, muk krang đỡ rồi!”
Khi trong nhà có người sinh nở, trước sân nhà, người ta đốt một đống lửa để báo hiệu. Đêm đến, người ta bỏ muối vào đống lửa cho nổ lách tách. Ngày xưa, khi chưa có điện, đống lửa sẽ được đốt cháy suốt đêm, soi sáng cả khuôn viên nhà. Người Chăm giải thích rằng, tiếng muối nổ lách tách và ánh sáng ngọn lửa có tác dụng không cho ma về nhập vào hồn đứa trẻ.
Trước cổng khuôn viên nhà người ta chôn một cái cọc và dắt lên đầu cọc một cây củi cháy dở. Nếu đầu cháy của cây củi quay vào trong nhà là báo hiệu sinh con gái, nếu con trai thì đầu cây củi quay ra với ngụ ý là con gái sẽ ở nhà suốt đời, con trai sẽ ra đi về nhà vợ.
Trên hai cột cổng khuôn rào của gia đình, người ta úp hai bên hai cái buk (bình gốm Chăm, phụ nữ Chăm thường đội đi lấy nước). Bà mụ bôi ba vạch vôi trắng lên những chiếc bình gốm với mục đích là xua đuổi tà ma, đồng thời để ngăn không cho người lạ vào. Theo quan niệm của người Chăm, ma sợ vôi, ma nhìn thấy vôi sẽ tưởng là thầy pà xế đang ở đó nên tránh xa. Vôi đối với người Chăm còn là chất sát trùng. Nếu những người đang có tang, ốm đau, bệnh tật, những người không nuôi được con hoặc lớn tuổi rồi nhưng chưa có con, lỡ bước vào nhà thì cũng đã được vôi trên bình gốm ở cổng tẩy uế, loại trừ tà ma.
Sau đó người ta treo một nhánh cây xương rồng trước cổng, nếu là con trai thì treo 7 ngày, con gái thì treo 9 ngày. Có thể đây cũng là quan niệm con trai có 7 vía, con gái có 9 vía như một số dân tộc khác, trong đó có người Việt. Ngày nay, đa số các gia đình treo xương rồng cả tháng với mục đích là cả tháng đó không ai được đến nhà vì người mẹ và đứa trẻ “máu còn non”. Sau khi đẻ, ba ngày đầu người mẹ chỉ được ăn cơm trắng với mắm chưng tiêu, hành (nước mắm cá biển đun sôi lên với tiêu hành), không được ăn thịt hay cá vì sợ sữa mẹ không sạch, không chay tịnh và sợ hai mẹ con bị đau bụng. Nước mắm cũng phải chưng lên, không được ăn nước mắm sống.
Sau khi sinh, người ta lấy men nấu rượu (Bauh tapei) trộn với gừng hơ lửa cho nóng, bỏ trong một cái chén (bát) rồi ấp lên hai vú người mẹ với quan niệm là “cho chín sữa”- sữa mẹ được hâm nóng lên.
Ngày nay, sau khi đẻ xong, người mẹ phải có chế độ ăn uống tốt trong điều kiện khả năng của gia đình để có sữa tốt cho con bú. Thức ăn thông thường là cơm nóng ăn với cá nấu canh đu đủ, muối tiêu rang, ăn nhiều tiêu và ớt với mục đích cho tử cung mau trở lại bình thường. Một số gia đình tiếp nhận tập tục của người Việt, nấu giò heo với đu đủ non để người mẹ nhiều sữa.
Gặp trường hợp người mẹ thiếu sữa hoặc không có sữa cho con bú, người nhà mời ông thầy cúng đến, làm một mâm lễ gồm 3 trái trứng, trầu, cau tìm đến một cây sung lớn cúng thần cây sung (yang hara) và họ tin rằng, người mẹ sẽ có sữa cho con bú, có lẽ họ nghĩ rằng vì cây sung có rất nhiều mủ trắng như sữa.
Người Chăm rất coi trọng ngày giờ tốt, xấu, nhất là trong việc sinh nở, làm nhà mới, lễ cưới. Người Chăm có câu: Harei siam, tuk tanhrwwah có nghĩa là “ngày tốt, giờ thiêng”. Trong sinh đẻ, nếu chẳng may sinh con vào giờ xấu, người ta cho là điềm xấu và đứa trẻ được bỏ vào một cái thúng để ra những nơi dơ bẩn như chuồng bò, chuồng heo, hố rác. Tuy nhiên trước khi bỏ, người ta đã chọn một bà mẹ nào đó ở trong làng, thường là chọn người tốt số để bà đó đến “lượm” ngay em bé về nhà mình. Sau đó, gia đình nhờ ông thầy chọn ngày tốt, giờ tốt mang mâm lễ vật đến xin chuộc lại đứa trẻ. Người đàn bà “nhặt” đứa trẻ được coi như bà mẹ thứ hai vì đã cưu mang đứa trẻ khi bị bỏ rơi. Đứa con ấy sau này lớn lên phải có trách nhiệm suốt đời với bà mẹ thứ hai, coi như mẹ đỡ đầu, đến khi bà đó chết phải chịu tang và lo thờ cúng. Trong cuộc sống hàng ngày, nếu người con có món gì ngon cũng phải đưa sang cho bà mẹ thứ hai. Người Chăm quan niệm, nhờ có hơi bà mẹ thứ hai này nên mới nuôi được đứa trẻ lớn lên.
Gặp trường hợp sinh đôi một trai một gái, gia đình phải đem đi cho một trong hai đứa trẻ. Người Chăm cho rằng sinh đôi trai gái là rất khó nuôi, dễ bị chết một đứa. Các bà mụ cho biết, những người cố nuôi cả hai đứa, thường là chết hoặc không nên người một đứa.
Tất cả giường chiếu, quần áo, khăn, tã lót sử dụng khi sinh nở, sau một tháng nằm lửa, trước khi làm lễ cúng trình tổ tiên, đều phải đốt bỏ, không sử dụng lại. Người Chăm cho rằng sinh đẻ là “dữ” theo quan niệm “sinh dữ, tử lành”, coi những thứ sử dụng trong sinh đẻ là xú uế, cần phải đốt bỏ. Ngày xưa, theo các bà mụ kể, nếu gặp trường hợp sót nhau hoặc băng huyết thì chịu chờ chết, không có cách nào cứu, vì vậy tỷ lệ tử vong do sinh nở rất cao. Nếu chẳng may khi sinh nở, bà mẹ hoặc con bị chết, người Chăm cho đó là điềm rất xấu và phải mời thầy cúng “cao tay ấn” (gru kalơng) đến làm lễ giải hạn, trừ ma quỷ. Lễ vật có rượu, trầu cau, thịt gà, xôi, nhà khá giả có thể thịt dê để tế.
Ngày nay, với hệ thống y tế đã đến tận các xã vùng đồng bào Chăm, theo thống kê của ngành y tế Ninh Thuận, đã có tới 95% phụ nữ khi sinh nở được chăm sóc y tế. Hầu hết các sản phụ khi sinh nở đều đến trạm xá hoặc trung tâm y tế. Vì vậy, tỷ lệ tử vong cho mẹ và con trong sinh nở giảm hẳn.
4. Nghi lễ đặt tên (paya angan)
Người Chăm Ahiêr ở Ninh Thuận không có nghi lễ đặt tên nào dành cho đứa trẻ. Thông thường người ta đặt tên luôn trong lễ trình tổ tiên sau khi đầy tháng. Các bậc cha mẹ tự đặt lấy tên cho con mình. Giống như một số dân tộc Đông Nam á, người Chăm cũng có tục đặt những tên thật xấu, vì sợ khó nuôi. Ví dụ những tên như: Gauk là cái “nồi”, Jụk là “đen”, Aih Kabaw là “cứt trâu”, Kaik là “cái trã” (nồi đất). Con trai thường đặt tên Klu, Klai có nghĩa như “thằng Cu”, hay như tên Nò là “đực”. Con gái đặt tên: Mò, ót có nghĩa như “cái Hĩm” của người Việt, v.v…
Người Chăm kiêng không đặt tên trùng với tên các thần linh yang, đồng thời cũng không được đặt trùng tên những người trong họ. Nếu lỡ đặt phải đổi tên. Nếu sinh con trai thì lấy họ cha, con gái lấy họ mẹ, nhưng theo xu thế hiện nay, dần dần trong nhiều gia đình các con đều lấy họ cha. Nguồn gốc họ của người Chăm là một vấn đề phức tạp, chưa có những công trình đi sâu nghiên cứu về vấn đề này. Người Chăm ở Ninh Thuận ngày nay thường mang những họ như: Quảng, Hán, Đàng, Châu, Bá, Phú, Trượng, Thành, Lâm, Kiều, Thập, Nguyễn v.v… Những họ này đều do nhà Nguyễn đặt cho vào năm Minh Mạng thứ 17 (1837): “Năm Minh Mạng thứ 17 (1837) vua xuống chiếu bắt người Chàm thay họ, đổi tên và ăn mặc theo người Việt, đến khi vua Thiệu Trị lên ngôi, ngài cho giữ nguyên quần áo như cũ” [17].
5. Lễ trình tổ tiên (Akhan Prauk - đây cũng là lễ cúng đầy tháng (Palau Yang)
Khi đứa trẻ đầy tháng, gia đình chọn ngày tốt, mời bà bóng dòng họ (muk rija) đến làm chủ lễ trình tổ tiên. Lễ thường được làm vào buổi chiều. Lễ vật gồm trứng, thịt gà, chuối, xôi, dừa, trầu, cau, rượu, hạt nổ (hạt gạo nếp rang bông). Bà bóng khấn mời thần tổ tiên (On prauh) về dự lễ. Với quan niệm “dương sao, âm vậy”, bà bóng đốt nến sáp, ngồi trước mâm lễ khấn báo với thần tổ tiên, thần thổ địa rằng tộc họ đã thêm một thành viên mới. Nếu đứa trẻ là con gái thì được trọng vọng hơn vì tộc họ thêm một người thừa kế huyết tộc và chịu trách nhiệm thờ cúng tổ tiên sau này. Họ khấn cầu thần tổ tiên che chở, phù hộ cho đứa trẻ khỏe mạnh, ăn nhiều mau lớn, không bị ốm đau bệnh tật, tộc họ bình yên, làm ăn phát đạt. Những gia đình khá giả thì làm bữa tiệc mặn mời bà con trong tộc họ và hàng xóm láng giềng ăn uống mừng cho đứa trẻ. Nhân dịp này họ hàng và hàng xóm láng giềng tặng quà cho đứa trẻ. Cũng trong ngày này, bà mụ đến cắt tóc, xỏ tai và đặt tên cho đứa trẻ.
Một lễ thức quan trọng trong lễ trình tổ tiên là lễ thức đeo dây bùa thiêng Ikak tamrak để ngừa tà ma. Lễ này do một ông thầy thực hiện. Đầu dây thiêng có cuốn những miếng chì, mấy miếng chì là do ông thầy quyết định nhưng phải là số lẻ: 1, 3, 5, 7, 9. Miếng chì hình chữ nhật, một chiều khoảng 2cm, một chiều khoảng 1,5 cm, trên đó vẽ những lá bùa và phải có bùa Omkar. Sau đó, ông thầy cuốn miếng chì đó vào sợi dây đeo cho đứa trẻ. Đây là miếng bùa hộ mệnh cho đứa trẻ trên cõi trần.
6. Chăm sóc trẻ sơ sinh
Theo lẽ tự nhiên của tình mẫu tử, khi người mẹ rứt ruột đẻ con ra, việc quan trọng nhất là làm sao cho đứa bé mạnh khỏe. Người Chăm xưa nay chỉ biết nuôi con bằng sữa mẹ. Trường hợp người mẹ thiếu sữa thì cho con đi bú nhờ những bà mẹ khác. Để cho con có sữa bú, gia đình phải lo chất lượng bữa ăn cho người mẹ. Người Chăm thường bôi bột nghệ lên mắt mũi và pha bột nghệ vào thức ăn cho người mẹ. Những bà mẹ Chăm cho rằng đây là một phương thuốc cổ truyền để tránh bị gió độc.
Trước đây, khi con bệnh tật ốm đau hoặc có những biểu hiện khác thường, người Chăm cho rằng có ma quỷ ám, gia đình thường đi mời thầy pháp về làm lễ cúng trừ tà ma. Lễ vật cũng gồm 3 trái trứng, rượu, trầu cau.
Mỗi khi đi đâu xa đều phải coi ngày, nếu phạm vào ngày tuổi hoặc ngày xấu thì không đi. Trước khi trẻ đi, người ta bôi lọ nghẹ (nhọ nồi) lên trán đứa trẻ với ý niệm không để cho ma quỷ bắt. Nhiều đứa trẻ hiện nay sinh ở bệnh viện Phan Rang cũng được đánh dấu bằng mực hay lọ nghẹ lên trán.
Người Chăm cũng có tục bán khoán trẻ con cho ông thầy. Những đứa trẻ này phải làm lễ tra còng Buh kaung mưyah raung kan.
7. Lễ cầu tự ( Bbwơn yang likơu anưk - cầu thần xin con)
Những cặp vợ chồng hiếm muộn con thường đi làm lễ cầu tự. Nơi cầu tự thường là đền thờ “mẹ xứ sở” Pô Inư Nưgar Thuram ở thôn Hữu Đức và thường vào những dịp lễ Chabul (Chabur là lễ cúng mẹ, đối lập với lễ Katê cúng cha). Lễ vật làm lễ cầu tự đơn giản, có thịt gà, trầu cau, bánh trái. Ngoài ra, những cặp vợ chồng khao khát có con, nếu có điều kiện thì họ đi làm phúc, làm việc từ thiện như làm hoặc sửa cầu, sửa đường trong làng. Ngày xưa, người ta còn đun nước đổ vào chum, vại đem để hai bên đường cùng với một chiếc gáo dừa để mọi người qua đường uống.
III. Những lễ thức trong giai đoạn trưởng thành
1. Lễ trưởng thành
Lễ trưởng thành là lễ đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời đứa trẻ. Các tôn giáo có lễ trưởng thành nhằm đánh dấu mốc thành niên con người, trở thành một tín đồ tôn giáo. Trong giáo lý Bàlamôn có các lễ đeo dây thiêng (Upanayana) cho các cậu con trai thuộc những đẳng cấp cao khi mới 10 đến 12 tuổi. Nhưng người Chăm Ahiêr không có lễ thức trưởng thành theo đúng nghĩa là cái mốc để đứa trẻ đó nhập đạo thành tín đồ Bàlamôn. Chúng tôi đã gặp các vị cả sư để tìm hiểu về lễ trưởng thành, lễ thượng thọ nhưng đều được trả lời là họ chưa bao giờ làm những lễ ấy cả. Các vị còn cho biết, lễ trưởng thành cho con trai, con gái thì chỉ có ở bên đạo Bàni. Ở một số vùng Chăm còn duy trì lễ cúng gà khi đứa trẻ 15 tuổi, thần được cầu cúng là Pô ău lóa 15 thun ngap bal hwak manuk ka Po Aw lwah. Đây là một lễ thức ảnh hưởng từ người Chăm Bàni. Đối với những đứa trẻ đã làm lễ tra còng bán khoán cho ông thầy, khi đến 18 tuổi phải làm lễ tháo còng Tauh kaong. Nếu không làm lễ này, đứa trẻ vẫn mang nợ, người Chăm gọi là Thrraiy Kađaung tawak, có nghĩa là “nợ vướng còng mang” (xem ảnh 1, tr).
Cũng như chúng tôi đã trình bày ở chương I, các vị chức sắc Bàlamôn ở người Chăm chủ yếu là làm chủ lễ nghi lễ tang ma, lễ nhập kút và các nghi lễ cúng thần linh trên tháp, hầu như không làm chủ lễ cho con người khi đang còn sống như sinh đẻ, trưởng thành và cưới xin. Đây rõ ràng là một dị biệt đối với giáo lý Bàlamôn mà chúng tôi sẽ so sánh, phân tích ở chương sau.
Mặc dù không coi trọng các lễ thức tiền hôn nhân, người Chăm Ahiêr lại đặc biệt chú ý tới các nghi lễ liên quan tới hôn nhân. Khi cô gái hay chàng trai sắp sửa lập gia đình, cha mẹ phải đến trình với người trưởng tộc. Bà trưởng tộc (Planla; akauk gơp - trưởng tộc hay chủ họ) làm một lễ nhỏ gồm trầu, cau, rượu, nến sáp cúng tổ tiên (On prauh) để hạ chiet atơw của dòng họ xuống, báo cho tổ tiên biết trong dòng họ đã có người trưởng thành. Đến khi dựng vợ gả chồng cũng phải làm nghi thức như vậy.
2. Nghi lễ cưới xin (Khing likei khing kamei hay Bbơng Pađih)
Nghi lễ cưới xin của người Chăm Ahiêr không mang tính chất nghi lễ của một tôn giáo có nguồn gốc Ấn Độ mà lại mang đậm những yếu tố văn hóa bản địa. Những quan niệm cũng như quy định về hôn nhân đã trình bày ở phần trên thể hiện đậm nét trong các lễ thức cưới xin của người Chăm Ahiêr. Cũng như các dân tộc khác, nghi lễ cưới xin của người Chăm phải tuân thủ những trình tự mang tính bản địa khá tương đồng như: chuyện mai mối, lễ dạm, lễ hỏi, lễ cưới.
a. Lễ thức mai, mối và lễ dạm hỏi (Palwak panwơc)
Người Chăm duy trì chế độ mẫu hệ, quyền chủ động trong hôn nhân thuộc về nhà gái. Khi con gái sắp đến tuổi lấy chồng, cha mẹ đã phải lo “nhắm” trước những chàng trai trong vùng để “lựa rể” cho con mình. Người con gái Chăm xưa nay đa phần tuyệt đối phục tùng cha mẹ. Con gái lấy ai làm chồng là do cha mẹ chọn. Con trai Chăm cũng phải phục tùng ý của cha mẹ. Nếu được nhà gái “chọn” và cha mẹ ưng ý, người con trai phải chấp hành mặc dù trong lòng không muốn.
Tâm lý cha mẹ đằng gái bao giờ cũng muốn giữ “tiếng” cho con gái mình nên khi thấy chàng trai nào hay “thập thò” trước cửa, cha mẹ cô gái sẽ phải thăm dò ý tứ chàng trai. Nếu cảm thấy “không ổn”, cha mẹ cô gái phải tìm cách, lựa lời khuyên chàng trai đừng đến nữa. Nếu tâm đầu ý hợp, người con gái thưa với cha mẹ. Tất nhiên, lúc này quyền quyết định là của cha mẹ. Khi cả cha mẹ và cô gái cùng thấy “được”, mới cậy đến người mai mối.
Người mai mối (jang klan), ông mai (ong janhuk), bà mối (muk janhuk) phải là người cao tuổi, có uy tín, giỏi giang trong làm ăn, ăn nói hoạt bát, tính tình vui vẻ, có tài thuyết phục người khác và phải là người “một kèo, một cột”, (một vợ một chồng, đông con cái). Ông mai, bà mối có thể là người trong họ hoặc trong làng. Sau khi bàn bạc thống nhất, người mai mối đến nói chuyện với nhà trai. Để tỏ được ý muốn của nhà trai, ông mai, bà mối phải có tài ăn nói, biểu hiện một cách bóng gió về ý đồ của nhà gái. Đây là một đặc điểm của chế độ mẫu hệ, vì nhà gái luôn phải giữ kín những chuyện trước hôn nhân, khi mai mối phải thận trọng trong việc thăm dò ý tứ nhà trai. Lần đầu tiên đến nhà trai ông mai phải chọn ngày giờ tốt và thường là đi vào ban đêm một cách âm thầm và kín đáo. Ông đến nhà trai, trước là thăm chơi, sau là để thăm dò ý tứ cha mẹ nhà trai. Nếu chưa thuận, ông phải đi lại nhiều lần vừa ngỏ ý, vừa thuyết phục cha mẹ nhà trai. Nếu nhà trai đồng ý, ông mai đi lại bàn bạc với hai gia đình để ấn định ngày giờ làm lễ hỏi.
Cũng như các dân tộc khác, qua những biểu hiện trên, có thể thấy lễ dạm hỏi của người Chăm Ahiêr thể hiện tính văn hóa, tính nhân văn và có những nét riêng của chế độ mẫu hệ.
b. Lễ hỏi (Nau pwơc)
Sau khi được ông mai cho biết ý kiến nhà trai đã đồng ý, nhà gái đến xin ý kiến vị cả sư pô xà để xem ngày giờ đi làm lễ hỏi. Ông mai thỏa thuận với nhà trai ngày giờ trên. Trước khi đi, ông mai làm một lễ thức cúng tổ ông mai “ew yang di danauk inư amư tabiak nau khing kamei” để cầu thần tổ cho chuyến đi làm lễ hỏi được suôn sẻ. Nhà gái chuẩn bị lễ vật để làm lễ hỏi. Lễ vật ở lễ hỏi này đơn giản, gồm có: Trầu, cau, rượu, các loại bánh trong lễ hỏi Ahar pwơc likei gồm bánh tét (pei nung), trái cây. Một số gia đình mang theo cả đồ nhậu khô như cá khô, mực khô v.v… Nhưng đó chỉ là những đồ mang theo để uống rượu, có cũng được, không có cũng được, không phải là lễ vật đám hỏi. Đi trong lễ hỏi có đại diện nhà gái khoảng 5 người cùng với ông mai, bà mối.
Lúc ấy, bên nhà trai cũng đang chuẩn bị để đón nhận lễ vật. Chiếu được trải dài trong nhà, các khay trầu cau và các bộ ấm chén uống nước trà được bày thành hàng dài để đón khách. Đại diện nhà trai ngồi thành hàng theo hướng đông - tây. Người trưởng họ ngồi phía đầu, tiếp theo là các vai lớn nhỏ xếp ngồi theo thứ tự. Nhà gái mang lễ vật đến ngồi đối diện cũng theo thứ tự vai vế. Ông mai, với trách nhiệm của mình, bắt đầu vào câu chuyện chào hỏi. Đại diện chủ nhà gái đặt vấn đề hỏi nhà trai về việc hôn nhân của hai đứa trẻ. Nhà trai trả lời đồng ý hay không đồng ý.
Trong lúc đó, ở trong nhà, mọi người sắp xếp lễ vật do nhà gái đưa đến để cúng ông bà tổ tiên. Lễ cúng do bà bóng của dòng họ làm chủ lễ. Những thần linh được mời gồm có: Thần tổ tiên, thần làng, thần xóm, thần thổ địa. Sau đó con cháu dọn bánh trái, rót rượu mời nhà gái. Mọi người ăn uống, nói chuyện vui vẻ mừng cho đôi bạn trẻ.
Trước khi ra về, đại diện nhà gái mời đại diện nhà trai đến “làm khách” nhà gái. Nhà gái sẽ tổ chức một bữa tiệc mặn để đón đại diện nhà trai. Đây cũng chính là lần nhà trai dứt lời với nhà gái. Người Chăm gọi là lễ “dứt lời”, “lễ đính ước, đính hôn” hay “quyết định làm lễ cưới” (paklauh panwơc gah likei).
Tiếp đó hai gia đình mang lễ vật đến gặp ông thầy để báo cáo và xin ngày giờ để làm lễ cưới. Thường thì đám cưới sau đám hỏi chỉ khoảng 3 đến 4 tháng. ít có trường hợp làm lễ cưới ngay, vì cũng như người Việt, nhà gái sợ bị dị nghị, nhưng cũng không để quá lâu, có thể vận đến ca dao người Việt: Cưới vợ thì cưới liền tay, chớ để lâu ngày lắm kẻ dèm pha.
Nhìn chung, lễ hỏi của người Chăm cũng giống như lễ hỏi của các dân tộc khác. Chỉ khác là nhà gái đi hỏi chồng, không có chuyện thách cưới và có thêm lễ “dứt lời”của nhà gái mời nhà trai để đi đến quyết định cuối cùng.
c. Lễ “dứt lời”, còn gọi là quyết định hôn lễ (Paklauh panwơc gah kamei).
Trước lễ cưới hai ngày, bên nhà trai phải đến nhà gái làm lễ “dứt lời”. Mỗi bên gia đình tham gia lễ “dứt lời” có 5 người. Bên nhà trai gồm có ông inưmư, ông trưởng tộc, cha hoặc mẹ và hai người trong họ. Thành phần bên nhà gái gồm: ông inưmư, ông mai, trưởng tộc, cha hoặc mẹ và một người trong họ. Nghi thức này rất quan trọng, cuộc hôn nhân có thành hay không tuỳ thuộc rất nhiều vào lời ăn tiếng nói của cả hai bên. Chẳng may làm phật lòng nhau, cuộc hôn nhân có thể tan vỡ. Trong lễ này, nhà gái yêu cầu nhà trai cho biết giờ đón rể vì giờ đón rể là giờ quan trọng nhất, quyết định số lượng đoàn đưa rể, số lượng khách, số lượng mâm sẽ làm trong lễ mặn, số lượng bánh trái trong ba ngày lễ cưới để nhà gái lo liệu. Mọi vấn đề về vật chất, thời gian, nội dung, hình thức lễ cưới được hai bên bàn bạc cụ thể. Bàn bạc xong, ông trưởng tộc rót rượu, bày mâm lễ vật với 5 miếng trầu, 5 miếng cau khấn mời thần tổ tiên, thần làng, thần thổ địa phù hộ cho hai họ và cô dâu chú rể hạnh phúc, làm ăn phát tài, con đàn cháu đống. Trong lễ cưới, mâm lễ vật thường dùng con số 5 (5 miếng trầu, 5 miếng cau, 5 ngọn nến).
