Nội dung văn hóa đã đem lại cho sản phẩm nghệ thuật sự hấp dẫn hơn rất nhiều lần. Cặp đôi nghệ sĩ Ludivine Furnon và Martin Charrat (Duo Osmose) với những kỹ thuật hoàn toàn như nhau, nhưng trong khi phiên bản trình diễn tại cuộc thi thể dục nhịp điệu quốc tế 2011 (World Championship of Rhythmic Gymnastic 2011) trên nền nhạc của Ginette Reno đăng tải trên Youtube chỉ có trên 4.000 lượt người xem thì với “Phiên bản gợi cảm” trình bày trên nền bản nhạc gợi tình nổi tiếng “ mang đầy chất văn hóa cũng đăng tải trên Youtube thì đã có gần 2 triệu lượt người xem.
Duo Osmose: World Championship of Rhythmic Gymnastic 2011
Duo Osmose: Sensual version
X. giới thiệu về bản nhạc “
***
Tuy cùng đi theo khuynh hướng tổng hợp hóa và văn hóa hóa, nhưng Đông-Tây vẫn có sự khác biệt.
Ngay trong “Phiên bản gợi cảm” của Duo Osmosengười phương Tây coi trọng kỹ thuật nhiều hơn văn hóa: trong khi thưởng thức bản nhạc “ qua kênh thính giác thì người xem thót tim theo dõi những pha tung hứng đầy mạo hiểm và trầm trồ khen ngợi những động tác uốn dẻo hiếm có qua kênh thị giác. Sự tổng hợp này mang tính chất lắp ghép theo kiểu modul rất rõ: cùng những động tác kỹ thuật xiếc-múa (chất xiếc nhiều hơn múa) nhưng sử dụng nhạc nền khác nhau để cho ra những phiên bản khác nhau.
Trong khi đó thì nghệ thuật phương Đông lựa chọn xu hướng ngược lại: chất văn hóa được coi trọng nhiều hơn chất kỹ thuật. Chương trình xiếc “Làng tôi” là một ví dụ.
Làng tôi do Liên đoàn Xiếc Việt Nam và Hội đoàn Sân khấu Địa cầu (Scène de la Terre, Pháp) phối hợp sản xuất. Đây là sản phẩm của ba người cùng tham gia đạo diễn: Nguyễn Lân (hiện là giám đốc nội dung đào tạo của Trường Nghệ thuật Xiếc thành phố Chambéry, Pháp), Lê Ngọc Tuấn Anh (tốt nghiệp Trường xiếc quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, hiện sống và làm việc ở Berlin, Đức) và Nguyễn Nhất Lý (tốt nghiệp Trường Đại học Paris VIII, nguyên Chủ tịch Hội đoàn Art -Ensemble, Pháp). Đoàn xiếc có tất cả 20 người, trong đó có tám nam và sáu nữ diễn viên, năm nhạc công (hầu hết đều xuất thân từ Trường xiếc Hà Nội).
Khác với xiếc phương Tây, “Làng tôi” không có những kỹ thuật phức tạp, nguy hiểm mà diễn viên phải chăm chú hết mình để diễn xuất cái tài của họ cách nào hoàn hảo nhất, còn người xem phải thắt tim, nín thở mà chỉ sử dụng những kỹ thuật xiếc cơ bản như nhào lộn, tung hứng, uốn dẻo, đu dây hay giữ thăng bằng... Khác với sân khấu phương Tây, “Làng tôi” không có phông màn lộng lẫy, không có những ánh đèn màu sặc sỡ chớp nháy đủ màu rực rỡ mà chỉ có ánh đèn vàng nhu nhã báo đêm báo ngày trên đó nổi lên màu nâu chủ đạo của trang phục diễn viên. Không có những đạo cụ đắt tiền là sản phẩm của khoa học và công nghệ mà chỉ có những cây tre và sản phẩm bằng tre.
“Làng tôi” thực sự là một làng quê với đầy đủ những hoạt cảnh sinh hoạt đời thường của bao đời dân gian Việt. “Làng tôi” có màn "Lao động sản xuất" trình bày cuộc sống đồng áng ở làng quê, xen lẫn với những sinh hoạt văn nghệ, những điệu hò, hát đối, hát ví, những lời ca của các cô thôn nữ. Có buổi sáng ra đồng gieo mạ cấy cày, buổi tối xay lúa giã gạo. “Làng tôi” có bè bạn chuyện trò, có gái trai làm lụng và trêu ghẹo tán tỉnh nhau. Có đứa con ngồi quạt bên võng mẹ đong đưa. Có những người đàn bà ngồi bắt chấy cho nhau. Có người vợ ngồi đan và người chồng tước sợi. Có những gánh quà rong kẽo kịt với tiếng rao quen thuộc mỗi sáng. Có người đàn bà ngồi tắm với chiếc yếm che thân. Có cảnh xây cất thôn quê. Có cảnh nuôi tôm, đánh cá. Có chiếc cầu tre lắt lẻo gập ghềnh khó đi. Có cảnh chèo đò trên sông mà con đò và sóng nước là những thân tre mà mới trước đây hai phút chính cô gái lái đò đã leo lên nhào lộn… Người xem được dẫn đi khắp làng rồi được đưa đến chùa nghe tiếng mõ tiếng chuông thanh thoát trầm tịnh.