Sau lễ thức này, nhà trai ra về để chuẩn bị các bước cho lễ cưới như đã thống nhất. Từ xưa đến nay, người Chăm Ahiêr không có tục thách cưới như người Chăm Bàni hay một số dân tộc khác. Ngày nay, lễ thức này thường được đơn giản hóa, kết hợp luôn trong lễ hỏi. Trước ngày cưới, bên nhà gái thịt một con heo để làm đồ ăn trong lễ cưới, chỉ cắt đầu heo cử người nhà đưa sang cho nhà trai.
d. Những công việc chuẩn bị cho lễ cưới
Quy định về thời gian: Người Chăm quan niệm rằng trong một năm, có những ngày lành tháng tốt để tổ chức những nghi lễ như lễ cưới, lễ động thổ xây cất nhà cửa. Trong xã hội người Chăm Ahiêr ở Ninh Thuận hôm nay, ngày tháng, giờ khắc vẫn luôn được coi trọng, mỗi khi làm việc gì trọng đại đều phải mời thầy coi ngày, coi giờ. Ngày tốt người Chăm gọi là harei siam, giờ tốt gọi là tuk tanhrwwah. Qua tìm hiểu tư liệu Chăm cổ và phỏng vấn các chức sắc tôn giáo, phỏng vấn các thầy cúng, chúng tôi được biết quan niệm về ngày, tháng, giờ khắc tốt xấu trong quan niệm người Chăm như sau:
Các tháng của lịch Chăm đều được coi ứng với những điều may mắn hoặc tai họa:
- Sa, binhưk than - on: Tháng giêng: Thuận về tương tư.
- Dua, binhưk danuh khak: Tháng hai: Tội lỗi.
- Klơw, binhưk padai: Tháng ba: Nhiều lúa gạo.
- Pak, binhưk mưtai: Tháng tư: Chết chóc
- Limư, binhưk mưthau: Tháng năm: Hay gây hấn.
- Nam, binhưk pagul drap: Tháng sáu: Được danh lợi, tài sản.
- Tajuh, binhưk thankik: Tháng bảy: Hay đau ốm
- Dalipan, binhưk danuh khak: Tháng tám: Tội lỗi.
- Thalipan, binhưk mưtha: Tháng chín: Hay gây hấn.
- Pluh, binhưk than drap biak: Tháng mười: Phát tài lớn.
- Pwis, binhưk rat dabrat dhik: Tháng mười một: Hưng thịnh.
- Mak, binhưk apwei bbơng: Tháng chạp: Lửa phát cháy.
Lễ cưới của người Chăm phải chọn đúng vào các tháng 3, 6, 10, 11 lịch Chăm và phải nhằm vào những ngày hạ tuần trăng (từ đêm trăng tròn đến khi hết trăng, theo cách tính lịch Chăm, thượng tuần trăng là dương nên trên ký tự chữ số Chăm chỉ có một dấu “sắc”, hạ tuần trăng là “âm” nên trên ký tự chữ số Chăm ngoài dấu “sắc” còn có thêm một dấu chấm bên dưới dấu “sắc”). Người Chăm rất kỵ tháng tư, người Chăm gọi là Bilan pah. Đây là tháng “chết chóc”, vào tháng này ai cũng sợ ma về làm hại. Người Chăm hay rủa: “Đồ ma tháng tư”. Về thời tiết, đây là tháng nắng nóng và khô hạn nhất, dễ sinh dịch bệnh, rất nhiều ruồi muỗi. Nên tháng tư người Chăm không làm một lễ gì cả.
Các tháng để làm lễ cưới được quan niệm như sau: theo lịch Chăm, tháng 3 là thời điểm bắt đầu công việc cày bừa, gieo mạ. Tháng 6 là tháng tài sản vào, cũng là mùa thu hoạch và gieo vụ lúa thứ hai. Tháng 10 là tháng phát tài, là tháng thu hoạch vụ lúa chính. Tháng 11 là tháng nông nhàn, vụ mùa đã thu hoạch xong.
Tuy vậy, tháng 3 là tháng xuân nên đa số lễ cưới được tổ chức vào tháng này nên cũng có thể gọi tháng 3 Chăm lịch là mùa cưới của người Chăm Ahiêr. Riêng người Chăm Ahiêr ở Phan Rí, Bình Thuận chỉ cưới vợ, cưới chồng vào tháng 3, tháng 6, tháng 10 mà thôi. Có hiện tượng này là vì vấn đề lịch Chăm cho đến nay vẫn chưa thống nhất giữa các vùng, ngay trong nội bộ các làng Chăm Ninh Thuận, giữa các tôn giáo và trong một tôn giáo vẫn chưa thống nhất được cách tính lịch, hàng năm đến dịp lễ hội Katê, các chức sắc Chăm phải ngồi lại đàm phán để thống nhất lịch.
Các ngày trong tuần được quan niệm như sau:
- Adit tok mưh: Chủ nhật nhận vàng
- Thom //pariak: Thứ hai // bạc
- Angar //basei: Thứ ba // sắt
- But //tanưh bachah: Thứ tư // đất nẻ, đất tốt.
- Jip //drap mưng takai: Thứ năm // súc vật
- Suk//pacha : Thứ sáu // y phục
- Thanưcha// padai: Thứ bảy // lúa thóc.
Ngày cưới phải vào các ngày chẵn (các số thuộc âm) 2, 4, 6, 8, 10, 12 và 14 Chăm lịch và phải vào các ngày thứ ba, thứ tư, thứ năm trong tuần. Trong 3 ngày trên, lễ cưới chính thức được tính là vào ngày thứ tư. Theo bảng tính ở trên thì thứ tư thuộc về đất nẻ, đất tốt dùng để trồng tỉa lúa, hoa màu: Lễ cưới được tổ chức vào thứ tư là để mưu cầu cho đôi vợ chồng sinh con đẻ cái đầy đàn. Ngoài ra, thứ tư còn là ngày giữa tuần, ngày âm - dương gặp nhau, được ví như lỗ rốn của con người (điểm giữa): Từ đầu tới rốn có ba phần: Đầu, cổ, ngực tượng trưng cho các ngày chủ nhật, thứ hai, thứ ba. Từ rốn xuống cũng có ba phần: bụng, háng, chân tượng trưng cho thứ năm, sáu, và thứ bảy. Ngoài ra, đối với người đàn ông, từ rốn trở lên được coi như thiên chức người cha, từ rốn trở xuống được coi là thiên chức của người chồng. Đối với người phụ nữ cũng vậy, từ rốn trở lên là thiên chức người mẹ, từ rốn trở xuống là thiên chức người vợ. Việc quan niệm lấy thứ tư làm ngày cưới, lỗ rốn là trung điểm của hai vợ chồng còn thể hiện sự bình đẳng giữa hai vợ chồng. Qua những tư liệu trên, chúng tôi thấy những quan niệm của người Chăm thật nhất quán. Việc phân chia cơ thể con người của người Chăm Ahiêr còn thể hiện rất nhiều trong các nghi lễ Chăm, ngay cả trong hệ thống nhạc cụ Chăm, kèn saranai được coi là đầu (thổi bằng miệng), là nhạc cụ thể hiện giai điệu chính, trống baranưng được coi là bụng (do ôm vào bụng để vỗ), và trống ghinăng được coi là đôi chân của cơ thể con người (do bắt chéo hai trống, ngồi xuống đất để gõ).
Về giờ khắc: Từ lúc mặt trời mọc đến lúc mặt trời lặn, người Chăm tính có 8 tuk (có thể hiểu là giờ tốt), mỗi tuk là 90 phút (một tiếng rưỡi). Ban đêm người Chăm chỉ tính từ 6 giờ tối đến 12 giờ nên chỉ có 4 tuk, từ 0 giờ đến 6 giờ sáng không được tính vì họ cho rằng đây là thời gian âm dương giao hòa, muôn vật, muôn loài sinh sôi nảy nở. Giờ tiến hành làm lễ cưới phải được ông thầy xem giờ tốt (tanhrwwah) và phải từ buổi trưa đến buổi chiều (có nghĩa là lễ cưới phải vào thời gian thuộc âm).
Như vậy, cách tính giờ, ngày, tháng để làm lễ cưới của người Chăm Ahiêr thể hiện tính “mẹ” rất rõ ràng. Đây là những biểu hiện của chế độ mẫu hệ bao trùm trong xã hội Chăm từ xa xưa còn lưu giữ được đến ngày nay.
Trang phục cô dâu (mưtơw kamay - mưtău kamei) là áo dài truyền thống Chăm, may bằng vải trắng. Tóc búi cao và đeo nhiều đồ trang sức như vòng, lắc, hoa tai, nhẫn. Khác với trang phục lễ hội với những chiếc áo dài màu sắc sặc sỡ, lưng thắt hai dây thổ cẩm, một dây thắt ngang lưng và một dây đeo chéo vai, trang phục cưới chỉ là một chiếc áo dài trắng, thể hiện sự trong trắng của cô dâu.
Trang phục chú rể (mưtơw) là áo trắng truyền thống Chăm (gần giống như áo bà ba), bên ngoài khoác một chiếc áo mầu, thường là áo may bằng vải thổ cẩm Chăm rất đẹp, có hoa văn chìm và được đính kim tuyến, đầu quấn khăn Chăm, bên ngoài trùm một chiếc khăn thổ cẩm, mặc váy bằng cách quấn một tấm chăn (người Chăm gọi là mặc chăn). Chiếc áo khoác màu sẽ được cởi ra và trao cho cô dâu sau khi vào phòng the với ý là trao thân gởi phận cho cô dâu.
Ông chủ lễ (inưmư) mặc áo thổ cẩm màu, cuốn chăn, đầu quấn khăn mầu có tua. Bà inưmư mặc đồ truyền thống Chăm, mặc váy và áo dài màu, tóc búi cao. Đây là trang phục đàn ông và phụ nữ Chăm thường mặc trong những buổi lễ trang trọng.
Chủ lễ (chủ hôn - inư - imư): Ông mai (on nhuh) là người nối sợi tơ hồng cho đôi trai gái, nhưng người đứng ra tổ chức lễ cưới (chủ hôn) là ông inư - imư (cha mẹ đỡ đầu, đọc là inưmư, từ đây xin dùng từ inưmư). Ông inưmư phải là người có tuổi hợp với cô dâu chú rể, là người vai chú hay vai bác của cô dâu chú rể, phải là người “một cột, một kèo” (một vợ một chồng, không chắp vá), phải là người có gia tài, có sự nghiệp kha khá, là người nhiều con cái, dâu rể, cháu chắt, là người am hiểu phong tục tập quán Chăm. Ngoài ra, luật tục quy định, ông inưmư trong một năm chỉ được làm chủ hôn một lần vì mỗi cha mẹ một năm chỉ đẻ được một đứa con. Cũng có trường hợp gia đình chọn được ông inưmư nhưng ông này lại không thuộc các bài khấn và vẽ bùa chú, có thể mời một ông thầy cúng phụ giúp.
Khác với các dân tộc khác, vai trò chủ lễ cưới của người Chăm rất quan trọng. Trong lễ cưới Chăm Ahiêr, không được xuất hiện các chức sắc pà xế Bàlamôn. Nếu các chức sắc tôn giáo là bà con họ hàng, khi đến dự lễ cưới phải thay đổi trang phục và không tham gia gì vào các nghi lễ. Điều này khác biệt với lễ cưới người Chăm Bàni và Chăm Islam, các chức sắc tôn giáo đóng vai trò quan trọng. Trong tôn giáo Bàlamôn, các vị chức sắc pà xế chỉ có nhiệm vụ làm nghi lễ tang ma và các nghi lễ cúng thần linh trên tháp. Vì vậy, các thầy pà xế không được hiện diện trong lễ cưới cũng như trong hệ thống lễ hội Rija. Sự khác biệt này có thể do quan niệm về sống chết của người Chăm Ahiêr ảnh hưởng tới.
Những lễ vật chuẩn bị để sử dụng trong lễ cưới gồm có: Trầu cau, rượu; chiếu tục Chăm (chiew bang); khay trầu cổ (duơr hala); 4 cây đèn nến làm bằng sáp ong (tapơng dien); gỗ trầm hương (gihlơw); dầu dừa (mưnhưk liu); 2 chiếu (cieu) trải giường phòng the, 2 chiếc gối; các loại bánh: bánh sakaya, bánh pei nung, bánh ngọt v.v... Trong lễ cưới, ông inưmư phải cúng mời các vị thần sau: 4 vị thần linh thuộc Bàni giáo gồm: Po Li, Po Phwamưh, Po Than, Po Thai; các vị thần chung cho người Chăm cả hai tôn giáo gồm: thần trời, thần cha Po yang Amư; thần mẹ xứ sở Po Inư Nưgar; Po Pan; thần ông bà tổ tiên (Po muk, Po kei, Po prauk, Po patra, Po patri); thần làng xóm (Po ginwơr palei); các cận thần phụ tá các thần linh (Po ginwơr rang, kauk rang); thần thổ địa (Po tanưh, Poriya).
Các món ăn trong đám cưới thường là thịt gà, vịt, cá, bún, súp, bánh mì, ca ri, các loại rau xào v.v… đặc biệt là phải có cá đuối vì người Chăm quan niệm cá đuối là loại cá đẻ ra con, với ý niệm là đôi vợ chồng trẻ sẽ mau mắn đẻ con, ngoài ra cá đuối còn tượng trưng cho ánh sáng. Phong tục xưa quy định trong lễ cưới phải có một ngày (ngày đầu tiên) chỉ ăn toàn cá đuối. Đồ uống có rượu, nước ngọt, nước chè. Ngày nay, các món trong bữa tiệc mặn ngày càng phong phú, đa dạng. Nhiều đám cưới đã dùng bia và các món ăn người Việt.
Cũng như người Việt, nếu trong lễ tang người Chăm không phải mời, ai đến thì đến, thì trong lễ cưới, chủ nhà mời nhiều loại khách: khách nội tộc, họ hàng, khách của ông bà cha mẹ, khách của cô dâu chú rể. Lễ cưới của người Chăm xưa tổ chức ăn uống trong hai ngày (thứ tư và thứ năm), khách mời cũng được chia ra theo những ngày đó. Ngày nay, cũng còn nhiều lễ cưới tổ chức ăn uống cả 2 ngày, nhưng đa phần chỉ tổ chức ăn một buổi cho đỡ tốn kém.
Trầu để dùng trong nghi lễ cưới xin là trầu têm dẹt (hala dơm dara). Lá trầu phải được xé làm đôi têm với cau, vôi theo hình dẹt.
e. Các nghi lễ cưới (Bbơng pađih hay Bbơng mưnhum) [18].
Lễ cúng trình tổ tiên (khan prauk): Bên nhà gái, ông inưmư làm một lễ cúng thần linh và tổ tiên. Mâm lễ vật gồm một khay trầu cau, một chiếc cổ bồng, trên đó có một nải chuối để úp, một khay lửa trầm hương, một lọ dầu dừa, một chung rượu, một chiếc ống nhổ, một bộ bình trà, một gạt tàn thuốc lá, trên đó để hai điếu thuốc đã được đốt lên. Tất cả lễ vật được để trên một chiếc chiếu tục Chăm (chiew bang). Phía bên trái để hai chiếc chiếu, hai chiếc gối. Khay trầu cau (chabbah) của người Chăm được đan bằng mây, hình tròn, đường kính khoảng 25cm - 30cm, chiều cao khoảng 15cm, phía trên có một chiếc đĩa để trầu cau, rượu, trên đó có 5 miếng trầu đã têm (trầu têm dẹt), vôi có nhuộm phẩm màu hồng, thuốc lá sợi để ăn với trầu cau, 5 ngọn nến bằng sáp ong. Trong lòng khay có một chiếc hộp nhôm hình trụ, trong hộp có 5 lá trầu, 5 miếng cau chưa têm, vôi và thuốc lá sợi. Cũng như trong các nghi lễ khác của người Chăm Ahiêr (trừ nghi lễ tang ma), các mâm lễ và lễ vật bao giờ cũng thể hiện con số 5. Trong khi ở những lễ thức này, người theo Bàni lại thể hiện toàn con số 3. Các vị chức sắc giải thích rằng con số 5 thuộc dương (Bàlamôn thuộc dương). Con số 3 là con số âm (Bàni thuộc âm). Ngoài ra, con số 5 là con số thuộc cõi sống (dương gian) theo quan niệm người Chăm Ahiêr. Tuy nhiên, cũng có những vị trí thức Chăm cho rằng con số 5 ít nhiều chịu ảnh hưởng lý thuyết ngũ hành. Cũng có thể con số 5 của người Chăm có chịu ảnh hưởng thuyết ngũ phương của các tộc người Đông Nam á.
Ông inưmư đốt 5 ngọn nến gắn lên các khay lễ vật, vừa khấn thần linh vừa rót rượu mời. Bà inưmư dẫn cô dâu ngồi trước mâm lễ cúng và làm phép chải đầu, xức dầu thơm, yểm bùa lên tóc cô dâu. Sau khi khấn, ông inưmư cầm chiếu gối xông lên khói trầm hương đọc lời khấn và mang vào phòng the để làm nghi thức trải chiếu, gối. Sở dĩ phải xông chiếu gối vì theo ông inưmư, xông trầm là để tẩy uế và báo cho thần linh biết việc thành hôn của hai người.
Ông bà inưmư vào phòng the làm thủ tục trải chiếu, đặt gối cho cô dâu chú rể. Ông vừa khấn vừa vẽ bùa lên đầu, giữa và chân các chiếc chiếu, sau đó trải hai chiếc chiếu chồng lên nhau. Chiếc chiếu trên cùng ông trải ngược (mặt trái lên trên). Những bùa phép và chiếc chiếu trải ngược nhằm ngăn cấm cô dâu chú rể không được “chăn gối” trong 3 ngày cưới (xem hình 4, tr.).
Sau 3 ngày, bùa phép sẽ được gỡ ra, chiếu được trải đúng chiều, khi đó cô dâu chú rể mới chính thức được “đụng” nhau.
Bà inưmư và cô dâu ngồi lại phòng the chờ ông inưmư đi đón chú rể về. Cô dâu ngồi trên chiếc chiếu đã trải, bà inưmư ngồi cạnh nhưng không được ngồi lên chiếc chiếu đó. Sau khi làm lễ trải chiếu, đặt gối, ông inưmư lại ra gian nhà ngoài tiếp tục cúng trình tổ tiên. Cúng xong, ông dỡ mâm cúng đưa vào phòng the để chuẩn bị, khi nào đón chú rể vào phòng the sẽ làm lễ thức cúng nhập phòng the.
Lễ đưa, đón rể (Bah rauk mưtơw): Vào đầu giờ buổi chiều ngày thứ tư, thường là sau 13 giờ (phải là giờ thuộc âm - buổi chiều), nhà trai tổ chức đưa chú rể sang nhà gái. Đoàn đi gồm ông mai và các cặp vợ chồng trong họ (số lượng đoàn đi đã được bàn bạc thống nhất). Ngoài ra, trong gia đình cử một người xách va ly hành trang của chú rể về nhà vợ.
Đến nay, người Chăm vẫn giữ được tục cha mẹ cô dâu chú rể phải đi trốn, lánh mặt không xuất hiện trong các lễ thức đưa đón chú rể và lễ nhập phòng the. Chỉ đến khi những lễ thức đã xong, cha mẹ hai bên mới xuất hiện để mời mọi người ăn tiệc. Khi hỏi một số người già Chăm, họ giải thích như sau: Tuy cha mẹ là người có công sinh thành, nuôi dưỡng cô dâu nhưng khi lớn lên lại là con của họ hàng. Người Chăm có câu: Dauk rinaih anưk amaik saung amư, Tơl praung anưk gơp saung patian có nghĩa là Lúc còn nhỏ là con của cha mẹ, lớn lên là con của họ hàng. Vì vậy, khi cưới, cha mẹ giao hết con cái mình cho ông bà inưmư và bà con họ hàng. Khi rước rể về, cha mẹ hai bên đi trốn, lánh mặt là để chú rể và cô dâu làm quen bà con trong tộc họ hai bên trước, vì họ hàng là lớn nhất và trước hết. Chỉ sau lễ nhập phòng the, cha mẹ mới xuất hiện. Họ hàng đối với người Chăm là rất quan trọng. Sau khi cưới, cô dâu chú rể phải đi thăm hết bà con họ hàng. Nếu ra đường gặp người trong họ mà không biết, không chào hỏi đúng ngôi thứ sẽ bị chê cười. Thậm chí, lỡ có xung đột, cô dâu chú rể cũng phải nhịn, phải “chịu thua” thì mới tỏ lòng tôn kính những người trong tộc họ.
Trước khi đi đón chú rể, ông inưmư nhà gái làm lễ khấn các thần linh, khấn báo tổ tiên và bưng khay trầu rượu đi ra cổng, đến nơi hẹn ở giữa đường để đón chú rể. Khi đoàn nhà trai đến, mọi người trải chiếu, bày các mâm lễ vật gồm trầu cau, nước trà, rượu và ngồi đối diện, chào hỏi, nói chuyện vui vẻ để chờ đến giờ tiếp tục lên đường, sao cho khi đến cổng nhà gái nhằm vào giờ tốt. Lễ thức đón rể rauk anưk mơtơw là lễ thức phải có, vì nếu không có, chú rể bị coi là nau oh thei rauk, mai oh thei da - a, có nghĩa là: “đi không ai đón, về không ai mời”.
Nhà gái trải chiếu từ cổng vào đến nhà làm lễ để đón đoàn nhà trai. Ở cổng nhà gái, người ta để một chậu nước lớn, một người đứng múc nước dội vào chân từng người trong họ nhà trai để vào làm lễ. Trong gian khách nhà gái, người ta trải 3 chiếc chiếu thành 3 hàng dọc, ở giữa phía trong là mâm lễ có khay trầu cau, rượu, nến sáp, 2 nải chuối. Hai bên có để hai chiếc gối để cho hai ông inưmư tựa lưng. Ông inưmư nhà trai dẫn chú rể vào, ngồi ở phía nam, ông inưmư nhà gái ngồi ở hướng bắc. Sau khi đã ngồi xuống, hai ông inưmư làm thủ tục khấn vái trước mâm lễ vật. Sau đó, ông inưmư nhà trai dắt tay chú rể đi thẳng vào phòng the.
Lễ nhập phòng the (Jaw tangin ong iinưmư - trao tay ông inưmư): The phòng là một gian nhà được trang trí phía trong của nhà tục trong khuôn viên nhà gái (sang yơ). Trong phòng the, người ta trải hai chiếc chiếu đã được yểm bùa chú chồng lên nhau. Ở chính giữa phòng người ta bày một khay trầu hình trụ, cái ống nhổ, một chén nước bằng đồng. Một ngọn nến sáp được đốt lên, đính vào khay trầu.
Bà inưmư sửa soạn cho nàng dâu, ông inưmư xức dầu thơm cho cô dâu và xung quanh phòng, vừa xức dầu vừa đọc thần chú. Khi bên đàng trai đến, cô dâu đã được trang điểm và hồi hộp giây phút đón chàng rể (xem ảnh 2, 3, 4, 5, tr.).
Trong lúc mọi người tập trung ở phòng khách, ông inưmư nhà trai dùng tay phải (dương) cầm tay chú rể đi đến thẳng the phòng cô dâu để trao cho ông inưmư nhà gái nhưng không được bước chân vào phòng the. Ông inưmư nhà gái đón nhận tay chàng rể bằng tay trái (âm) từ tay ông inưmư đàng trai và dắt vào phòng the. Lời chúc tụng của ông inưmư nhà trai tóm tắt như sau: “Ngày lành giờ tốt đưa chàng rể đến để kết tóc xe duyên thành đôi vợ chồng, cầu chúc phước lành, trăm năm hạnh phúc, gặp nhiều may mắn, như các loài cây tươi tốt quanh năm, hoa trái đầy giàn, giàu sang phú quý, cùng nhau chung sống đến đầu bạc răng long mà thể xác vẫn mạnh khỏe, tâm hồn vẫn tươi xanh…” [19]
Sau đó ông inưmư dẫn chú rể ngồi đối diện với cô dâu. Ông inưmư nhà trai ngồi phía đông, ông inưmư nhà gái ngồi đối diện. Tiếp theo là nghi thức trải chiếu. Hai ông inưmư đứng dậy đổi chỗ cho nhau và cùng cầm đầu chiếc chiếu trên cùng đập lên đập xuống ba lần, miệng đọc thần chú trải chiếu và khấn vái thần linh và trải chiếu sao cho thật phẳng. Theo các cụ già Chăm, nếu chiếu trải một lần mà không phẳng, không ngay ngắn thì không tốt. Chiếu tân hôn được trải theo chiều bắc - nam, đầu quay hướng bắc. Sau khi làm thủ tục trải chiếu, hai ông inưmư kê hai chiếc gối đầu giường phía bắc, vừa kê vừa đọc bùa chú kê gối. Những lời khấn và bùa chú của ông inưmư nhằm mục đích trấn yểm, trừ tà ma và loại trừ những bùa ngải, ma thuật làm hại có thể do những kẻ xấu ghen ghét đã yểm trước đó, đồng thời yểm bùa để cấm cô dâu chú rể không được “đụng” nhau trong 3 ngày cưới.
Tiếp theo là nghi thức cúng mâm tơ hồng. Mâm lễ vật đã được chuẩn bị sẵn. Ông inưmư thắp 2 ngọn nến, rót rượu khấn vái mời các vị thần trời, thần mẹ xứ sở, thần tổ tiên, thần làng, thần thổ địa về chứng giám cho lễ thành hôn. Bài khấn có nội dung như sau:
“Xin mời tất cả các vị thần linh yang Po, yang Amư, yang Po Inư Nưgar, Po Pan… ngự trị chốn thần linh, ngày lành tháng tốt về đây, với bát nước xúc miệng chà răng và hưởng thảo các lễ vật và cầu xin các ngài đứng xe duyên kết tóc cho đôi trẻ là… (gọi họ tên cô dâu chú rể) thành đôi vợ chồng trăm năm hạnh phúc, làm ăn phát tài, giàu sang phú quí, con đàn cháu đống, gặp nhiều may mắn, tận hưởng hạnh phúc…”.
Ông inưmư bỏ một ít trầm vào chén than và đọc thần chú xông trầm. Cô dâu chú rể đưa hai bàn tay xông lên khói trầm hương. Trong khi đó, ông inưmư đọc lời cầu nguyện sức khỏe, hạnh phúc, mau mắn có con, làm ăn thịnh vượng cho hai vợ chồng trẻ.
Cô dâu chọn lấy một lá trầu to nhất, đẹp nhất xé làm đôi, têm với cau, vôi và đưa cho chú rể. Chú rể chọn lấy một quả cau bổ làm đôi đưa cho cô dâu. Ông inưmư giải thích đây là biểu tượng phồn thực trong nghi lễ đám cưới. Lá trầu cô dâu đưa cho chú rể là biểu tượng âm, quả cau chú rể đưa cho cô dâu là biểu tượng dương. Ông inưmư đọc lời cầu khấn, cô dâu chú rể ăn trầu, cùng thưởng thức vị cay nồng của hạnh phúc lứa đôi. Trước khi ra khỏi phòng, ông inưmư bỏ xuống dưới mỗi chiếc gối một miếng trầu têm để yểm bùa.
Tiếp đến là thủ tục chú rể trao nhẫn mư ta [20] cho cô dâu trước sự chứng kiến của ông bà inưmư. Sau khi ông inưmư làm thủ tục nhập phòng và thủ tục ăn trầu, chú rể cởi áo ngoài đưa cho cô dâu, cô dâu nhận áo khoác ngoài của chú rể vắt lên đầu chiếu với ý tứ là từ đây, chú rể đã trao thân gửi phận cho cô dâu, chính thức trở thành thành viên của gia đình nhà gái và cùng cô dâu đi ra ngoài trình diện họ hàng hai bên. Thủ tục nhập phòng the đã xong. Hai ông inưmư ra phòng cưới ngồi ở hai bên chiếu, ở giữa vẫn là mâm lễ vật. Chú rể bưng khay trầu cau đi ra phòng cưới dâng lên cho hai ông inưmư.
Sau đó, ông inưmư dắt tay cô dâu, chú rể ra phòng khách chào và trình diện hai họ, giới thiệu cho cô dâu, chú rể những người thân tộc trong họ hai bên. Ông inưmư căn dặn cô dâu chú rể về bổn phận của mình. Lúc này, cha mẹ cô dâu mới xuất hiện, cùng với cô dâu chú rể đi chúc rượu. Họ đi đến từng mâm, rót rượu và mời khách dự cưới. Lúc này, khách mời mới bắt đầu ăn cơm, uống rượu.
Cô dâu chú rể trở lại phòng the. Ở đây người ta đã dọn sẵn mâm cơm cho cô dâu chú rể. Hai người ngồi đối diện nhau, vừa ăn vừa tâm sự, nói chuyện. Sau đó, từng cặp vợ chồng và những người thân vào phòng the để trao tặng phẩm, quà cưới cho đôi tân hôn. Cô dâu, chú rể rót rượu mời từng người và nhận tặng phẩm. Trong ngày cưới, bên họ nhà trai không trao quà, tặng phẩm cho cô dâu chú rể mà sẽ trao vào ngày lễ “trả khăn áo” (lễ lại mặt).
Sau khi tiễn khách ra về. Cô dâu chú rể quay lại phòng the. Lúc này trong phòng chỉ có hai người ăn uống, thì thầm trò chuyện với nhau. Các mâm lễ vật, chiếu trải, gối kê đã được yểm bùa vẫn nguyên vị trí cũ. Hai người phải ở nguyên vị trí của mình. Chỗ ai nấy nằm, gối ai nấy kê, ở giữa là chiếc cổ bồng kê mâm lễ vật ngăn cách hai người. Cô dâu chú rể đã được ông inưmư căn dặn kỹ lưỡng là được làm gì, không được làm gì. 3 đêm dài, hai người ở bên nhau nhưng chỉ được trò chuyện, chưa được động phòng.
Đây là một phong tục đã có từ lâu đời của người Chăm và được coi là một nét đẹp trong phong tục tập quán. Các cụ già Chăm giải thích rằng, sở dĩ có 3 đêm cấm động phòng đó là vì ngày xưa quyết định hôn nhân là do cha mẹ hai bên sắp đặt, nhiều đôi trai gái chưa quen biết nhau, còn lạ lẫm, mắc cỡ, thậm chí sợ sệt khi lần đầu tiếp xúc với “chuyện ấy”. Ba đêm để hai người từ lạ lẫm đi tới làm quen nhau, tìm hiểu nhau. Ở một khía cạnh khác, các cụ giải thích rằng, ba ngày cưới là ba ngày rất bận rộn và mệt nhọc của cô dâu chú rể vì phải trải qua nhiều lễ thức. Sau ba đêm, khi nghi lễ cưới đã xong xuôi, khách và họ hàng gần xa đã về hết, cô dâu chú rể mới thảnh thơi tận hưởng đêm tân hôn.
Từ tối thứ tư đến thứ bảy, ông inưmư và bà mối mới đến làm lễ động phòng cho cô dâu chú rể. Mâm lễ gồm 4 miếng trầu têm, 4 ly rượu. Sau khi khấn vái, ông inưmư gỡ bùa phép đã yểm khắp trên đầu tóc cô dâu chú rể, trên gối, trên vách, rồi ông trải lại chiếu trên cùng cho đúng chiều và mọi người uống một ly rượu mừng hạnh phúc cho cô dâu chú rể. Ông inưmư ghé tai chú rể, bà inưmư ghé tai cô dâu dặn dò kỹ lưỡng về những chuyện thầm kín đêm động phòng. Bà inưmư cũng không quên gắn lại chiếc kim trâm cài lên búi tóc cô dâu và dặn cô dâu cách xử lý nếu chú rể bị “sự cố”.
Dặn dò xong, ông bà inưmư đi ra, trả lại thế giới thiêng cho đôi uyên ương.
Lễ trả khăn áo (Talơh khơn aw) hay còn gọi là lễ lại mặt, lễ xã y hay lễ trình diện tông môn: Trong 3 ngày cưới, chú rể không được quay lại nhà cha mẹ đẻ. Nếu nhớ nhà chạy về cũng bị khoá cổng không cho vào và bị đuổi về lại nhà gái. Sau 3 ngày, bên nhà gái sửa soạn lễ vật gồm bánh trái: trầu cau, bánh sakaya, bánh tét, chuối, rượu, bánh ngọt xếp vào một cái chiết trầu cau để đi làm lễ trả khăn áo. Ngoài ra còn có một chiết khăn áo để khăn áo cưới của chú rể (chiếc khăn và chiếc áo truyền thống trong đám cưới, chú rể cởi ra trao cho cô dâu trong phòng the ba ngày trước) nên gọi là lễ “trả khăn áo”. Xét về ý nghĩa, có thể coi lễ này như “lễ lại mặt” của người Việt. Người Chăm còn gọi đây là lễ lavăng paruai (lễ thăm xui gia). Đoàn đi gồm cha mẹ, bà con thân tộc gần gũi cùng đôi vợ chồng mới cưới. Nhà trai ra đón đoàn nhà gái rất trịnh trọng và nhà gái cũng rất trân trọng với nhà trai vì, sự ra đi của người con trai Chăm là một mất mát lớn cho gia đình, mất đi một lao động trụ cột. Nhà trai tổ chức một bữa cơm thân mật tiếp đón nhà gái và nhân dịp này, cha mẹ, cô dì chú bác, anh chị trao tặng phẩm như vải lụa, đồ trang sức bằng vàng, bạc và một số đồ dùng thiết yếu cho chú rể. Nhiều gia đình khá giả còn cho chàng trai trâu hoặc bò mang tính chất của hồi môn. Từ đây, chàng trai thật sự chia tay với cha mẹ đẻ, với bà con thân tộc của mình để mãi mãi đi làm rể bên nhà vợ. Chỉ đến khi chết, sau khi hỏa táng, 9 miếng xương trán của chàng mới được đem về nhập “kút” bên dòng họ mẹ.
Theo luật tục Chăm, lễ cưới đến đây đã hoàn tất. Hai vợ chồng coi như đã được hợp thức hóa trong xã hội Chăm và có quyền cũng như trách nhiệm, nghĩa vụ sống với nhau suốt đời. Sau giải phóng, chấp hành luật hôn nhân và gia đình, các đôi vợ chồng phải đến chính quyền địa phương đăng ký kết hôn. Nhưng việc chấp hành điều luật này chưa nhiều. Nếu có ly dị thì chủ yếu là do thoả thuận giữa hai bên và theo luật tục Chăm, người con trai phải ra đi với hai bàn tay trắng.
Trước đây cũng có trường hợp cô dâu chú rể về lại nhà trai sống cho đến khi có con, hai vợ chồng mới về lại nhà vợ, giống như tục “gửi rể” của người Việt, người Chăm gọi là tục “ở dâu”.
Trường hợp vì không đủ điều kiện quy định để làm lễ cưới theo đúng phong tục, người Chăm có tục “cưới lén”.
3. Tục cưới “lén” (Khing klaik)
Ở vùng đồng bào Chăm Ahiêr Ninh Thuận hiện nay vẫn có tục cưới “lén” (từ dùng theo tiếng Việt của người Chăm ở Ninh Thuận). Cưới “lén” là những đám cưới tuy cũng phải làm đủ thủ tục cúng thần linh nhưng không tổ chức quy mô, không mời khách ngoài gia đình, tộc họ. Cưới “lén” phải tổ chức vì những lý do “bất khả kháng”, buộc phải làm đám cưới, dành cho những trường hợp: Chiet atơw của gia đình trong năm đã bị hạ xuống bởi những lý do như: Một trong hai bên gia đình có tang; một trong hai gia đình có làm lễ múa lớn (Rija praung); một trong hai dòng tộc có làm lễ nhập kút; cô dâu đã có thai, hoặc đã có dư luận về sự đi lại, ăn nằm của đôi trai gái. Ngoài ra, còn có những trường hợp vì gia đình quá nghèo, không có đủ điều kiện làm lễ cưới, đôi trai gái chỉ phải thực hiện những nghi thức cơ bản theo phong tục, không tổ chức ăn uống linh đình.
Trong các tư liệu về phong tục tập quán Chăm không đề cập đến những nghi lễ sinh nhật, thượng thọ hay lên lão. Nhưng những quy tắc về sự kính trọng người lớn tuổi vẫn tồn tại lâu đời trong người Chăm. Ngoài sự kính trọng các chức sắc tôn giáo, người ít tuổi phải tôn trọng người nhiều tuổi, phải kính trọng các vai trên trong tộc họ. Ở một số làng Chăm có duy trì lễ thức cúng dê cho Po Aw lwah khi già sắp chết Ngak drei pabaiy ka Po Aw lwah.
Những lễ thức từ khi người mẹ mang thai, sinh nở, trưởng thành lấy vợ, lấy chồng, rồi trở về già của người Chăm được coi là những nghi lễ dành cho con người nơi cõi sống. Tuy mang tư tưởng của một tôn giáo cổ đại với quan niệm cõi sống là cõi tạm, nhưng những gì mà người Chăm thể hiện qua nghi lễ vòng đời trên cõi sống, chúng tôi vẫn thấy tính nhân văn sâu sắc, thể hiện những lớp văn hóa chồng xếp từ nhiều đời nay, không lệ thuộc vào những quy định của giáo lý Bàlamôn cổ đại như trong nghi lễ sinh đẻ, đặt tên, trưởng thành. Chỉ có trong nghi lễ cưới xin, còn có thể thấy một vài tàn tích của giáo lý Bàlamôn. Điều này cho chúng ta thấy sự bản địa hóa trong văn hóa của người Chăm là rất đáng kể.
IV. Những lễ thức trong giai đoạn tử
Với quan niệm cõi sống là cõi tạm, người Chăm Ahiêr rất chú trọng đến những nghi lễ của giai đoạn tử. Sau khi hỏa táng, người Chăm giữ lại 9 mảnh xương để sau một thời gian nhất định mới làm lễ nhập kút. Vì vậy, những nghi lễ của giai đoạn tử chúng tôi chia làm hai: nghi lễ tang ma và lễ nhập kút.
1. Nghi lễ tang ma (Đam kayơm)
Từ quan niệm về cõi sống và cõi chết, người Chăm Ahiêr coi cái chết chưa phải là hết, thậm chí coi cõi chết quan trọng hơn cõi sống (sống gửi, thác về) nên trong hệ thống nghi lễ vòng đời của người Chăm Ahiêr, tang lễ được coi là quan trọng hàng đầu. Tang lễ là một hệ thống nghi lễ phong phú và phức tạp, kéo dài thời gian và tốn kém tiền của. Hệ thống chức sắc pà xế Bàlamôn được hình thành nên chủ yếu là để làm lễ tang và những lễ nghi của các vị nhân thần trên các đền tháp, có nghĩa là chỉ làm các nghi lễ sau khi con người đã chết. Đó cũng chính là nguyên nhân làm cho tang lễ còn giữ được nhiều giá trị văn hóa cổ truyền bởi để hành lễ, các vị chức sắc Bàlamôn phải có các tài liệu văn bản cổ Chăm và hành lễ phải theo những quy định và những quy trình bắt buộc. Tùy theo từng trường hợp, người Chăm tổ chức những hình thức và nội dung lễ tang khác nhau mà bao đời nay vẫn theo những quy định rất chặt chẽ. Trước khi đi vào các nghi lễ, chúng tôi xin khái quát những quy định về tang ma.
a. Những quy định về tang ma
Quy định về đẳng cấp: Luật tục người Chăm Ahiêr từ xa xưa cho đến nay vẫn giữ những sự phân biệt về đẳng cấp và thể hiện rõ nét nhất trong tang lễ. Đẳng cấp của người chết khác nhau thì làm lễ tang khác nhau như lễ chôn, lễ hỏa táng “hai thầy”, lễ hỏa táng ‘bốn thầy”.
- Đám chôn (Đam Jơp brah): chỉ dành cho đẳng cấp nông nô halun halak. Theo giáo lý Bàlamôn, người theo tôn giáo Bàlamôn khi chết đều được lên giàn hỏa thiêu để linh hồn được siêu thoát. Những dòng họ được làm lễ hỏa táng được gọi là “dòng thiêu”, người Chăm gọi là “Chàm thiêu” (Cham chuh). Nhưng trong người Chăm Ahiêr ở Ninh Thuận, Bình Thuận hiện nay, tồn tại một số dòng họ chỉ được làm lễ tang chôn (địa táng) mà người Chăm gọi là “dòng chôn” (Cham baung - Cham dar). Đa số các nhà nghiên cứu người Chăm cho rằng, sở dĩ những dòng họ này không được thiêu mà chỉ được chôn bởi đây là những dòng họ trước kia thuộc đẳng cấp tôi tớ, cùng đinh, nhưng cũng có những ý kiến khác [21]. Số tộc họ thuộc “dòng chôn” này không nhiều, chủ yếu tập trung ở thôn Phước Lập, xã Phước Dân, huyện Ninh Phước. Ở thôn Bĩnh Nghĩa, xã Phương Hải, huyện Ninh Hải hiện còn bốn tộc họ thuộc “dòng chôn”. Ở Bình Thuận cũng có một làng Chăm vừa có “dòng chôn” vừa có “dòng thiêu”. Người Chăm quan niệm, hỏa táng thì linh hồn được lên thiên đàng, còn địa táng (chôn) thì linh hồn xuống địa đàng. Những người thuộc “dòng thiêu”, nếu chết “trọn vẹn” thì được giải thoát linh hồn, còn những người thuộc “dòng chôn” thì linh hồn phải xuống địa ngục hoặc “tái sinh” làm người hay súc vật theo quan niệm “nghiệp báo luân hồi”.
Đám chôn chỉ có một thầy làm lễ, nghi thức cũng giống như đám hỏa táng nhưng đơn giản hơn.
- Đám hỏa táng (đam chuh): Đa số người Chăm Ahiêr khi chết đều được làm lễ hỏa táng, nhưng trong số này lại chia ra làm nhiều lễ thức khác nhau. Đó là các loại lễ tang nhỏ nhất từ lễ “hai thầy” đến lễ lớn nhất “bốn thầy”. Trong lễ hỏa táng có lễ hỏa táng tươi và lễ hỏa táng khô. Lễ hỏa táng tươi là lễ thiêu còn nguyên thi hài. Lễ hỏa táng “khô” là lễ thiêu hài cốt được đào lên sau khi xác người chết đã được “chôn gửi”, “chôn tạm” một thời gian. Loại đám tang nhỏ “hai thầy” còn gọi là đam assit, do hai thầy pà xế làm lễ (đam đua passeh), dành cho đẳng cấp bình dân. Lễ tang lớn (praung) có bốn thầy (đam pak passeh) hành lễ là lễ tang lớn nhất, dành cho đẳng cấp cao nhất trong xã hội Chăm Ahiêr, bao gồm các tăng lữ pà xế, những dòng họ có nguồn gốc quý tộc, giàu có.
Quy định theo lứa tuổi: Người chết nếu từ 16 tuổi trở lên đến dưới 50, được làm lễ tang đầy đủ, nhưng cũng chỉ được làm đám nhỏ “hai thầy”. Người chết trên 50 tuổi, nếu thuộc dòng họ thuộc đẳng cấp cao mới được làm lễ tang “bốn thầy”. Người chết đúng 15 tuổi chỉ làm đám nhỏ, chỉ có một thầy làm lễ (đam sa passeh), gọi là đám đam binah bauh, có nghĩa là đám “nửa phần”. Người chết dưới 15 tuổi dù ở dòng nào cũng chỉ được làm lễ chôn, gọi là Jơp brah. Theo quan niệm của người Chăm, dưới 15 tuổi là chưa hoàn thiện, cho trẻ trở về với cát bụi.
Qui định về nghi thức tang ma dành cho các “loại chết”: Ngoài những quy định về nghi thức tang ma theo đẳng cấp, nghi lễ tang ma người Chăm Ahiêr còn bị qui định bởi các “loại chết”. Người chết chết trong trường hợp nào, khi chết bao nhiêu tuổi, có vợ, có chồng hay có con chưa cũng được quy định chặt chẽ.
- “Chết trọn vẹn” (mưtai siam), hay còn gọi là chết “tốt”, chết “lành”, chết “bình thường”, là những người khi sống đã làm đầy đủ những nghi thức chuyển tiếp, chết tại nhà, còn nguyên vẹn thi thể, không bị tật nguyền, trước khi tắt thở có người ôm, đỡ tay dưới đầu, đầu người chết tựa vào ngực người đỡ, sau khi tắt thở được đặt trên sàn nhà, khi chết không rơi vào những ngày đại kỵ: ngày hết trăng, mồng một, thứ năm trong tuần.
- “Chết không trọn vẹn” (mưtai bhaw), hay còn gọi là chết “xấu”, chết “dữ”, chết “không bình thường” là khi người chết không hội đủ những điều kiện của “chết trọn vẹn”. Đó là những trường hợp không chết ở nhà, chết do chiến tranh, do tai nạn, do tự tử, người tật nguyền, chết không toàn thây, những người đã lớn tuổi nhưng khi chết chưa có vợ, có chồng, chết dưới 15 tuổi v.v… Với những loại chết khác nhau sẽ có những thủ tục, nghi lễ khác nhau. Những người “chết không trọn vẹn” đều phải có nghi thức trừ tà ma, không được làm lễ hỏa táng ngay mà phải “chôn gửi”, sau một thời gian quy định mới được làm lễ hỏa táng. Đặc biệt, những người “chết không trọn vẹn” sẽ không bao giờ được nhập xương vào kút chính của dòng họ mình và như vậy, linh hồn người chết sẽ không được về với ông bà tổ tiên.
Người Chăm rất sợ người chết tắt thở vào ngày thứ năm hoặc vào những giờ xấu. Mặc dù người đó chết tại nhà, có người đỡ nhưng nếu tắt thở vào giờ xấu hay ngày xấu vẫn bị coi là chết “không trọn vẹn”, chết “xấu” và sẽ không được nhập kút. Để tránh tình trạng này, nếu người sắp chết đã già yếu và không thể sống được nữa, người nhà đi mời một ông thầy pà xế, thường là vị cả sư và một ông thầy pháp đến làm một lễ cúng để lấy hồn người chết đi trước khi người đó tắt thở. Lễ thức này gọi là lễ Kak dhaung, có nghĩa là “cột dao”, lễ vật gồm trầu têm, rượu, 3 quả trứng, nến, trầm, một con dao. Mặc dù người chết chưa tắt thở, nhưng sau khi làm lễ này, hồn người chết đã được ông thầy lấy đi. Người chết có thể để nằm trên giường, không phải để xuống đất và không cần người nhà đỡ thường trực chờ tắt thở nữa nhưng vẫn được xếp vào loại chết trọn vẹn. Lễ thức trên chỉ dùng cho những người chết già, không áp dụng cho người còn trẻ vì nếu còn trẻ, mọi người hy vọng có thể sống lại.
Bởi những qui định chặt chẽ trên đây nên tang ma người Chăm Ahiêr có rất nhiều nghi thức khác nhau.
Chủ lễ của nghi lễ tang ma là hệ thống chức sắc Bàlamôn và các thầy chủ lễ dân gian mà chúng tôi đã đề cập ở phần trước. Trong nghi lễ tang ma, các thầy chủ lễ và những người giúp việc được phân công theo chức sắc rất rõ ràng và chặt chẽ.
b. Nghi thức khâm liệm (Ppachuk)
Nghi thức khâm liệm dành cho người “chết trọn vẹn” (Ppachuk mưtai siam): Cái chết rất quan trọng cho nên khi nhà có người nhà sắp chết, người thân trong gia đình dù ở xa hay gần đều được thông báo để về “chứng kiến” và lo tang ma. Khi trút hơi thở cuối cùng, người nhà phải lo vuốt từ dưới chân lên đến đỉnh đầu người chết, bởi vì người Chăm quan niệm khi chết, linh hồn siêu thoát ra phía đầu là tốt nhất. Nếu khi chết rồi mà mắt, miệng vẫn còn mở thì cho rằng người chết còn có chuyện gì đó chưa thỏa mãn. Sau đó, người chết được đỡ nằm trên nền nhà và phải được tiếp xúc với đất, đầu vẫn quay về hướng bắc, thi hài được đắp một chiếc chăn trắng. Người Chăm quan niệm con người sinh ra từ mẹ đất, khi chết phải về với đất. Nghi thức này được gọi là thi mưtai, có nghĩa là lễ thức khi tắt thở.
- Lễ rửa tội (Lai ia - còn gọi là lễ kak dhaung hay lễ cho nước){c}:
Để làm lễ khâm liệm, người nhà đi mời thầy pà xế đến làm lễ rửa tội. Ông thầy đi ra bờ sông hoặc bờ mương để xin nước. Tay trái ông cầm cây gậy thần, mang theo trầu cau và một bình gốm nhỏ để thỉnh nước. Tay phải ông vẽ bùa trên cát ở bờ mương, miệng đọc thần chú rồi chôn 3 miếng trầu têm xuống cát và múc nước mang về thực hiện lễ thức rửa tội cho người chết.
Khi làm lễ rửa tội, người ta cởi áo người chết ra. Ông thầy ngồi phía tây thi hài, mặt hướng đông, buộc chiếc nhẫn mư ta và ngọn nến vào một con dao nhọn. Ông cầm con dao nhọn nhúng vào bình nước và nhỏ nước chảy vào hai mắt, hai tai, hai lỗ mũi, miệng, cổ, ngực, bụng và chân người chết, mỗi một điểm ông làm ba lần, vừa làm vừa đọc thần chú rửa tội, tẩy uế bụi trần. Người Chăm cho rằng, nếu khi chết mà không được làm lễ rửa tội thì linh hồn khi sang thế giới bên kia sẽ mang theo cả những uế tạp mà người chết đã vương theo trong suốt cuộc đời ở cõi sống. Khi làm lễ rửa tội xong, ông thầy cho người nhà xoay đầu thi hài về hướng nam, vỗ tay ba lần trên khói trầm rồi ông cầm mấy bông hoa lức (tà chạ) nhúng vào nước vẩy lên thi hài, miệng khấn vái thần linh cho người chết được đầu thai. Sau đó, ông thầy coi giờ để đưa người chết ra lán ngoài sân làm lễ tiểu liệm. Thông thường, người chết nằm lại trong nhà từ 24 đến 48 giờ.
- Lễ tắm rửa (Yang mưnei): Khi nghe tin có người qua đời, bà con trong làng kéo đến giúp đỡ, họ làm một cái lán ở phía tây sân nhà người chết để làm lễ tiểu liệm và đại liệm. Đến giờ đã được thầy pà xế định, người chết được khiêng ra lán. Lúc này người chết đã được đặt nửa nằm nửa ngồi trên một chiếc ghế đẩu, quay gáy và lưng về hướng nam, mặt hướng về hướng bắc, trên mặt đắp một chiếc khăn trắng, chân được gác lên một chiếc ghế nhỏ. Ông thầy lập một chiếc bàn tổ để làm phép tắm rửa (tượng trưng) cho người chết. Tay phải ông cầm một khay nước thánh, trong đó có hòa với cát lồi (mu), tay trái cầm cây gậy thần, đọc thần chú rồi đổ nước thánh từ đầu đến chân người chết ba lần, mỗi lần đổ nước ông đều đọc thần chú, khấn vái thần linh. Sau đó, những người trong gia đình bắt đầu tắm rửa, kỳ cọ cho người chết. Tiếp theo là nghi thức liệm áo quần. Người chết được mặc một chiếc áo, quần ngắn và một chiếc váy (nếu người chết là nữ), hoặc quấn một chiếc xà rông (nếu là nam) màu trắng. Những bộ quần áo này thường đã được chuẩn bị sẵn trong nhà. Những quần áo cũ của người chết sẽ được đem chôn hoặc thiêu với thi hài.