“Làng tôi” có "Lễ hội" với màn kéo co. Có "Lễ đính hôn" với cặp trai gái đi trên những cây cà kheo cao cẳng. Có "Lễ kết hôn" với cặp uyên ương cố giữ thăng bằng trên mái nhà. Khi trời hạn hán, có "Lễ cầu mưa" với hai chú tiểu cùng nhau tung hứng trước khi khua chuông, mõ gõ, lại còn gõ trộm mõ nhà sư, lại còn đập nát luôn cả xoong nồi để khiêu khích mây trời khiến cho khán giả được một phen cười bể bụng không thua gì các chú hề xiếc. Và trong cảnh sấm sét rầm trời, làng trở nên tối đen, nhưng ta vẫn thấy những cây tre cọ xát vào nhau và cùng nhau đứng vững qua cơn phong ba. Trong đêm sao sáng đầy trời, có một cô gái nhớ chồng phải ra múc nước trong chum để ngồi tắm dưới ánh trăng; cảnh thơ mộng trữ tình đó càng khiến cô sau đó không ngủ được, cô nằm trằn trọc trong mùng qua ánh đèn dầu leo lét.
Ai cũng biết rằng trong xiếc, các diễn viên phải mặc những trang phục tối thiểu bó sát người để dễ thực hiện các động tác nhào lộn, và mang giày mỏng bó chân để có độ bám cao. Vậy mà các diễn viên trong “Làng tôi” vẫn mặc những bộ áo quần bình thường như người nông dân, vẫn mặc, với những bàn chân trần đi trên đất móng không sơn phết như người nông dân vẫn đi. Và họ vẫn thực hiện được những động tác xiếc đúng như nghề xiếc đòi hỏi. Nghĩa là họ đã làm được một điều khó khăn một cách ngoạn mục: bình dân hóa nghệ thuật và nghệ thuật hóa cuộc sống bình dân.
Trong “Làng tôi”, mọi thứ đều nền nã đằm thắm, từ thân thể người con gái gói ghém kín đáo trong bộ bà ba nâu, với bộ ngực căng đầy sức sống sau chiếc yếm đào, với đôi chân trần và mái móc dài buông lơi hay cột túm một cách giản dị. Các diễn viên rất ít trang điểm, những khuôn mặt trẻ trung tự nhiên không kiểu cách, không phấn son hoặc nếu có thì cũng phấn son rất nhẹ. Các diễn viên không bị gò bó trong những khuôn phép thông thường của sân khấu biểu diễn. Họ không diễn xuất với vẻ phô trương tài nghệ, họ dường như đang sống cuộc đời bình thường của họ; những cử chỉ, lời nói, ánh mắt, nụ cười của họ đều hồn nhiên, hân hoan khiến cho hoạt cảnh trở nên sống động một cách chân thực và gần gũi thân thương, đưa người xem về với ruộng đồng sông nước quê hương. Họ dường như không chờ đợi những tràng pháo tay mà những tràng pháo tay cứ vang lên thích thú một cách thật tự nhiên.
Toàn bộ phần âm nhạc trong “Làng tôi” được khai thác từ chất liệu dân gian đã thực sự trở thành linh hồn của chương trình. Những giai điệu tiết tấu mới lạ được xuất hiện từ những tiết tấu bình thường và quen thuộc nhất của dân ca, đồng ca, ca trù, chèo,... Dàn nhạc truyền thống gồm có năm nhạc công thay đổi nhau sử dụng các loại nhạc cụ dân tộc như sáo, trống, chiêng, đàn đáy, đàn nguyệt, đàn môi.... Nhiều bài hát được trích đoạn từ các vở chèo hay các bài dân ca, đồng dao... Màn nghệ nhân độc tấu đàn đáy trước những nắm tay cầm chặt mấy thân tre thể hiện một nghệ thuật phối hợp cảnh nhạc rất tài tình. Tiếng đàn bầu sâu lắng đệm màn cuối cùng kết thúc một buổi trình diễn thành công xuất sắc.