- Lễ đại liệm (Ppachuk - hay còn gọi là lễ mặc áo - Ppapauk khơn aw)
Sau lễ tiểu liệm, người chết được đặt nằm ngay ngắn để làm lễ đại liệm. Ông thầy làm lễ cúng bái trước bàn tổ. Ông khấn: tên tuổi, thời gian ra ngoài trần tục đã hết, nay xin được vào lại trong bụng mẹ để đầu thai sang một thế giới khác. Ông cúng xin nhà, xin đất, xin hàng rào cho người chết, vẽ 7 lá bùa đặt lên phía đầu người chết nếu là nam và 9 lá bùa nếu là nữ. Sau đó ông mặc quần áo và chăn liệm cho người chết. Số lượng quần áo và chăn liệm nhiều hay ít tuỳ thuộc vào đẳng cấp, tuổi tác người chết. Người chết thuộc đẳng cấp tu sĩ Bàlamôn hay dòng quí tộc, vua quan được liệm 9 áo, 9 quần và 11 tấm khăn bọc (khơn bar cik, loại khăn có viền tua ở hai đầu). Người chết từ 50 tuổi trở lên được liệm 5 áo, 5 quần, 9 khơn bar cik. Người chết thuộc đẳng cấp thấp chỉ được liệm 3 áo, 3 quần, 5 chăn mưrai (loại khăn không có tua viền hai đầu). Người chết chưa đủ 50 tuổi thì chỉ được liệm từ 1 đến 3 áo, 3 quần.
Người ta lấy chỉ trắng buộc hai ngón tay cái người chết lại với nhau để lên phía trên bụng, hai ngón chân cái cũng được buộc như vậy. Sau đó, thi hài được cuốn lại bằng vải trắng. Nếu thi hài được đem đi chôn thì người ta lấy 9 nẹp tre, nếu là nữ; 7 nẹp tre nếu là nam, bó xác lại, phủ lên một tấm vải trắng. Thầy pà xế sẽ chọn ngày giờ đem đi chôn. Nếu thi hài được đem đi làm lễ hỏa táng thì được đặt lên trên một tấm vỉ tre có lót một lớp cát dày chờ ngày làm lễ.
Sau khi liệm, thi hài được cuốn, bó lại và để trong lán tạm đó hàng 15, 20 ngày, có khi hơn nữa. Bởi ngày, giờ làm lễ hỏa táng phải do ông thầy pà xế xem lịch, xem tuổi và nhiều vấn đề liên quan đến tộc họ, gia đình, bản thân người chết. Với một xứ nắng nóng như Panduranga (Phan Rang), sau vài ngày, mặc dù người Chăm có các loại thuốc gia truyền để giữ xác, nhưng xác chết cũng đã bắt đầu thối rữa. Vậy mà sau 15, 20 ngày, cả gia đình, tộc họ kéo nhau đến để làm tang lễ, và nhất là các thầy phải tháo dỡ vải bọc thi hài ra để làm các nghi thức 4 ngày tang lễ, trong đó có lễ cho ăn là lễ phải tiếp xúc trực tiếp với xác chết. Và không chỉ những người tham gia làm tang lễ phải chịu mà cả vùng phải chịu mùi hôi thối đó suốt bao nhiêu ngày sau.
Nghi thức khâm liệm dành cho người chết “không trọn vẹn” (Ppachuk mưtai bhaw): Nếu người chết không chết ở làng thì thi hài không được mang vào làng mà phải để ở ngoài. Người nhà làm cái lán một mái ở ngoài đồng để làm lễ “giải trừ nghiệp chướng”. Người Việt hiện nay ở một số nơi cũng có nghi thức này, nếu “chết đường chết chợ” thì xác chết cũng không được mang vào làng.
Nếu chết “không trọn vẹn” nhưng chết tại nhà thì thi hài cũng phải mang ra khỏi làng để làm lễ khâm liệm, nhưng không được khiêng thi hài đi qua cổng chính của khuôn viên nhà mà phải dỡ rào mở cổng hướng tây để khiêng ra. Khi khiêng ra xong, ông thầy cúng phải làm phép trấn bùa trừ tà ma và rào lại ngay.
Nếu chết đúng ngày 30 âm lịch, người Chăm gọi là ngày “hết trăng”, hoặc là ngày chủ nhật thì cũng bị coi là ngày đại kỵ, người nhà phải mời thầy cúng “cao tay ấn” (Gru kalơng) đến làm lễ Kak bbơng, tạm dịch là “trấn các cửa ngõ”. Mục đích của lễ này là khấn vái thần linh, giữ lại những của cải và linh hồn, không cho người chết mang đi.
Người Chăm cũng rất kỵ người chết vào ngày thứ năm trong tuần. Theo một số thầy pà xế giải thích, thứ năm là ngày tốt cho người chết nhưng lại xấu cho người sống. Nếu chết vào ngày thứ năm, người chết sẽ mang theo của cải, mang theo linh hồn của các con súc vật, thậm chí mang theo cả linh hồn người sống và vì vậy, dễ có chết “trùng”, kéo theo người khác trong gia đình hoặc trong tộc họ chết. Do đó, nếu người chết chết vào ngày thứ năm, cũng phải mời thầy cúng đến nhưng không phải làm lễ Kak bbơng mà chỉ dùng bùa để trấn.
Hai trường hợp trên bị xếp vào loại “chết xấu” nên không được khiêng thi hài qua cổng chính.
Để làm lễ khâm liệm cho người chết “không trọn vẹn”, người ta làm một cái lán một mái bên ngoài làng và mời thầy cúng (Gru kalơng) đến để làm lễ “giải trừ nghiệp chướng” (Tiap kalơng). Đây là nghi lễ bắt buộc đối với những người “chết không trọn vẹn”, người Chăm quan niệm rằng, nếu không làm lễ này, người chết sẽ không siêu thoát được linh hồn mà sẽ vương vất ở dưới trần gian, kéo theo những thành viên thân tộc “chết xấu” theo. Trong lễ “giải trừ nghiệp chướng”, ông thầy Gru kalơng phải đi lên núi thỉnh 9 cây chùm bầu (Bbronglamưlan - loại cây yểm bùa giữ nhà trong khi làm tang lễ, người Chăm cho rằng ma quỷ rất sợ loại cây này). Ông thầy mặc áo truyền thống Chăm, lưng nai nịt, vai vác rìu, dáng oai phong dữ tợn làm phép đuổi trừ ma quái ra khỏi linh hồn người chết. Sau khi làm nghi thức “giải trừ nghiệp chướng”, người chết mới được khâm liệm.
Sau khi làm xong lễ khâm liệm, trường hợp người chết thuộc “dòng thiêu”, nếu hỏa táng tươi thì đợi ngày hỏa táng, nếu hỏa táng khô thì được đem đi “chôn gửi” ngay. Nếu người chết thuộc “dòng chôn” thì người nhà tiến hành làm “lễ chôn”. Nhưng dù “chôn” hay “hỏa táng” cũng đều phải làm đầy đủ các nghi thức đám tang 4 ngày.
c. Lễ hỏa táng “lớn” (Đam chuh praung)
Qua nhiều lần điền dã, khảo sát các nghi lễ tang ma của người Chăm Ahiêr, chúng tôi thấy tuy các nghi lễ tang ma được qui định chặt chẽ về đẳng cấp, về lứa tuổi, về các loại chết, nhưng nhìn chung, các nghi lễ dù lớn (đam praung) hay nhỏ (đam assit), dù lễ tang do hai thầy hay bốn thầy pà xế làm lễ đều có những điểm giống nhau. Ngoài những tư liệu điều tra, khảo sát nhiều lễ hỏa táng ở vùng đồng bào Chăm, chúng tôi xin miêu thuật một lễ hỏa táng “bốn thầy”, diễn ra trong 4 ngày, từ ngày 03 - 04 - 2002 đến ngày 06 - 04 - 2002 tại làng Chắt Thường, xã Phước Hậu, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận.
Những công việc chuẩn bị: Lễ hỏa táng “bốn thầy” là lễ lớn nhất của những người chết thuộc dòng họ có đẳng cấp cao, nên trước đó cả gia đình phải chuẩn bị một khoản kinh phí không nhỏ (10 đến 15 triệu đồng) để làm lễ. Gia đình phải mang lễ vật gồm rượu, trầu cau, trứng gà đến gặp ông thầy cả sư xin ngày, nếu không phạm vào những ngày cấm kỵ thì ông thầy chỉ định các thầy pà xế đến làm lễ.
Sau khi mời đủ bốn thầy pà xế bao gồm: thầy pà xế “cho ăn” (passeh pahuak); thầy pà xế tạo hình hài (passeh ralang); thầy pà xế thổi tù và (passeh sơng); thầy pà xế đánh trống (passeh hagar) và chiêng, và mời các vị chức sắc dân gian đến làm lễ. Ngoài ra còn những người trong gia tộc và bà con làng xóm được nhờ hoặc tự nguyện đến phụ giúp.
Nhà lễ hỏa táng “lớn” phải làm theo những quy định bắt buộc của lễ “bốn thầy”, ngoài hai mái làm như nhà lễ đám chôn, còn có thêm một mái phía trước gọi là trom giống như nhà tục của đồng bào Chăm. Nhà lễ bao giờ cũng có 9 cột chính.
Nhà lễ có 3 cột cái cao (cột giữa - Gơng patơng) để gác đòn dông và 6 cột thấp để gác đòn tay phụ hai bên. Theo quy định, cột cái bao giờ cũng cao 9 han (mỗi han khoảng 50cm, được tính từ khuỷu tay đến đầu ngón tay giữa của người đàn ông Chăm), cột phụ cao 7 han. 9 cây cột tạo thành nhà 3 gian, mỗi gian dài khoảng 2,5m, tổng chiều dài là 7,5m. Chiều rộng của nhà khoảng 2,5m, mỗi bên được kéo thêm hiên phụ 1,5m, thành ra tổng chiều rộng của rạp là 5m. Trong rạp có hai cái đà bằng tre to gác ngang hai đầu cột phụ (chỉ có nhà lễ “bốn thầy” mới được gác cây đà này). Mái rạp được lợp bằng vải bạt nhựa. Ba bề của rạp được thưng kín bằng cót, cao khoảng 1,4m.
Nhà lễ bao giờ cũng được làm theo hướng bắc - nam, cửa quay hướng bắc. Phía nam nhà lễ là nơi để hài cốt người chết được úp trong một chiếc chà cung (chakung). Là biểu tượng bụng người mang thai nên chà cung được làm rất giống với bụng bà chửa đã đến ngày sinh nở. Phía trên chà cung người ta treo một vuông vải trắng rộng khoảng 90cm, dài 2m gần sát mái nhà gọi là màn lơmlin. Đây là chiếc khăn tượng trưng cho bầu trời và là sự pha trộn với tôn giáo Bàni thường thấy trong các lễ hội Chăm. Bên dưới màn lơmlin, người ta gắn một khay vuông làm bằng bìa cứng cạnh khoảng 40cm úp xuống dưới, được trang trí hoa văn rất đẹp gọi là Kimồng, là nơi hội tụ và trú ngụ của thần linh. Ở một cạnh của Kimồng có hai dải hoa văn được gọi là cửa thiên đường (xem hình vẽ 8, tr). Kimồng được nối với bụng người chết bằng một sợi dây. Bên dưới sợi dây là con hơng mưh được nối với rốn người chết (xem hình 7).
Các chức sắc Chăm giải thích rằng đây là sợi dây để chuyển tải linh hồn người chết đang tái sinh với các thần linh, là con đường để các loại máu chảy vào bào thai đang được hình thành và cũng là con đường đưa linh hồn người chết lên trời. Đây có thể được coi như là sợi dây thông linh nối cõi sống với cõi chết, là sợi dây đưa linh trong nghi lễ tang ma.
Nhiều dân tộc ở Đông Nam á cũng có sợi dây thông linh này. Người Mường nối một sợi dây dưới đầu người chết, xuyên qua cửa sổ nối với nơi thầy mo làm lễ, khi làm lễ xong, người ta buộc sợi dây vào chân một con gà nhỏ và cho gà chạy vào rừng. Con gà được coi như con vật đưa linh cho con người về cõi vô biên (xem ảnh 6, tr).
Cửa nhà lễ quay hướng bắc (hướng chết). Lưng nhà lễ quay về hướng nam (hướng sống), các chức sắc Balamôn cho biết, hướng nam là hướng ngự trị của thần Nabi Balhimưk (giáo chủ Bàlamôn). Gian cuối phía nam là nơi để thi hài người chết. Gian giữa, còn gọi là gian “rốn”{d}, là nơi hành lễ, gian phía cửa là gian dành để ban nhạc đàn hát lễ. Phía đông nhà lễ (bên trái tính từ cửa vào) là phía dành cho các vị chủ lễ. Phía tây nhà lễ, bên cạnh nơi để xác người chết là các lễ vật dâng cúng và những lễ vật chuẩn bị đem đi hỏa táng. Về phía đông trước cửa nhà lễ, người ta dựng một rạp nhỏ 2 gian làm nơi cho ông hăng cắt dán trang trí hoa văn cho nhà lễ, nhà táng và đòn khiêng, một gian rạp để tiếp khách. Các thầy chủ lễ không được bước vào 2 gian nhà nhỏ này. Phía trước nhà lễ khoảng 4m, người ta dựng 3 cái cọc cao khoảng 1,2m để làm bếp nấu đồ ăn cho người chết. Nhà làm lễ hỏa táng “bốn thầy” bắt buộc phải có một cây đòn ngang để treo chiêng, trống lớn và có ban nhạc hát lễ từ 4 đến 8 người.
Ở phía nam bên ngoài nhà lễ, người ta làm một cái bếp lửa, đốt củi suốt thời gian làm lễ. Các thầy giải thích rằng đây là bếp lửa bà đẻ như tục “nằm lửa” trong nghi lễ sinh đẻ của người Chăm Ahiêr.
Ở các góc rạp có dựng bốn lá cờ ngũ sắc. Phía mặt trước rạp có bốn cây tre dài khoảng 3m được bó hai cây một buộc vào 2 cây cột ở cổng rạp. Trên đầu mỗi cây tre buộc một bó cỏ tranh săng nhìn giống như cây chổi hướng lên trời, ở mỗi cặp có một cây treo một lồng đèn bằng vải trắng mà người Chăm gọi là cây dok - đọc là “tộk” (xem hình 9).
Khi hỏi ý nghĩa của cây này, các vị chức sắc cho biết một cây tượng trưng cho đầu, một cây tượng trưng cho chân, lồng đèn bằng vải trắng là ngọn đèn dẫn đường cho linh hồn người chết. Cũng có người giải thích là tượng trưng cho bọc ối của sản phụ. Những cây “tộk” này được sơn màu đỏ. Theo chúng tôi, đây có thể là một biểu tượng của “trục vũ trụ” trong nghi lễ tang ma của người Chăm Ahiêr.
Phía sau rạp lễ về hướng nam, hướng đầu của người chết, người ta đào một cái hố đất hình vuông, rộng chừng 0,4m, sâu khoảng 0,3m, có 3 cây củi chụm lại để đốt một cái bếp lửa (libang apwei hahlơw). Đến ngày đi hỏa táng phải lấy lửa ở hố lửa này để đốt chà kung ở giữa đường và để hỏa thiêu người chết.
- Làm đòn khiêng (Gai ganraung hơ twara): Đòn khiêng là 2 cây gỗ được đẽo gọt tròn dài 3m, ở giữa đóng một cái khung hình chữ nhật thay cho quan tài, chiều dài 1,6m, chiều rộng phía đầu 0,6m, phía chân 0,5m được đóng mộng chốt lại với 2 cây đòn khiêng. Dưới khung hình chữ nhật có đan 3 cây ngang, 3 cây dọc để làm giá đỡ hài cốt, nhìn giống như một cái cáng.
Các cây làm đòn khiêng đều phải làm bằng gỗ xoài (nuh pan), khi đẽo gọt xong có màu trắng. Có lẽ, việc làm đòn khiêng bằng gỗ xoài trong đám tang người Chăm có liên quan đến cây xoài thần trong truyện cổ Bò thần Kapil của người Chăm{e}. Ngoài ra, người ta chuẩn bị một thanh gỗ xoài trắng rộng chừng 15cm, dài 1,6m (bằng chiều dài của đòn khiêng). Thanh gỗ này được trang trí hình con hăng và sẽ được để đè dọc theo hài cốt trước khi khiêng đi thiêu. Phía đầu đòn khiêng có dán hình bò thần Kapil, phía đuôi dán hình bùa Omkar (xem hình vẽ), hai bên có các hình con hăng, nếu là đám lớn dán 7 con, đám nhỏ 5 con. Mặc dù đòn khiêng đã được chuẩn bị trước, nhưng để khiêng hài cốt hay người chết, đòn khiêng phải được làm thủ tục trong lễ “chém cây”.
- Làm nhà táng (sang swơr, xem hình 13, tr.)
Người chịu trách nhiệm làm nhà táng là ông hăng (hơng) - một chức sắc dân gian, một nghệ nhân trang trí. Nhà táng được làm vào ngày thứ tư (ngày hỏa táng). Trước khi làm phải có một lễ cúng thần xin làm nhà táng. Chủ lễ là ông hăng, lễ vật gồm có: 3 trái trứng, trầu têm, chuối, bánh, rượu, một khay lửa đốt trầm, cát lồi, nến sáp ong. Những vật liệu để làm đã được chuẩn bị trước và đều được đem ra cúng tẩy uế gồm: chiếu tục Chăm (chiew bang), giấy các màu, tre, cây que, hồ dán, vải thổ cẩm, các hoa văn trang trí và các dụng cụ như dao, kéo v.v… Tất cả được bó lại để lên hai chiếc cổ bồng. Ông hăng làm lễ tẩy uế bản thân, cúng mặc quần áo, quấn khăn, mỗi lần khấn phải hơ tay lên khói trầm và đọc lời văn khấn, vừa khấn vừa rót rượu vừa cúng mời các thần linh về hưởng lễ và xin phép được làm nhà táng. Những vật liệu và công cụ làm nhà táng cũng được hơ lên khói trầm để tẩy uế rồi mới được đưa sử dụng. Sau đó ông lắp ghép nhà táng, dán các hoa văn theo quy định trong văn bản cổ Chăm. Khay lửa trầm luôn được để bên dưới, trong lòng nhà táng. Mỗi lần dán hoa văn, ông thầy lại khấn và đổ rượu lên các lá bùa.
Nhà táng được làm như một công trình mỹ thuật. Khung nhà làm bằng tre, có 4 cột hơi choãi ra, cao 1m, rộng 60cm, dài 1,2m, đường kính cột khoảng 3cm, gồm 4 mái theo hình chiếc bánh ú, kiểu nhà cổ truyền Chăm. Mái nhà được lợp bằng 1 tấm vải thổ cẩm màu đỏ có dệt hoa văn Chăm. Trên đường nóc (đòn dong), 4 đường giáp mí của 4 mái và 4 chân cột có gắn các dải hoa văn làm bằng bìa cứng màu trắng có hình con hăng màu vàng đỏ uốn lượn. Xung quanh 4 mái hiên được trang trí 1 dải giấy màu đỏ có hoa văn trắng rộng khoảng 15cm. Ở 4 chân cột nhà cũng được gắn 4 con hăng kađôi. Đặc biệt, ở cuối nhà táng có 2 dải hoa văn giống như ở “kì mồn”, người Chăm gọi là “cửa mở ra thiên đường” (pabah bbơng swơr - đọc là “pạ băng thôn”), đồng thời cũng là cửa để hài nhi chui ra (xem hình 11, tr). Đây có lẽ là mảnh vụn của thời kỳ văn hóa nguyên thuỷ: “Người Trung Quốc mở một lỗ ở mái nhà để cho linh hồn thoát ra khi chết. Ở Pháp, Đức và Anh cho đến nay vẫn còn một tập quán mê tín hết sức phổ biến là mở cửa sổ hay cửa lớn cho linh hồn thoát khỏi thân thể”{f}. Ngoài ý nghĩa mở cửa ra thiên đường, người Chăm cho rằng cửa của nhà táng còn là biểu tượng “cửa mình” của người sinh đẻ, một quan niệm tái sinh rất rõ ràng trong nghi lễ tang ma. Các ông hăng giải thích rằng con hăng trang trí trên nhà hỏa táng là từ sự tích bò thần Kapil mà ra, khi bò thần muốn đưa linh hồn người chết lên thiên đàng nhưng do không biết bay, thần Pô Nưbi Etha mới ban cho 5 lá bùa, 5 lá bùa hơng (5 cặp, 10 lá bùa) được dán như sau: 4 chân cột 4 chiếc, 4 đường nóc của 4 mái 4 chiếc, 2 chiếc trên đòn dong. 5 lá bùa được coi là: 1 chân trái, 1 chân phải, 1 cánh trái, 1 cánh phải, 1 trên đầu. Khi khiêng người chết đến gần chỗ thiêu có thủ tục quay đầu, phía đầu đòn khiêng có dán hình bùa Omkar đi trước, ông khiêng khấn báo với ông chủ tang (Po damưn) rằng không qua sông Kao Phanh được. Ông chủ tang khấn báo phải quay đầu cho phía có dán hình bò thần Kapil đi trước vì trong bò thần có con hăng mới đưa linh hồn qua sông được.
- Lễ vật (panoja): Lễ vật trong tang lễ của người Chăm rất phong phú, đa dạng nhưng phải tuân thủ theo một quy định chặt chẽ, nhất quán. Số lượng, chất liệu các lễ vật thờ và dâng cúng phụ thuộc vào từng lễ thức và thần linh cầu cúng. Trong lễ hỏa táng và trong đám tang nói chung, lễ vật dâng cúng chủ yếu là trầu cau, rượu, nước, lửa đốt trầm, muối, nến làm bằng sáp ong. Lễ mặn gồm có thịt gà, trứng gà, cá, canh dọc môn, trái chuối hột non và giá đậu sống. Lễ ngọt (chay) có bánh trái, chuối, chè. Điểm đáng lưu ý là trong những ngày làm lễ và 30 ngày sau, chức sắc và những người trong tộc họ kiêng không được ăn thịt những động vật đẻ con, chỉ được ăn thịt những con vật đẻ trứng, phải kiêng không được ăn quế và các loại cà trái. Trong các lễ thức của người Chăm, xuất hiện nhiều lần trầu, cau, rượu và trứng. Trầu và cau là lễ vật phổ biến của các cư dân nông nghiệp Đông Nam á. Cách têm trầu, cau khác nhau tùy theo ý nghĩa của từng lễ thức.
Cũng như tất cả các nghi lễ khác của người Chăm, các chức sắc tôn giáo khi làm lễ đều phải mặc đúng trang phục chức sắc của mình. Con cháu và những người có quan hệ ruột thịt trong tộc họ đều mặc đồ tang màu trắng.
Chủ lễ chính trong lễ hỏa táng lớn mà chúng tôi miêu thuật dưới đây gồm bốn thầy pà xế:
1. Thầy pà xế phó cả sư Đổng Bạ.
2. Thầy pà xế phó cả sư Quảng Đại Thương.
3. Thầy pà xế Đàng Điệu.
4. Thầy pà xế Lâm Cội.
Trong 4 thầy trên, ông Đổng Bạ làm “lễ cho ăn” (passeh pahwak), ông Quảng Đại Thương làm “lễ chém cây”; cùng 8 thầy dân gian và những người giúp việc{g}.
Theo tục lệ, lễ hỏa táng của người Chăm Bàlamôn bắt buộc phải diễn ra trong 4 ngày, nhưng trong đó có 3 ngày chính. Việc chọn ngày do thầy cả sư pô xà quyết định và thường theo thứ tự tính theo tuần: Hoặc là bắt đầu từ chủ nhật, thứ hai, thứ ba, thứ tư. Hoặc bắt đầu từ thứ tư, thứ năm, thứ sáu, thứ bảy. Theo thứ tự 4 ngày đó: ngày thứ nhất là ngày làm lễ cho ăn (pahuah); ngày thứ hai là ngày ban nhạc hát tang lễ (ngày nghỉ, vào thứ hai hoặc thứ năm); ngày thứ ba làm lễ chém cây; ngày cuối cùng làm lễ hỏa táng.
Vì sao lại có một ngày nghỉ vào ngày thứ hai hoặc thứ năm trong tuần? Theo các chức sắc giải thích, lý do thứ nhất là vì thứ hai và thứ năm là ngày để làm đám cưới và lễ dựng nhà mới. Lý do thứ hai là ngày xưa vua chúa chọn những ngày này làm đám hỏa táng nên người dân phải tránh. Ngoài ra, sau ngày thứ nhất (lễ cho ăn), cũng là ngày âm dương đang giao hòa, mới thụ thai, cần có thời gian để tạo nên hình hài. Vì vậy, các chức sắc thường nói, tang lễ Chăm chỉ có 3 ngày. Con số 3 cũng như con số 9 được lặp đi lặp lại trong tang ma Chăm cũng nói lên nhiều điều. Số 3 là quan niệm 3 tầng vũ trụ, số 9 do 3 lần con số 3 mà thành. Con số 9 xuất hiện nhiều trong tang ma, được các chức sắc giải thích là biểu tượng người mẹ mang thai 9 tháng 10 ngày. Con số 3 trong quan niệm của Ấn Độ giáo là con số động, luôn vận động và biến đổi. Số 3 là số lẻ, số thiếu vì vậy, khi thắp hương, người ta thường thắp 3 cây, vái 3 cái để cầu cho đủ.
Trong trình tự nghi lễ tang ma, có rất nhiều lễ thức phức tạp và trùng lặp. Đó là: Lễ thức cúng khấn mời các thần linh, lễ thức tẩy uế, cúng gò mối, lễ thức dâng cơm cho các thầy pà xế. Chúng tôi xin miêu thuật một lần các lễ thức này để khỏi bị trùng lặp trong diễn trình nghi thức tang ma.
- Lễ cúng khấn mời thần linh (Mưlieng yang): Trong hầu hết các nghi lễ Chăm, khi thực hiện các nghi lễ, trước hết phải cúng mời các vị thần liên quan đến lễ thức đó về chứng giám, phù hộ cho thầy làm lễ và về hưởng lễ vật dâng cúng. Chúng tôi chỉ xin trình bày một lễ thức đầu tiên, mời các vị thần cao nhất trong tang ma Chăm. Đó là lễ thức mời thần cha trời Yang Pô - Yang Amư (thuộc dương), thần mẹ xứ sở Yang Pô Inư Nưgar (thuộc âm) và Pô Păn, vị thần cai quản thế giới thần linh.
Ông thầy lập bàn tổ (Ssanai), lễ vật gồm trầu cau, trứng, rượu và khăn tục Chăm (Khơn mrang). Ông phó cả sư khấn vái và đọc văn cúng. Lời văn cúng được ghi trong sách cổ Chăm, nhưng thường thì các thầy pà xế đọc thuộc lòng. Nội dung lời khấn tóm tắt như sau: “Hôm nay ngày lành tháng tốt, xin mời các thần ngự trên cao về chứng giám, hưởng thảo và dự lễ hỏa thiêu, xin dâng các thần bát nước để súc miệng, chà răng, xin dâng các ngài trầu cau, rượu, trứng gà. Hôm nay, bà con tộc họ, người thân trong gia đình mời thầy pà xế về làm đám. Vậy xin các ngài phù hộ và che chở cho tôi làm lễ...".
Mỗi lần khấn mời một thần, ông thầy lại đưa bàn tay trái ấp lên ngực, tay phải dùng bông lức vẩy nước và rót rượu mời. Các lễ thức mời các thần khác nhau nhưng nhìn chung giống nhau.
- Lễ thức tẩy uế (Richauw talơh, Rayaup): Hầu như trước và sau khi tiến hành các lễ thức dân gian hay tôn giáo dù lớn hay nhỏ, các ông thầy đều phải thực hiện nghi thức tẩy thể. Đó là lễ thức ông thầy tắm gội, tẩy uế bản thân. Ông đến gốc cây, nơi đã đặt sẵn một thùng nước, ngồi quay mặt hướng đông, để cây gậy thần đứng dựa vào vai, ngón tay phải vẽ bùa, miệng đọc thần chú, báo với thần linh về việc làm lễ tang cho người đó, tên đó, tuổi đó. Sau đó, ông lấy một chiếc khay đồng múc nước trong thùng, hai tay bưng khay nước giơ lên trước mặt đọc thần chú và khấn vái{h}. Nội dung văn khấn là mời các thần nước, mời rồng đỏ, rồng trắng về chứng giám và giúp ông tẩy uế bản thân. Ông súc miệng, rửa tay, chân, rửa khắp thân thể mình rồi gội đầu (tượng trưng). Sau khi tắm gội, tẩy uế xong, ông xõa tóc, búi tó lại, cuốn khăn và đi làm thủ tục ở gò mối.
+ Lễ thức khấn thần gò mối (Po yang Katwơch): ở vùng đồng bào Chăm Ninh Thuận, nhất là ở các khu nghĩa địa có nhiều gò mối. Đối với người Chăm, gò mối là nơi trú ngụ của rất nhiều thần linh, là nơi rất quan trọng đối với các chức sắc tăng lữ Bàlamôn cũng như các thầy cúng dân gian. Trước khi hành lễ, nhất là nghi lễ tang ma là nghi lễ liên quan đến ma quỷ, dễ bị ma theo quỷ ám, các thầy đến gò mối để cúng vái thần linh giải trừ nghiệp chướng và yểm bùa trừ ma quỷ. Lễ vật cúng ở gò mối chỉ có một mâm cổ bồng gồm rượu, trầu cau, trứng. Mục đích là thỉnh báo với thần linh nội dung ông thầy sẽ làm lễ, đặc biệt là phải khấn các bài văn mời khoảng từ 30 đến 40 thần Pônưhbi (thần hộ mệnh) về chứng giám và phù hộ cho các thầy làm lễ. Ông thầy khấn báo với thần linh là sẽ làm lễ hỏa táng cho người đó, tuổi gì, tên gì?
- Lễ thức ăn cơm phong tục (pathơn pabah): Trước khi ăn các thầy đều phải làm phép, cúng mời các vị thần về cùng hưởng lễ. Trên mỗi mâm cơm có gắn một cây nến bằng sáp ong. Ông thầy rót rượu, khấn rồi đổ vài giọt vào chân những cây gậy thần, lấy tay nhúng vào khay nước vẩy vào chân các cây gậy. Sau đó ông bốc mấy hạt cơm, bỏ vào miệng ăn và khấn. Thức ăn gồm cơm, cá, rượu, canh cây dọc môn, chuối hột non và giá đậu sống, không có thịt của những con vật đẻ con. Các vị chức sắc ăn bốc theo đúng quy định tu hành của tu sĩ Bàlamôn, còn những người nhà và khách khứa ăn bằng đũa.
Những sự chuẩn bị phức tạp trên đây gần như là một sự bắt buộc đối với nghi lễ tang ma. Xuất phát từ quan niệm tính thiêng về cõi chết, về vòng luân hồi và trách nhiệm đối với người đã khuất nên người Chăm lo chuyện tang ma rất chu đáo. Hệ thống lễ thức với những ma thuật, bùa chú và những động tác, lời khấn, những bài tang ca trong nghi lễ tang ma là di sản của sự tế tự và lễ nghi rất phức tạp vốn có của Bàlamôn giáo.
Trình tự bốn ngày của lễ hỏa táng như sau:
Ngày thứ nhất (Ngày làm “lễ cho ăn” - harei pahwak)
Người Chăm quan niệm chết là sự đầu thai trở lại, nhưng sẽ sang một thế giới khác. Bởi vậy, “lễ cho ăn” mang tính tượng trưng cho bào thai ăn nên chỉ có nước, gạo, muối.
Các mâm lễ đã được bài trí trong nhà lễ theo quy định. Ông thầy chủ lễ lập bàn tổ (ssanai - rơp da nauk) để mời các thần linh về chứng giám.
Ông chủ tang (po damưn) lập bàn tổ cúng mời các thần linh và ông bà tổ tiên về chứng giám để ông đi lấy nước thiêng về cho người chết uống. Ông cầm cái ấm, ra sân đổ nước từ một chiếc thùng vào ấm. Thùng nước này đã được đi thỉnh trước đó ở nguồn nước sạch, rồi xách ấm nước đặt phía đầu người chết để ông pà xế làm lễ thức cho người chết uống nước (xem ảnh 7, 8, 9, tr.)
Trước khi làm lễ cho ăn, các ông thầy làm lễ thức tẩy thể. Địa điểm làm lễ tẩy thể là bên ngoài phía đông nam nhà lễ. Sau đó các ông về lại phía tây nhà lễ, quay mặt hướng đông, xõa tóc, chải đầu, búi lại và quấn khăn, sửa trang phục.
Ông thầy pà xế cho ăn (pahwak) đi làm thủ tục thỉnh lệnh thần gò mối (Po yang katwơch). Trên đường về, đến một ngã ba đường, ông dừng lại, ngồi xuống vẽ bùa trên đất cát xin thần linh bỏ tên cũ đặt tên mới cho người chết. Người chết nếu là đàn ông sẽ được đặt tên là Chit lơngka, nếu là đàn bà thì đặt tên là Grammưh. Sau đó ông thầy khấn hỏi vợ hỏi chồng, và xin xe duyên, kết hôn cho người chết. Trước khi về, ông bốc một nắm đất bỏ vào khăn mang theo.
Bốn ông thầy vào gian giữa của rạp để làm lễ trình thần linh, xin phép làm lễ “cho ăn”. Trước hết, ông pà xế pahwak làm nghi thức “phồn thực” để đầu thai cho người chết, ông vẽ bùa lên mặt mủng gạo, lấy 5 hạt gạo bỏ lên lá trầu, 1 hạt gắn vào một quả cau đực bịt lại. Ông giải thích rằng đó là tượng trưng cho âm vật đàn bà. Ông làm phép vỗ hai tay vào nhau cho âm dương giao hợp và vẽ bùa lên đọt lá chuối non và tờ giấy mạ vàng cắt hình lá bồ đề (người Chăm gọi là thắp toă (thơp dwa) - hình giống như lá nhĩ thường thấy ở kiến trúc tháp Chăm), phủ kín lên mặt người chết. Thi hài người chết được tắm rửa sạch sẽ, bọc vải trắng và để phía nam nhà lễ, đầu quay về hướng nam.
Ông thầy pà xế thổi tù và (passeh sơng) lập bàn tổ phía tây một bên người chết để cúng xin thổi tù và. Ông thầy pà xế đánh trống (passeh hagar) lập bàn tổ ở cột giữa để đánh trống. Ông pà xế tạo hình hài (passeh ralang) lấy bó tranh làm con chim hăng. Các vị chức sắc giải thích rằng, con chim hăng tượng trưng cho hình hài, phần xương thịt của bào thai, còn phần hồn, vía và máu, các thầy sẽ cúng khấn để chảy từ trên gimồng theo sợi chỉ và con chim mưh nhập vào bào thai nằm trong chakung (bụng mẹ).
Trong lễ cho ăn, mỗi ông thầy có một mâm lễ riêng. Vật lễ trên mâm có lửa trầm, trầu, cau, hạt nổ, cơm vắt (ngày xưa là bánh đúc), muối hạt. Mủng gạo được chia làm hai: một phần để thầy cho ăn, một phần để con cháu trong gia đình cho người chết ăn.
Ông pà xế pahwak bắt đầu làm lễ. Trước hết ông bốc nắm đất vụn lấy ở gò mối về rải lên thi hài người chết và vẽ bùa, dùng con dao làm bùa phép lên miệng người chết, vẽ bùa trong khay nước, ở con dao có một sợi dây chỉ buộc sáp nến và một chiếc nhẫn mư ta. Ông gỡ khăn thơp dwa đắp trên mặt người chết ra, tay trái cầm khay nước bằng đồng, tay phải ông cầm cây gậy nhúng vào nước và vẩy lên phía đầu, chấm xuống đất 3 lần, rồi đổ nước đó đi, thay khay nước khác, cứ vậy 3 lần. Sau đó ông chấm vào xoáy đầu, vào 2 tai, 2 mắt, 2 lỗ mũi, miệng (7 lỗ) và 2 vai, mỗi nơi 3 lần và cuối cùng đổ cả khay nước vào miệng người chết. Sau đó ông bốc gạo cho vào miệng người chết. Vừa cho ăn, ông vừa cho uống nước, cứ 3 lần cho gạo vào miệng, lại 3 lần cho uống nước. Sau cùng, ông bỏ quả cau có gắn hạt gạo vào miệng người chết và cho ngậm miệng lại.
Trong lúc ông pà xế pahwak làm lễ cho ăn thì ông thầy pà xế sơng thổi tù và gọi hồn, ông pà xế hagar đánh trống. Người trong gia đình, theo thứ tự đàn bà trước, đàn ông sau cho người chết ăn bằng cách vịn tay vào vai ông thầy và thông qua ông thầy mới cho người chết ăn được. Sau đó ông thầy lấy lá quýt băm nhỏ cho lên đầu, 2 tai, 2 lỗ mũi, 2 mắt, miệng rồi bịt lại và đắp khăn thơp twa lên mặt, đội mũ đỏ (xa rô) lên đầu người chết.
Trong lúc các thầy pà xế làm lễ cho ăn, ông thầy pà xế tạo hình hài (passeh ralang) lấy lá cỏ tranh khô làm một con chim. Một con chim có đầu và đuôi hình chim nhưng chân và tay của người, đều có năm ngón. Ông cầm con chim làm thủ tục tạo hình hài trên thi hài và để con chim lên đó, người ta liệm và cuốn thi hài lại rồi úp chiếc lồng tre gọi là chà cung (cakung) lên trông giống hệt như bụng người đàn bà đang mang thai. Người chết đã được đầu thai trở lại. Ông thầy nhổ 5 ngọn nến, dồn lại thành một bó rồi đặt lên thi hài người chết. Sau đó ông cầm con dao đọc câu thần chú trấn yểm tà ma rồi treo màn lơmlir và gimong lên. Theo các chức sắc, gimong tượng trưng cho đền tháp, nơi trú ngụ của thần linh và các loại máu. Linh hồn và các loại máu sẽ theo sợi chỉ nối từ gimong, qua con hơng mưh chảy xuống rốn nhập vào người chết (bào thai mới tái sinh)
Lễ cho ăn diễn ra trong tiếng tù và, tiếng chiêng trống nghe thật linh thiêng, não nuột. Vào 6 giờ chiều, bắt đầu buổi ăn cơm đầu tiên của bào thai. Mâm cúng cho người chết (bào thai) chỉ có một chén cơm và một quả trứng gà. Trong lễ cho ăn, các thầy phải thật im lặng suốt buổi, không được nói gì cả ngoài khấn vái.
Sau đó các thầy làm lễ tẩy thể, tẩy uế vật dụng và ra làm lễ cúng đốt lửa ở bếp bên ngoài nhà lễ, phía đầu chà cung, coi như bà mẹ đang “nằm lửa” khi sinh nở.
Sau lễ cho ăn là đến lễ thức dâng cơm cho các thầy pà xế. Trong ngày này, bà đơm cơm (muk buh) chỉ được làm 5 mâm cơm chính (cơm lễ), trong đó có 4 mâm dâng cho 4 thầy, 1 mâm cho người chết. Theo các vị chức sắc, sở dĩ làm 5 mâm cơm vì lúc này tượng trưng cho bào thai đã được 5 tháng.
Người bưng cơm (pok lisei) thứ tự bưng các mâm lễ dâng các thầy, trước hết là rượu, trầu cau và 4 mâm cho 4 thầy, 1 mâm cho người chết. Các thầy pà xế thực hiện nghi thức tụng kinh và làm phép trước khi ăn. Mâm cơm cho người chết chỉ có một bát cơm úp và trứng luộc.
Người bưng cơm bưng 1 mâm cơm đến cho ông thầy làm phép, nhận 4 miếng trầu và bưng mâm cơm đó ra một gốc cây để cho ông thầy làm lễ cúng những linh hồn lang thang vất vưởng (cô hồn), người Chăm gọi lễ thức này là Yang kin Yang kaung (hồn điên hồn dại), khấn mời các cô hồn về hưởng lễ, ăn cơm và dặn đừng quấy rầy, phá phách. Sau đó, người bưng cơm tiếp tục bưng cơm (cơm bình thường) cho ban nhạc, cho bà đơm cơm, cho ông thợ trang trí, ông chủ tang, mỗi người một mâm riêng. Còn người nhà và những người giúp việc, khách khứa ăn cơm chung. Sau khi ăn cơm, các thầy làm thủ tục ăn trầu rồi 4 ông thầy và ông chủ tang đi ra khỏi nhà lễ về hướng tây, phía đầu người chết ngồi xuống làm thủ tục mở khăn bịt đầu (talơh akauk).
Sau đó các thầy quay sang phía đông, ở đó đặt sẵn một mâm lễ để các thầy cúng xem tuổi và ngày tháng, phòng trùng tang cho những người trong tộc họ.
- Lễ thức trừ ma và trừ trùng tang Nau glai
Buổi tối, ông thầy cúng giải trừ ma cho những người trùng tang. Ông đem theo một mâm lễ vật gồm rượu, nến sáp, trầu têm. Một tay ông cầm cây gậy thần (gru), một tay cầm một cái roi làm bằng một cây chùm bầu nhỏ, đầu ngọn roi còn để lại một ít lá cây xanh và gọi tất cả những người cùng huyết thống từ già cả, lớn, bé (tính theo dòng họ mẹ) với người chết đến một khoảng trống, cách nhà lễ khoảng 30 đến 40m. Ở đó người ta đào một cái hố đường kính khoảng 30cm gọi là hố Halơw có nghĩa là đầu, là nơi đầu nguồn. Ông thầy đốt lên một ngọn nến và cắm xuống đáy hố rồi làm phép, khấn vái cho ma đi thật xa. Vừa khấn ông vừa rót rượu và bỏ những miếng trầu têm xuống hố. Những người cùng huyết thống ngồi xung quanh hố. Những người trùng tuổi với người chết (tính theo mười hai con giáp như người Việt, chỉ khác con thỏ (tapai) thay cho con mèo (mão), (người trùng tuổi con giáp nhưng có thể khác giáp) được ngồi vòng trong, tiếp đến là những người thân cận nhất với người chết ngồi theo thứ tự từ trong ra ngoài. Trên tay mỗi người cầm một chiếc lá cà hoặc lá cây jarah (loại lá lành, to bằng bàn tay, khi xé hoặc bẻ có nhựa trắng chảy ra). Ông thầy cúng một tay cầm gậy, một tay cầm cây roi đi vòng quanh mọi người đang ngồi quanh hố, vừa xua đuổi tà ma vừa đọc thần chú, khi hết mỗi câu thần chú, ông hô to: Pheng pheng đoik! (có nghĩa là chạy đi! biến đi!). Tất cả mọi người hét theo: Pheng pheng đoik! Ông thầy lại hô tiếp, mọi người hô theo, cứ như vậy nhiều lần. Khi hô xong lần cuối cùng, ông thầy bảo mọi người xé những chiếc lá đang cầm trên tay ném xuống đất rồi im lặng đi một mạch về lại nhà lễ, không ai được ngoảnh đầu nhìn lại. Theo giải thích của ông thầy cúng, khi có người chết, những người thân nhất và những người trùng tuổi luôn bị ám ảnh bởi hình ảnh người chết, ma người chết thường bám vào những người cùng huyết thống nên phải làm lễ thức trừ ma. Mục đích của lễ là để cho linh hồn người chết được siêu thoát về thế giới bên kia, đồng thời không theo ám ảnh người thân cùng huyết thống.
Buổi tối, ban nhạc lập bàn tổ cúng để hát tang ca từ 19 giờ đến 22 giờ. Nội dung hát ru cho các loại máu được chuyển theo con đường hai cây chà gặt đến chà cung, con chim mưh sẽ đưa lời hát theo sợi chỉ lên “Gimong” trên màn lam linh và hồn, các loại vía, loại máu từ trên “Gimong” chảy theo sợi dây để ăn bánh trái, lễ vật rồi nhập vào bào thai. Hát được một nửa nghi thức, người phục vụ bưng các mâm lễ cho ban nhạc, trong đó có một mâm chỉ có cơm và trứng cho người chết.
Khoảng 22 giờ, mọi người có mặt dọn mâm ăn chè đêm. Người chết cũng được cúng một đĩa chè.
Ngày thứ hai: (Ngày nghỉ - chỉ có ban nhạc hát tang ca)
Trong ngày này, những hoạt động diễn ra đơn giản, chủ yếu là ban nhạc hát tang ca. Sáng sớm gia đình người chết làm lễ tạ đối với các thầy và các vị chức sắc làm lễ. Ban nhạc lập bàn lễ để hát xướng ba buổi: sáng, chiều và tối. Ban nhạc sẽ hát hết khoảng 170 bài tang ca, nội dung kể lại vòng đời người từ lúc sinh ra cho đến lúc chết và sau khi chết được đầu thai lại. Trong những lời hát, tuỳ theo từng giai đoạn của cuộc đời mà mời các thần linh tương ứng và có giai điệu tương ứng. Các giai điệu những bài tang ca rất buồn thảm, sầu não, đưa người nghe đến một cảm giác linh thiêng như đang thoát ra khỏi cõi trần tục, nhưng chúng mang tính nghệ thuật âm nhạc dân gian rất độc đáo, có giá trị nghệ thuật cao và có sự ảnh hưởng không nhỏ đến âm nhạc của các dân tộc xung quanh.
Trong khi ban nhạc hát tang ca, gia đình làm cái bếp ở trước nhà lễ để nấu cơm cho người chết ăn. Trong rạp, ông hơng lập bàn tổ cúng và tiếp tục công việc trang trí của mình. Buổi trưa và buổi chiều, toàn bộ các chức sắc và gia đình ăn cơm ở trong nhà, tuyệt đối không ai được ăn cơm ở nhà lễ.
Ngày thứ ba: Lễ chém cây (Tak Kayơw - có thể so sánh như lễ “phạt mộc” của người Việt)
Đối với lễ hỏa táng “bốn thầy”, lễ chém cây kéo dài cả ngày, lễ hỏa táng “hai thầy” thì chỉ làm một buổi chiều. Gọi là lễ chém cây nhưng thực chất chỉ là chặt tượng trưng vì cây đã được chặt về, đã được đẽo gọt, đục mộng và bó lại dựng ở gần rạp lễ. Chủ lễ gồm hai ông thợ mộc (ragei). Trước khi làm lễ, các vị chủ lễ và thợ phải làm lễ tắm rửa, tẩy uế bản thân.
Lễ vật gồm hai chai rượu, một khay lễ đựng trầu têm, một khay nước. Mỗi ông thầy cầm một cây chà gặt, đứng giữa rạp, quay mặt về hướng chà kung, nơi người chết nằm đọc thần chú, sau đó cùng các ông thợ mộc đi ra nơi dựng đòn khiêng. Đòn khiêng được một người giữ dựng đứng, cài vài cành lá nhỏ lên đó với ý tưởng là cây đang ở trong rừng, ông thầy lấy rìu chặt tượng trưng, đòn khiêng đổ xuống. Hai ông thầy cầm cây rìu, đọc thần chú rồi đẽo tượng trưng lên đầu đòn khiêng. Đây là hình thức tiễu trừ ma quỷ vì người Chăm cho rằng ma quỷ hay ngự ở cây to.
Trong khi các ông thầy đi làm lễ chém cây, ông thầy trang trí (hơng) cúng khấn xin làm nhà táng (Sang swơr). Khi lễ chém cây thực hiện xong, hai ông thầy đi đến ngã ba đường đào một cái hố nhỏ, vẽ bùa chú trong đó, bẻ ba que tre nhỏ theo hình tam giác rồi lấp lại để trấn yểm tà ma (xem ảnh 10, tr).
Trong ngày lễ chém cây, buổi sáng 5 người đàn bà đội 5 mủng cơm, buổi chiều đội 7 mủng. Ngoài 4 mủng cho 4 thầy, 1 mủng cho người chết, thêm 2 mủng cho 2 ông thợ mộc. Các vị chức sắc cho rằng, hôm nay, bào thai đã được 7 tháng.
Buổi trưa có nghi thức ăn chè ban ngày.
Buổi chiều, hai ông thợ (ragei) làm thủ tục dỡ bỏ bếp nấu cơm cho người chết và vô nhà lễ làm thủ tục thu lu. Lễ thức này mục đích là báo với ông đại diện chủ nhà (Po damưn) toàn bộ quá trình lên “núi vàng, núi bạc” chặt cây về đã xong, không gặp gì trở ngại. Ông đại diện chủ nhà tạ lễ mời hai ông ragei uống rượu, ăn cơm và ăn trầu.
Đêm đến là nghi thức ăn chè đêm.
Theo các vị chức sắc, ngày xưa, trong lễ “chém cây”, người nhà phải dắt đến nhà ông thầy cả sư (người cao nhất làm chủ lễ tang) một con trâu làm lễ vật. Con trâu này coi như là lễ vật trả công và sẽ thuộc quyền sở hữu của ông thầy, ông muốn sử dụng nó thế nào cũng được, nhưng nếu sau này con trâu đó chết, không ai được ăn thịt mà phải chôn vì đã thành trâu thiêng. Về sau này, vì con trâu là cả một gia tài, hầu hết các ông thầy cho chuộc lại bằng nhẫn vàng. Đã vài chục năm nay, không còn dâng lễ vật cho thầy bằng trâu nữa vì trâu mỗi ngày một hiếm và quý, người ta dùng nhẫn mưta bằng vàng dâng cho thầy, nhưng sau đó đem tiền (khoảng vài trăm nghìn đồng đến chuộc lại nhẫn). Vì vậy, ngày xưa làm thầy pà xế thu nhập rất cao, có nhiều trâu, nhiều ruộng và rất được nể trọng. Ngày nay, các chức sắc đã mất đi những thu nhập qua cúng tế mà chỉ làm ơn đức nên đang có xu thế ít người muốn làm chức sắc pà xế.
Ngày thứ tư: Lễ hỏa táng (Đam chuh) Người Chăm còn gọi đây là Page edak (buổi sáng hỏa thiêu).
Lễ được bắt đầu từ 6 giờ sáng. Người ta làm lễ cúng xin dựng một cái bếp trước cửa phía đông nhà lễ. Bếp này được đóng 3 cây cọc và buộc 3 cây ngang tượng trưng là tấm phên che. Trong bếp đó bắt buộc phải có 3 cái bếp gồm 9 ông đầu rau (ông táo) được làm bằng đất theo hình chóp cụt cao khoảng 20cm, mặt trên ông táo có gắn một lớp cỏ xanh. Trên 9 ông táo kê 3 chiếc nồi lớn nấu cơm lễ. Những người đầu bếp chuẩn bị nấu đồ lễ. Theo quy định, ngày làm lễ hỏa táng phải làm 9 mâm cơm chính, tượng trưng cho bào thai đã được 9 tháng, sắp sinh nở (xem ảnh 11, 12, 13, 14, tr.).