Toàn bộ các đạo cụ trong chương trình đều làm từ một chất liệu duy nhất là tre. Cây tre như biểu tượng điển hình của làng quê Việt Nam đã đi suốt đêm diễn. Sân khấu được thiết kế trên nền những tấm mành tre. Diễn viên múa bằng những ống tre; đi lại, nhào lộn trên những thân tre; tung hứng bằng rổ rá làm từ tre. Thậm chí, nhạc cụ sử dụng trong tác phẩm như đàn môi, sáo trúc, thanh la… cũng đều làm từ tre. "Lửa tre" là một màn trình diễn thăng bằng trên những cột tre ghép lại với nhau do hai người mang ở dưới. Quanh hai người này là dân làng nhảy múa trong một vũ điệu "Lửa thiêng" quanh ngọn lửa hồng. Trong màn "Đi chợ", các loại hàng hóa được trao đổi qua kỹ thuật tung hứng những trái cây, những thúng mủng cũng như những mảnh tre. Màn gõ nhạc bằng que tre đã gây hào hứng đến nỗi khán giả đã hưng phấn cùng vỗ tay đệm nhịp với nụ cười rạng rỡ.
"Làng tôi” đã tổng hợp nghệ thuật với đời thường, hoạt động sản xuất và cuộc sống hàng ngày với những sinh hoạt văn hóa - nghệ thuật từ bao đời nay của người Việt (như hát đối, hát ví, hò...). Trong "Làng tôi”, các diễn viên cũng chơi nhạc và các nhạc công đang đánh đàn, gõ trống, thổi tiêu… cũng có thể nhào vào sân khấu chạy nhảy, hứng đỡ, dàn dựng cây tre...
“Làng tôi” mang tính chất văn hoá hơn là kỹ thuật, diễn cảm nhiều hơn diễn xuất, nhưng ẩn tàng sau đó là khoa học và nghệ thuật ở trình độ cao. "Làng tôi” đã vận dụng thành thạo nguyên lý âm dương trong kỹ thuật màu sắc và ánh sáng thể hiện đêm-ngày, sáng-tối...; trong kỹ thuật xử lý đạo cụ tre với những phần "động” và "tĩnh” tương phản với nhau để tôn vẻ đẹp cho nhau. “Làng tôi” đã khiến khán giả gốc Việt rưng rưng thương nhớ quê hương, còn khán giả ngoại quốc thì xúc động và cảm mến. Trong toàn bộ chương trình, các diễn viên nói và hát toàn bằng tiếng Việt không có phụ đề; vậy mà người nước ngoài xem vẫn cảm nhận được cái hay cái lạ. “Làng tôi” đã thực sự trở thành một bữa tiệc văn hóa nhiều màu sắc.
***
Phiên bản đầu tiên của “Làng tôi” đã ra mắt công chúng Hà Nội vào tháng 8/2005 với 80 diễn viên. Sau đó nhóm tác giả đã chỉnh sửa và bổ sung, hoàn chỉnh và cho ra mắt phiên bản mới với đội ngũ gọn nhẹ hơn, chỉ gồm 20 nghệ sĩ.
Chương trình mới công diễn ngày 5-5-2009 ở Hà Nội. Sau hai buổi diễn thử, “Làng tôi” đã “khăn gói” lên đường đi Pháp, Anh, Mỹ và nhiều quốc gia ở châu Âu để quảng bá hình ảnh Việt Nam với bạn bè quốc tế. “Làng tôi” được giới thiệu là “xiếc mới” (nouveau cirque) Việt Nam. So với xiếc cổ truyền, xiếc mới không dùng động vật. Trong xiếc mới, kỹ thuật xiếc truyền thống được được đặt trong không gian của ánh sáng, âm nhạc nhằm tạo ra một cốt chuyện với các nhân vật cụ thể, có tích cách, nội dung.
Chương trình đã được khán giả đón nhận nồng nhiệt. Ở Pháp, đêm nào khán giả cũng đầy rạp. Nhiều người đi xem hai ba lần. Ở hàng rồng rắn sắp vào cửa, có người với ánh mắt tha thiết cầm tờ giấy viết sẵn “Tôi tìm 1/ 2/ 3 vé…”. Nhưng chẳng có ai nhường.
Giải thích vì sao không công diễn ở trong nước trước khi lưu diễn, nghệ sỹ Nguyễn Nhất Lý tâm sự: “Để giá trị văn hóa truyền thống của Việt Nam có chỗ đứng trong lòng khán giả thì nhiều khi chúng tôi buộc phải đi đường vòng; tức là ra thế giới, gây ấn tượng với bên ngoài rồi tiếng lành mới có thể ‘đồn’ về Việt Nam, khiến công chúng trong nước tò mò, quan tâm...” Còn ông Jean Luc Larguier - Giám đốc Hội đoàn Scène de la Terre đánh giá: "Đây là cơ hội để nâng cao trình độ và làm thay đổi sự đánh giá của cộng đồng quốc tế với nghệ thuật xiếc Việt Nam”.