Người ta dùng 3 chiếc cổ bồng (đế của chiếc khay trầu thong hala) làm đòn kê để gác hai chiếc chà gặt (Jagak) lên đó. Hai chiếc chà gặt được gác theo chiều bắc - nam, chia gian giữa của rạp ra làm hai. Phía đông (hướng mặt trời mọc) là hướng của sự sống được coi là dương, phía tây là hướng cõi chết thuộc âm. Không ai được bước qua ranh giới tượng trưng đó. Tất cả những đồ đạc sẽ hỏa táng theo người chết đều phải để về phía tây nam rạp, bên phía tây chà kung. Ngoài ý nghĩa phân ranh giới sống và chết, hai cây chà gặt còn là cây cầu nối, chuyển nội dung những lời hát lễ của ban nhạc tang đến với người chết đồng thời còn là con đường dẫn các loại máu của thần linh vào cho bào thai (người chết tái sinh chuẩn bị ra đời) nên không ai được bước qua, nếu có người bước qua, máu sẽ chảy lung tung. Do vậy, vị trí ngồi đàn hát của ban nhạc tang khi nào cũng ở đầu cây chà gặt phía bắc để kéo đàn hát thánh ca.
Phía trước nhà lễ, bà đơm cơm đội 9 mủng cơm xếp thành một hàng. Chín mủng cơm được phân chia như sau: 4 mâm cho 4 ông thầy, 2 mâm cho 2 ông ragei, 1 mâm cho người chết, 2 mâm cho 4 ông khiêng nhà táng. Các thầy làm thủ tục ăn cơm. Trong lúc ban nhạc hát bài tang ca tiễn đưa cuối cùng, những người thân mặc đồ tang trắng hướng về người chết nằm lạy trước sân nhà lễ.
Sau gần hai giờ hát thánh ca, người ta gỡ hai cây chà gặt ra. Gia đình làm lễ tạ cho ban nhạc. Trong lúc đó, ở nhà người chết, ông thầy cúng giữ nhà (On khik sang) lập một mâm lễ ở giữa sân (có nơi lập ở trong nhà). Lễ vật gồm rượu, trầu cau, lửa trầm, bánh trái, nến sáp. Ông thầy lấy ba cây củi chụm một bếp lửa giữa sân nhà, làm bùa phép chặt các cây chùm bầu, để lại ở đầu cây một ít lá rồi chôn mỗi góc ba cây làm hàng rào trấn giữ tám hướng để không cho tà ma vào nhà.
Bốn ông khiêng hài cốt (hala char) quấn chăn (váy Chăm), mình cởi trần, trên cổ quấn một băng vải đỏ (bùa), đầu quấn khăn Chăm đến trước cửa nhà nhận một ống tre đã được chôn trước đó ở cửa ngõ vào nhà, trong đó có một chiếc khăn trắng vuông, cạnh khoảng 20cm. Một ông đại diện cho tốp bốn người khiêng đến bên mâm lễ của ông thầy cúng giữ nhà để thỉnh lệnh đi khiêng hài cốt. Khấn xong, ông thầy cúng đưa cho 4 ông hala char 4 miếng trầu têm làm bùa hộ mệnh. Ông hala char trở lại nhà lễ đưa cho thầy pà xế 4 miếng trầu đó.
Các thầy chủ lễ và 4 người khiêng làm lễ tắm rửa, tẩy uế bản thân để làm lễ chuyển hài cốt đi hỏa táng. Sau khi làm lễ tẩy uế xong, thầy pà xế pahwak dẫn đầu, theo sau là các thầy khác và 4 người khiêng bước ra khỏi rạp, đi về phía đông, nơi để nhà táng, xếp một hàng ngang chĩa gậy trên nóc nhà táng đọc lời khấn rồi đi vòng quanh rạp một vòng theo chiều kim đồng hồ. Về lại cửa rạp, ông chủ lễ đọc lời khấn và vào trong rạp, cầm cây gậy thần yểm bùa bên phía đông chakung. Thứ tự từng ông khiêng cầm cây chà gặt đi vào trong nhà lễ thỉnh lệnh của thầy pà xế pahuăk. Ông thầy làm phép lên cây chà gặt và trao miếng trầu têm hồi nãy cho từng ông khiêng. Ông khiêng nhét miếng trầu đó vào thắt lưng (như chiếc bùa hộ mệnh để tà ma khỏi bám theo) và nhận lệnh khiêng hài cốt người chết đi hỏa táng.
Khoảng 10 giờ, chiêng trống nổi lên, con cháu, người thân đến nằm lạy trước chà kung khóc lóc thảm thiết (chỉ những người ở vai dưới so với người chết mới lạy).
Ông ragei cầm chà gặt làm phép đập bỏ một ông đầu rau trong bếp ném ra ngoài vườn. Bốn ông khiêng đòn khiêng đi theo các ông thầy một vòng quanh nhà lễ ngược chiều kim đồng hồ, đi vòng quanh đòn khiêng 3 vòng, sau đó đứng về vị trí 4 đầu đòn khiêng chờ lệnh.
Ông thầy làm phép cho dỡ nhà lễ. Nhà lễ lập tức được dỡ ra rất nhanh. Hầu như tất cả mọi người đều nhịp nhàng tham gia vào việc tháo dỡ nhà lễ chỉ trong vòng vài phút. Điểm đáng lưu ý là đến khi dỡ cây đòn dong của nhà lễ xuống phải đồng thời đúng lúc đòn khiêng đặt lên vai người khiêng. Lúc này toàn bộ khu vực nhà lễ chỉ còn là một nền đất như cũ (các ông thầy giải thích hiện tượng này như sau: khi dỡ nhà lễ, người chết tức bào thai mới được tái sinh, khi chưa hỏa táng vẫn còn đang nhập linh nên không được làm đứt đoạn. Vì vậy, khi hạ đòn dong nhà hỏa táng là đòn khiêng phải được nhấc lên để đỡ bào thai đưa vào đòn khiêng).
Khi hài cốt đã đưa vào đòn khiêng, ông thầy để cây gỗ có dán hoa văn đè lên hài cốt. Người nhà xếp tất cả quần áo, đồ đạc dành cho người chết lên đó. Sau đó, ông hăng úp nhà táng lên thi hài. Khay (Gimong) lại được treo dưới màn lam linh nhỏ trên nóc nhà táng và vẫn có một sợi chỉ nối từ trên màn lam linh xuống bụng thi hài, cuối sợi chỉ, trên thi hài vẫn để con chim hơng mưh y như trong nhà lễ (đại thể, người chết nằm trong nhà lễ thế nào thì khi nằm trong nhà táng cũng y như thế, bào thai vẫn đang nhập linh). Cuối cùng, các ông khiêng dàn nhà táng ra nơi hỏa táng. Đi đầu là các thầy chủ lễ, theo sau là những người cầm cờ và những người đưa tang trong tiếng trống, chiêng thật linh thiêng.
Đi được một đoạn đường, giữa đường người ta để sẵn một đống rơm nhỏ. Đoàn người đưa tang cùng nhà táng dừng lại, đống rơm được đốt lên. Chiếc chakung đã được tháo dỡ mang theo được bỏ vào đống lửa, hai cây thộk có buộc hai bọc vải cũng được tách ra và bỏ vào đống lửa. Còn lại hai cây sẽ được mang theo đốt ở giàn thiêu. Hiện tượng này được lý giải khác nhau, nhưng điểm chung là người mẹ đang “vượt cạn” để sinh nở. Người nhà mặc đồ tang trắng nằm sấp xuống mặt đường theo hàng dài nối đuôi nhau để khi khiêng nhà hỏa táng đi qua trên đầu, mọi người mới được nhổm dậy. Nghi thức này được lặp lại 3 lần trên đường khiêng người chết ra giàn hỏa táng.
Đi được nửa đường, mọi người phải dừng lại làm thủ tục quay đầu. Bốn ông thầy đứng một hàng ngang cầm gậy thần chĩa lên trời về hướng đông đọc thần chú chỉ hướng thăng thiên lên các tầng trời (Patruh tơl akarah) cho linh hồn người chết (mới tái sinh). Ông chỉ lên tầng nào thì linh hồn người chết sẽ được lên đó (trừ tầng cao nhất là do thần linh ở thượng giới quyết định). Sau khi bốn ông thầy chỉ hướng đi cho linh hồn, bốn người khiêng quay đầu (vai quay đi ngược lại). Lúc này chân hài cốt, phía đòn khiêng có hình con bò thần Kapil sẽ đi trước, đầu hài cốt, phía đòn khiêng có hình Omkar đi sau. Các vị chức sắc giải thích rằng, quay đầu người chết cũng là sự quay đầu của thai nhi. Lúc khiêng người chết đi, bốn ông khiêng đầu người chết đi trước. Sau khi làm thủ tục quay đầu, phía chân người chết sẽ đi trước để khi đến bãi làm lễ hỏa táng, đưa vào một cái lán làm lễ cúng. Khi cúng xong, phía đầu người chết được đưa ra lên giàn hỏa táng. Khi đến bãi hỏa táng, người nhà nhanh chóng trải chiếu nằm lạy 3 lần trước khi hạ đòn khiêng xuống. Lúc này, mọi người mới nhanh chóng dựng rạp cho các ông thầy làm lễ. Mâm lễ có 2 khay làm bằng lá chuối gồm cơm, bánh trái, trầu têm, nước, gương, lược. Tiếp theo là lễ thức cúng xin đất chôn cột giàn hỏa táng. Ông thầy chọn một vuông đất, nơi sẽ làm giàn thiêu, đào một lỗ nhỏ, cho cơm, gạo, hoa, nước xuống rồi vỗ hai tay vào nhau (khi được hỏi, ông thầy cho biết động tác có ý nghĩa phồn thực). Sau đó ông đặt 3 chiếc lá mít ở 3 góc lỗ, bỏ một dúm cơm và những cây tăm có quấn bông gòng trắng. Trước mặt thầy để một khay lửa. Ông thầy vặt những cánh hoa lức (bông tà chạ), vẩy nước, hơ trầu cau trên khói trầm rồi đổ nước vào lỗ, vỗ hai tay vào nhau. Những người khiêng cầm chà gặt chấm vào lỗ. Ông thầy cầm cây xà beng chọc xuống đất 4 lỗ chọn 4 điểm xung quanh (rộng khoảng 90cm, dài 1,5m) và lỗ giữa cho thợ đào rồi phủ lên lỗ ở giữa một tấm vải trắng, đặt lên trên một chiếc quạt vải. Trên chiếc quạt ông bỏ lên vài cây củi. Khi 4 lỗ được đào xong, ông thầy bỏ xuống mỗi lỗ một miếng trầu têm, ông thợ khiêng chôn bốn cây cọc nhỏ làm cột (khung chắn để xếp củi). Củi được xếp lên tấm vải trắng mà ông thầy mới làm lễ, cao khoảng 0,5m và trải lên đó một chiếc chiếu. Trong khi đó ở trong lán cúng, một ông thầy khác làm phép rút chốt mộng ở bốn góc đòn khiêng, mỗi góc đòn khiêng được cắm một cây sáp nến, một miếng trầu têm. Người ta khiêng cả đòn khiêng lên dàn thiêu (đầu người chết ra trước). Người nhà lấy bớt khăn áo đẹp ở trong nhà táng ra, còn những đồ gửi cho người chết được xếp vào trong nhà táng. Bốn miếng vải đỏ (bùa) ở bốn góc đòn khiêng được tháo ra. Trống kèn nổi lên, ông thầy châm lửa, thần lửa xuất hiện cháy rừng rực, khói ngút trời . Dàn nhạc đi vòng quanh dàn thiêu ngược chiều kim đồng hồ, vừa đi vừa tấu nhạc. Cháy được một lúc, 4 ông thầy ra xếp hàng ngang, đứng quay mặt về hướng đông, giơ hai tay lên đầu, chụm hai ngón tay trỏ vào với nhau, hai ngón tay cái vào với nhau tạo thành hình tam giác (yoni) giơ lên trời. Các thầy giải thích rằng đó là biểu tượng mở cửa để sinh nở, cho linh hồn được tái sinh, siêu thoát.
Những người trong tộc họ bỏ quần áo, dày dép, bánh trái và những vật dụng khác lên giàn thiêu. Còn những thứ đắt tiền, họ đưa qua dàn thiêu gửi tượng trưng. Thậm chí người ta chạy xe máy vòng quanh đống lửa để “gửi” xe máy cho người chết. Những người hàng xóm, có thể thông qua người chết để gửi đồ đạc quà cáp cho những linh hồn người thân đã chết trước đó.
Trong lúc lửa đang nghi ngút cháy, người ta dùng câu liêm lấy đầu lâu người chết ra. Hai người mang đầu lâu ra một cái lán nhỏ ở góc bãi để đục. Người ta dùng chàng và đục, đục lấy 9 mảnh xương trán hình tròn, đường kính khoảng 1cm. Những mảnh xương trán, sau khi được gọt đẽo tròn, được tẩy uế bằng nước cát lồi (mu) rồi đem bỏ vào chiếc hộp bạc hình tròn (klong). Chiếc hộp này sẽ được chôn giấu một cách bí mật quanh nhà.
Cùng lúc đó, những người phụ việc lấy mo cau khô làm thành những bộ chén, bát. Những chén bát này sẽ được sử dụng trong lễ cúng tuần. Trong tất cả các lễ cúng tuần sau đó đều không dùng chén bát bình thường mà phải dùng chén bát làm bằng mo cau. Hiện tượng này chúng tôi chưa giải mã được. Khi hỏi các thầy làm lễ, các thầy cũng không biết, chỉ biết làm theo sách cổ “xưa sao, nay cứ vậy mà làm”. Chúng tôi ngờ rằng, hiện tượng này có liên quan đến tô tem của thị tộc Cau như đã trình bày ở chương II.
Khi đám lửa cháy gần hết, bốn ông thầy khấn ban gạo, bốc gạo vãi vào đám cháy, kế đó là bốn ông thợ khiêng và người nhà cũng bốc gạo vãi vào đám cháy. Khi tất cả đã trở thành tro bụi, mọi người dồn tro lại, lấy một cái mủng tre úp lên để cách sau đó ba ngày làm lễ cúng tuần (Padhi patrip)
Mọi người vào rạp làm lễ cúng đầu patrip, lễ vật gồm một con gà, một mâm bánh tét. Tiếp đến là nghi thức bước qua chà gặt để chúc cho hài nhi (linh hồn người chết) hay ăn, mau lớn và mạnh khỏe. Trên đường về, người ta dừng lại làm lễ cúng giữa đường. Các ông thầy bày hộp klong đựng 9 mảnh xương ở giữa, con cháu ngồi xung quanh khấn vái và hứa nguyện sẽ cúng tuần 3 ngày (patrip klauh harei), tuần giáp tháng (patrip bak bilan), giáp năm (patrip bak thun) và lễ nhập kút (yang paralau tamư kut) cho linh hồn người chết. Tiếp đó là thủ tục cởi khăn áo. Các thầy pà xế về nhà làm lễ hạ bàn tổ. Lễ vật gồm năm mâm cơm, một cặp gà.
Sau khi hỏa táng xong, các chức sắc và gia đình trở về nhà. Lúc này cửa ngõ đã bị đóng chặt. Ông thợ khiêng hét gọi mở cửa. Ông thầy giữ nhà hét lên và đi đến góc rào phía đông khấn tấu trình thần Po Nưbi rằng ông ở nhà trông coi, chó không sủa, gà không gáy, không có tà ma nào phá phách, nay lại có người gọi mở cửa nhưng không biết tốt xấu ra sao. Sau đó ông đứng giữa sân hô to, hỏi thần linh rằng người gọi mở cửa là ai? Mở để làm gì? Ông thợ khiêng chính trả lời cũng bằng cách hét thật to, trình báo toàn bộ quá trình lễ hỏa táng đã xong theo trình tự như thế, như thế… không có gì sơ suất, không có tà ma nào theo về. Ông thầy giữ nhà đốt một đống lửa ở giữa sân, hét trả lời và rắc tro vẽ bùa sau cánh cửa, vẩy nước xung quanh và mở cửa cho các ông thợ khiêng cùng toàn thể gia đình vào nhà. Có thể thấy, khi làm nghi lễ tang ma, người Chăm rất sợ ma quỷ về quấy phá.
Cổng được mở ra. Các chức sắc đọc thần chú vào nhà. Gia đình bày các mâm lễ làm lễ tạ các thầy và mọi người đã đến giúp đỡ gia đình thực hiện lễ hỏa táng.
Hôm sau, gia đình lại tiến hành gói bánh làm lễ cúng tuần 3 ngày (Patrip bak klơu) sau đó, kế đến là lễ cúng tuần một tháng (Patrip bak bilan), cúng tuần một năm (patrip bak thun), lễ cúng ba năm (Patrip klơu thun) hay còn gọi là cúng thả và chuẩn bị kinh tế để vài năm sau làm lễ nhập kút để rồi sau một năm, người ta làm lễ mở cửa kút, lúc đó mới kết thúc các nghi thức chuyển tiếp cho một đời người.
Lễ hỏa táng đến đây đã xong. Hài cốt người chết đã thành khói bay lên trời, thành tro bụi nhập vào đất, chỉ còn 9 mảnh xương trán được giữ trong chiếc klaung được chôn giấu (thường là ở trong vườn nhà, có người chôn giấu ở trong rừng) chờ đợi một vài năm, có khi hàng chục năm, khi dòng họ đã đủ số lượng klaung và quan trọng là đã đủ điều kiện kinh tế mới làm lễ nhập kút về với tổ tiên ông bà. Nếu nhà nghèo không có điều kiện làm lễ nhập kút, người ta có thể làm lễ “cột kút”, sau lễ này có thể để 15, 20 năm sau làm lễ nhập kút cũng được.
d. Lễ chôn (Đam jap brah){i}
Lễ chôn của người thuộc “dòng chôn”: Như chúng tôi đã trình bày ở phần những quy định trong tang ma, lễ tang chôn dành cho người chết thuộc “dòng chôn”, là lễ tang dành cho những người chết thuộc đẳng cấp thấp nhất của người Chăm theo Bàlamôn. Nghi thức rửa tội, khâm liệm và tang ma nhìn chung cũng giống như lễ hỏa táng “bốn thầy” như đã miêu thuật ở trên, nhưng lại có những khác biệt. Cơ bản là về hình thức và nội dung đơn giản hơn. Lễ này chỉ có một thầy pà xế làm chủ lễ. Trong nhà lễ không có cây đòn tay ngang, cũng không có cây đòn ngang qua hai cột để treo nhạc cụ cho ban nhạc. Không có ông pà xế ralang tạo hình hài, không có ông hơng để trang trí, không có nhà táng, ban nhạc chỉ có một ông kéo đàn kanhi và một ông hát lễ. Sau khi chôn, không làm đám giỗ (đám tuần - patrip) giáp 3 ngày, giáp tháng, giáp năm như lễ hỏa táng, chôn xong là bỏ luôn như kiểu “bỏ mả” của các dân tộc cùng ngữ hệ Nam Đảo ở Tây Nguyên. Mộ sau khi chôn không đắp cao, không làm bia. Người Chăm quan niệm, nếu mộ càng mau bị mưa gió làm cho bằng phẳng thì linh hồn người chết càng mau được về với tổ tiên.
Lễ chôn gửi hay chôn tạm: Người Chăm Ahiêr thuộc “dòng thiêu”, nhưng do chết không “trọn vẹn”, thì không được làm lễ hỏa táng ngay mà phải “chôn gửi” một thời gian (thời gian “chôn gửi” và đào lên do thầy pà xế định, tuỳ thuộc vào tuổi, ngày sinh, ngày tử của người chết, khi nào ông thầy pà xế chọn ngày cho làm lễ hỏa táng mới được làm). Cũng có trường hợp gia đình người chết do nghèo quá chưa có tiền làm lễ hỏa táng cũng phải đem đi chôn gửi, khi nào có điều kiện mới làm lễ hỏa táng.
Nghi thức chôn gửi đơn giản vì đây chưa được coi là nghi lễ tang ma. Sau khi làm lễ rửa tội, lễ trừ ma quỷ do chết không “trọn vẹn”, ông thầy làm lễ khâm liệm và đem thi hài đi chôn tạm. Khi chôn tạm, ông thầy cả sư xem tên tuổi người chết và định ngày đào hài cốt lên làm lễ hỏa táng. Nghi thức làm lễ hỏa táng cũng như nghi thức đã miêu thuật ở trên, chỉ có thêm lễ thức trấn bùa trừ ma quỷ, trừ những “lực lượng” siêu nhiên đã làm cho người đó “chết xấu”, để linh hồn người chết được giải thoát. Trong thời gian chôn gửi, linh hồn chưa được giải thoát, hồn ma vẫn còn quanh quẩn ở chốn trần gian. Vì vậy, gia đình phải lo chuẩn bị làm lễ hỏa táng để “tái sinh” cho linh hồn, đồng thời giữ lại 9 miếng xương trán để thờ cúng. Tuy nhiên, 9 mảnh xương trán của những người chết không “trọn vẹn” không được nhập vào kút chính.
Điểm đáng lưu ý là thời gian “chôn gửi” lâu hay mau là do thầy cả sư định đoạt nên đã có nhiều trường hợp thời gian chôn gửi quá ngắn, xác người chết chưa kịp phân hủy đã phải đào lên để làm lễ hỏa táng gây ô nhiễm môi trường.
Chúng ta có thể thấy, quan niệm về cái chết ở đây khác hẳn nhiều dân tộc khác. Người Việt thường nói “mồ yên mả đẹp”, những từ như “động mồ động mả” chỉ dùng khi xung khắc với nhau. Người Việt không bao giờ dám động đến mồ mả người chết chứ chưa nói đến chuyện đào bới xác người chết lên, thậm chí lại còn đào bới lên khi xác chết chưa phân huỷ hết. Đối với người Việt, chỉ được đào người chết lên khi gia đình gặp nhiều tai họa lớn và phải mời thầy đến làm lễ cúng.
e. Lễ “chiêu hồn nhập cốt” (Đam harơm)
Lễ chiêu hồn nhập cốt đam ngap hayơm, theo tiếng Chăm đam là đám, ngap là làm, hayơm là cầu hồn, nhập hồn. Có người gọi là “Dam harơm” - đam là đám, hayơm là rừng. Có thể là do nghi lễ này luôn làm ở trong rừng, phải xa làng, hiểu theo nghĩa đen là đám làm ở rừng. Nhiều dân tộc khác cũng thường làm lễ tang ở rừng theo quan niệm rừng là nơi yên nghỉ của những kiếp đời đã qua. Ở những làng người Việt ở Bắc Bộ, mặc dù ở đồng bằng nhưng người ta vẫn tạo ra những khu “rừng”, là nơi trú ngụ của thần linh, là nghĩa địa chôn cất người chết. Hầu hết các làng Chăm đều ở đồng bằng, trong làng không trồng cây cao vì người Chăm cho rằng, ma quỷ thường trú ngụ ở cây cao, nhưng ở bìa làng lại có những khu rừng “nhân tạo”, đó là những nghĩa địa kút, nơi chôn những mảnh xương trán của người chết, là nơi cự ngụ của tổ tiên. Chúng ta thấy ở đây có những nét tương đồng của văn hóa các tộc người Đông Nam á.
Lễ “chiêu hồn nhập cốt” còn có tên là Đam tup ra, là đổ gạo, do đám này lấy gạo tạo hình hài. Theo chúng tôi, xét về bản chất nghi lễ, có thể gọi là lễ “chiêu hồn nhập cốt” theo cách gọi của người Việt.
Lễ “chiêu hồn nhập cốt” là nghi lễ tang ma dành cho những người chết mất tích, những người bị mất xác hoặc sau khi chôn gửi bị thất lạc hài cốt. Lễ này do gia đình hoặc họ hàng tổ chức. Thời gian làm lễ chỉ diễn ra trong một buổi sáng hoặc buổi chiều vào ngày thứ bảy hoặc thứ tư trong tuần và phải là ngày chẵn theo lịch Chăm. Chủ lễ là một chức sắc pà xế nhưng phải từ phó cả sư trở lên. Cùng hành lễ có một người giúp việc và người đại diện gia đình (Po damưn).
Cũng như các dân tộc khác, khi trong gia đình có người bị mất xác hoặc thất lạc hài cốt, người Chăm cảm thấy áy náy, không an tâm vì họ cho rằng linh hồn người chết không được giải thoát để sang thế giới bên kia và không được về với tổ tiên, cũng không được đầu thai trở lại. Không những thế, người chết bị mất hài cốt, một khi chưa làm đầy đủ lễ “chiêu hồn nhập cốt” chu đáo thì linh hồn sẽ phải vất vưởng ở trần gian và quay về quấy phá cõi trần mà trước hết là những người thân trong gia đình, tộc họ và làng xóm. Cuộc sống gia đình dòng tộc vì vậy cũng không yên ổn, làm ăn không phát đạt, thậm chí bị ốm đau, bệnh tật và không may mắn. Vì vậy, nếu trong gia đình, tộc họ có trường hợp bị mất hài cốt thì dù nghèo đến mấy cũng phải lo làm lễ “chiêu hồn nhập cốt”.
Địa điểm làm lễ là một nơi bằng phẳng tại khu rừng xa làng. Ở đó, một cái lán hình chữ nhật được dựng lên, một chiều khoảng 4m, một chiều khoảng 5m. Nếu ở đó có bóng cây cao và mát thì không phải làm lán. Lễ vật được chuẩn bị gồm 3 con gà, rượu, trầm, nến sáp, một mâm bánh tét Chăm (pei nung) xếp cao, nhỏ dần, nhìn như một ngọn tháp. Những thứ để tạo hình hài gồm một thúng gạo, vỏ một quả dừa khô, bột gạo màu, lá mít. Một miếng chì để ghi tên tuổi người chết. Những món ăn trong lễ có thịt gà luộc, cơm, canh, các loại bánh trái.
Người giúp việc trải dài 3 chiếc chiếu trong lán theo hướng đông - tây. Các lễ vật được bày ra theo sơ đồ đã ghi trong sách cổ Chăm. Ông thầy làm lễ cuốn khăn bịt đầu và tẩy uế bản thân trước khi làm lễ. Sau đó ông lập bàn tổ (Ssanai) để làm lễ. Ông làm hai mâm lễ. Một mâm lễ để cúng các thần Yang Pô, Yang Amư. Mâm lễ này gồm 3 trái trứng, 37 lá trầu, 37 miếng cau khô, 1 chai rượu, 1 đĩa trầu têm, 1 chiếc chăn trắng (khan mrang, là loại khăn do người Chăm dệt, hai đầu có hoa văn đan ô), 1 mâm lễ thứ hai để cúng thần mẹ xứ sở Pô Inư Nưgar gồm 3 trái trứng, 15 lá trầu, 1 bình rượu, một chiếc khăn trắng có tua ở hai đầu. Sau khi lập bàn tổ xong, ông phó cả sư khấn vái và đọc văn cúng. Lời văn cúng được ghi trong sách cổ Chăm, nhưng thường thì các thầy pà xế đọc thuộc lòng. Nội dung lời khấn tóm tắt như sau: “Hôm nay ngày lành tháng tốt, xin mời các thần ngự trên cao về hưởng thảo và dự lễ chiêu hồn, xin dâng các thần bát nước để súc miệng, chà răng, xin dâng các ngài trầu cau, rượu, trứng gà. Xưa kia có người đó ở tại thôn... tên là, tuổi, con ông... con bà... bị chết không đến nơi đến chốn (nêu trường hợp chết, chết sông, chết bụi, chết đường) bị mất xác. Hôm nay, bà con tộc họ, người thân trong gia đình mời thầy pà xế về làm đám. Bây giờ thần Pô Kinôr Hôr sai bảo tôi đến đây làm đam hayơm cho người đó (tên đó, tuổi đó) để gửi hồn vào xác. Vậy xin các ngài phù hộ và che chở cho tôi làm lễ…”{j}
Mỗi lần khấn mời một thần, ông thầy lại đưa bàn tay trái ấp lên ngực phải, tay phải dùng bông lức vẩy nước và rót rượu mời.
Tiếp theo là lễ thức tạo hình hài. Mâm lễ chính để làm lễ tạo hình hài là một chiếc mâm tròn, trong đó có một khay lửa đốt trầm, một khay nhỏ hạt nổ, một khay nước, một tệp lá mít, một bộ gương lược, một bó sáp. Ở vành mâm lễ có gắn một ngọn nến sáp đang cháy. Phía trước mâm lễ có một con gà luộc và một chén cơm.
Trước hết là tạo đầu người chết. Ông lấy vỏ một trái dừa khô để làm đầu người. Phía đầu trái dừa khô có 3 lỗ tạo thành hình tam giác đều. Người ta vẽ khoanh 2 lỗ làm mắt, đầu chóp nhọn vỏ dừa làm mũi, còn một lỗ dưới vẽ miệng nên trông giống hệt như một cái đầu người. Tiếp đó, ông cầm vỏ quả dừa khô đã vẽ hình mặt người huơ lên khói trầm và đọc thần chú. Ông đặt “cái đầu người” xuống chiếu khấn vái nhập hồn cho đầu và làm “lễ cho ăn”. Sau lễ cho “cái đầu” ăn, ông thầy bỏ miếng cau có gắn hạt gạo vào miệng người chết rồi lấy lá quýt băm nhỏ nhét vào tai, mũi, mắt, miệng, bịt lại và đắp khăn lên mặt (như trong lễ “cho ăn” ở lễ hỏa táng).
Ông để bên “cái đầu” một miếng chì hình vuông có vẽ bùa và ghi tên tuổi người chết, lấy gương, lược, lọ dầu dừa và làm nghi thức gội đầu, chải tóc cho chiếc đầu, sau đó phủ một chiếc khăn lên trán cho đầu người chết.
Sau lễ cho ăn, ông thầy làm “lễ cúng tuần” (patrip) cho “cái đầu”.
Lễ tạo đầu người chết xong, ông thầy làm lễ tạo thân hình.
Ông thầy đọc câu thần chú rồi trải chiếc chiếu tục Chăm (chiêw bang), trải một tấm vải liệm màu trắng cũng theo hướng đông - tây lên trên để làm phép tạo thân hình. Bên cạnh ông lúc nào cũng có cây gậy thần. Trước hết, ông cầm nắm bông lức nhúng vào khay nước rồi vẩy ra phía trước, vừa vẩy vừa đọc thần chú khấn vái thần linh. Ông múc một bát gạo từ trong thúng, huơ lên khói trầm, đọc thần chú rồi bốc các nắm gạo bỏ vào bốn góc trên tấm vải, một nắm gạo bỏ vào giữa. Sau khi đọc thần chú, ông đổ hết bát gạo to vào, lấy tay san gạo thành một mặt phẳng hình tròn và vẽ bùa Omkar lên, sau đó cầm cây gậy thần đọc thần chú và trải chín lá mít lên mặt gạo. Trên mỗi lá mít ông bỏ một cục cơm và cắm vào mỗi nắm cơm một chiếc que nhỏ như chiếc tăm, trên đầu tăm có cuốn bông gòn. Ở phía đầu lá mít có cắm những bông hoa lức. Mỗi lần trước khi làm các thủ tục, ông thầy luôn lấy bàn tay trái ấp vào ngực phải, tay phải lấy rượu nhỏ vài giọt lên gạo, bứt các bông lức, bốc hạt nổ ném lên gạo rồi cầm một chùm hoa nhỏ nhúng vào nước, vẩy lên mặt gạo và khay lửa trầm. Trong khi ông làm những động tác đó, miệng ông luôn khấn vái và đọc thần chú. Khi được hỏi, ông thầy giải thích rằng lá mít tượng trưng cho phần da, cơm tượng trưng cho phần thịt, cây tăm tượng trưng cho xương, bông gòn tượng trưng cho phần lông mao con người (xem ảnh 18, 19, tr.).
Ông thầy vừa đọc thần chú vừa bốc một nắm gạo bỏ phía sau chiếc đầu, lấy gậy thần yểm bùa, rồi bỏ xung quanh đầu. Tiếp theo ông đổ cả mủng gạo (khoảng 3kg) lên mặt tấm vải, phả gạo cho bằng theo hình người nằm ngửa, có hai tay, hai chân. Ông dùng ngón tay chấm lên hai bên ngực làm vú, một chấm phía dưới làm bộ phận sinh dục, dùng cả bàn tay úp xuống để làm hình năm ngón tay năm ngón chân. Kế đó, ông dùng bột gạo đã nhuộm màu rải thành những đường thẳng dài lên khắp thân hình. Cả thảy bột gạo có bốn màu: vàng, đỏ, trắng và đen. Ông giải thích rằng đó là bốn loại máu trong cơ thể người.
Tạo hình hài xong, ông thầy đứng dậy, tay cầm chiếc gậy thần khấn vái làm nghi thức gọi và nhập hồn, mời thần mẹ xứ sở Yang Pô Inư Nưgar về nhập hồn vào xác cho người chết. Ông thầy cho biết, chỉ có mẹ xứ sở mới có thể nhập được hồn vào xác (vì bà là đấng tạo hóa). Tiếp theo là lễ tang “một thầy”. Sở dĩ người chết này chỉ được làm lễ tang “một thầy” vì đã là mất hài cốt thì bị liệt vào loại “chết xấu”.
Nếu người chết thuộc “dòng chôn” (Jap brah), người ta làm nghi thức làm lễ chôn “thi hài” đã được chiêu hồn ngay sau đó. Mả của những người chết sau khi làm lễ chiêu hồn có làm một cái nhà đơn sơ, chỉ có hai chiếc cột trồng theo chiều dọc của mả, chìa ra hai mái nhỏ lợp tranh gọi là thang prauk.
Nếu người chết thuộc “dòng thiêu”, “thi hài” đã được chiêu hồn cũng được đưa lên giàn hỏa táng nhưng không làm nhà táng một cách cầu kỳ như đám hỏa táng bình thường. Người ta đưa thi hài lên đống củi và đốt, ông thầy cũng chỉ đường cho linh hồn siêu thoát, sau đó làm 9 miếng chì thay cho 9 miếng xương trán cho vào klong, ghi tên tuổi để sau này làm lễ nhập kút về với tổ tiên. Tuy nhiên, trong lễ nhập kút, người chết thuộc trường hợp mất xác, phải làm lễ chiêu hồn thì không được nhập vào kút chính. 9 miếng chì thay cho 9 miếng xương trán của người chết cũng không được cho vào kút phụ vì người Chăm kiêng không bỏ kim loại vào kút mà 9 miếng chì này phải bỏ đi. Thay vào đó, người ta lấy 9 lá trầu không, ghi tên tuổi người chết lên đó, cuộn lại với 9 miếng cau để nhập vào kút.
Khác với lễ tang chính thức, lễ tang này không có nghi thức cúng trấn bùa phép trừ tà ma ở nhà, không có lễ chém cây và không làm đòn khiêng, không làm nhà táng.
Loại trừ những yếu tố mang tính chất dị đoan, lễ “chiêu hồn” của người Chăm mang đậm tính nhân văn, đó là trách nhiệm đối với người đã khuất. Bất cứ con người nào trên thế giới này đều cảm thấy không an tâm, áy náy khi có người thân nào đó đã khuất nhưng không tìm thấy hài cốt. Lễ “chiêu hồn” vừa biểu hiện trách nhiệm với những người chết mất mộ, vừa là một “biện pháp tâm lý” đối với những người thân đang sống, để những người đang sống an tâm làm ăn. Sau khi đã làm xong lễ chiêu hồn nhập xác và các lễ thức tang ma cho đến khi nhập kút, linh hồn người chết coi như đã được giải thoát, nhập vào dòng chảy vòng tròn luân hồi vô cùng vô tận.
2. Lễ nhập kút (ba talang tamư kut)
Kút là nghĩa địa của dòng tộc theo họ mẹ của người Chăm Ahiêr. Có hai loại kút: kút âm và kút dương.
Kút âm là kút dành cho người Chăm thuộc dòng “chôn”. Sau khi chôn, người ta lấy ba hòn đá để trên nấm mộ. Ba hòn đá đó biểu tượng cho ba vị thần: Yang Po (thần trời), Yang Amư (thần cha), Yang Ssapajiơng (thần sáng tạo), đồng thời cũng là biểu tượng cho trời, đất và không. Người Chăm còn quan niệm ba hòn đá đó là ba ông đầu rau (đá kê bếp - patau ging). Trong công trình này, chúng tôi chỉ xin tập trung khảo sát kút dương.
Kút dương là nơi chôn những mảnh xương trán lấy từ lễ hỏa táng, tất nhiên là của người Chăm Ahiêr thuộc dòng “hỏa táng” (Cam Chuh).
Lễ nhập kút mà chúng tôi khảo sát dưới đây chỉ dành cho người chết thuộc dòng “hỏa táng”. Sau khi hỏa táng, gia đình đã làm đủ các nghi lễ giỗ 3 ngày, giỗ đầy tháng, giỗ đầy năm mới đủ điều kiện làm lễ nhập kút. Điều này thể hiện sự xâu chuỗi những quan niệm vòng đời người của người Chăm Ahiêr. Đó là quan niệm lễ hỏa táng chỉ như một sự giải thoát linh hồn cho người chết đồng thời là sự đầu thai cho một sinh linh mới và cũng phải trải qua các lễ thức đầy tháng, đầy năm mới được làm lễ nhập kút để “hóa thần”.
Chỉ sau khi đã được làm lễ nhập kút, người chết sau khi đã được đầu thai trở lại mới được thần linh hóa, được về với ông bà tổ tiên ở thế giới bên kia, thế giới ấy người Chăm coi như là cõi thiên đàng (swơr riga), là xứ sở của tổ tiên (nưgar muk kei) của từng tộc họ, cũng là ranh giới để phân biệt các tộc họ (mẹ) với nhau. Mặc dù thế giới siêu hình ấy ở nơi xa xôi đến mấy nhưng vẫn “liên lạc” với dòng tộc, và có quyền năng nhất định, có thể chở che, phù hộ độ trì, bảo vệ cho con cháu nên người Chăm vẫn thờ phượng. Hàng năm vào lễ Katê và Chabul, người Chăm vẫn ra thăm kút và thờ cúng.
Các kút của các dòng họ (mẹ) đều có tên gắn với cảnh quan thiên nhiên như: kút “đá tảng” vì kút này dựng gần đá tảng, kút “cây me” vì ở gần cây me, kút “cây chùm bầu” vì ở gần cây chùm bầu v.v… Tên kút này cũng được đặt cho chiet atơw của dòng họ.
Kút rất linh thiêng và quan trọng trong đời sống tâm linh của người Chăm. Người Chăm tin rằng kút là nơi ông bà tổ tiên hóa thần, có một quyền năng siêu hình, có thể che chở, ban phúc lộc, giải trừ nghiệp chướng cho con cháu trong dòng tộc và vì vậy con cháu phải có trách nhiệm làm lễ nhập kút và thờ phụng tổ tiên thật chu đáo và đúng phép tắc lễ nghi. Vì vậy, dù khó khăn đến mấy, gia đình và tộc họ cũng phải góp của góp công vào để lo cho bằng được một cái kút.
Kút là những cột đá có chiều cao khoảng 40 đến 50cm, được chôn dựng đứng thành hàng dọc theo chiều đông - tây. Những mảnh xương trán lấy từ lễ hỏa táng được chôn bên dưới những cột đá đó. Có nhiều loại kút khác nhau. Xét về mặt thời gian, có loại kút cổ và kút mới. Kút cổ là những tảng đá có hai mặt rộng, được mài nhẵn và có điêu khắc hoa văn họa tiết mang biểu tượng Ấn Độ giáo rất đẹp. Kút mới sau này, chỉ là những tảng đá lấy từ tự nhiên dựng lên thành những cột đá. Có nhiều loại kút khác nhau được phân biệt bởi số lượng cột đá kút. Có loại kút 3 cột đá, kút 5, 6, 7, 9 cột đá. Điểm chung của các kút là cột đá giữa thường là cột đá lớn nhất, là biểu tượng kút mẹ xứ sở Po Inư Nưgar, dưới cột đá này không nhập 9 mảnh xương mà nhập 9 hòn sỏi và 9 miếng trầu têm. Những cột đá phía đông là nơi chôn những mảnh xương của đàn ông. Ngược lại, những cột đá phía tây là nơi chôn những mảnh xương của đàn bà (mỗi người chết được nhập 9 mảnh xương). Mô hình kút 3 cột đá tuân thủ thứ tự như trên. Mô hình 5 cột đá, ngoài 3 cột đá chính như mô hình 3 cột đá, còn có 2 cột đá phụ đặt kế tiếp về phía tây, có một hòn đá đặt nằm ngang để phân biệt với 3 cột chính. 2 cột đá phụ, 1 dành nhập xương đàn ông, 1 dành cho xương đàn bà đối với những người chết “xấu”, chết “không trọn vẹn”. Mô hình 6 cột đá, ngoài 5 cột đá như trên, có thêm 1 cột đá đặt phía đông dành cho người chết trong dòng họ là các chức sắc Bàlamôn. Mô hình kút 7 cột đá là mô hình dành cho những dòng họ có người làm tướng (thêm một cột đá cho những người làm tướng). Mô hình kút 9 cột đá, trong đó có một cột đá dành cho người “dưng”, là rể, không cha không mẹ, xin được ở kút bên vợ (cột đá dựng ở phía tây, khu vực kút phụ). Ngoài những mô hình trên, ở gần các cột đá kút, ở mô hình nào cũng có một cột đá ở hướng đông - bắc. Đây là cột kút dành cho người dưng nhưng có công trong việc dựng kút. Sau khi dựng kút, người ta cắt móng chân, móng tay, ghi tên tuổi những người có công dựng kút (phải 60 tuổi trở lên), bỏ vào trong hộp và chôn dưới cột kút nói trên để sau này con cháu phụng thờ.
Những nghi thức để có một cái kút và làm lễ nhập kút rất phức tạp và tốn kém. Qua nhiều lần trực tiếp điền dã lễ nhập kút của đồng bào Chăm Ahiêr ở Ninh Thuận và phỏng vấn các vị pà xế, bên cạnh những yếu tố văn hóa tâm linh phong phú và độc đáo, chúng tôi thấy thủ tục làm lễ rất phức tạp. Dưới đây, chúng tôi chỉ xin trình bày những lễ thức cơ bản nhất trong quy trình lễ nhập kút.
a. Lễ dựng kút (Patar kut)
Việc chọn địa điểm làm nghĩa địa dòng họ để dựng kút đối với người Chăm là rất quan trọng, bởi người Chăm quan niệm rằng con cháu trong họ có phát được hay không là do nơi chôn cất ông bà tổ tiên. Địa điểm dựng kút phải được ông cả sư pô xà xem xét và quyết định. Theo các chức sắc, nơi được chọn để dựng kút phải có yếu tố phong thủy như sau: phía tây cao, phía đông thấp, phía nam cao, phía bắc thấp; phía nam có núi, phía bắc có sông; nơi đất màu mỡ càng tốt. Sau khi chọn được địa điểm, ông thầy cả sư pô xà làm lễ cúng thần linh. Lễ vật gồm trứng gà, rượu, trầu cau. Dòng tộc làm lễ cúng tổ tiên, chủ lễ phải là bà bóng của dòng họ (Muk rija). Sau đó ông thầy làm lễ thử đất tốt hay xấu, có ma quỷ hay không? Để thử đất tốt xấu phải làm sáu hũ cơm rượu nhỏ, một hũ để ở nhà, năm hũ mang ra để ở khu đất đã chọn. Năm hũ đất này phải để theo hình vuông, bốn hũ bốn góc, một hũ ở giữa. Ông thầy lập bàn tổ khấn hỏi thần thổ địa đất này tốt hay xấu. Nếu đất tốt thì sau ba ngày, trưởng họ ra xem, thấy hũ cơm rượu trắng bình thường là đất tốt. Nếu hũ rượu bị đen là đất xấu, phải thay đổi chỗ khác.
Sau khi đã chọn được đất, ông thầy làm lễ thức động thổ đóng cọc, san nền. Nghi thức này phải có ba mâm lễ, một mâm cúng thần huỷ diệt, một mâm cúng thần sáng tạo, một mâm cúng tổ tiên. Cả ba mâm lễ được xếp một hàng theo chiều nam bắc, còn người cúng ngồi quay mặt hướng đông. Cúng xong, ông thầy chủ lễ đi cúng thỉnh đất ở gò mối. Lễ thức này cũng giống như lễ thức đi gò mối đã miêu tả ở phần tang ma, chỉ khác mục đích là thỉnh đất về để làm nghi thức dựng kút. Đất này sẽ được bỏ xuống lỗ trước khi đóng cọc.
Lễ thức đóng cọc cũng rất phức tạp như bất cứ lễ thức nào liên quan đến đất đai như lễ động thổ để làm nhà mới, dựng hàng rào khuôn viên, dựng nhà kút, chọn hướng chôn nhau cho trẻ sơ sinh v.v… trước hết là phải coi ngày giờ. Chỉ có các thầy pà xế và thầy cúng cao tay mới nắm được giờ và chu kỳ “vận động” của con rồng dưới đất mà người Chăm gọi là con rồng đất (mư inưgirai dan bilan). Thực hiện động thổ không đúng giờ sẽ đóng phải những phần thân thể của con rồng thì rất nguy hại:
Nếu trúng đầu rồng thì chết cả hai vợ chồng
Nếu trúng đuôi rồng thì chết vợ,
Nếu trúng lưng rồng thì chết chồng,
Nếu trúng bụng rồng thì tốt, được may mắn trên mảnh đất đó.
Ông thầy dùng 5 cây cọc, trong đó có 1 cây lớn hơn và dài hơn (cây dài khoảng 40cm, cây ngắn khoảng 30cm), ở đầu cây dài có khắc hình dương vật và được đóng ở giữa, bốn cây nhỏ ở bốn hướng xung quanh. Trước khi đóng cọc xuống lỗ đều phải vẽ bùa chú, đặt cục cơm ở trên lá mít có cắm que cuốn bông gòn, và thoa dầu dừa vào đầu cọc có hình dương vật, lấy trầu têm bỏ vào rồi đóng cọc.
Để lấy gỗ làm nhà kút, phải làm “lễ chém cây”, sau đó làm lễ tẩy uế đất nền kút. Các lễ thức này được tiến hành công phu theo những quy định chặt chẽ đã được ghi trong sách cổ Chăm cùng những bài văn khấn thần linh rất dài (xem lời khấn ở phần phụ lục). Nghi thức thỉnh đá để làm bia kút do ông cả sư pô xà làm chủ lễ. Các loại đá được thỉnh làm bia gồm:
Đá lấy từ bờ biển làm bia kút chính (bia giữa, còn gọi là kút Po Inư Nưgar, biểu tượng mẹ biển, do mẹ xứ sở Po Inư Nưgar sinh ra từ bọt biển, cũng là biểu tượng lòng mẹ như biển cả).
Đá lấy từ núi dùng làm bia kút cho đàn ông (phía đông kút chính, vì biểu tượng cho dương, mang ý nghĩa cha núi, cũng là biểu tượng công cha như núi ).
Đá lấy từ sông hoặc suối dùng làm bia kút cho đàn bà (phía tây kút chính, biểu tượng cho âm, mang ý nghĩa mẹ sông).
Các hòn đá nhỏ được lấy làm kút cháu chắt.
Sau khi đá được thỉnh về, ông thầy làm lễ tạo hình và nhập thần vào đá. Khi đến những nghĩa địa cổ, chúng tôi thấy những bia đá được đẽo và chạm khắc rất đẹp (xem ảnh 25, tr.), nhưng ngày nay, những kút mới làm sơ sài, không còn tính nghệ thuật như trước đây (xem ảnh 26, tr.).
Khi những bia đá được đẽo xong là đến lễ cúng dựng bia. Những lỗ được đào để chôn chân bia đều được vẽ bùa, làm phép. Dưới lỗ ông thầy bỏ 9 miếng trầu têm, bỏ đất thỉnh từ gò mối về rồi lấy 5 loại nước đổ vào. 5 loại nước đó là: nước biển, nước sông, nước mạch, nước suối và nước sình lầy (tượng trưng cho các loại máu). Ông thầy lấy cây gỗ khắc hình dương vật xỏ vào giữa lá trầu rồi cắm vào lỗ và khấn thần Pôkuk tua hăk, lao hăk để xin thần sáng tạo tạo dựng xứ sở mới cho tổ tiên rồi ông bật lửa đốt lên một đống lửa. Lễ dựng kút đến đây đã xong.
b. Lễ nhập kút{k} (ba talang tamư kut)
Lễ nhập kút thường được tổ chức vào các tháng 3, 6, 8, 10 và 11 Chăm lịch. Sau khi trong tộc họ đã hội đủ khoảng từ 15 đến 20 hộp, có khi cả trăm hộp xương (klaung kút) của người trong tộc họ đã quá cố thì trưởng họ mời các gia đình họp lại bàn về thời gian cũng như điều kiện vật chất để làm lễ nhập kút cho cả tộc họ. Trước ngày nhập kút vài hôm, bà con trong tộc họ đi dựng nhà ngoài nghĩa địa (khu kút tộc họ), chặt cây cỏ, làm vệ sinh khu vực kút. Các gia đình có kút chuẩn bị lễ vật để đi làm lễ lấy kút về nhà để thờ. Những chiếc hộp xương trước đó được chôn giấu, nay lấy về để thờ trên bàn trước khi làm lễ nhập kút. Nếu có người đàn ông nào là người trong gia đình đi lấy vợ, đã chết và đã được bên nhà vợ làm lễ hỏa táng, trong dịp này người ta làm lễ đón 9 mảnh xương ấy về để làm lễ nhập kút vào kút của gia đình mẹ đẻ. Người Chăm có một tập tục rất đáng chú ý và trân trọng vì nó chứa đựng quan niệm về linh hồn và mang tính nhân văn sâu sắc, đó là tục “xương tiễn đưa xương”: khi hai vợ chồng đều đã làm lễ hỏa táng và hai hộp xương chưa được nhập kút. Theo quy định, xương của người chồng phải được đưa về nhập vào kút theo dòng họ mẹ đẻ. Khi bên nhà mẹ chồng tổ chức làm lễ nhập kút, bên nhà vợ tổ chức rước hộp xương chồng về phía nhà chồng. Nếu người vợ còn sống thì tiễn hộp xương chồng về nhà mẹ chồng, nếu người vợ cũng đã chết thì hai hộp xương (xương vợ xương chồng) được để ngồi bên nhau trên kiệu hoa để rước tiễn về nhà chồng (xương tiễn đưa xương). Sau đó xương người vợ chia tay vĩnh viễn với xương chồng (xương vĩnh biệt xương), trở về lại để chờ ngày làm lễ nhập kút vào dòng họ mình.
Tất cả những hộp xương đều được bày lên bàn thờ. Trên bàn có bánh, rượu, thịt và một khay trầm hương. Bà con hàng xóm đến viếng, uống rượu, chúc mừng. Trong những ngày mang hộp xương về nhà, không khí trong gia đình vui vẻ, con cháu trong thân tộc còn rước hộp xương đến từng nhà, đến nhà ai, nhà đó chúc mừng, mời uống trà, uống rượu. Hộp xương được thờ trong nhà từ thứ bảy đến tối thứ hai.
Sáng thứ hai, người nhà mời các vị chức sắc đến làm lễ tẩy uế xương. Nghi thức tẩy uế này giống như nghi thức tẩy uế trong nghi lễ tang ma. Lúc này, các hộp xương của các gia đình được tập trung lại. Người nhà cùng các chức sắc phân loại các hộp xương. Xương của những người chết “trọn vẹn” sẽ được nhập vào kút chính. Xương của những người chết không “trọn vẹn” phải đưa vào kút phụ. Những hộp xương nào chưa được phân định rõ ràng thì vẫn được nhập vào kút chính nhưng phải chôn nguyên cả hộp. Đề phòng sau này phát hiện ra hộp xương đó không đủ tiêu chuẩn nhập vào kút chính, có thể lấy ra dễ dàng.
Sáng thứ ba, các hộp xương được tập trung tại nhà trưởng tộc. Hai đến ba hộp xương được xếp vào một chiếc kiệu. Những chiếc kiệu này người Chăm gọi là thang thor (sang swơr), có nghĩa là nhà ma. Tại làng Hữu Đức, có gia đình làm kiệu giống như chiếc chakung trong lễ hỏa thiêu, cũng có hình bầu tượng trưng cho bụng người đàn bà mang thai, được trang trí rất đẹp (xem ảnh 20, tr.). Những chiếc kiệu được xếp thành hàng và được khiêng ra nghĩa địa. Đi đầu là ông cả sư và đội cờ trống, tiếp theo là những chức sắc và đến những thân tộc của các gia đình có hộp xương đem đi nhập kút.
Những chiếc hộp xương được đặt lên trên những chiếc cổ bồng cao, bên dưới có lót một lớp gạo. Những chiếc cổ bồng này được xếp thành hàng theo chiều đông tây và phân chia theo giới tính (nam theo nam, nữ theo nữ) và được phủ lên những bộ quần áo, trang phục cổ truyền Chăm. Trước mỗi cổ bồng có các mâm lễ, lễ vật gồm có một mâm bánh xếp cao, một con dê, ba con gà luộc, cơm, canh. Người nhà lấy trang phục ra mặc cho những tảng đá kút.
Các vị chức sắc ngồi trước dãy cổ bồng, mặt xoay về hướng nam. Thân nhân ngồi đối diện. Thầy cả sư làm lễ tẩy uế và tắm cho xương. Thầy mở từng hộp xương, đếm xem có đủ 9 miếng hay không? Nếu thiếu, phải lấy mảnh nào đó đập làm đôi sao cho đủ. Sau đó ông cho xương vào chậu rửa bằng nước có pha cát lồi, lau khô và cho vào hộp, để lại lên cổ bồng và bắt đầu lễ tế. Những người thân trong gia đình của những chiếc hộp xương nằm sấp xuống lạy trước những chiếc cổ bồng, mỗi người ba lần. Những chiếc hộp xương được chia làm bốn mâm theo giới tính và theo kút chính, phụ và mang vào nhà lễ.
Sau khi làm lễ tẩy uế bản thân, ông thầy đi vào nhà lễ, ngồi xuống trước các bia kút đọc thần chú. Ông tháo các hộp xương, bỏ các miếng xương vào trong bốn chiếc bị làm bằng vỏ cây tràm. Sau đó, ông làm phép để đào năm lỗ trước năm bia kút. Ông rải ba chiếc lá mít thành hình tam giác tạo hình yoni trên các miệng lỗ. Trên chiếc lá mít có một cục cơm, có một que tăm có cuốn bông gòn ở đầu. Mâm lễ của ông có một khay lửa đốt trầm, một hộp gạo nhỏ, miếng trầu têm rồi khấn thần linh cho phép những linh hồn của những người đã chết này được hóa thần. Sau đó, ông đốt lên đỉnh bia kút ba ngọn nến, dùng một chiếc lưỡi liềm cuốn vải đỏ làm phép trấn bùa trên miệng lỗ rồi bỏ những mảnh xương vào lỗ. Thứ tự như sau: Tại lỗ trước bia kút lớn ở giữa, ông chỉ bỏ xuống 9 hòn sỏi và 9 miếng trầu têm rồi vẽ bùa trấn. Sau đó ông bỏ xương của đàn ông chết “trọn vẹn” vào kút chính của đàn ông (phía đông kút chính), xương của đàn bà chết “trọn vẹn” vào kút chính của đàn bà (phía tây). Cuối cùng là xương của những người “chết xấu” phải đem đi bỏ xuống lỗ ở kút phụ (ở ngoài hàng rào nghĩa địa kút). Ông thầy trấn bùa trên tất cả bia kút rồi lấp các lỗ lại, san phẳng (xem ảnh 21, 22, 23, 24, 25, 26, 27, tr.).
Tiếp theo là lễ thức khắc mắt thần (Bach pakak mưta yang). Lúc này, ông ka thành (kadhar) kéo đàn hát mời thần đá về làm phép hóa thần cho các linh hồn. Sau đó ông hát bài Khai mắt thần.
Sau lễ thức khai mắt thần là lễ thức tắm ngẫu tượng (các bia kút). Ông ka thành hát đến đâu, ông thầy cả rẩy nước vào bia đá rửa tượng trưng. Sau đó người nhà lấy nước rửa các bia kút thật sạch.
Tiếp đến là lễ thức tế các bia kút. Ngoài ông cả sư pô xà và ông ka thành, còn có bà múa bóng của khu vực tôn giáo (Muk pajơw). Lễ vật được bày ra trước các bia kút gồm có: thịt gà, cơm, bánh trái. Trước mỗi chức sắc đều có mâm lễ của mình. Ông ka thành kéo đàn hát để hướng dẫn ông cả sư làm lễ tế thần linh. Ông ka thành hát đến lễ vật nào, ông cả sư rảy nước thánh lên lễ vật đó.
Tiếp theo, ông ka thành hát mời các vị thần linh để bà bóng dâng lễ. Ông hát đến vị thần nào thì bà bóng rót rượu dâng lễ vị thần đó, con cháu cũng chắp hai tay trên đầu để cầu nguyện phúc đức cho con cháu, tộc họ và gia đình. Những vị thần được mời gồm thần Pô Ginwơr Mưtri, mời bà chúa xứ Pô Inư Nưgar, bà chúa xứ Bà Râu, bà chúa xứ Hamuram, Pô Păn, Pô Nai Naih và các vị thần như: Pô Klaung Girai, Pô Rômê, Pô Tang, Pô Gihlơw, Pô Riak, Pô Dam.
Khi bà bóng lên đồng, bà sẽ được thần linh cho biết là lễ nhập kút đã hoàn thành tốt hay chưa? Gia đình và các thầy cả sư đã lựa chọn chính xác các tiêu chuẩn được nhập vào kút chính hay chưa? Nếu có trường hợp nhầm lẫn vô tình hay hữu ý mà nhập phải những linh hồn chết không “trọn vẹn” sẽ làm thế giới tổ tiên bị xáo trộn, không yên ổn và vì vậy, những người đang sống cũng sẽ không được yên ổn. Gặp những trường hợp như vậy phải đào kút lên loại bỏ và phải làm lễ nhập kút lại. Tuy nhiên trường hợp này hầu như không xảy ra vì quy trình làm nghi lễ tang ma rất chặt chẽ và mọi người cũng rất sợ thần linh nên làm rất cẩn thận và chính xác.
Nghi thức mời các thần dự lễ đã xong. Đến phần múa của bà bóng. Ban nhạc gồm trống baranưng, đàn kanhi, kèn saranai. Bà bóng nhảy múa say sưa. Đến điệu múa hầu Chei Tathun, trong tiếng trống Paranưng dồn dập, tiếng kèn saranai réo rắt, tiếng kanhi ai oán và tiếng mọi người hú hét “a hay! à hay!”, bà bóng múa dồn dập và bắt đầu lên đồng rồi báo cho mọi người biết những linh hồn đã được hóa về với tổ tiên trên thiên đàng hay chưa? Sau đó, bà bóng múa tiếp điệu múa tiễn biệt các linh hồn Kakuh talabat (Khú tănk pặt) về với tổ tiên, những người thân thứ tự nằm sấp hẳn người, hướng về bàn tổ mà lạy, trước khi lạy, mỗi người đều buộc một chiếc khăn ngang bụng. Tiếp đến là màn múa mừng (Mưja on) cho những linh hồn mới đã gặp những linh hồn cũ ở thế giới tổ tiên. Sau khi bà bóng múa, thầy cả sư, các vị chức sắc rồi tất cả mọi người đứng lên múa mừng. Nhiều tộc người có lễ mừng sau khi nghi lễ tang ma đã làm xong, người chết đang được hóa thần về với tổ tiên. Người Raglai ở Ninh Thuận và một số dân tộc ở Tây Nguyên đều có nhảy múa, hát mừng thâu đêm sau khi lễ bỏ mả kết thúc. Theo chúng tôi, trong nghi lễ tang ma của người Chăm, chỉ đến khi làm lễ nhập kút kết thúc, linh hồn người chết mới nhập xong về với tổ tiên nên mới có màn múa mừng, cũng có nghĩa là nghi lễ tang ma đến đây mới kết thúc.
Những đêm nhập kút, mọi người thường đánh trống, kéo đàn, hát và nhảy múa vui vẻ thâu đêm. Những người phụ nữ dọn cơm cho tất cả mọi người ăn cộng cảm.
Sáng hôm sau, ông thầy cả sư pô xà lại làm lễ tẩy uế các bia kút và làm lễ tế các linh hồn tổ tiên lần cuối cùng. Con cháu trong gia tộc nằm lạy tổ tiên, cầu phúc cho mọi sự tốt lành.
Sau lễ nhập kút, cả tộc họ phải kiêng cữ trong một năm không được làm đám cưới, đám tang vì họ cho rằng, các linh hồn người chết còn đang hóa thần trong kút. Nếu trong tộc họ có người chết, phải làm lễ “chôn gửi”, không được làm nghi lễ tang ma (vì chôn gửi chưa được gọi là lễ tang).
Đúng một năm sau, tộc họ lại mời thầy pà xế đến làm lễ mở cửa kút (pơh babbơng kut). Linh hồn người chết coi như đã về với tổ tiên, coi như đã hóa thần và về xứ sở ông bà (nau nưgar muk kei). Theo quan niệm của người Chăm thì thế giới bên kia có ba cõi, những người chết “trọn vẹn” sẽ được giải thoát lên thiên đàng, còn những người “chết xấu” sẽ phải đến những vùng xấu hơn, thậm chí phải xuống địa ngục để chịu những cực hình tra tấn, lại có những linh hồn được “tái sinh”, “hóa kiếp” nhập vào một đứa bé nào đó hoặc một con súc vật nào đó ở cõi trần, tuỳ theo dòng dõi tộc họ và công, tội khi còn sống ở nơi trần thế.
Hàng năm, vào ngày giỗ, cả tộc họ cùng nhau tổ chức ra thăm nghĩa địa và cúng kút (xem ảnh 4, tr.).
*
* *
Nghi lễ vòng đời người thể hiện những quan niệm của người Chăm Ahiêr về vũ trụ, về thế giới sống, về linh hồn, vía, hồn ma, về thế giới chết, quan niệm vòng luân hồi và sự giải thoát vừa mang truyền thống bản địa, vừa mang truyền thống Bàlamôn giáo. Đây cũng chính là những tư tưởng triết lý về không gian, thời gian tâm linh đã gắn chặt vào máu thịt, tâm hồn, tình cảm của người Chăm Ahiêr, làm cơ sở cho sự nhất quán trong nội dung cũng như hình thức của các nghi lễ vòng đời.
Do ảnh hưởng của giáo lý Bàlamôn, cõi sống là cõi tạm nên những nghi lễ khi con người còn sống không được chú trọng, thể hiện ở chỗ không có những nghi lễ như lễ trưởng thành, thượng thọ, lên lão… trong khi lại rất chú trọng đến nghi lễ tang ma.
Những hình thức và những kiêng kỵ trong thời kỳ mang thai, sinh đẻ và sau khi sinh đẻ của người Chăm không còn dấu ấn của Bàlamôn giáo mà chủ yếu là những truyền thống bản địa, có nhiều nét tương đồng với các dân tộc xung quanh như lễ cúng mụ, tục nằm lửa, lễ trình tổ tiên v.v… đều phổ biến ở các dân tộc Đông Nam á. Sau khi sinh, người Chăm Ahiêr không có những lễ thức như đặt tên, lễ ăn cơm cứng, lễ đeo dây thiêng, lễ trưởng thành v.v… Trong khi theo Bàlamôn giáo, có đến 12 lễ thức tôn giáo dành cho đứa trẻ từ trước và sau khi sinh ra.
Ngoài hình thức “ba đêm cấm động phòng” có nguồn gốc Bàlamôn giáo, còn lại những lễ thức trong cưới xin của người Chăm Ahiêr cũng mang truyền thống bản địa nhiều hơn là chịu sự chi phối của Bàlamôn. Ở đây, chế độ mẫu hệ đã bao trùm lên tất cả phong tục tập quán Chăm, từ những quy tắc về hôn nhân, gia đình đến các hình thức trong nghi lễ cưới xin, thể hiện từ cách tính giờ, ngày tháng “âm”, vai trò nhà gái và phụ nữ Chăm trong suốt cuộc đời, kể cả sau khi đã chết, nhập kút theo dòng họ mẹ. Ngoài ra, trong các nghi lễ cưới của người Chăm Ahiêr, sự có mặt của các chức sắc Bàlamôn là điều cấm kỵ.
Ngược lại với sự coi nhẹ những nghi lễ dành cho con người khi còn sống, nghi lễ tang ma luôn được người Chăm và hệ thống chức sắc tôn giáo coi trọng, diễn ra theo những quy định chặt chẽ, về hình thức cũng như nội dung được bảo lưu bằng văn bản cổ Chăm và được các vị chức sắc Bàlamôn truyền lại từ đời này qua đời khác. Nghi lễ tang ma cũng chứa đựng những yếu tố truyền thống bản địa và có chịu ảnh hưởng của các dân tộc khác nhưng về cơ bản đều nhất quán và đều nhằm thể hiện quan niệm luân hồi, giải thoát của giáo lý Bàlamôn. Quan niệm cõi sống và cõi chết của người Chăm Ahiêr là quan niệm “luân hồi giải thoát” - quan niệm của thời kỳ Vê đa, không tuân thủ luật “nhân - quả” (trừ những người thuộc “dòng chôn”), không chịu sự chi phối của “nghiệp”, “báo” như các giáo phái hậu Vê đa. Có thể nhận định rằng, trong các nghi lễ vòng đời của người Chăm Ahiêr, nghi lễ tang ma là nghi lễ giữ được nhiều truyền thống Bàlamôn hơn cả, trong đó, cốt lõi là quan niệm “luân hồi giải thoát”. Tuy nhiên, việc giữ lại chín miếng xương trán sau khi hỏa táng để linh hồn người chết nhập kút về với tổ tiên là một hiện tượng phái sinh của Bàlamôn giáo, ít nhiều phá vỡ tư tưởng “luân hồi giải thoát”. Do sợ không được nhập vào kút chính, không được hóa thần về với tổ tiên nên những quy định được người Chăm tuân thủ tuyệt đối: Phải làm đầy đủ các nghi thức chuyển tiếp, phải có vợ, có chồng, con, chỉ được kết hôn với người Chăm Ahiêr, chết phải đủ tuổi. Tín ngưỡng thờ kút đã như một thứ giáo lý của một kiểu tôn giáo dân tộc.
Mặc dù mang tên của tôn giáo Bàlamôn có nguồn gốc Ấn Độ cổ đại, những gì thể hiện qua nghi lễ vòng đời người của người Chăm Ahiêr cho chúng ta thấy sự hỗn dung của các lớp văn hóa từ lớp văn hóa nguyên thủy, văn hóa bản địa của cư dân nông nghiệp lúa nước Đông Nam Á, tàn tích tư tưởng Bàlamôn giáo, tất cả đều bị chi phối bởi một xã hội còn tồn tại chế độ mẫu hệ và bị chi phối bởi những điều kiện tự nhiên, xã hội khác mà chúng tôi sẽ tập trung so sánh, phân tích ở phần sau.
---------------------------------------------------
[1] Tylor. E.B. (2001), Văn hóa nguyên thủy, bản dịch của Huyền Giang, tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Hà Nội, tr. 946 - 947
[2] Sđd, tr. 508.
[3] Radugin A.A.(chủ biên) (2002) Từ điển bách khoa Văn hoá học, (Vũ Đình Phòng dịch), Viện Nghiên cứu Văn hoá Nghệ thuật xuất bản, Hà Nội, tr. 326.
[4] Ngô Đức Thịnh (chủ biên), (2001), Tín ngưỡng và văn hoá tín ngưỡng ở Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 23.
[5] Gennep. A.V. (2002), Các nghi thức chuyển tiếp (Riter de passage), Picard, Paris, 1981, bản dịch đánh máy vi tính chưa xuất bản của Viện Nghiên cứu Văn hoá dân gian, Hà Nội.
[6] Về thuật ngữ “Nghi lễ vòng đời”, trong tiếng Chăm có nhiều cách gọi khác nhau như: Cách thứ nhất: Ngăk yang mưbbwai muk krang, có nghĩa là “Nghi lễ từ khi sinh đến khi chết”; Cách thứ hai: Ngak yang thuh mưnui, có nghĩa là “Lễ cúng cho đời người”. Xét về mặt ý nghĩa, chúng tôi thấy sử dụng thuật ngữ theo cách thứ nhất hợp lý hơn.
[7] Inrasara (1995), Văn học dân gian Chăm, tục ngữ - thành ngữ - câu đố, Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội, tr. 363.
[8] Inrasara (1994), Văn học Chăm, Khái luận, văn tuyển, Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội, tr. 260 - 264.
[9] Sđd, tr. 72.
[10] Will Durant (1992), Lịch sử văn minh ấn Độ, (bản dịch của Nguyễn Hiến Lê), Trung tâm Thông tin Đại học Sư phạm, thành phố Hồ Chí Minh xuất bản, tr. 167 - 168.
[11] Nguyễn Từ Chi, (1996), Góp phần nghiên cứu văn hóa và tộc người, Nxb. Văn hóa Thông tin, tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Hà Nội, tr. 13 - 52.
[12] Tư liệu phỏng vấn ông Sử Văn Ngọc, cán bộ Trung tâm Nghiên cứu Văn hoá Chăm Ninh Thuận.
[13] Để lấy tư liệu cho đề tài, tác giả đã phỏng vấn vị chức sắc: Cả sư Hán Bằng, Hải Quý; các trí thức Chăm: ông Lâm Gia Tịnh, ông Lại Xuân Điểm, ông Quảng Văn Đại, Thành Phú Bá, Thành Nha ở Ninh Thuận, ông Bố Xuân Hổ ở Bình Thuận, 2 cán bộ nghiên cứu ở Trung tâm Nghiên cứu Văn hoá Chăm Ninh Thuận là ông Sử Văn Ngọc, ông Trương Văn Món và bà Trương Thị Tửu, ở làng Chăm Hữu Đức.
[14] Tư liệu phỏng vấn bà Trương Thị Tửu, 60 tuổi, là một bà “mụ” ở làng Chăm Hữu Đức, xã Phước Hữu, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận.
[15] Lý Kim Hoa (1979), Bàlamôn giáo ở người Chàm Thuận Hải xưa và nay, tạp chí Dân tộc học, số 3, tr. 37 - 78.
[16] Tylor. E.B. (2001), Văn hóa nguyên thủy, bản dịch của Huyền Giang, tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Hà Nội, tr. 1019.
[17] Nguyễn Khắc Ngữ (1967), Mẫu hệ Chàm, Sài Gòn, tr. 125.
[18] Để viết phần lễ cưới, chúng tôi dựa vào những tư liệu điều tra thực địa, trong đó có một lễ cưới Chăm Ahiêr diễn ra tại thôn Như Bình, xã Phước Thái, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận. Cô dâu là Sử Thị Kim Vui Tươi, 29 tuổi, là giáo viên cấp II trường làng, là con gái của ông Đàng Bao, một vị chức sắc pà xế Bàlamôn. Chú rể là Đổng Văn Nhường, là sinh viên tốt nghiệp Đại học Ngoại ngữ thành phố Hồ Chí Minh, 30 tuổi, hiện đang làm việc tại thành phố Hồ Chí Minh. Nưmư là ông Đổng Khoan. Người phụ giúp lo cúng bái cho ông nưmư là ông Quảng Văn Đại.
[19] Tư liệu lời chúc và lời khấn trong lễ cưới do ông Quảng Văn Đại, 65 tuổi ở thôn Chắt Thường, xã Phước Hậu, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận dịch từ văn bản chữ Chăm cổ.
[20] Đây là chiếc nhẫn người Chăm cho rằng có nguồn gốc ấn Độ, có chạm hình một con mắt, người Chăm gọi là Kara mưta.
[21] Về dòng “Chăm chôn” hiện nay ở vùng đồng bào Chăm còn nhiều ý kiến khác nhau. Theo ông Lâm Gia Tịnh, 75 tuổi, một nhân sỹ trí thức Chăm ở làng Chăm Mỹ Nghiệp, nguyên là nghiên cứu viên của Trung tâm Văn hoá Chàm từ trước giải phóng thì sở dĩ có dòng “Chăm chôn” là vì số tộc họ này ngày trước đi theo và thờ một hoàng hậu người Việt của vua Pô Nit nên theo luôn phong tục chôn của người Việt. Còn theo ông Lại Xuân Điểm, 65 tuổi, người làng Chăm Bĩnh Nghĩa thì những dòng tộc chôn là những dòng tộc ngày xưa thuộc đẳng cấp thấp hèn, nô lệ, không được hoả táng lên thiên đường mà phải chôn xuống địa ngục. Khi phỏng vấn ông Hán Đô, một chức sắc (phó cả sư) ở làng Vụ Bổn thì ông không rõ, từ xa xưa đã vậy rồi. Khi chôn thì thầy pà xế chỉ đường đưa linh xuống địa ngục. Sau này có một số người thuộc dòng chôn nhưng đã xin các thầy cho làm lễ hoả táng (ở làng Hữu Đức), được các thầy và đồng bào Chăm đồng ý.
{a} Mặc dù tang lễ diễn ra trong 4 ngày, từ chủ nhật đến thứ tư - nhưng theo các vị chức sắc, trong 4 ngày đó có một ngày nghỉ - ngày thứ ba, chỉ có ban nhạc hát tang ca, ngày này là ngày kiêng cữ không làm đám.
{b} Nguyễn Khắc Ngữ (1967), Mẫu hệ Chàm, Sài Gòn, tr. 173 - 176.
{c} Về “lễ rửa tội” cho người chết, trong người Chăm cũng có nhiều ý kiến khác nhau. Theo Bá Trung Phụ, trong cuốn Gia đình và hôn nhân của người Chăm ở Việt Nam, (Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 2002) lại gọi là lễ “cho nước” (Kak dhaung), còn theo ông Sử Văn Ngọc thì gọi là “lễ rửa tội” mới đúng. Nhiều người Chăm đồng ý theo cách gọi này, xét về nội dung lễ thức, chúng tôi cho rằng gọi là “lễ rửa tội” chính xác hơn.
{d} Sử Văn Ngọc (1978), “Đám ma người Chăm Bàlamôn ở Thuận Hải”, trong: Những vấn đề dân tộc học ở miền Nam Việt Nam, tập 2, quyển 2, Ban Dân tộc - Viện Khoa học xã hội tại thành phố Hồ Chí Minh, tr. 174.
{e} Xem: Nhiều tác giả (2000), Truyện cổ dân gian Chăm, Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
{f} Xin xem thêm: Tôcarev. X.A. (1994), Các hình thức tôn giáo sơ khai và sự phát triển của chúng, bản dịch của Lê Thế Thép, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 540.
{g} Theo ông Quảng Văn Đại, một ông hơng và ông Thành Phú Bá, ở làng Chắt Thường, xã Phước Thái, huyện Ninh Phước thì trong số những người làm tang kể trên, chỉ có 12 người là chức sắc chính, gắn với con số 12, phù hợp với quan niệm của người Chăm về 12 bộ phận trên cơ thể con người, bao gồm: 2 mắt, 2 tai, 2 lỗ mũi, 1 miệng, 2 tay, 2 chân và bộ phận sinh dục.
{h} Đồng được coi là một vật liệu linh thiêng và được sử dụng rất nhiều trong nghi lễ cúng của người Chăm cũng như nhiều dân tộc khác: khay đồng, ca đồng, khạp đồng, nồi đồng.
{i} Trong tiếng Chăm, Đam Jap brah là lễ chôn dành cho những người Chăm Bàlamôn thuộc “dòng chôn”, còn chữ Đam dar, cũng có nghĩa là chôn nhưng là lễ chôn của người Chăm theo Bàni.
{j} Người dịch lời khấn và tư liệu trong lễ “chiêu hồn nhập cốt” này là của ông Lại Xuân Điểm, 65 tuổi, người làng Chăm Bĩnh Nghĩa. Đây là lễ chúng tôi điền dã vào ngày 09 - 2 - 2002 tại thôn Bĩnh Nghĩa, người chết mất xác là chị Thập Thị Tâm, 19 tuổi, người nhà của ông Lại Xuân Điểm, lễ này do ông phó cả sư (Pô Paik) Trượng Văn, người làng Hiếu Lễ, xã Phước Thuận làm chủ lễ.
{k} Để lấy tư liệu cho đề tài, chúng tôi đến điền dã ở 3 lễ nhập kút tiêu biểu của vùng đồng bào Chăm. Một trong những lễ nhập kút lớn nhất từ trước tới nay là của tộc họ anh Đàng Năng Đức, (Phó Đoàn Nghệ thuật Chăm Ninh Thuận) và ông Sử Văn Ngọc, cán bộ nghiên cứu Trung tâm Nghiên cứu Văn hoá Chăm Ninh Thuận, ở thôn Hữu Đức tổ chức vào ngày 30 tháng 9 và đêm 01 - 10 - 2002. Kút này có tên là kút Minh apui, có nghĩa là “cây me lửa”. Lễ này có 65 hộp xương (klaung) của 65 người trong tộc họ đã chết trước đó và 30 hộp xương đưa tiễn (xương vợ tiễn xương chồng) với sự tham gia của gần 30 gia đình trong tộc họ đến từ hầu hết các làng Chăm Ahiêr ở Ninh Thuận. Ngoài ra, có sử dụng một số tư liệu viết tay của ông Sử Văn Ngọc, Trung tâm Nghiên cứu Văn hoá Chăm Ninh Thuận.